1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây Dương Gia tô bí lục

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi preludeNo1, 04/09/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    mọi sự dữ. Amen!? Mọi người khẽ tiếng cầu khẩn tự đấm vào ngực ba tiếng [81] , rồi ai nấy đưa tay làm dấu phép như đã nói ở trên. Lễ cầu nguyện thế là xong, hằng ngày con chiên đều hội họp đọc kinh như vậy.
    Kinh Bởi trời và kinh Lạy cha đã nói ở trên. Còn kinh Avơ Maria thì có câu: ?oAvơ Maria đầy ơn phúc, chúa Dêu ở cùng bà. Trong các người nữ bà có phúc là bà thế tử Jêsu nhiều phúc lạ? [82] . Kinh Santa có câu: ?oSanta Maria đức mẹ chúa Dêu, cầu cho chúng tôi kẻ có tội khi nay cho đến khi bọn chúng tôi chết. Amen!? Câu Luxia, nguyên cả câu là: ?oLuxia, đức chúa Cha, đức chúa Con và đức chúa Phiritô Santô?. Câu ?ođời đời?, nguyên cả câu là: ?oĐời đời trước sau vô cùng. Amen!?
    Qua năm sau, vua Maisen hạ chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời phán dạy: đàn ông đàn bà ai có tội đều phải đến nhà thờ xưng tội với các đạo quan là kẻ thay mặt chúa nghe xưng tội?. Xưng tội xong, gục đầu đọc kinh Cáo thân [83] , rồi sáng hôm sau chịu lễ nhận bánh thánh và nghe lời giảng dạy của đạo quan.
    Lại nói rằng: ?oĐạo quan đều là bề tôi của chúa Jêsu. Thầy cả xưng tội với giám mục. Nhưng để cho tiện việc [khi không có giám mục] thì thay thầy cả thay phiên làm phép xưng tội, giải tội cho nhau cũng được. Các giám mục cũng thay đổi phép làm cho nhau như vậy?. Kèm theo đó cho ban hành kinh Cáo thân, ?oCáo thân? có nghĩa là tự mình bảo mình. Kinh này cũng do Môria soạn ra. Khi đọc ba tiếng ?oCon có tội? thì giơ tay đấm ngực ba lần, rồi nói: ?oNay con xin tự bảo bản thân con trước mặt thầy?. Lúc ấy kẻ nào hối lỗi khóc ra nước mắt tức là có lòng thành thật thì mới được chúa Jêsu tha tội. Dụ dỗ người ta một lòng theo đạo đến chết không thôi, mánh khóe mê hoặc lòng người thật rất diệu! [84]
    Trước đó, các quan trong kinh ngoài quận đều đã được phong chức nghe truyền mật dụ để trên dưới đồng lòng. Đến năm nay lại có chiếu truyền cho học trò các trường phải đến nhà đạo quan để xin chịu đạo. Từ đó dân Tây Dương ai nấy đều bị lừa dối hết.
    Bấy giờ các vít vồ môn đồ của Jêsu đã chết cả. Giáo hoàng bèn cho ghi tên bọn Nicôla, Timông, v.v. 12 vít vồ đặt làm chén thánh, truyền chiếu cho quan dân ai nấy đều phải đeo tên thánh, kẻ trái lệnh sẽ bị trị tội [85] .
    Qua năm sau, Giáo hoàng cho làm các loại ảnh, tượng để ban chấp cho thiên hạ. Loại vẽ hình gọi là ảnh, loại khắc chạm thì gọi là tượng. Có loại tượng đức mẹ Maria bế chúa Jêsu hài đồng, có loại chỉ vẽ một mình Maria, có loại tượng chúa Jêsu chịu nạn trên giá câu rút [86] , lại có tượng của các môn đồ.
    Rồi đó Giáo hoàng cho chép truyện 12 môn đồ và vẽ hai bức ảnh dài, mỗi bức 6 người treo hai bên tả hữu thờ chung với Jêsu [87] . Lại căn dặn các thợ vẽ phải chú ý tinh tế để vẽ lờ mờ cho khỏi lộ liễu. Ảnh giấy thì dùng mực vẽ. Ảnh vải thì phải lấy dầu sơn hòa với thuốc màu xanh đỏ mà vẽ vì sợ để lộ xấu trên mình chúa Jêsu chịu nạn. Đình thần xin rằng tất cả các ảnh đều phải vẽ lờ mờ khiến cho dân chúng khó phân biệt khỏi sinh nghi ngờ. Bấy giờ quan quân ai nấy sợ phép nước đều? [88]
    Qua năm sau, Giáo hoàng lại xuống chiếu dụ rằng: ?oChúa dạy việc hôn nhân chỉ một vợ một chồng. Những ai từ trước đã trót lấy nhiều vợ thì tha không hỏi đến. Từ nay về sau, phải theo phép một vợ một chồng, ai trái lệnh sẽ bị đạo quan trị tội?.
    Qua năm sau, triều đình bàn định về việc khuyên dụ dân chúng theo phép chôn sâu. Rồi đó Giáo hoàng xuống dụ truyền rằng: ?oNgày nay cả nước ta đều theo đạo Thiên Chúa, cho nên ma quỷ rất căm tức. Vì không dụ dỗ được người sống nên ma quỷ thường nhập vào xác chết để sinh yêu tác quái. Từ nay về sau chôn cất người chết phải đào sâu 6 thước [89] để tránh nạn ấy. Khi có đám tang, thầy cả làng ấy hoặc môn đồ giúp việc phải đến tận nơi xem xét, kẻ nào trái lệnh thì phải trị tội?.
    Lại có chiếu truyền rằng: mỗi làng phải cử ra 5 người để làm môn đồ giúp việc cho đạo quan. Khi đủ tuổi sẽ thi tuyển, người nào học thông thì được phong chức đạo quan.
    Về việc đó, đình thần Môria tâu rằng: ?oHiện nay các đạo quan, người làng nào đều được cai quản làng ấy, tình cảm thân quen, sợ xảy ra diễn biến. Kính xin thường kỳ cho chuyển đổi đạo quan làng này qua làng khác?. Giáo hoàng bèn xuống chiếu truyền rằng: ?oGiám mục thì cứ 5 năm thuyên chuyển một lần, thầy cả 4 năm một lần, thành định lệ?. Từ đó có lệ chuyển đổi đạo quan.
    Qua năm sau, Giáo hoàng dụ rằng: ?oChúa Jêsu dạy dân bảy phép: thuở sơ sinh thì có phép rửa tội, khi trưởng thành thì lại có phép Cônfirmaxông (thêm sức, hoặc kiêm đạo), khi đã phạm nhiều tội lỗi thì có phép giải tội, phép xưng tội lĩnh bánh thánh, khi ốm đau thì có phép xức dầu thánh, lấy vợ lấy chồng thì có phép Matrimôniô (cưới), phong chức cho giám mục, thầy cả thì có phép Cômônhong (truyền chức). Quan dân ai nấy phải tuân hành, kẻ nào làm trái đều phải trị tội?. Rồi đó ban hành kinh Bảy phép [90] .
    Lại dụ rằng: ?oChúa Trời truyền bảo: Chúa vốn không có hình tượng, do chia bớt linh thiêng cho Jêsu nên mới có hình tượng. Từ nay về sau khi đọc kinh Chầu mình thánh thì câu: Lạy mình thánh chúa Trời phải sửa lại là: Lạy mình thánh Đức chúa Jêsu?. Từ đó rõ ràng là nói đến chúa Trời là nói đến Jêsu.
    Đình thần lại bàn xét, thấy rằng: nếu để cho tâm hồn người ta được yên tĩnh thì hay suy nghĩ, mà suy nghĩ thì người ta sẽ vạch ra những điều sai trái, phép được đại để cốt làm cho dân chúng trở nên ngu khờ, mỗi ngày sáng sớm đi làm lễ sợ còn chưa đủ. Đình thần bàn nên dùng chiêng trống khiến cho dân chúng không lúc nào được rỗi trí mà suy nghĩ nữa. bọn Juachim [91] xin đặt các lễ lớn hằng năm, kể từ lễ đầu thiên thần hiện xuống báo tin (lễ Truyền tin) đến lễ Đức Bà Maria lên trời là hết một năm. Rồi đó quay lại lễ đầu. Tính từ khi Jêsu chưa chịu nạn đưa môn đồ lên núi Ôlivêtê cho đến khi rời nhà ra đi là 40 ngày, từ khi ra đi đến lúc chịu nạn là 7 ngày. Nay tính gộp lại tất cả là 47 ngày, xin gọi là ?oMùa thương khó? [92] , làm các việc quăng tro ném đá, rước liễu [93] .
    Lại chia kinh Jêsu chịu nạn thành 15 đoạn, đếm con niệm đọc chung với kinh Bởi trời và kinh Avơ Maria, bên xướng bên họa như cách thức đã nói ở trước. 40 ngày đầu, mỗi đêm đọc 5 đoạn, 7 ngày sau mỗi đêm đều đọc hết 15 đoạn. Trong những ngày ấy [94] , lệnh cho quan dân: đạo quan mỗi ngày chỉ ăn một bữa, binh lính và dân chúng chỉ ăn hai bữa, thảy đều phải kiêng thịt.
    Lại soạn ra kinh Sự tích năm đinh [95] và kinh Bảy thống khổ [96] để ngâm tụng trong tuần chay.
    Trước phục sinh một ngày, làm trò diễn thuật đầu đuôi sự tích chúa Jêsu chịu nạn khiến cho người xem lòng càng khôn nguôi, như vậy chẳng còn trí óc mà suy nghĩ điều gì kia khác.
    Trò rước tượng Chúa ở Tây Dương thì làm ban ngày, truyền vào nước ta tuy chưa bị ngăn cản lắm, nhưng cũng có ý sợ cho nên vẫn làm về ban đêm. Trước đó ba ngày, giám mục địa phận xức cho các thầy cả và con chiên các làng chọn 500 tráng đinh khi diễn trò mỗi người đều cầm đuốc và gậy để đóng giả làm quân Jiuđê. Mười hai thầy cả bưng nước rửa chân cho từng người, tượng trưng Jêsu rửa chân cho các môn đồ. Lại làm một hình nộm tên Jiuđa có máy giật [97] mang túi bạc chạy ra ngoài. Một lát sau tuần đinh ập vào bắt Jêsu lôi đi. Xong đó dựng lên một bức ảnh cỡ lớn để tượng trưng cho việc Jêsu bị bắt. Tiếp theo lại dựng ảnh lớn vẽ Jêsu vác giá câu rút, dùng một cỗ xe kéo ảnh đi. Giữa đường gặp một đoàn trinh nữ hơn chục người áo mũ đẹp đẽ rước ảnh đức mẹ Maria, tượng trưng việc mẹ con Jêsu gặp nhau. Sau đó cả hai ảnh cùng được kéo lên thiên đường. Lại kéo ra một bức ảnh lớn vẽ Jêsu treo thân trên giá chữ thập, quân Jiuđê cầm gậy đánh vào bức ảnh. Mọi người dự hội vẳng nghe tiếng gập đập liền cất tiếng khóc vang như sấm. Khi bức ảnh dựng lên, một tên quân Jiuđê cầm giáo đâm vào sườn để tượng trưng việc ĐôSaNùng đâm Jêsu trên giá câu rút. Rồi đó đến đoạn đưa xe nhặt xác Jêsu chở đi chôn. Ảnh Jêsu đặt nằm trong xe, một số con chiên nam nữ sà vào hôn chân ảnh tượng trưng các môn đồ hôn chân Jêsu [98] .
    Đình thần lại bàn việc diễn thuật sự tích quân LâmBô căn cứ theo kinh Vì đâu. Vào hội ấy, chiêng trống vang lừng, giáo dân tụ hội đông hàng vạn. Giám mục địa phận phò tượng chúa ngồi trên cỗ xe hai bánh sơn son che bốn lọng vàng. Các thầy cả ngồi võng điều che hai lọng xanh. Tráng đinh vác giáo gậy đi tùy tòng hai bên, con chiên nam nữ theo sau vừa đi vừa đọc kinh, ai nấy đều cầm đuốc sáp, cả một vùng đèn nến như sao.
    Sáng hôm sau lại nổi trống làm hiệu. Bàn thờ che màn treo trướng bốn phía, bên trong thấp thoáng trông thấy một chiếc ghế ngai trang hoàng lộng lẫy trên đặt tượng chúa Jêsu tay cầm cờ đỏ. Nhiều thiên thần bằng gỗ có máy giật cử động bay lượn xung quanh. Bên dưới nam nữ đồng trinh mặc váy xòe, vai đeo cánh giả, tay cầm cờ đi hàng đôi tượng trưng đội quân thiên thần. Mọi người giơ tay vẫy chào. Đám rước đi đến đâu hoa tung đến đấy, tiếng chiêng trống hòa với tiếng hoan hô dội cùng khắp mười dặm [99] . Đó là lễ hội Phục sinh.
    Đình thần lại làm lịch các ngày lễ ban cho dân chúng xem để biết các ngày làm lễ. Phép lịch này lấy 7 ngày làm một tuần. Qui định từ lễ Truyền tin đến lễ Giáng sinh là bao nhiêu ngày, từ lễ Giáng sinh đến lễ Mệnh danh (đặt tên) bao nhiêu ngày, lần lượt cho đến lễ Đức Mẹ Maria lên trời cũng như thế. Tháng thì có tháng đủ tháng thiếu, mà số ngày từ cuộc lễ nọ đến cuộc lễ kia đã định sẵn cho tròn một năm, vì thế bỏ không ghi ngày tốt ngày xấu chỉ ghi tháng đủ hay thiếu, làm lễ vào những ngày nào mà thôi. Đó là nguồn
  2. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    gốc phép làm lịch của đạo Gia Tô.
    Lại xét thấy ba ngày đầu một năm là những ngày vui, sợ dân mải chơi mà biếng lòng tôn đạo cái thế không thể không hạn chế, Giáo hoàng phải xuống chiếu lừa phỉnh rằng: ?oChúa Trời đã định 3 ngày đầu năm: ngày mồng một thờ Đức chúa Cha, ngày mồng hai thờ Đức chúa Con, ngày mồng ba thờ chúa Phiritô Santô. Trong ba ngày ấy, mọi người nên hội họp mà đọc kinh thì được phúc lớn nhất, không thể bỏ qua?. Đến khi mọi người hội lại, trên tường treo một bức tranh lớn bằng chiếc chiếu gọi là tranh Phán xét ngày tận thế. Tranh ấy chia làm ba tầng: tầng trên gọi là thiên đường, vẽ Đức Mẹ Maria và chúa Jêsu đang ban thưởng quần áo cho những con chiên đắc phúc [100] . Tầng giữa đề là Phán xét, vẽ một thiên thần cầm ống thổi lửa xuống thiêu đốt hết muôn vật. Lại vẽ một chiếc cân lớn để cân phúc tội của người ta. Tầng dưới đề là địa ngục, vẽ bọn quỷ đang nuốt ngọn lửa, nhai thịt người. Kẻ ngu khờ thấy vậy đều sợ hãi tái mặt không dám nghĩ đến chuyện vui chơi nữa. Đó là bức tranh vẽ phỏng theo lời Jêsu nói về ngày tận thế.
    Lại cũng vào những này đầu năm, lấy sợi vải trắng nhuộm đỏ để phát cho trẻ con gọi là ?odây phép?, bảo rằng đeo dây ấy thì được phúc. Bọn trẻ đều vui mừng. Do vậy cả ba ngày tết, mọi người cũng không biết lười việc đạo.
    Từ đó ngày thường cũng bắt các nhà dân phải treo bày các ảnh tượng. Lại làm bùa bằng giấy, bên trong viết: ?oChúa Trời dạy ta gọi tên Jêsu là Maria?, bảo con chiên làm lấy quả đồng [101] hoặc may túi lụa nhỏ bỏ bùa vào đó mà đeo bên cánh tay, nói rằng: ?oBùa ấy có phép lạ, trấn áp được hết mọi yêu tà?.
    Lại lấy đồng đúc những miếng nhỏ hình tròn hai mặt đều có tượng Chúa đúc nổi, bên trên có lỗ để trẻ con buộc dây đeo trên đầu khiến cho mọi người già trẻ xung quanh hằng ngày đều trông thấy: thấy ở bên ngoài ắt phải xúc động bên trong, lâu dần càng dốc lòng không quên đạo.
    Giáo hoàng cả mừng, bèn hạ chiếu ban truyền thiên hạ để các đạo quan và tất cả dân chúng tuân hành [102] . Kể từ đó, tả đạo có các ngày lễ, tranh Phán xét, dây phép và bùa phép lạ. Cũng vì thế mọi người quanh năm đều phải lưu tâm đến việc đạo.
    Rồi đó Giáo hoàng lại cho làm tượng câu rút loại nhỏ chia làm hai hạng thếp vàng và thếp bạc, triệu đạo quan vào chầu tự tay ban cho, gọi là tượng khắc lòng [103] . Giám mục được ban trượng vàng, thầy cả được ban trượng bạc, ngày đêm đeo liền bên mình. Lời mật dụ của Giáo hoàng bảo rằng: ?oNếu bất hạnh gặp hoạn nạn như thế cũng phải noi theo bức tượng, tất chịu chết chứ không hai lòng?. Cho nên ngày nay các giám mục, thầy cả có tượng trì thần [104] là bắt đầu từ đó. Và chỉ những người có tượng ấy mới là giáo sĩ đã được thụ phong truyền mật dụ.
    Giáo hoàng lại xuống chiếu truyền cho các xứ đạo từ kinh đô cho đến các làng đều phải dựng bên cạnh nhà thờ bốn năm dãy nhà đạo để cho những phụ nữ không chồng đến ở. Từ khi đặt ra phép một vợ một chồng đến lúc ấy đã 7 năm, làng nào cũng nhiều con gái quá tuổi mà không có chồng, chửa hoang không ít. Hoặc có những kẻ góa chồng không có con nối dõi. Người ngoài đều lấy làm ái ngại thương xót. Đạo quan các nơi tâu về triều. Đình thần bàn xét đều nói rằng: ?oDương ít thì âm nhiều, số của trời đất xưa nay vẫn thế?. Rồi đó Giáo hoàng bèn xuống chiếu truyền các làng làm nhà đạo như đã nói trên gọi là Nhà tu đồng trinh (tục gọi là nhà Mụ). Cấm đàn ông không được lai vãng đến Nhà Mụ và trong khu Nhà Mụ cấm không được nuôi súc vật có đủ giống đực, giống cái, sợ các trinh nữ trông thấy lại nghĩ đến sự gian dâm, hẹn với họ rằng sau khi chết sẽ phong làm thánh phụ (bà thánh), được thờ cúng đời đời. Ai muốn lấy chồng thì thưa thật với đạo quan để cho phép về nhà, nếu vụng trộm ăn nằm có mang thì phải tội chém. Về sau nhiều người tu trọn kiếp, sau khi chết được phong thánh, gọi là Rôda, Macta, Agôxta, v.v. [105] cho nên ngày nay đàn ông thì mang tên ông thánh, đàn bà thì mang tên bà thánh. Đó là nguyên do tên gọi Bà mụ đồng trinh.
    Tháng ấy lại thấy Jêsu cưỡi đám mây xanh xuất hiện trên trời kinh đô Tây Dương, vua Maisen mặc áo lễ ra ngoài hiên trông thấy bèn gọi các cận thần cùng ra vái lạy. Jêsu nói: ?oĐạo của ta chỉ thi hành một phép mà được ba bốn điều lợi. Hãy nêu một việc cho các ngươi thấy rõ. Như phép chôn sâu vừa trấn áp được hồn thiêng kẻ chết, vừa khiến cho giảm bớt giống nòi, dẫu mạch đất thiêng thì con cháu cũng không phát đạt được, lại làm cho dân chúng biết rằng chết rồi là không có ích gì nữa, càng có lợi cho việc phong thần, khiến người ta càng dốc lòng theo đạo ta. Các phép khác đại khái cũng như thế?.
    Nói xong Jêsu biến mất. Đây là lần cuối cùng Jêsu hiện xuống. Từ đó về sau nói chúa Jêsu hiện xuống đều là do vua tôi Tây Dương đặt điều lừa dối, lấy sự trừng phạt đe dọa dân chúng mà thôi.
    Qua năm sau, Giáo hoàng Tây Dương Maisen lúc lâm chung gọi các đại thần cùng thế tử vào truyền dặn di chúc mật, nói rằng: ?oĐến nay các phép đạo kể đã tạm đủ, chỉ còn những việc như bỏ thờ cúng, cắt yểm mạch đất thiêng, cấm xem thiên văn địa lý bói toán là chưa thi hành, rất khó sửa đổi. Nhưng nhờ sách Bí lục có nói: ?oChớ muốn nhanh?. Nếu muốn làm những phép ấy trước hết cần phải cấm xem các sách âm dương, thiên văn địa lý, tiếp đến cắt yểm mạch đất, như thế dẫu dân chúng có muốn làm giặc cũng không thể được. Trẫm mong các khanh trên dưới một lòng?.
    Rồi đó thế tử Lôrenxô [106] được lập làm Giáo hoàng, bèn rước tượng vua cha vào thờ trong điện, tôn phong là Đức Giáo hoàng thánh thần, xuống chiếu truyền rằng: ?oNay chúa Jêsu khen ngợi trẫm giải thoát nỗi khổ muôn việc của bậc quốc vương [107] mà lên thiên đường thảnh thơi vui sướng. Thấy một áng mây bay lên trời giữa ban ngày, dân chúng hãy một lòng cầu chúc cho phúc lành mai sau, vừa là mừng tiên quan trẫm lên trời, vừa để tỏa rộng ân huệ của trẫm?.
    Từ đó về sau, mỗi khi vua hoặc các quan chết đều phỏng theo cách nói ấy để lừa bịp dân chúng.
    ________________________________________
    [1]Tiếc thay tác giả lại không viết là con Thiên Chúa tuần hạnh Tây Dương!
    [2]Nguyên thư phiên là BanNha.
    [3]Nay tả đạo gọi những người không theo đạo của chúng là kẻ ?ocứng lòng?, gốc ở đây.
    [4]Nói dối với cả môn đồ.
    [5]Nay tả đạo mỗi khi sắp phong một người nào lên làm thầy cả thì từ 4, 5 năm trước đã phải lánh hẳn không cho về nhà thăm cha mẹ anh em, tức là gốc ở đây.
    [6]Tức La Mã (Rôma).
    [7]Nguyên thư phiên là MaiLiên, bên cạnh chữ Liên với chú thích: ?oNgã quốc hô Liên tự chi nghĩa, nãi thị kỳ âm? (Người nước ta đọc nghĩa chữ Liên như thế nào thì đó là âm của tiếng ấy). Nghĩa của chữ Liên = Sen, ghép lại thành Maisen. Quả đúng có tên thánh Maisen, tham khảo:
    ?o?Song le cha ông ta ở trên rừng cũng có nhà xếp và bia luật thánh, như Đức Chúa Lời đã truyền cho ông Maisen làm cứ mẫu đã thấy ở trên núi?? (Sách tóm 4 Evang Phúc âm cùng sách truyện các thánh tông đồ. Cố Ven (M. Venard dịch ra tiếng Việt, Ninh Phú đường, 1878, tr. 247).
    [8]Quẻ bói của người Jiuđê thì bảo phải đánh, quẻ bói của người Tây Dương thì bảo phải thờ. Đánh và thờ tuy khác nhau, nhưng đều có diệu ý. Lại vì ý của vua hai nước ấy khác nhau, cho nên quẻ bói cũng khác nhau, tức như trong Kinh thư đã nói: ?oÝ trẫm đã định trước, gieo quẻ bói để hiệp theo?, đúng như vậy.
    [9]Tôi là ?ochân? (đích thật) tức là đã bao hàm cả cái ý ?ongụy? (giả) trong đó rồi. Nếu quả đúng là thật thì không phải nói ?othật?. Há không biết lấy việc mình vừa bị quân Jiuđê đánh bại trước đó làm răn chăng?
    [10]Nguyên văn: kim tại mỗ xứ (nay đang ở nơi nọ).
    [11]Xét sách Ngoại lục nói: ?oBấy giờ Đức Bà đã hưởng nhiều phúc đức, bèn qua đời. Chúa Jêsu sai nhiều thiên thần xuống rước linh hồn Đức Bà lên trời?. Nếu quả thế thì cần gì phải đợt chết mới rước đi? Lại tả đạo vẫn bảo rằng chết tức là sống, lại bảo chết là trường thọ, vui sướng vô cùng. Toàn là những lời lẽ lừa bịp cả, khiến cho dân đạo dẫu bị hành hình cũng không thay lòng đổi dạ.
    [12]Ghi chép sự thực về chúa Jêsu. Nay có lược bớt, dựa vào sách này từ quyển I đến quyển III.
    [13]Nguyên thư phiên: ULiPhêTê, cũng tức là rừng Tịnh Trai nói ở quyển III, đầu quyển IV.
    [14]Tức quyển IV của sách này.
    [15]Nguyên thư phiên: TuMi.
    [16]Nguyên thư phiên: NaSaLỗ.
    [17]Nay Kinh Thánh quốc âm có đoạn nói: ?oChúa Jêsu cho thánh TuMi (Xumêi) xem dấu mình, cho thánh NaSaLỗ (Nasarô) chết 4 ngày lại sống?.
    [18]Không có anh linh thì làm sao dọa nạt được nước người? Thầy trò Jêsu không dám đánh lại nước Jiuđê, có lẽ cũng như câu ngạn ngữ: ?oCứng xác mềm hồn? chăng?
    [19]Xét: người ta gọi nước Jiuđê là nước Cú vọ, là nói tính hiểm độc của người nước ấy; gọi nước Tây Dương là nước Tu hú. Tu hú mắt đỏ, tính hiểm, thường hay trà trộn vào đàn gà để bắt gà con. Tâm địa bọn Tây Dương hiểm ác, mà mặt mũi cũng tựa như thế.
    [20]Nguyên văn: ?oNhất tâm trung nghĩa, vạn cổ anh linh, dân duy sở sử, tự cổ cập kim, duy Gia Tô vi thượng sách?.
    [21]Từ đó người Tây Dương bắt đầu phong thánh.
    [22]Nguyên văn: ?ovô vọng kỳ tất tử dã? (không quên sự ắt chết).
    Ngày nay nhiều người lấy làm lạ thấy tả đạo vẽ những bức ảnh hình thù xấu xí, đó là chưa hiểu ý chính của việc đó cũng tựa như câu: ?oKẻ mạnh vì nghĩa không quên sự mất đầu? (Câu này người bình chú dẫn lời Mạnh Tử trong thiên Đằng Văn Công. ND). Từ đó tả đạo bắt đầu có ảnh thánh.
  3. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    [23]Nguyên văn ?ocổ thánh? chỉ những người hiền các đời trước.
    [24]Xem đoạn giải thích ý nghĩa của đạo phục, đã nói ở Q. IV.
    [25]Nguyên thư chép: ?oQuốc quân cặp ngoại quốc đạo câu??, hai chữ ?oquốc quân? có lẽ là chép thừa chữ quốc và sót chữ thần.
    [26]Tử là trở về nước Thiên đường.
    [27]Nguyên thư chép: Tha giai tri Thiên Chúa hà ngôn. Ở vị trí chữ giai có lẽ là chữ dục (muốn) thì hợp hơn.
    [28]Nguyên văn: Đạo đường pháp quan. Tức là quan lại của nhà nước được giao cai quản việc đạo, cũng tức là đạo quan như tác giả sách này đã dùng trong các đoạn văn sau.
    [29]Dưới đây đều là những việc đã bàn định. Mỗi năm thi hành một phép. Nay các giám mục tả đạo khi đến ngoại quốc cũng đều theo như thế.
    [30]Nguyên thư phiên là ?oBàBà?, tức là phiên âm tiếng Latinh: Pape.
    [31]Ý nói động nghĩ trong lòng.
    [32]Nguyên thư phiên: MatDiA.
    [33]Nguyên văn chữ Hán: Nhân hà kinh.
    [34]Kinh Bởi đâu cũng là sách Ngoại lục toàn là lời lẽ khoe khoang đã nói ở trên.
    [35]Sách Thực lục thì giấu kín.
    [36]Sắc mật nói rằng: Những ai trên dưới một lòng thì được ban thưởng: kẻ nào tiết lộ thì bị xử trảm.
    [37]Ngày nay, các cố đạo khi làm lễ trước bàn thờ Chúa thì đứng nghiêm mà đọc to, con chiên thì ngồi cúi đầu mà nghe, là gốc ở đây.
    [38]Ngày nay, các cố đạo sau khi làm lễ trước bàn thờ Chúa thì đứng nghiêm mà đọc to, con chiên thì ngồi cúi đầu mà nghe, là gốc ở đây.
    [39]Nguyên văn: huấn phòng (lời dạy về việc buồng the).
    [40]Tấm bia đó đến nay vẫn còn. Sách Ngoại lục nói: ?oChúa Trời sai thánh Maisen khắc 10 điều răn vào đá để truyền lại cho muôn đời sau?, gốc tích ở đây.
    [41]Nguyên văn: Tại thiên kinh. Tên kinh lấy theo hai chữ đầu của bản kinh chữ Hán: ?oTại thiên thần đẳng phụ?? (Cha chúng tôi ở trên trời?). Chúng tôi dịch tên kinh theo bản kinh chữ Nôm (chẳng hạn bản kinh do giám mục M. Venard đã dịch, 1878), trong đó câu đầu bản kinh đã thêm hai chữ: ?oLạy Cha?? cho hợp cách xưng hô của người Việt.
    [42]Nguyên văn: ?odĩ chi vi đạo?, nguyên thư hẳn đã chép nhầm chữ đạo = trộm cướp ra chữ đạo = giáo; đã sửa lại.
    [43]Phêrô lại một phen truyền ý kín.
    [44]Nguyên văn: thập tự không giá. Xem chú dưới đây:
    [45]Giá chữ thập không gắn tượng, gọi là giá chữ thập không (thập tự không giá). Vả lại nếu có tượng thì làm lộ sự tích bức tượng ra.
    [46]Kinh Thánh Jiuse có câu rằng: ?oThiên thần gọi thánh Jiuse đến hầu con Thiên Chúa?.
    [47]Nhắc lại việc bà Maria khuyên can Jêsu đã kể ở đầu Q. VI.
    [48]Nguyên thư dùng chữ ?ođạo câu? (câu có nghĩa là cụ già), có thể dịch thẳng là cố đạo, hoặc cố xứ. Cách gọi đó có nguồn gốc ở đạo Do Thái: đạo này qui định bầu một người cao tuổi nhất trong làng làm đạo trưởng. Về sau đạo Gia Tô chọn người trẻ tuổi bổ nhiệm vào chức đó nhưng vẫn theo chức danh của đạo cũ, bổn đạo gọi chung là thầy cả. Như vậy, chức đạo câu (thầy cả) nói ở đây tương đương linh mục (cha xứ) như tên chức đạo hiện nay. Nhưng vì linh mục vốn là từ Hán Việt, mà nguyên thư không dùng, cho nên chúng tôi ngờ rằng đó là cách gọi về sau. Nếu quả như vậy thì từ ?ođạo câu? dùng trong sách này từ đây trở về sau có thể tương ứng với cả hai chức giám mục và linh mục, còn vít vồ thì chỉ các giám mục khâm mạng (cũng tức là giám mục đốc chính, bổn đạo thường gọi là cố chính).
    [49]Chỉ nghi thức truyền phép kín trong lễ phong chức thầy cả, đã nói ở Q. IV.
    [50]Câu ?oMỗi người? Jêsu đã định? trong nguyên thư chép cách sau 1 câu (tức câu ?oDân đạo? nghĩ đến đạo?, chúng tôi dịch đảo lên cho thuận với cách kể chuyện thông thường; nói hết ý liên quan đến việc bổ nhiệm thầy cả rồi mới nói đến việc giáo dân đặt tên theo thầy cả.
    [51]Nguyên thư chép: MạtTêDi, tức là chép nhầm tên Môria (MátDiA) đã nói đến ở đoạn trước và còn thấy ở đoạn sau.
    [52]Phép đặt tên thánh đem thi hành vào phong tục trong nước để khiến cho dân chúng tuân theo đạo, đem thi hành ra nước ngoài để khiến cho dân các nước ấy đều theo tên Tây.
    [53]Kinh Phêrô có câu: ?oĐại môn đồ cầm chìa khóa giữ cửa thiên đường?. Nay trong bức ảnh thánh Phêrô ở bên phải phía trên có vẽ con gà sống phía dưới vẽ chiếc chìa khóa. Người hấp hối đều bị lừa dối được lên thiên đường là do tích chuyện này.
    [54]Chỉ muốn người ta tuân theo cha cố.
    [55]Muốn giáo dân hiến nạp nhiều tiền của cho nhà đạo.
    [56]Muốn cho giáo dân kiên lòng theo phép một vợ một chồng, thì những ?olời giáo huấn? về chuyện buồng the của Thiên Chúa mới thực hiện được.
    [57]Muốn cho dân không oán trách vua quan tả đạo.
    [58]Nhịn ăn nhịn uống thì không có sinh khí; tự nhiên cũng không sinh ra chuyện tà dâm, trộm cướp.
    [59]Đã yêu người thì tất nhiên sẽ yêu kính vua quan.
    [60]Ngày đêm chăm lo tụng kinh không rỗi thì sẽ không bị lay động bởi kẻ ngoại đạo.
    [61]Muốn ta khuyên bảo nhau để người theo đạo ngày càng đông.
    [62]Để cho người ta tưởng rằng ta mở mang giáo hóa cho họ, do đó, dân chúng không nghi ngờ gì ta!
    [63]Càng ví dụ so sánh thật nhiều thì họ càng kiên lòng theo đạo.
    [64]Nói như thế để khi ta giáo huấn cho họ, họ tự nghĩ rằng chúa Trời cũng đã dạy phải quở trách người phạm lỗi lầm, do đó mà không oán giận gì ta.
    [65]Như thế thì khi ta khinh thường xúc phạm họ, họ cũng tha thứ cho ta.
    [66]Như thế thì ta có nói phật ý họ, họ cũng phải nín nhịn.
    [67]Nói như thế thì họ càng vui mừng cho ta là công bằng mà theo đạo.
    [68]Ngày sau: nói sau khi chết.
    [69]Nguyên thư chỉ thấy nói đến 3 điều, còn 5 điều khác có lẽ lược đi, không nói đến?
    [70]Đúng là lừa dối người ta ngay trước mắt.
    [71]Nguyên văn: Niệm sách tử, tục là chuỗi hạt để lần đếm mỗi khi đọc kinh, có tác dụng điều hòa nhịp điệu ngôn ngữ (miệng đọc), hành động (tay đếm) khiến cho đầu óc thư thái, suy nghĩ được lâu bền hơn.
    [72]Người ta đều chê là vô lễ, lời lẽ thô tục đáng cười. Xem đây mới biết cái thâm ý quanh co quỷ quyệt.
    [73]Nguyên thư phiên là Diêu chúa, người bản đạo đều đọc là Dêu. Dêu là chúa Trời (tiếng Latinh: Dei) cũng tức là chúa Jêsu (tác giả đã giải thích khi nói về thuyết chúa Trời ba ngôi). Câu niệm trên nói về việc Jêsu.
    [74]Câu này viết chữ Nôm trong nguyên thư, trước chữ ?odữ? có lẽ chép sót chữ sự.
    [75]Nguyên văn: Thiên Chúa kinh.
    [76]Sự tích thánh Antô sẽ nói ở sau.
    [77]Phép đọc kinh chia hai bè nam nữ là qui định của dòng Đômingô.
    [78]Dân tả đạo ngày nay gọi là mười lăm thứ ngẫm.
    [79]Ngày thứ nhất (tức Chúa nhật) đọc hết cả 15 đoạn, còn các ngày khác thì đọc 2 đoạn, 5 đoạn hoặc 10 đoạn không hạn định.
    [80]Trong đó có câu: ?oXin chớ ngoảnh mặt đi mà chẳng nhìn chúng tôi?? thật là thô kệch đáng cười.
    [81]Nguyên văn: đả ức tam thanh. Tiếng ở đây là tiếng khẽ phát ra khi đấm tay vào ngực.
    [82]Câu này có trong bản Phúc âm (Evang) của Luca: ?oAve gratia plena: Dominus tecum: Benedicta tu in mulieribus. (Luca III. 28). Nguyên thư phiên là AVơ MaDiA đài la sa.
    [83]Nguyên văn: Cáo thân kinh, cũng thường gọi là kinh Sám hối.
    [84]Mới đầu thấy hai thầy cả một người ngồi trên ghế một người quỳ dưới, sau đó người quỳ lại lên ngôi, người ngồi trên ghế lại quỳ xuống xưng tội, thật nực cười. Nay xem phép định của Giáo hoàng thì thấy từ Jêsu đến các thầy tu đều được tự xưng là chúa Trời, thì ra không biết bao nhiêu là chúa Trời! Lại thấy Giáo hoàng cùng các giám mục, thầy cả làm gì cũng đều bảo là thay mặt chúa Jêsu, thì hóa ra ai cũng là Jêsu cả!
    [85]Các đời sau đạo quan sau khi chết được phong thánh rất nhiều, cho nên có kinh Các thánh, cũng chỉ nêu những người thật giỏi mà thôi.
    [86]Giữa ngực có vẽ một vết máu đỏ, tượng trưng vết thương do ĐaSaNùng đâm.
    [87]Mười hai môn đồ ấy, người nào bị cực hình mà chết thì có vẽ làm theo hình cụ ở bên cạnh (ở trên đã nói đến), người nào không bị cực hình thì không vẽ kèm hình cụ. Như thế là để tỏ ý rằng kẻ bề tôi tuy không tử nạn cực hình nhưng nếu một lòng tận tụy thì cũng được phong thánh. Về sau ảnh tượng các thánh rất nhiều.
    [88]Nguyên thư bỏ trống một số chữ ở câu này và câu tiếp theo.
    [89]Thước nói đây là thước ta (ngày trước) = 0,33m.
    [90]Chữ Hán: Nhất yếu kinh.
    [91]Nguyên thư phiên: KhuAKinh.
    [92]Chữ Hán: Bi khổ chi kỳ = Mùa thương khó là chữ dùng của bổn đạo nước ta (mùa = thời kỳ).
    [93]Quăng tro, ném đá, rước liễu (đầu khôi, phao thạch, liễu nghênh) = lời tắt để chỉ những lần Jêsu bị dân thông giáo các làng Jiuđê phản đối (xem Q. III). Riêng hai chữ ?oliễu nghênh? (rước liễu) lại là cách nhắc phớt qua đủ để nhớ việc chứ không cần chính xác: Jêsu được dân chúng vác cành liễu đi đón, đó không phải là chịu nạn, điều tác giả nhắc là việc Jêsu đêm hôm đó bị vây bắt ở làng Liễu.
    [94]Tức là 7 ngày trước lúc Jêsu chịu nạn (Mùa chay).
    [95]Chữ Hán: Ngũ đinh tích kinh.
    [96]Chữ Hán: Thất thống kinh.
    Bảy thống khổ (đau đớn): 1. bị rạch da, 2. bị trói vào cột đá, 3. bị đóng đinh ở tay trái, 4. bị đóng đinh ở tay phải, 5. bị đóng đinh ở hai chân. 6. bị đóng vành gai làm mũ, 7. bị chôn trong hang đá.
    [97]Nguyên thư chép: ?oHựu tác KhuDiêu cơ tượng đái ngân nang phóng khứ?. Câu này ngờ có 2 chữ chép nhầm: a. hình nộm nói trên là hình nộm Jiuđa (vì có nói đến chuyện túi bạc), đúng ra phải viết KhuĐa (nhưng người chép quen tay chép nhầm là KhuDiêu như đã gặp trường hợp). b. Jiuđa phản chúa được thưởng túi bạc chứ không phải ném túi bạc đi (phóng khứ). Chữ phóng do đó tỏ ra không hợp nghĩa, đúng ra có lẽ chữ tẩu: sau khi Jiuđa chạy lánh đi, quân Jiuđê ập vào bắt Jêsu.
  4. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    [98]Các cha cố bảo rằng: ai bỏ nhiều tiền (vào hòm quyên) thì được nhiều phúc, từ một đồng tiền trở lên chúa đều biết cả. Dân chúng tranh nhau ném tiền vào không dưới nghìn quan, cố đạo đều thu giữ hết, gọi là ?otiền thánh giá?. Lại có lễ Hôn chân. Trong ngày lễ ấy, con chiên những làng đạo không có thầy cả và những người không có điều kiện đi xem hội chính cũng đều phải đến nhà thờ trong làng hôn chân tượng đất. Các làng thu tiền nộp lên, tính dồn lại nhiều không kể xiết.
    [99]Hệt như hiệu lệnh của một viên đại đốc Tây Dương chẳng kiêng sợ gì phép cấm của triều đình (câu này nguyên thư chép lẫn vào chính văn, xét tính chất đó là lời của người bình chú, chúng tôi chuyển xuống vị trí của các nguyên chú).
    [100]Vẽ đàn ông đàn bà trần truồng quỳ nhận, thực nực cười.
    [101]Nguyên văn: đông hoàng = cái hộp nhỏ hình cầu bằng đồng gồm hai nửa đậy khít.
    [102]Đoạn trên đây, từ việc qui định các ngày lễ trong năm, nghi thức lễ Phục sinh, v.v., tác giả sử dụng bút pháp kết hợp: vừa trình bày những điều đang bàn xét, vừa mô tả sự việc đã diễn ra, cho nên mới có câu: bèn hạ chiếu ban truyền cho thiên hạ? tuân hành?.
    [103]Chữ Hán: Minh tâm tượng = tượng khắc nhớ trong lòng.
    [104]Đeo luôn bên mình.
    [105]Nguyên thư phiên: DoSa, ACaTa (ta phiên âm là ?ota? và ghi đọc thanh bằng).
    [106]Nguyên thư phiên: LaoLiênSô.
    [107]Nguyên văn: van cơ chi khổ; vạn cơ = muôn việc; quen dùng để chỉ sự bận rộn trăm công nghìn việc của các vua chúa.
    Quyển VII
    Các vua đạo mượn Jêsu đối chứng
    Bọn quan đạo bịa chuyện láo lừa dân
    Bấy giờ tân Giáo hoàng đã lên ngôi. Qua năm sau ban chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời hiện xuống phán bảo: quan dân, đàn ông đàn bà, thảy đều phải bỏ cách ăn mặc theo kiểu cũ. Hạn trong một năm ai nấy đều phải may thường phục theo mẫu áo đã có phép qui định tức là kiểu Italiêng [1] để chứng tỏ sự nhất trí. Kẻ nào trái lệnh sẽ bị trị tội?. Trước đó có y phục của người Tây Dương đại khái cũng cùng một kiểu như người Jiuđê: vạt áo trước có đường xẻ, khi mặc thì xỏ tay cài khuy. Đến nay mọi người đều phải mặc kiểu áo thung chui đầu.
    Tả thừa tướng Xumêi chết. Giáo hoàng Lôrenxô cho đem tượng truyền thần ra đặt trong điện thờ [2] . Về sau các quan sau khi chết đều được phong làm thánh, cho nên ngày nay mỗi thánh đều có một kinh riêng.
    Qua năm sau, Giáo hoàng ban tên thánh cho các nhà thờ trong nước. Bấy giờ, đã lâu không thấy Jêsu hiện về, Giáo hoàng bèn phỏng theo sự tích hòn đá có vết đầu gối Jêsu ở vườn Ghêtsêmani, sai thợ lấy tấm đá vuông mỗi chiều rộng 1 thước rưỡi tạc nổi hình chúa Jêsu theo thân triên giá câu rút rồi bảo vít vồ đọc lời khấn rằng: ?oNguyện linh hồn Chúa nhập vào tảng đá này để phù hộ cho vua tôi chúng con?. Lấy nến trát lên mặt ngoài bức tượng rồi dùng tấm khăn lụa che trùm lên. Mỗi nhà thờ đều phải có một tấm đá như thế, gọi là ?oĐá tàng hồn? (Tàng thần thạch). Đá thánh của tả đạo bắt đầu có từ đó.
    Bấy giờ đã định xong các ngày lễ trong một năm, Giáo hoàng truyền chiếu: Một là [3] , cho mở cuộc thi lựa chọn các môn đồ [4] cho thăng làm giám mục hoặc thầy cả, người trúng tuyển đều được truyền phép, cấp bằng sắc. Hai là, dân chúng ai có ảnh thánh, tượng thánh, đến kỳ lễ Lá đều phải đem đến nộp để đạo quan rảy nước phép và niệm chú, như thế mới là ảnh tượng thiêng, đáng thờ phụng. Những ảnh tượng chưa được niệm chú thì chẳng khác gì gỗ đá, không đáng để thờ. Lời chú niệm rằng: ?oCúi nguyền Đức chúa Jêsu giáng linh vào ảnh này tượng này để cho con chiên thờ phụng đặng giúp giữ ngôi báu cho Giáo hoàng? [5] . Niệm như thế ba lần, xong rảy nước phép, rồi mới giao cho giáo dân lãnh về thờ. Những ảnh tượng nào đã được niệm chú, nhưng quá lâu rồi cũng cần phải niệm lại. Lại răn dặn rằng: ?oCác ảnh, tượng đã qua lễ niệm chú đều thiêng liêng như bậc chân thánh, nếu lỡ chân mà bước qua tức là phạm tội như giày đạp lên cha mình, sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục, không được tái sinh làm người?. Muốn cho mọi người một lòng tôn đạo, cho nên phải răn dặn để chớ khinh mạn coi thường? [6] .
    Qua năm sau, Giáo hoàng lại truyền rằng: ?oChúa Trời phán rằng mỗi làng phải dựng sẵn một ngôi nhà bỏ không để làm nơi thờ các đạo quan sau khi chết, phong gọi là thánh. Con chiên nam nữ trong làng người nào một lòng chuyên cần việc đạo, được đạo quan trình lên thì sau khi chết cũng được thờ chung trong nhà ấy [7] .
    Bấy giờ đình thần vừa mới bàn định về việc cắt yểm mạch đất thì có 5 ngôi sao dữ mọc lên. Giáo hoàng Lôrenxô hội triều bàn bạc, sợ rằng dân chúng bói toán rồi lại thì thào bàn tán, bèn truyền cho các đạo quan phải đe doạ dân chúng rằng đó là điềm báo trước ngày tận thế đã đến gần, ai nấy phải dốc lòng thờ đạo như chúa Jêsu hằng dạy. Rồi đó lệnh truyền cho dân gian nhà nào còn cất giữ sách vở về các thuật bói toán, tướng số, v.v. trong hạn một tháng phải nộp hết cho đạo quan sở tại. Ngoài hạn ấy sẽ đi khám xét từng nhà, kẻ nào trái lệnh xử trảm chớ hối. Chiếu thư đại khái nói: ?oCác hình tượng hiện ra trên trời như thế nào đều do ý kín của chúa Trời, người trần không được nghị bàn vụng lén. Đến như việc chọn mạch đất tốt xấu là để cầu phúc há chẳng phải đều do Chúa định trước cả hay sao? Ai không tuân lệnh, tức là phạm tội bất kính, phải xử tội chết? [8] .
    Các sách thuật số đã bị cấm, qua năm sau, Giáo hoàng lại xuống chiếu: ?oChúa Trời phán rằng: Các vùng dân cư, nơi nào đường sá đi lại chưa thuận tiện thì giám mục sở tại phải xem xét cho mở thông hoặc lấp bỏ để cho dân chúng đi lại được dễ dàng?. Mặt khác, Giáo hoàng lại truyền dụ mật, bảo rằng: ?oCác đạo quan ai có mồ mả tổ tiên đang lúc phát thịnh thì phải trình ngay cho giám mục bề trên biết để được phép giữ nguyên. Ngoài ra, tất cả đồi gò các làng đều phải đào yểm long mạch. Những nơi núi cao đất rộng hãy đợi sẽ bàn định sau. Công việc làm xong, các đạo quan phải vẽ địa đồ dâng nộp?.
    Thế là mạch đất tốt ở các làng đều bị cắt yểm, chỉ những nơi có mồ mả tổ tiên vua quan được giữ nguyên như cũ mà thôi [9] .
    Qua năm sau, Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oNhững ai có thiện tâm thờ đạo Chúa thì được lên tình hình, nhà vua vâng ý Chúa sẽ lầm đền thờ phụng. Những kẻ phản nghịch bỏ Chúa phải đày xuống địa ngục, nhà vua cũng vâng ý Chúa mà khép tội đóng đinh câu rút?.
    Đạo quan các nơi dâng sớ tâu rằng: ?oĐàn bà con gái bàn tán với nhau rằng: chỉ thấy phong thánh đàn ông, chứ không thấy nói phong thánh đàn bà. Xin hoàng thượng xét định để yên lòng bọn họ?. Giáo hoàng Lôrenxô cùng đình thần bàn bạc rồi theo điều ghi trong sách Thực lục mà tôn phong cho Vêdonica và Alina là ?oBà Thánh?, được thờ chung với đức mẹ Maria. Chỉ dụ của Giáo hoàng truyền rằng: ?oĐương khi chúa Jêsu chịu nạn, bà Vêdônica là một phụ nữ tôn quý đã có lòng thành trao chiếc khăn tay cho Chúa. Còn bà Alina nguyên là người gái điếm mà có lòng tặng Chúa chiếc váy đỏ. Chúa Trời chí nhân, phán cho trẫm biểu dương linh hồn hai vị ấy. Nay đã có tiếng chuông của Chúa giáng hiện, trẫm tôn phong hai vị là Thượng thánh. Vậy bảo cho phu nhân ai nấy đều biết mà yên lòng thờ Chúa để cùng được đội ơn phong thưởng?. Các đạo quan tuyên đọc chiếu thư, đàn bà con gái khắp nơi đều hân hoan vui mừng.
    Đạo quan các nơi lại tâu rằng: ?oĐạo ta nói về chuyện thiên đường, người ta đều cho là khó mong lên được?. Rồi đó, một đình thần soạn ra bổn kinh Hoa viên (Vườn hoa), 1 quyển, in ra để ban hành trong nước. Kinh này khuyên dụ người ta hãy nên dốc lòng làm điều thiện để giũ sạch tội quí tiền khiến cho được lên thiên đường. Vì thế, dân chúng ai nấy đều vui lòng theo đạo.
    Năm ấy các mạch núi đã bị cắt yểm hết, nạn dịch lớn lan tràn, người chết nằm gối lên nhau. Giáo hoàng mật truyền cho các đạo quan doạ phỉnh dân chúng rằng: ?oSắp đến ngày tận thế, cho nên chúa Trời bắt dân chúng chịu khổ nạn để thử thách tin đạo. Ai nấy đều phải dốc lòng?. Đồng thời Giáo hoàng lại chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời phán: Sự lành sự dữ đều do Chúa định sẵn, từ thời thượng cổ đến nay đều thế cả. Kẻ nào phao truyền ngoa ngôn, sẽ giao cho quốc vương ném xuống địa ngục?.
    Bấy giờ các đạo quan cũng nhiều người bị chết vì bệnh dịch, bề trên lập tức bổ nhiệm người khác đến thay. Lại cho vẽ một người có cánh như chim cầm giáo đâm xuống một con quỷ đầu sừng thân đuôi đang bị đè giẫm dưới chân. Đó là ảnh thánh Antô, được vẽ ra hàng loạt để ban cho thiên hạ, bảo dân chúng rằng: ?oThánh Antô đêm qua từ trên trời xuống nói Thiên Chúa sai xuống đi bắt quỷ, vì thế các nhà đều phải treo ảnh thánh Antô?. Rồi đó lại soạn ra kinh Antô bảo mọi người tụng đọc. Ảnh thánh Antô [10] có từ hồi đó [11] .
    Dịch bệnh hoành hành liền năm năm mới dứt, Giáo hoàng lại xuống chiếu lừa dối dân chúng rằng: ?oChúa Trời phán: Vì dân nước ta tôn thờ đạo Chúa, cho nên ma quỷ căm ghét, tác quái sinh yêu làm hại dân ta. Vì vậy, trong dân gian các đều miến thờ cúng thần linh tạp nhạp lệnh cho chính quan và đạo quan sở tại phải thu dẹp phá huỷ hết, xong việc phải dâng biểu tâu lên?.
    Thế là lại một phen dịch bệnh lớn, dân chúng chẳng ai dám hé răng.
    Giáo hoàng Lôrenxô chết. Trải hai mươi năm thi hành bấy nhiêu sự việc đều không chút vội vàng. Lúc lâm chung, Giáo hoàng gọi thế tử và các quan đại thần đến mật truyền di chúc: ?oCác hạng thần linh tạp nhạp trẫm đã dẹp xong. Còn những thần linh có tiếng thì trong mười năm tới đây, các ngươi phải lo yểm diệt cho hết. Lại phải hai mươi năm sau nữa mới xuống lệnh cấm thờ cúng tổ tiên. Đến khi đó cả nước mới thực cùng chung một đạo?. Rồi đó thế tử Đôrixi [12] lên nối ngôi, xuất tiền bạc trong kho phát chẩn cho thiên hạ.
  5. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    Chiếu truyền: ?oTrước đây sông ngòi nhiều nơi sụt lở. Nay sai sứ đi các nơi xem xét các làng bị ngập lụt, cho làm kè đá ngăn giữ, chiêu tập dân chúng trở về làm ăn để con chiên Chúa càng thêm đông đúc. Kẻ nào không tuân lệnh hoặc chiếm lợi riêng đều bị phép tội chém?. Từ đó ruộng đất bị sụt lở của các làng ven sông được khôi phục đủ số, lập thành định lệ lâu dài.
    Năm thứ năm, Giáo hoàng Đôrixi xuống chiếu truyền rằng: ?oCác vị thần có danh tiếng cũng không trừ diệt được ma quỷ, vì thế các đồ khí mãnh thờ cúng đều phải thiêu huỷ hết?.
    Năm thứ mười, truyền chiếu: ?oChúa Trời phán bảo: Thần tức là quỷ, người há đi thờ quỷ hay sao? Từ xưa tới nay dân chúng thờ cúng quỷ thần nhưng chẳng được ích lợi gì cho sự thọ yểu giàu nghèo. Vì thế các đền thần phải thiêu huỷ hết không để sót mảy may?.
    Bấy giờ các đền phần nhiều đã bị lính tráng phá huỷ, Giáo hoàng Đôrixi hội các đình thần lại bảo rằng: ?oHơn ba mươi năm, các phép đạo đã được định lập đầy đủ. Nay cần phải có một phép gì đó khiến cho giáo dân thân thiết với đạo mà vẫn giữ được tôn nghiêm?.
    Đình thần xét trong kinh Bởi trời chép ở Thực lục có câu: ?oCha chúng tôi ở trên trời??, bèn xin Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oNgười ta có ba cha [13] . Cha bậc trên là chúa Trời, cha bậc giữa là vua, cha bậc dưới là cha đẻ ra mình. Cha bậc trên sinh ra cả cha bậc giữa và cha bậc dưới, cho nên mọi sự đều phải tuân theo cha bậc trên làm chính. Cha bậc giữa theo phép của cha bậc trên mà thi hành, kẻ nào không tuân theo tức là bất hiếu, phạm vào điều thứ 4 trong kinh Mười điều răn, bị phạt tội đày xuống địa ngục?. Cái thuyết Ba cha của ta đạo là gốc ở đó [14] .
    Giáo hoàng lại bàn bạc với đình thần: ?oPhải làm sao cho dân chúng kính yêu ta như một khối không thể tách rời được??.
    Đình thần bàn định rồi xuống du phỉnh doạ dân chúng: ?oChúa Trời phán rằng: linh hồn người ta do Chúa trao cho, chỉ có phần xác là do cha mẹ sinh ra. Vua và các đạo quan là cha cai quản phần hồn. Cha mẹ đẻ bế ẵm phần xác thì chỉ là cha mẹ phần xác. Cha cai quản phần hồn là tôn quý, còn cha cai quản phần xác thì thấp kém hơn. Từ nay về sau, dân chúng cần phải gọi các thầy cả là cha. Thầy cả thì gọi vít vồ (giám mục) bằng cha, giám mục thì gọi Giáo hoàng là cha. Ai không tuân theo sẽ trị tội?.
    Giáo hoàng lại nói: ?oTỏ tình thân bằng lời nói dù sao cũng không bằng tỏ tình thân bằng việc làm?. Rồi đó phỏng theo cung cách các đồ đệ của Jêsu có lệ hôn tay thầy, Giáo hoàng bèn định lệ: khi bãi chầu, các đại thần phải quỳ thành hai hàng nâng vạt áo của Giáo hoàng mà hôn. Đối với các đồ khí mãnh cũng thế. Giáo dân đàn ông đàn bà làm lễ xong, khi đạo quan ra về cũng phải nâng vạt áo mà hôn như thế [15] .
    Phép gọi cha đã được thi hành. Qua năm sau, triều đình lại bàn cách huỷ bỏ tình cảm ruột thịt, không cho người ta quyến luyến người thân, chỉ một lòng tôn kinh Giáo hoàng và các đạo quan. Bàn định xong, xuống chiếu truyền rằng: ?oNgười ta sau khi chết được chúa Trời cho lên thiên đường, vả lại trước sau ai cũng một lần chết, cho nên từ nay về sau không được kêu khóc người chết, không được để tang và khi mai táng thì phải đào huyệt chôn sâu. Chôn cất xong thì đọc kinh cầu nguyện, yên lặng làm ăn như cũ. Ai trái lệnh xử trảm?.
    Từ đó người trong nước không được gọi cha đẻ mình bằng cha, mà phải tôn gọi Giáo hoàng và các đạo quan là cha thật của mình.
    Giáo hoàng lại xuống chiếu truyền rằng: ?oViệc hôn nhân của mỗi người, chúa Trời đã định sẵn: cha mẹ không được loạn luân với con cái, anh em ruột cũng không được lấy nhau, anh em cùng cha khác mẹ cũng không được lấy nhau. Ngoài ra, nam nữ vừa ý nhau thì đều được kết hôn. Đạo quan cho ai được làm vợ chồng đều là vâng theo ý Chúa, cha mẹ đẻ không được ngăn trở. Ai không tuân lệnh sẽ trị tội?. Thế là từ đó trong dân gian những người cùng chung huyết thống cũng vẫn được phép lấy nhau làm vợ chồng.
    Bấy giờ đình thần có người tên là RiSa [16] lại soạn dâng bổn kinh Sáu điều răn tâu rằng: ?oBắt dân giữ đúng mấy điều dạy đó thì lòng sùng đạo càng thêm sốt sắng, ít biếng trễ?. Giáo hoàng xem xong hỏi rằng: ?oLời kinh nói: chớ tham công việc phần xác thì được phúc đức phần hồn, là nghĩa thế nào?? RiSa thưa rằng: ?oLàm như thế thì hằng ngày trăm công nghìn việc phúc đức vậy?. Giáo hoàng lại hỏi: ?oTại sao ngày thứ sáu và ngày thứ bảy hằng tuần lại kiêng ăn thịt?? RiSa thưa: ?oChúa Jêsu đầu tiên gặp nạn vào ngày thứ sáu, sang ngày thứ bảy thì chết. Cho nên trong hai ngày ấy cần phải kiêng thịt, khiến cho giáo dân ai nấy đều phải xúc động trong lòng không quên?. Giáo hoàng khen ngợi và cho ban hành để thiên hạ tuân hành. Kinh Sáu điều răn và phép kiêng thịt ngày thứ sáu, thứ bảy bắt đầu có từ đó.
    Qua năm sau, Giáo hoàng lại truyền xuống: ?oChúa Trời phán rằng: dân chúng không được xem các sách vở của người Jiuđê, và cũng không được học các sách sử ký của bản quốc, chỉ được học sách thuốc để chữa bệnh mà thôi. Những ai làm nghề thầy lang đều phải tôn CôSiMô GiaMi [17] làm thầy, không được tôn sùng các ***** nghề y từ đời thượng cổ nữa?.
    Bấy giờ triều đình bàn bạc, lấy làm lo lắng các sách vở của người Jiuđê thế nào cũng có nói tới việc Jêsu, cho nên trước hết xuống lệnh cấm. Đồng thời cũng cấm luôn cả việc học sử ký nước nhà, tức là phỏng theo lời dạy của Jêsu về việc hạn chế sự thông minh. Kẻ nào có hai loại sách ấy đều phải nộp cho thầy cả làng mình để chuyển lên đạo quan thiêu huỷ, ai trái lệnh sẽ bị đày xuống địa ngục.
    Từ trước, vua quan nước Tây Dương ai cũng muốn lấy nhiều vợ để có nhiều con nối dõi. Nhưng từ khi việc hôn nhân một vợ một chống đã định thành phép tắc, bọn họ đâm ra lúng túng không biết xử trí thế nào. Xét trong sách Bí lục thấy ghi lời Jêsu dạy môn đồ về việc cấm thờ cúng chỉ là cấm dân chúng, còn vua quan thì vẫn có đền miếu phụng thờ, bèn định ra lệ mật: quốc vương được lấy 300 thị nữ, các quan cũng được lấy thiếu hậu vợ lẽ nhiều ít tuỳ theo cấp bậc. Chỉ ngại dân chúng vin cớ ấy mà không tuân theo phép một vợ một chồng, cho nên trước hết phải ban chiếu ấy để tiện thi hành lệ riêng. Từ đó vua quan muốn làm gì tuỳ ý, không ai dám hé răng oán than.
    Giáo hoàng lại xuống chiếu cấm dân chúng không được qua lại buôn bán với nước Jiuđê. Bấy giờ đình thần bàn rằng người Jiuđê ắt biết việc Jêsu, cho nên phải cấm tuyệt không cho dân hai nước thông thương. Nhưng các thứ thuốc men đồ dùng của người Tây Dương đều phải mua ở nước Jiuđê, cấm hẳn cũng không ổn. Gia đình bèn cho lập ba cái chợ ở núi Cửa ải, truyền cho người ngoại quốc ai có hàng hoá thì đem đến bán, hết hàng thì trở về. Người trong nước cũng không được vượt núi sang buôn bán. Ai trái lệnh sẽ bị ném xuống địa ngục.
    Từ khi cắt yểm các mạch đất thiêng, dân số trở nên thưa thớt, đến hồi này mới dần dần tạm yên. Giáo hoàng muốn biết số dân nhiều ít, bằng phỏng theo cách của ĐôSaNùng cho lính vây làng bắt dân nộp tiền, truyền bảo dân chúng rằng: ?oNay dịch bệnh đã yên, thật nhờ ơn Chúa thương xót. Vậy nên làm lễ tạ ơn để xin Chúa phù hộ cho được bình yên. Đàn ông đàn bà các làng đều phải đến nhà thờ làm lễ, mỗi người nộp một đồng tiền chi dùng việc đèn nến?. Lại truyền mật chiếu cho các thầy cả để riêng bốn ống đựng tiền, ông già, trai tráng, trẻ nhỏ, đàn bà, mỗi hạng bỏ tiền vào một ống. Xong việc, dốc tiền đếm riêng từng ống thì biết rõ dân số mỗi hạng bao nhiêu người, kê nộp để Giáo hoàng ngự lãm. Ý nghĩa của việc ấy là để biết trước nước có bao nhiêu trai tráng có thể sung lính. Tả đạo có lệ nộp ?otiền nhân danh? bắt đầu từ đó [18] .
    Tiền nhân danh nộp đủ, dồn tính cả nước hạng tráng đinh được hơn 30 vạn người.
    Đình thần trù tính đến lúc nên cất quân đi chinh chiến, bèn định phép dụng binh như sau: Khi sai tướng cầm quân ra trận, triều đình cấp luôn đồ khâm liệm. Hành vi của từng người có quan hệ đến tộc thuộc. Bại trận thì phải chịu chết, quay về tất bị bỏ rọ trôi sông. Quân sĩ thì xếp cha con, anh em và người làng vào cùng một đội để hết sức cứu giúp nhau. Lại truyền cho các làng đều phải dựng đền trung liệt [19] , khi trong làng có người tử trận thì làm bài vị ghi rõ họ tên đặt thờ trong đền, người trong nước chẳng ai không căm giận. Bấy giờ các đạo quan đều tâu rằng: ?oMọi người hằng ngày đều đến nhà thờ xem lễ, chỉ còn những người ở lại giữ nhà là được chơi nghỉ tuỳ thích?. Giáo hoàng bèn truyền chiếu phỉnh rằng: ?oChúa Trời đã phán: Chỗ nào cũng có ta, không nơi nào ta không thấy, những kẻ ở một mình mà vẫn chăm chỉ đọc kinh mới thật là thành tâm thờ Chúa?. Những kẻ ngu khờ đều cho là phải, dẫu bị giam hãm một mình dưới hầm sâu cũng chuyên cần đọc kinh, không dám trễ nải. Giáo đồ tả đạo đọc kinh tại nhà bắt đầu từ đó.
    Rồi xảy ra việc Curiát [20] dấy binh. Hồi bấy giờ đạo Gia Tô [21] lừa dối dân nước Tây Dương đã trải ba đời vua rồi. Lòng dân uất ức, hoài tưởng chính đạo. Aten [22] nói rằng: ?oĐàn bà con gái trong gia đình chúng ta vì cớ gì mà phải rập đầu quỳ lạy để cho bọn chúng [23] sai khiến còn hơn con cái thờ cha mẹ? Hẳn là bên trong có chuyện mờ ám gì đây? Lại còn phải xưng tội, mọi việc đều phải cung xưng không chút giấu giếm. Đạo gì lại có thứ đạo như thế? Thì thào thậm thụt, không gian thì ắt là dâm!?.
    Lời nói của Curiát lan truyền khắp các thành bang trong nước, dân chúng ai ai cũng đều nắm tay [24] căm giận. Chỉ trong một tháng đã tụ tập được hơn vạn người, cùng nổi lên giết bọn cha cố, giương cờ mở hội lên án tội trọng của Giáo hoàng và các đạo quan: ?oCha
  6. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    con bọn thầy tu các ngươi trên dưới mượn tiếng chúa Trời lừa dối dân chúng, tôn sùng yêu tà Jêsu để mê hoặc lòng người?.
    Giáo hoàng Đôrixi nghe tin lấy làm lo sợ, liền sai tướng đưa quân đi đánh dẹp, quân dân chết trận rất nhiều. Dân chúng các nơi cùng nổi lên mạnh mẽ hơn trước. Giáo hoàng xuống chiếu khuyến dụ: ?oChúa Trời phán rằng: Kẻ phạm tội chỉ một tên Curiát mà thôi, ngoài ra những người theo hùa đều không bị kết tội?.
    Trong sáu năm trời, quan quân đánh dẹp không nổi. Cuối cùng, Juachim [25] làm tướng cầm quân đi đánh. Khi ấy quân Curiát đã bị thương vong tổn thất nặng nề, phải rút vào hang núi. Juachim cho quân bao vây rồi tiến đánh, chém đầu Curiát đem về kinh dâng nộp.
    Nhân vụ biến loạn Curiát, Giáo hoàng hội họp đình thần bàn cách giữ yên dân chúng. Viên quan tên là AnTrung [26] tâu rằng: Phàm các nơi có mạch đất quý xin dành riêng để táng mộ cho các quan triều đình, cấm dân chúng không được xâm phạm?. Giáo hoàng đập tay xuống bàn khen ngợi: ?oHãy lắm! Hay lắm!? rồi truyền chiếu lừa phỉnh dân chúng rằng: ?oThứ dân dẫu có tội lớn cũng được chúa Trời thương xót mà tha thứ. Còn những người có địa vị hiển vinh, dẫu phạm tội nhỏ cũng bị chúa Trời trừng phạt. Vì vậy các địa phương đều phải đặt một khu đất cấm làm nơi táng mộ các quan để đến ngày phán xét nghe Chúa gọi tên giữa trời thì lên trình diện ngay cho khỏi lộn xộn. Các giám mục phải đích thân đi dọn đất, xong việc tâu lên?.
    Dân Tây Dương thờ đạo Gia Tô đến hồi này đã ba đời vua, sự học chẳng qua chỉ biết mấy quyển sách thuốc, sách kinh mà thôi, ngoài ra mù tịt chẳng hay biết gì khác. Đến lúc này, các nơi núi sông đất lớn có vượng khí đều bị cấm đoán, dân chúng chẳng biết tại sao. Khi chọn xong các khu đất cấm, đạo quan bèn cho vẽ địa đồ và cắm bảng yết thị rằng: ?oĐất cấm do Chúa chọn đặt, thường dân kẻ nào xâm phạm đào bới sẽ bị ném xuống địa ngục?.
    Qua năm sau, Giáo hoàng Đôrixi ra lệnh cất quân đi đánh nước Jiuđê, bị thua lớn phải rút quân về. Trước đó, Giáo hoàng thấy quân dân trên dưới một lòng, muốn đưa lính đánh lấy nước Jiuđê, bèn xuống chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời phán dạy: Về sự việc trước đây, người Jiuđê thật vô đạo quá lắm. Nay đã có điềm mây xanh hiện lên trợ chiến, trẫm truyền cho hai vị giám mục và ba viên trấn tướng đem ba vạn quân sang đánh lấy nước Jiuđê?. Lại có mật dụ truyền cho quan quân đi đến đâu phải yểm phá cho hết các mạch đất thiêng ở đấy. Mật dụ nói: ?oTrẫm ở ngôi ba mươi năm, xuất quân ba mươi lần, đều cho làm như thế thì có thể thu gồm thiên hạ về một mối?.
    Các tướng Tây Dương dẫn quân vượt qua núi Cửa ải, chỉ tay lên trời truyền bảo quân lính rằng: ?oTrên trời có mây xanh đến trợ chiến cho ta?. Quân sĩ nghe nói cả mừng, càng ra sức vây đánh cả 5 thành bang của nước Jiuđê.
    Bấy giờ ở nước Jiuđê, vua Pania [27] vừa lên nối ngôi, truyền lệnh án binh bất động. Lính do thám báo về: bọn tướng Tây Dương đi đến đâu đều bắt dân Jiuđê gọi bằng cha. Vua Pania bèn sai truyền mật lệnh cho quản giáp các nơi. Ba ngày sau, quân Tây Dương đánh đến [28] , các cỗ súng thần nhất loạt nổ vang do các viên quản giáp chỉ huy nhất tề xông ra hô lớn: ?oQuân cha ta đã tới!? Các tướng Tây Dương khi ấy mới biết người Jiuđê không chịu hàng phục, xua quân hỗn chiến một phen rồi tan vỡ. Quân Jiuđê chém đầu một giám mục, các tướng khác sợ nghiêm lệnh của triều đình đều tự sát cả. Quân Tây Dương mất tướng chỉ huy, rối loạn tan chạy. Quân Jiuđê đuổi theo chém giết nhiều không kể xiết. Tra hỏi tù binh Tây Dương, bọn chúng đều khai về việc ở Tây Dương mọi người dân đều phải làm lính, về pháp lệnh sai tướng cầm quân ra trận [29] , về mưu kế cắt yểm các mạch đất thiêng.
    Vua Pania nghe xong phải thốt lên: ?oHiểm ác thay tên vua quỷ Tây Dương! Lại thêm yêu tà Jêsu! Bọn chúng muốn phen này nuốt trửng nước ta! Nhưng phép dùng binh vừa phải dùng uy vừa phải dùng ân. Nếu không được yên ổn làm ăn sinh sống, thì dân chúng chứa chất oán hờn, coi vua quan như kẻ cừu thù. Như vậy, khi xảy việc nguy cấp, dẫu lấy uy quyền mà hiếp bức, người ta cũng vứt bỏ giáo mác, thử hỏi vua quan Tây Dương lấy ai mà đánh? Đó là cái nguy cơ khiến cho nước chúng bại vong vậy?. Rồi đó truyền chiếu cho các nơi san lấp khôi phục các mạch đất thiêng đã bị quân Tây Dương cắt yểm. Vua nói với các đình thần: ?oCứ xem ý định của bọn Tây Dương năm này qua năm khác, đánh đến đâu cắt yểm các mạch đất thiêng ở đó thì đủ biết bọn chúng muốn thi hành cái thuyết năm trăm năm thống nhất thiên hạ của yêu tà Jêsu ***** bọn chúng, có lẽ vì chúng không dụ dỗ được dân ta cho nên mới phải dùng đến mưu kế ấy. Không một phen dùng binh uy lớn thì không thể dẹp yên được. Nhưng phải đợi đến khi bọn chúng lại sang lần nữa, thì lúc ấy bên ta lý thẳng khí mạnh, ắt sẽ giành phần thắng?. Rồi đó xuống lệnh tuyển quân, luyện tập cung tên súng ống. Một mặt định lệ ghi tên phong thần, phỏng theo phép dùng binh của quân Tây Dương. Lời dụ các tướng có nói: ?oTướng giặc Tây Dương ra trận chỉ được tiến, không được lùi, ấy là một điều nguy khiến cho chúng rất dễ bị bắt sống. Còn các ngươi, nếu thua trận vẫn được phép trở về. Trở về để tiếp tục đi đánh nữa. Ba lần xuất chiến đều bại trận cả mới chịu hình phạt theo quân pháp, mà chỉ một mình kẻ làm tướng cầm quân phải chịu hình phạt, không liên luỵ gì đến thân thích tộc thuộc?.
    Tướng sĩ tung hô vui mừng nguyện một lòng tận trung báo quốc. Trong trận ấy, quân Jiuđê thu được súng ống đạn dược của quân Tây Dương vứt bỏ lại [30] . Tra hỏi tù binh, biết rõ cách thức chế tạo, vua Jiuđê bèn sai theo phép ấy mà đúc thêm súng đạn, xem ra càng tinh xảo hơn.
    Qua năm sau, Giáo hoàng Đôrixi lại sai năm tướng đem năm vạn quân sang xâm lược nước Jiuđê. Bên quân Jiuđê, vua sai 10 tướng đưa 10 vạn quân ra trận. Tướng sĩ ai nấy đều mặc áo đội mũ của quân Tây Dương, súng ống khí giới cũng tựa như quân Tây Dương, ai nấy lặng lẽ ngậm tăm đi chặn địch. Lại một phen thắng lớn. Tướng Tây Dương đều phải tự sát. Vua Pania truyền lệnh cho các tướng đem quân chặn giữ núi Cửa ải. Tàn quân Tây Dương chạy về đó không còn một tên nào qua thoát. Các tướng Jiuđê thừa thắng cho quân đánh tràn sang nước Tây Dương.
    Quân Jiuđê được lệnh kết bè sậy để vượt sông, luôn trong năm hôm đi suốt ngày đêm tiến đến kinh đô. Người Tây Dương trông thấy tướng là quân mình thắng trận trở về. Bất ngờ giữa ban ngày quân Jiuđê xuất hiện ở kinh đô Tây Dương, kéo thẳng qua cổng thành, chém đầu lính canh, nổ súng làm hiệu. Vua tôi Tây Dương trở tay không kịp, kinh hoàng tìm đường tẩu thoát. Quân Jiuđê đốt phá cung điện, nhà thờ, trại lính và các phố phường trong kinh thành. Hai con trai của vua Tây Dương bị bắt sống cùng với hơn 20 tên cha cố cai quản ở kinh đô và gái đồng trinh một vạn người. Ngoài số ấy, dân Tây Dương bị chém giết không đếm xuể. Quan quân Tây Dương nghe tin vua chạy trốn, ai nấy đều ngơ ngác kinh hoàng, cho nên mỗi lần giao chiến đều thất bại. Đến khi dâng nộp tù binh, thấy trong số gái đồng trinh có hơn hai trăm người mặc váy xoè [31] , quân Jiuđê tra hỏi mới hay bọn chúng đều là gái hầu trong dinh cấm của các quan đại thần Tây Dương. Vua Jiuđê truyền hỏi: ?oTa nghe nói bên nước chúng bay theo phép một vợ một chồng kia mà??. Bọn thị nữ Tây Dương tâu rằng: ?oPhép ấy chỉ để cấm đoán dân chúng mà thôi?. Vua Jiuđê và các đình thần cười vang. Rồi đó vua truyền phân chia các gái đồng trinh bán cho người không vợ ở các nơi trong nước, giá 5 lạng bạc, lấy số tiền đó dùng vào việc nuôi dưỡng quân sĩ. Riêng về số hai trăm thị nữ thì sung vào hầu trong cung.
    Sau khi thua trận, thành tan quân vỡ, Giáo hoàng Tây Dương sợ mất lòng tin với dân chúng về chuyện mây xanh trợ chiến, bèn truyền chiếu dụ rằng: ?oTên vua Jiuđê cố chấp mê muội thay! Vừa rồi chúa Jêsu cho mây xanh đi trợ chiến là có ý muốn cho vua tôi bọn chúng biết hối lỗi mà hàng phục, còn nếu bọn chúng vẫn u mê cố chấp thì chẳng cần phải đọ sức thắng bại. Trẫm cùng các bề tôi không hiểu ý Chúa cứ cho quân tiến thẳng sang đánh nước Jiuđê để đến nỗi thầy trò bươu đầu sứt trán! Chúa hiện xuống hai ba lần trách phạt, trẫm đã khấu đầu nhận lỗi. Chúa lại truyền rằng: Từ nay về sau không được cất quân đi đánh nữa, phải chờ ngày tận thế mới có thể cho bọn chúng biết đạo thật! Trẫm cho quân dân trong nước được nghỉ ngơi, không dám làm trái ý Chúa nữa?. Từ đó mới bỏ lệ triều cống.
    Qua năm sau, phỏng theo cách Jêsu bịa chuyện ông Ađam và bà Evà để lừa bịp dân chúng, vua Đôrixi sai đình thần soạn bộ sách Giảng lục (ghi chép những lời rao giảng về đạo Gia Tô) gồm 15 quyển [32] , cũng đặt ra các danh hiệu, lời niệm nhẩm, mục đích làm cho dân chúng trên dưới một lòng. Mỗi khi muốn đề phòng nhắc nhở điều gì, sách đó lại thêu dệt một câu chuyện, đặt ra một tên người để cho người ta tin. Chẳng hạn: Giáo hoàng lo ngại các đôi vợ chồng trẻ đam mê ân ái mà biếng trễ sự đạo thì đặt một chuyện nói rằng: ?oCó ông thánh nọ cha mẹ dạm vợ cho, nhưng thánh ấy xin được sống độc thân. Cha mẹ không thuận, cứ đón dâu về nhà. Thánh ấy bèn trốn vào rừng chuyên tâm tu đạo. Sau ba mươi năm, người vợ hờ kia vẫn thủ tiết đồng trinh. Một hôm thánh ấy giả ăn mặc như kẻ ăn mày trở về nhà. Cha mẹ và người vợ hờ kia vì quá lâu ngày đã quên dáng mạo của thánh ấy cho nên không nhận ra. Mấy ngày sau, thánh ấy chết gục ngoài ngõ xóm. Đêm ấy có vầng hào quang toả sáng, cha mẹ thánh ấy ra xem, thấy nơi đai ngực có cài bức thư, xem xong mới biết người ấy là con mình. Sự việc tâu lên, nhà vua thân hành đến tận nơi xem xét. Thiên hạ kéo nhau đi xem chật đường, xe vua không sao vào được. Vua bèn sai lính ném vung tiền ra để dân tranh nhau nhặt tiền thì sẽ giãn lối cho vua vào ngõ. Nhưng dân chúng chẳng hề để ý đến tiền, vẫn chen nhau đứng chật ních như bức tường. Quan ngự đài phải đánh chiêng dẹp đường vua mới vào được. Vua bèn phong cho cả cha mẹ và vợ chồng người ấy là thánh? [33] .
    Lại như Giáo hoàng lo dân kêu khổ mà bỏ đạo [34] thì viết vào sách Giảng lục một chuyện rằng: ?oCó vị thánh tên là Cơ [35] nhà rất giàu, có 10 con trai đều ngoan đạo, được chúa Trời yêu mến. Quỷ sứ vu rằng nhà ấy không thực bụng, chúa Trời bèn thử thách, sai quỷ
  7. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    phóng hoả đốt nhà, gia sản cháy tiêu, nhưng lòng mộ đạo của cha con nhà ấy trước sau như một. Chúa lại thử lần nữa: cùng một ngày cả mười người con đều chết. Lại thử gieo bệnh hủi cho người ấy, nhưng người ấy trước sau vẫn ngoan đạo. Rồi đó Chúa bèn trả lại gia tài cho người ấy, 10 người con đều sống lại và bệnh hủi người cha cũng khỏi hẳn. Về sau cha con nhà ấy đều được lên thiên đường, được quốc vương phong tặng hiệu thánh?.
    Lại như việc Giáo hoàng lo ngại dân chúng nghi ngờ Phêrô bỏ Chúa trong lúc hoạn nạn, không xứng đáng được tôn thờ, sách Bí lục kể rằng: Phêrô về sau ăn năn hối lỗi, lo việc giảng đạo, rồi bị vua Jiuđê bắt giam cùm trong ngục. Chúa Jêsu ở trên trời ban cho Phêrô phép lạ khiến cho Phêrô tự tháo cởi trói được gông cùm. Đến khi Phêrô lên thiên đường quân Jiuđê không chém được.
    Lại lo ngại dân chúng dị nghị về việc thánh Philipphê [36] vốn là một tên ăn cướp phạm nhiều tội ác thì làm sao lại được phong thánh? Sách Bị lục đặt chuyện rằng: Thánh Philipphê nguyên là một vị quan to ở nước Jiuđê, từng giết rất nhiều người theo đạo Chúa. Một hôm đang cưỡi ngựa thấy một lão ăn mày đứng nép bên vệ đường, Philipphê rủ lòng thương, bèn cắt một vạt áo vứt cho ông lão. Bỗng ông lão ăn mày biến mất, con ngựa sợ hãi chồm lên. Philipphê ngã ngựa vứt kiếm, hai mắt bỗng bị mù. Philipphê đấm ngực hối lỗi bày ngày liền, rồi đôi mắt được sáng lại như cũ. Từ đó Philipphê một lòng theo đạo, sau khi chết được Jêsu cho lên thiên đường? [37] .
    Sách Giảng lục lại kể rằng: Có một ông thánh tên là Đôminicô [38] , khi người mẹ nằm đẻ thánh ấy có hai con chó ngao ngậm đuốc đứng hầu, cho nên ngày nay trong bức ảnh người mẹ bế thánh Đôminicô có vẽ hai con chó ngao ngậm đuốc [39] .
    Sách Giảng lục đại khái lừa bịp người ta như thế.
    Giáo hoàng Đôrixi lâm bệnh, sai đưa vào trong điện ngồi lên ngai thờ hồi lâu mới xuống. Rồi sai đem tượng truyền thần của mình ra đặt lên ngai. Đôi mắt tượng thỉnh thoảng lại nhấp nháy [?] [40] . Giáo hoàng Đôrixi ngoái lại bảo hai đại thần đọc lời niệm rằng: ?oCúi nguyện Giáo hoàng đến ngày thoát hồn thì dời nhập anh linh vào pho tượng ngự trên ngai quý này để muôn đời rỗi rang?. Hai viên cận thần cầu niệm như vậy ba lần, Giáo hoàng ba lần gật đầu hứa hẹn rồi trở về nội cung, căn dặn hoàng tử Piô [41] rằng: ?oLệ cấm để tang chỉ cốt để cấm dân chúng, còn vua tôi sau khi chết đã có tượng thờ, chết cũng như sống, không cần phải để tang làm gì. Nhưng gia pháp nhà ta thay đổi đã ba đời hơn tám mươi năm, trách nhiệm hoàn thành công việc cho đến cùng chỉ trông cậy ở ngươi và bọn tôi liệu. Phải một phen sửa đổi lớn, đến khi con của ngươi lên nối ngôi mới có thể sai các đạo quan đi ra nước ngoài để mưu toan công việc nhất thống?.
    Giáo hoàng Đôrixi nói xong thì tắt nghỉ. Thế tử Piô lên nối ngôi Giáo hoàng.
    ________________________________________
    [1]Nguyên thư phiên: YđườngDiên. Xem chú thích 2 tr. 161.
    [2]Các đại thần đều có tượng tạc sẵn để trong mật phòng. Việc đã nói ở Q. VI.
    [3]Đoạn văn này trích thuật chiếu thư, nói về hai việc khác nhau, chúng tôi dịch thêm: ?omột là? hai là?? cho dễ theo dõi.
    [4]Nguyên thư chép: Toại chiếu chư môn đồ kham vi viết vô, đạo câu??. Xét ra chữ ?ochư? là do chép nhầm từ chữ ?otuyển? (lựa chọn các môn đồ). Ở đây đang nói việc cho các tu sĩ thuộc cấp môn đồ thi lên cấp. Ở Q. VI có đoạn nói: ?oMỗi làng cử ra 5 người làm môn đồ giúp việc cho các đạo quan; về sau sẽ có cuộc thi, ai làm bài trúng cách sẽ được xét phong chức đạo quan? . Xem thêm ở Q. VIII đoạn nói về Hiến luật có qui định chia môn đồ làm bảy hạng, môn đồ hạng thứ 7 được dự thi để thăng cấp thầy cả.
    [5]Giáo hoàng = nguyên thư phiên là ?oBaBa?.
    [6]Về sau các nước cấm đạo thường bắt cho giáo dân phải bước qua tượng ảnh Chúa, bởi vì các loại ảnh, tượng tuy khác nhau, nhưng cũng đều dùng một câu niệm chú ấy.
    [7]Làm như vậy để dụ dỗ giáo dân vui đạo.
    [8]Từ đó quan quân đi khám xét, bắn giết rất nhiều người.
    [9]Từ khi tả đạo xâm nhập nước ngoài, đến đâu thường bảo đào giếng, đắp đài lũy, dân chúng nhiều người bị chết vì dịch bệnh đều gán cho đó là ý chúa Trời.
    [10]Nên hiểu thêm: ?o? và kinh Antô?? cũng có thể hiểu ở vị trí chữ ảnh đúng ra là chữ kinh.
    [11]Jêsu linh thiêng sao không xuống mà diệt trừ cho hết ma quỷ? Ấy chẳng qua cũng như các thầy phù thủy vẽ bùa Kỳ thiên độc cước (thần một chân) để trấn áp ma quỷ vậy thôi.
    [12]Nguyên thư phiên là Đốc***ê.
    [13]Chúa Trời có ba ngôi. Cha cũng có ba ngôi!
    [14]Xem cách truyền bảo thì Giáo hoàng tuy mượn tiếng bảo dân tuân theo chúa Trời như kỳ thực là bắt tuân theo mình. Từ đó phép tắc truyền xuống, đời đời ràng buộc dân chúng các điều nghiêm cấm gắt gao.
    [15]Ngày nay tả đạo cũng có phép hôn vạt áo.
    [16]Nguyên thư phiên YkêDiXa, chưa rõ tên nguyên ngữ, tạm phiên là RiSa.
    [17]Tên phiên âm trong nguyên thư.
    [18]Ngày nay tả đạo phỉnh người ta rằng tiền ấy dùng để làm lễ cầu nguyện cho người nộp tiền được trường thọ.
    [19]Nguyên văn: hiệu trung từ (đền thờ những người dốc lòng giúp việc nước).
    [20]Nguyên thư phiên là CưDiÁt, chưa rõ tiểu sử.
    [21]Nguyên văn: ?oMuội đạo?.
    [22]Nguyên văn: Nhã thành (Nhã điển thành), tức Athène, kinh đô Hy Lạp, đường thời là thuộc địa của đế quốc La Mã.
    [23]Chỉ bọn thầy tu.
    [24]Nguyên văn: kháng thủ (giơ tay).
    [25]Nguyên thư phiên: KhuAKinh.
    [26]Tên phiên âm trong nguyên văn, chưa rõ nguyên ngữ.
    [27]Tên phiên âm trong nguyên văn: BànGia.
    [28]Nguyên thư chép: ?oDiêu binh tập chí??. Chuyện đang nói việc quân Jiuđê phục kích chặn đánh quân Tây Dương, do đó hợp lý có lẽ là ?oTây binh (hoặc Dương binh) tập chí?? chứ không phải là quân Jiuđê đánh đến, tạm sửa lại như trên.
    [29]Chỉ phép dùng binh khi sai tướng ra trận thì cấp luôn đồ khâm liệm v.v. đã nói ở đoạn trên.
    [30]Nguyên thư chép: Tây Dương đắc Diêu quân? (quân Tây Dương thu được của quân Jiuđê), chúng tôi cho là chép nhầm, ngược vị trí, hợp lý có lẽ là: ?oDiêu quân đắc Tây Dương??, vì ở đây đang nói đến thắng lợi của quân Jiuđê, vả lại có việc thu được súng ống đạn dược của quân Tây Dương thì cách mấy câu sau mới có thể nói quân Jiuđê ?omặc áo đội mũ của quân Tây Dương, súng ống khí giới cũng tựa như quân Tây Dương?.
    [31]Nguyên văn: vân y.
    [32]Sách này truyền vào nước nào đều có dịch ra chữ nước ấy.
    [33]Bỏ cha mẹ mà trốn đi là bất hiếu với cha mẹ, làm sao còn giữ được đức tin với chúa Trời!
    [34]Nguyên văn: ?oKhủng dân chi la khổ tất bất tùng đạo?. Chữ la ở đây nếu hiểu theo chữ Hán là cái lưới thì câu văn không có nghĩa gì. Đây là cách dùng xen chữ Nôm trong câu văn chữ Hán như từng thấy ở những văn bản Hán Nôm cuối thế kỷ XVIII ?" đầu XIX. La khổ = kêu khổ, kêu than cực khổ.
    [35]Nguyên văn ghi tên là Cơ, chưa rõ tên nguyên ngữ. Có lẽ đó là cách ghi tên một người viết tắt bằng chữ C hoặc K.
    [36]Nguyên thư phiên: BảoLộc.
    [37]Vì vậy ngày nay trong bức ánh thánh Philipphê có vẽ một thanh gươm bên cạnh. Sách Giảng lục kể chuyện ấy cốt để đe dọa quan chức nước ngoài không được giết hại tả đạo. Lại cũng để lừa phỉnh giáo dân kiên lòng theo đạo.
    [38]Tiếng Bồ: Domingo; tiếng Latinh: Dominic. Nguyên thư phiên ĐaMinhCô.
    [39]Ngày nay người ta phần nhiều nói rằng Maria nằm với chó mà sinh ra Jêsu, có lẽ vì trông ở ảnh thánh Đôminicô mà nghi ngờ Maria cho nên đặt ra chuyện ấy để châm biếm cho thậm tệ. Nhưng có sách cho là chuyện nói về con gái của Tống Ca Tông. Đã là công chúa há lại không kiếm được một người chồng tử tế mà phải đi làm cái chuyện ô uế kia? Thật là chuyện vu vơ chẳng có căn cứ gì cả.
    [40]Nguyên thư chép: ?oMục tương dị thời cố vị nhị đại thần chú viết??. Chúng tôi cho rằng ở đây có sai sót làm cho câu văn tối nghĩa. Tạm đoán ý dịch như trên.
    [41]Nguyên thư phiên: PhấtNhi.
    Quyển VIII
    Quận Tây Dương thôn tính các lân quốc
    Các nước gần cùng nhau trừ Dương tặc
    Giáo hoàng Piô lên ngôi xuống chiếu truyền rằng: ?oCác đạo quan mặc dù đã được tạc tượng phong thần, há lại không cần ngự tụ tinh thần hay sao? Từ nay về sau, đạo quan từ 60 tuổi trở lên thì được nghỉ việc, hưu dưỡng tại xứ đạo sở quán, triều đình sẽ bổ nhiệm người khác đến thay. Chính quan làm việc nhiều, cấp quan to từ 55 tuổi được nghỉ việc, về hưu dưỡng tại quê quán sum vầy với thân thích vợ con. Cấp quan nhỏ 40 tuổi được hưu trí. Những người ngoài 40 tuổi mới ra làm quan thì đến 50 tuổi cũng cho nghỉ hưu. Như vậy trước là để cho các quan ngưng tụ tinh thần đặng thành linh sau khi chết, sau nữa là để thoả lòng mong muốn sống lâu. Từ nay về sau theo đó làm định lệ?.
    Qua năm sau, có dụ truyền: ?oTừ nay, dân chúng phải gọi cha đẻ của mình là ?oông già?, gọi mẹ đẻ là ?obà già?, không được gọi bằng cha mẹ. Ai không tuân lệnh xử trảm?.
    Bấy giờ đình thần hội bàn, thấy rằng dân chúng đã gọi Giáo hoàng và các đạo quan là Cha, lại còn gọi cha đẻ là cha thì hoá ra kẻ dưới cũng bằng người trên? Người ta lại sẽ theo tiếng xưng hô mà suy ra ý nghĩa, chỉ nhớ đến cha mẹ mà dễ sinh lòng kia khác với Giáo hoàng. Rồi đó theo trong Bí lục, thấy chép Jêsu gọi cha mẹ bằng ?oông già? ?obà già? cho nên mới có lệnh cấm ấy.
  8. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    Trước đó, dân chúng tuy không tôn kính cha mẹ, nhưng vẫn còn giữ được cái nghĩa ấy. Từ khi có lệnh cấm nói trên, dân chúng đối với cha mẹ đẻ của mình, khi còn sống thì không được gọi là cha mẹ [1] , đến khi chết thì không được phụng thờ, chỉ được tôn kính vua quan nhà đạo làm cha mà thôi!
    Qua năm sau lại có dụ truyền: ?oCác quan giúp việc của chúa Trời tuyệt không được có tình thân riêng. Từ nay về sau, đạo quan khi đã được phong chức thì từ cha mẹ đẻ cho đến chú bác đều phải quỳ lạy mà gọi bằng ?ocha?, không được coi như con cháu nữa. Kẻ nào trái lệnh bị ném xuống địa ngục?.
    Bấy giờ đình thần hội bàn, thấy rằng các đạo quan tuy đã phải gọi cha mẹ là ông già, bà già, nhưng vẫn còn có ý thân riêng, sợ bọn họ không giữ một lòng với Giáo hoàng, muốn dứt hẳn tình thân ấy đi nhưng không thấy Jêsu dạy rõ nên không biết làm thế nào. Lại mở sách Bí lục ra xem thật kỹ, vừa may thấy đoạn ghi việc cha mẹ Jêsu quỳ lạy Jêsu, đình thần ai nấy hớn hở vui mừng, đều nói rằng: ?oTìm được ý kín đây rồi!?, bèn có chiếu dụ nói trên. Từ đó, các đạo quan sau khi được thụ phong, về nhà nhận lạy của cha mẹ, sau đó tùy theo sự chuyển đổi của bề trên, chỉ biết có Giáo hoàng chứ không được biết đến nỗi buồn vui của gia đình mình.
    Qua năm sau, lại cấm các đạo quan khi còn tại chức từ một đồng tiền thước vải cũng không được lén cho người nhà. Cha mẹ nhớ con thì phải nhờ người khác đi thăm chứ không được tự mình đến thăm. Ai trái lệnh, bị phát giác, đều phải chịu tội không tha [2] .
    Qua năm sau, Giáo hoàng xuống chiếu ban định phép thi chọn giám mục, thầy cả và các môn đồ. Phàm những môn đồ đã xếp hạng bảy thì được thăng làm thầy cả. Theo phép này người đàn ông các hạng 1, 2, 3, 4 gọi là phụ lưu (hạng phụ). Người nào đọc hiểu hết sách Giảng lục, được xếp hạng 5, gọi là giảng sư (thầy giảng). Thầy giảng nói năng khéo léo, khuynh loát được người nghe thì xếp lên hạng 6, gọi là lão sư (thầy già) [3] . Thầy già có khả năng biện quyết xảo trá mê hoặc dân chúng, làm một bài thi chừng vài chục câu [4] , ai trúng cách thì xếp lên hạng 7, được thụ lễ niệm chú bắt quyết [5] ban đạo phục, đồ làm lễ và được cấp bằng sắc phong làm thầy cả. Trong các thầy cả, người nào rất mực thông minh, kiến thức cao rộng sẽ được về kinh đô, cho ở trong nhà kín để học các phép huyền bí thiên văn, địa lý, bói toán, âm dương. Học đạt thì được dự thi, ai trúng cách sẽ được sắc phong làm giám mục [6] . Những người thi hỏng cũng phải ở luôn trong tu viện không được ra ngoài [7] .
    Việc chọn người có tài ăn nói khuynh loát người nghe, để cho đậu hay hỏng [8] là phép thi phỏng theo cách Jêsu nhân cái tài của mình lấy lời chúa Trời để lòe bịp mà suy diễn ra. Chẳng hạn đối với người giàu sang không theo đạo, thì nói: ?oLành thay ơn phúc chúa Trời?. Đối với người giàu sang đã chịu theo đạo thì lấy sự thất bại của nhà khác ra mà doạ rằng: ?oKẻ kia không biết ơn phúc của chúa Trời nên bị trừng phạt?. Đối với người ốm đau suy nhược thì bảo rằng: ?oChúa Trời chỉ mới thử sức ngươi đó thôi. Nếu ngươi vững lòng tin đạo, sau khi chết sẽ được hưởng phúc?. Lại lấy gương những người trước thịnh sau suy mà lừa phỉnh rằng: ?oChúa Trời chỉ mới thử sức ngươi đó thôi. Nếu ngươi vững lòng tin đạo, sau khi chết sẽ được hưởng phúc?. Lại lấy gương những người trước suy sau thịnh mà lừa phỉnh rằng: ?oNgười kia biết theo đạo nên được chúa Trời ban thưởng?. Đối với hạng tôi tớ nghèo hèn thì bảo rằng: ?oChúa Trời là đấng chí công, không câu nệ sang hèn, ai biết theo đạo dẫu ngày nay sống nghèo hèn, nhưng sau khi chết sẽ được mặc áo gấm, ngồi xe lọng mà lên thiên đường. Ai không theo đạo, ngày nay tuy sống giàu sang, nhưng sau khi chết bị đày xuống địa ngục chịu trừng phạt?. Cho nên dẫu là kẻ tôi tớ nghèo hèn, chẳng ai không kiên lòng theo đạo. Việc gì cũng trước mượn lời chúa Trời sau mới chuyển sang nói về chúa Jêsu để thi hành các thuyết của đạo ấy.
    Phép thi chọn người có khả năng biện bạch lắt léo mê hoặc dân chúng [9] thì phỏng theo những lời thí dụ của Jêsu mà tu sức thêu dệt thêm. Từ xưa đến nay, có hàng vạn câu trả lời bằng các thí dụ. Chẳng hạn, hỏi: ?oNói chúa Trời có ba ngôi nhưng chỉ một thể thì lấy gì chứng nghiệm?? Trả lời: ?oCũng ví như một nước có thái thượng hoàng, vua và thái tử, chứng tỏ rằng: tuy ba ngôi nhưng chỉ một thể vậy? [10] . Hỏi: ?oĐức Mẹ Maria là người có chồng, sao lại bảo Jêsu là con chúa Trời?? Đáp: ?oĐiều đó cũng ví như trời đã sinh ra vua lại có bậc danh thần phò tá cho nhà vua. Ông Jiuse chính là bậc danh thần do chúa Trời sai xuống để bảo hộ cho chúa Jêsu, chứ không phải là chồng thật của Đức Mẹ Maria, mà cũng không phải là cha của chúa Jêsu? [11] . Hỏi: ?oĐã là trinh nữ thì không sinh đẻ, Đức Mẹ Maria đã sinh ra chúa Jêsu thì sao còn bảo là trinh?? [12] Đáp: ?oMặt trời mượn ánh sáng mà giáng lửa xuống, nhưng ánh sáng thì vẫn trong suốt như cũ vậy thôi? [13] . Lại hỏi: ?oNgười ta biết trước ngày tháng sinh đẻ, tại sao lại không biết trước ngày tháng chết??. Đáp: ?oChúa Trời giữ kín không cho người ta biết số mệnh của mình thì còn phải lo sợ mà làm điều thiện. Ấy là lòng nhân từ của chúa Trời vậy?.
    Phàm việc không chân chính thì việc gì cũng phải mượn lời thí dụ để che lấp sự sai trái đi. Cái gọi là ?olý đoán? đều là vô lý, khéo lời biện bạch quỷ quyệt đại khái như thế.
    Qua năm sau, đình thần Tây Dương hội bàn về các luật đạo sắp xếp sửa sang chia làm hai bộ Hiến luật và Hình luật để làm quy chế mãi mãi cho vạn đời sau.
    Hiến luật có những điều:
    ? Giáo hoàng do chúa Trời lập ra để trị dân. Các giám mục, thầy cả đều là những chức quan do chúa Trời đặt ra để uốn nắn phong tục. Những lời dạy bảo của ba bậc đó đều là pháp luật của chúa Trời.
    ? Giáo hoàng và các quan việc đời, các quan việc đạo đều được tạc tượng phong thần.
    ? Con trai con gái các quan việc đời lấy vợ lấy chồng với nhau không được lấy con cái nhà thứ dân [14] .
    ? Các quan việc đời nhà nào có từ ba con trai trở lên thì phải sung một người làm môn đồ của quan việc đạo [15] .
    ? Con em các quan việc đời và môn đồ của quan việc đạo từ 10 tuổi trở lên đều được ghi tên vào Quốc bạ (sổ của triều đình).
    ? Con em các quan việc đời và môn đồ không được lấy vợ [16] .
    ? Tu nữ đồng trinh phải ở riêng một nơi biệt lập [17] .
    ? Môn đồ đã thăng đến cấp giảng sư (thầy giảng) thì tuyệt đối không được về quê nhà [18] .
    ? Môn đồ mắc những bệnh nguy hiểm hoặc thân thể bị tật nguyền, cùng là những người cha mẹ làm những nghề nghiệp hèn mọn dẫu tinh thông giáo lý cũng không được làm quan việc đạo.
    ? Môn đồ xếp lên hạng bảy đến nhà kín cắt đầu *********, chịu phép phong thần, sau đó mới được truyền mật chú, cấp sắc phong làm thầy cả, v.v. [19]
    Pháp luật đã đầy đủ, khắc thành sách vàng, cất vào trong hộp đá, gọi là phép kín của chúa Trời.
    Giáo hoàng Piô qua đời, ở ngôi hai mươi ba năm. Cháu thứ là SôNghi [20] lên nối ngôi.
    Vua tôi Tây Dương có tiếng là xảo quyệt nham hiểm. Từ khi lợi dụng mưu kế của Jêsu lại càng lấy hình phạt nghiêm khắc mà xua đuổi dân chúng, người bị hình phạt rất nhiều. Đến hồi này nhân dân đã hỗn, không nghe như xưa. Giáo hoàng SôNghi muốn thử lòng dân, cho truyền thư mật hỏi các đạo quan. Đạo quan các nơi đều tâu rằng: Mỗi khi giảng sự tích chúa Jêsu chịu nạn, dân chúng đều thương xót khóc than, thấy tượng chúa Jêsu chịu nạn, mọi người đều sụp lạy khóc thương thảm thiết. Dân chúng thân yêu nhau, đối xử với người ngoài đường như anh em trong nhà vậy. Lại đã một lòng ngưỡng vọng tôn kính Giáo hoàng như cha đẻ của mình [21] .
    Giáo hoàng cả mừng. Lại muốn lấy việc làm mà thử, bèn xuống dụ lừa dối rằng: ?oĐêm hôm qua chúa Jêsu hiện về phán cho trẫm biết Chúa muốn san bằng ngọn QuangTang [22] để làm nhà thờ Đức Mẹ Maria. Ai đến góp sức vào việc ấy, không kể già trẻ trai gái, mỗi tuổi được thiên thần ghi cho một công, dời được một hòn đất hòn đá thiên thần đều tâu chúa Jêsu ban cho một điều phúc?.
    Thế là đàn ông đàn bà đều tin lời kéo đến đông đủ, chỉ hai ngày sau san bằng núi QuangTang, không tốn một đấu gạo. Giáo hoàng SôNghi mừng lắm bảo rằng: ?oDân chúng đã một lòng như vậy, vua tôi chúng ta chẳng còn phải lo ngại gì. Phép thuật của chúa Jêsu thật là thần thánh vậy thay!? Rồi cho mở yến hội lớn tạ ơn các Giáo hoàng đời trước [23] . Các quan trong kinh ngoài trấn đều được ban thưởng có thứ bậc.
    Rồi đó Giáo hoàng SôNghi truyền mệnh sai các giám mục đi truyền đạo ở các nước ngoài, lừa bịp dân các nước ấy để mong nhất thống [24] . Giao cho đình thần bàn xét tâu lên để định các điều luật và hình luật áp dụng ở nước ngoài. Giáo hoàng phê chuẩn 20 điều hiến luật và 6 điều hình luật. Lại đặt 7 điều qui định đối với giám mục và môn đồ người nước ngoài, 11 điều qui định về việc khen thưởng. Lại qui định mẫu thức tờ sắc phong cho giám mục đốc chính [25] ở các nước và sắc phong cho các giám mục ngoại quốc. Những việc ấy đều lược bỏ không ghi ở đây.
  9. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    Hội họp bàn xét đã đủ, Giáo hoàng vui vẻ cười vang, phán rằng: ?oNăm trăm năm tuy lâu thật, nhưng người sau tiếp người trước. Mỗi đời giám mục đốc chính ước chừng 40 năm, vậy không quá 50 đời giám mục đốc chính thì Giáo hoàng thứ 50 sẽ được thấy đại cuộc thống nhất thiên hạ, nào phải là lâu lắm đâu!? [26] .
    Rồi đó chọn ngày cho các giám mục lên đường ra nước ngoài. Các viên đốc chính đều sợ phép của triều đình, tuy biết ra đi là cầm chắc cái chết, nhưng vì muốn được thờ phụng vẻ vang, cho nên không dám tiếc thân mình. Kẻ trước chết, người sau nối, trước sau một dạ trung thành, răm rắp theo phép.
    Kể từ đó, đạo Gia Tô như tằm ăn lá dâu, mỗi ngày một thêm lan rộng.
    Láng giềng của nước Tây Dương có hai nước là Bạch Hoa Lan và Xích Hoa Lan, tất cả gồm 72 tiểu quốc, chưa đầy 400 năm đều đã bị lừa dối. Ngày trước hai nước ấy vẫn sai sứ đến triều cống nước Tây Dương, xưng tụng là đại đế thiên triều, được Giáo hoàng ban thưởng rất trọng hậu. Hai nước ấy đều lấy thế làm mừng, mời giám mục đốc chính là quốc sư. Cuối cùng vua hai nước ấy đều bị giám mục đốc chính ám hại, đất đai bị phân chia đem nhập vào nước Tây Dương, đúng như lời Jêsu đã nói ?onăm trăm năm thì nhất thống? [27] .
    Duy có một nước Jiuđê cùng với hai nước nhỏ chư hầu nước ấy đã sớm biết đề phòng từ trước, đời này qua đời khác giữ phép nước trước sau không thay đổi, cho nên người Tây Dương không lừa dối dụ dỗ được. Giáo hoàng Tây Dương tham nước ấy đất đai rộng lớn, nhiều lần viện quân những nước cùng phe cánh đem quân sang đánh nước Jiuđê, nhưng bao phen không thắng nổi phải bỏ hẳn ý định xâm chiếm nước Jiuđê.
    Người nước Tây Vực [28] giết giám mục đốc chính Tây Dương mang tên thánh là Phanxicô, đặt lệnh cấm hẳn không cho hành đạo Gia Tô ở trong nước.
    Hồi bấy giờ, Phanxicô vâng mệnh Giáo hoàng Tây Dương lẻn vào ẩn náu ở một làng miền núi nước Tây Vực. Phép nước Tây Vực vốn chỉ thờ thần Phật. Phanxicô cùng với một môn đồ đến ở đó làm thầy lang bốc thuốc chữa bệnh. Được 1 năm, đã quen thân với dân làng. Nhân nhà chùa mở hội đàm Vô già [29] , hương hào làng ấy mời Phanxicô cùng đi lễ Phật. Thầy trò Phanxicô đều cáo ốm không đi. Đến lần hội sau, dân làng lại mời, Phanxicô ra đáp: ?oTôi từ phương xa đến đây không biết Phật là hạng nào cho nên không dám lạy?. Các hương hào nổi giận mắng rằng: ?oNhập quốc tùy tục! Ngươi có biết nước chúng ta đây là hạng nào không mà cũng dám đến?? Rồi bọn họ đem sự việc trình lên quan trấn. Quan trấn xứ ấy tâu lên. Vua Bất Thất [30] phán rằng: ?oĐó là tên giặc giấu mặt đấy!? Rồi truyền lệnh treo ngược hai thầy trò Phanxicô lên ngọn cây, xẻo thịt cho đến chết. Về sau giám mục Tây Dương bén mảng đến đều bị người Tây Vực bắt giết. Trước đó triều đình Tây Vực đã có lệnh cấm dân theo dị giáo, mặc dị phục. Nhân sự việc nói trên, lệnh cấm lại càng nghiêm ngặt hơn, cho nên người Tây Dương cũng phải bỏ không dám đến Tây Vực nữa.
    Vua nước PhaLangSa [31] cấm đạo Gia Tô, giết hết quan tướng to nhỏ bọn giặc Tây Dương. Nguyên nước PhaLangSa ở về phía tây nước Tây Vực, có hai nước phụ thuộc là nước ĐạiNa và nước NaSa, từ xưa vẫn sang PhaLangSa triều cống. Đến hồi bấy giờ do bọn thầy tu đạo Gia Tô mua chuộc, vua hai nước ấy đoạn tuyệt với nước PhaLangSa, gửi thư cho giám mục đốc chính muốn xin phụ thuộc vào nước Tây Dương. Bấy giờ vua PhaLangSa tên là ĐaGia đã nhiều lần triệu mời, nhưng hai nước ấy vẫn không chịu đi. Vua PhaLangSa bèn sai quân sang đánh, bị thua trận phải trở về. Dò xét biết nguyên nhân sự việc, vua ĐaGia giận lắm. Rồi đó vua sai lập sổ ghi những người theo đạo thì thấy đến nửa nước đã trở thành người Tây Dương rồi! Vua ĐaGia cả kinh bảo rằng: ?oKhông trừ bọn giặc này thì không phải chỉ hai nước kia, mà chẳng bao lâu nữa nước ta cũng hóa thành Tây Dương. Nói đoạn vua gọi các quan tứ trụ là bọn BộtTốc vào bàn riêng trong phòng kín. Bọn BộtTốc tâu rằng: ?oĐạo của bọn chúng bắt rễ sâu lắm rồi. Triều đình đã nhiều lần ra lệnh cấm mà vẫn không dứt được, không biết nguyên do vì đâu? Nhưng dân ta một nửa là người Jiuđê, cái thế muốn làm cũng còn dễ. Vậy xin hoàng thượng tìm người giỏi phép diệt trừ tả đạo biểu dương khen thưởng trọng hậu. Trong dân gian cũng có bậc trí giả ra hiến kế hay thì mới có thể dẹp tắt được?.
    Vua ĐaGia khen phải rồi hạ chiếu kể tội rằng: ?oĐạo Tây Dương bắt người ta bỏ thờ cúng tổ tiên, chỉ được thờ cúng một mình Jêsu; không cho dân chúng tuân kính triều đình bản quốc, chỉ được tuân theo Giáo hoàng Tây Dương?. Chiếu văn lại nói: ?oNếu không vì mối lợi lớn thì việc gì phải xa xôi tìm đến? Nếu không tìm mưu lớn thì vì sao phải coi khinh sống chết? Ai có tài diệt trừ đạo ấy cho phép tâu lên cửa khuyết, trẫm sẽ phong thưởng vẻ vang cho bản thân con cháu?.
    Bọn thầy tu Tây Dương ở khắp nơi trong dân gian, nghe tuyên chiếu thảy đều lo sợ, bèn đem tiền của đến đút lót các quan lại địa phương. Bọn hào lý kẻ có đạo cũng như không có đạo đều nói: ?oNgười ta ăn ngay ở lành, chẳng giết hại ai, việc gì phải lùng bắt gắt gao như thế?? Bọn cha cố Tây Dương lại gọi giáo đồ tụ tập ở nhà thờ không cho ra ngoài [32] . Giám mục đốc chính cho truyền mật thư cho giáo dân, bảo rằng: ?oChúa dạy: phàm những ai trước đã ở nhà lo việc đạo mà nay gánh việc đời, thì cha anh phải nhắn gọi về? [33] . Rồi đó đốc chính chuyển thư về nước tâu Giáo hoàng.
    Bấy giờ giám mục nước ĐạiNa là ChânBình, thầy giảng nước LangSa là CảmHợi đến cửa khuyết xin hiến kế diệt trừ tả đạo.
    Nguyên ChânBình ở nước ĐạiNa, đã được thăng đến chức giám mục, trót ăn nằm với tu nữ đồng trinh có mang. Giám mục đốc chính tâu xin vua ĐạiNa cho bắt xử trảm, nhưng không bắt được, bèn bắt cha anh ChânBình đem đi đày. Bình cùng với người tu nữ đồng trinh kia trốn sang nước LangSa đến hồi bấy giờ đã được 15 năm.
    CảmHợi là thầy giảng ở nước LangSa. Trước đó bố Hợi chết, giám mục đốc chính không cho để tang. Về sau Hợi xin về nhà lấy vợ. Đốc chính cho người đến tận nhà réo chửi, làm nhục. Hợi bèn quyết chí bỏ đạo Gia Tô trở về với chính giáo.
    ChânBình và CảmHợi đều biết rõ sự giả dối trong những sách kín của đạo Tây Dương, lại vì nỗi oan ức chưa được giãi tỏ, đến khi nghe chiếu truyền, hai người cả mừng, liền về kinh đô xin hiến kế.
    Vua Đagia được hai người này cả mừng, hỏi vì lý do gì mà bỏ đạo Tây Dương? Hai người đều thực tình tâu lên, vua ĐaGia lại càng thêm tin cậy. Rồi đó vua ĐaGia hỏi về việc xem sổ dân thấy ghi người theo tả đạo cả, hai người tâu rằng: ?oSổ sách cũng không thể ghi chép hết, chỉ vì bọn quan lại tham nhũng thừa gió bẻ măng càng làm cho dân thêm khổ. Nếu dân theo tả đạo cả thì bệ hạ còn làm vua với ai? Một khi xảy ra sự biến, tai họa hẳn là không nhỏ. Bên trong thì mất dân, bên ngoài thì xua dân cho giặc Tây Dương. Vả lại, Giáo hoàng Tây Dương đã từng chê cười các nước rằng: ?oHọ giết dân nước họ, thật là điều lợi lớn cho ta!?. Vậy xin bệ hạ chớ làm những điều mà bọn chúng chê cười. Các đời trước nay từng ra lệnh cấm mà không dứt được là vì bọn chúng lẩn trốn như dê chó, phần nhiều mượn nghề thầy lang đi bốc thuốc chữa bệnh, giả dạng làm ăn mày, dẫu ngồi giữa đường cũng không ai biết. Chẳng có duyên cớ gì khác, chỉ vì dân chúng tin tài bốc thuốc chữa bệnh của tả đạo cho nên mới không truy bắt hết được. Bởi vậy phải có lệnh cấm thật nghiêm thì bọn chúng không còn chỗ dung thân. Đại phàm muốn làm cho cái cây to tàn héo, trước hết phải đào đứt rễ thì cành lá cũng tự úa khô?.
    Vua ĐaGia nghe nói chợt tỉnh ngộ, nhân đó lại hỏi đầu đuôi sự tích Gia Tô. Hai người tâu rằng việc ấy kể 10 ngày cũng chưa hết, xin cho một căn phòng yên tĩnh ngồi viết thành sách dâng lên hoàng thượng ngự lãm. Vua ĐaGia ưng chuẩn cho viết. Sau năm tháng, sách soạn xong, thuật lại mọi chuyện từ khi Jêsu ra đời cho đến khi thuật của Jêsu đắc dụng ở Tây Dương, tất cả gồm 10 quyển. Vua ĐaGia và các đình thần đọc xong ai nấy đều phải kinh ngạc thốt lên: ?oĐúng là bọn giặc!?
    Chân Bình và CảmHợi tâu rằng: ?oXin lấy luật của giặc mà trị giặc mới có thể cấm đứt được?. Vua ĐaGia bèn giao cho hai người cùng với đình thần lựa chọn luật lệ của nước Jiuđê làm ra luật cấm như sau:
    1. Trong dân gian ở đâu có nhà thờ đạo Gia Tô, bất kể lớn nhỏ, quan sở tại đều phải làm biên án và triệt phá, thu nộp cho quan trấn sung vào quân khố. Kẻ nào ẩn lậu xử trảm.
    2. Bọn đốc chính giám mục người Tây Dương đều là giặc nước, kẻ nào dám che giấu cho trốn tránh sẽ bị trị tội cả ba họ. Các chức sắc làng trấn đều phải liên đới chịu tội.
    3. Người bản quốc theo giặc làm giám mục, môn đồ, đều là kẻ a tòng bán nước, trị tội cả ba họ, không tha.
    4. Làng nào có kẻ nhận chức của giặc Tây Dương làm giám mục, môn đồ thì phải cử ra 40 người cùng với hương trưởng ghi tên bọn chúng vào sổ khai. Kẻ nào che giấu về sau phát giác thì bọn hương hào 40 người nói trên đều bị xử trảm.
    5. Họ nào có kẻ nhận chức của giặc Tây Dương làm giám mục, môn đồ, thì ba họ của kẻ ấy hạn trong ba tháng phải đi khai báo. Ai khai trước thì được khỏi tội. Nếu không khai báo về sau phát giác ra thì cả ba họ bị tru di, lớn bé đều không tha.
  10. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    6. Ai cất giấu các thứ kiệu, lọng, ảnh tượng, áo mũ, đồ lễ, sách vở của đạo Tây Dương, hạn trong ba tháng phải đem nộp cho quan sở tại thì được miễn tội. Kẻ nào không tuân về sau phát giác thì chủ oa trữ bị giết cả nhà, lớn bé đều không tha.
    7. Người nào có công bắt được bọn thầy trò bọn đốc chính giám mục Tây Dương thì được phong quan tứ phẩm, sau khi chế dân làng tả đạo phải lập miếu đặt tượng thờ, kể cả kẻ thủ hạ cũng được thờ chung.
    Luật lệnh đã đầy đủ, ChânBình và CảmHợi lại tâu lên vua rằng: ?oTrong các nhà thờ đều có các thầy trò bọn đốc chính giám mục Tây Dương trú ngụ. Xin xuống dụ cho mỗi làng chọn 50 hào mục cùng chịu trách nhiệm khai báo họ tên, nhân số bọn chúng, rồi cứ theo danh sách ấy mà tróc nã.
    Lệnh vua truyền xuống, giáo đồ các họ tả đạo đều kinh hãi tái mặt, chỉ những kẻ cường hào khấp khởi mừng thầm, bí mật tung người đi dò la khắp nơi để mong được phong thưởng. Về sau hào mục các họ tả đạo thấy có lợi cũng lừa bắt bọn cha cố đem nộp. Chỉ trong 1 năm, cả nước bắt được 10 tên đốc chính, thầy trò giám mục hơn 70 tên. Những tên còn trốn tránh thì chiếu sổ mà trách hỏi huyện quan [34] , giao cho chức sắc các làng lùng bắt cho kỳ hết. Thu được các đồ khí mãnh, lễ phục, vua bèn bảo mọi người theo thứ tự mặc thử xem sao, thấy đều cùng một kiểu áo thụng chui đầu, vua ĐaGia bật cười mà bảo: ?oQuả là kiểu áo chó!?
    Rồi đó vua ĐaGia xuống chiếu kể tội bọn cha cố Tây Dương rằng: ?oBọn các ngươi từ nước ngoài lẻn vào dụ dỗ dân nước ta để cuối cùng biến nước ta thành nước của các ngươi. Gan ruột của bọn ngươi, ta biết rõ cả. Người bản quốc vụng lén nhận chức của các ngươi, chiếu theo pháp luật sắc lệnh của triều đình đều khép vào tội theo giặc, xử chém hết không tha!?.
    Xét đến những người thân thuộc ba họ có con em làm thầy tu mà không khai báo, số người bị bắt rất nhiều, vua ĐaGia thương xót muốn tha tội cho. Nhưng đình thần tâu rằng: ?oNhà nước thương xót bọn chúng, nhưng bọn chúng lại làm hại nhà nước. Vả lại trước đây đã có lệnh cho đi khai báo trước được miễn tội, nhưng bọn chúng cố ý không tuân lệnh, nếu không phải mê muội cuồng tín thì ắt là nghe theo mưu chước của bọn giặc Tây Dương. Bởi vậy chỉ nên tha cho trẻ con, còn người lớn thì xin cứ chiếu phép gia hình?.
    ChânBình và CảmHợi nói rằng: ?oGiết bọn chúng cũng phải đúng phép, làm mất tuyệt hình tích thì bọn giặc Tây Dương mới hết bề lợi dụng, xin hoàng thượng cho phép mật tâu?. Vua ĐaGia cho phép, nghe tâu xong bèn mật truyền lệnh: nhân lúc đêm tối, chia bọn giặc Tây Dương làm ba tốp, bỏ xuống thuyền chở đến bãi cát bên bờ vực Tam Long (ba rồng) sắp cho quân canh phòng cẩn mật, giữ kín không cho dân tả đạo hay biết. Sáng ra, khi bọn họ biết tin kéo đến, trước hết lôi bọn thầy tu Tây Dương ra bắt quỳ xuống mà trói lại, cởi hết quần áo, giày mũ của chúng châm lửa đốt ra tro xúc đổ xuống sông, bảo dân tả đạo: ?oKẻ nào cả gan dám chuộc tro về thờ thì khép tội chết, kẻ nào dám xông vào cứu thì xử chém?. Bọn thầy tu Tây Dương mất hết quần áo giày mũ biết không còn di tích gì, có trốn thoát cũng không còn manh vải che thân mà về nước nữa, đứa nào đứa nấy đều kinh sợ ngơ ngác nhìn nhau. Rồi đó ra lệnh, cho dân tả đạo ai nấy phải đái vào mồm vào mặt bọn cha cố Tây Dương, khiến cho bọn chúng tự biết mình chết không trong sạch thì không được quy hồn về Tây Dương. Bấy giờ cả bọn mới trông nhau mà gào khóc thảm thiết. Lại vì Giáo hoàng Tây Dương đã có mật chỉ căn dặn: khi bị hành hình phải thung dung không chút sợ hãi thì hồn mới ngưng tụ thành thiêng. Kẻ nào không tuân mệnh, dẫu chết vì đạo cũng truất không phong. Đến đây, cũng theo mật lệnh, mỗi lần nghe một tiếng chuông thì quân sĩ vung đao chém một nhát, cứ như thế cho đến khi tên giặc chết hẳn mới thôi. Cả bọn không thể kiên lòng chịu đau, thảy đều khiếp sợ, kêu thét thất thanh. Rồi đó sau khi cả bọn cha cố Tây Dương đã chết hết, quân sĩ lại đẵn gỗ xếp làm thớt, đặt xác bọn chúng lên chặt đầu từng mảnh, chân tay mình mẩy đều băm vụn từng khúc rồi trộn lẫn vun thành đống, không phân biệt được xác nào xác nào nữa, rồi nhất loạt xúc hắt xuống vực sâu làm mồi cho thuồng luồng, rùa, giải nuốt ăn. Lại đào bới cả một lớp đất nơi ấy hất nốt xuống sông, làm cho trên bờ không còn một vết tích nào. Tất cả những cách thức ấy đều là mưu kín của ChânBình, CảmHợi tâu trình.
    Thế là bọn thầy tu Tây Dương không mống nào sống sót mà về nước. Giáo hoàng Tây Dương gần nửa năm [35] bặt tin không nhận được thư vấn an gửi về, biết chắc xảy ra biến cố lớn. Sau đó dò hỏi dân buôn biết rõ sự việc, Giáo hoàng cả giận đập tay kêu lớn: ?oCha chả! Ắt phải có kẻ nào cáo giác!?.
    ________________________________________
    [1]Thật đau xót lắm.
    [2]Phép này ngày nay thi hành ở nước ta chưa dám cấm ngặt lắm; cha mẹ vẫn được đến thăm con. Nhưng người con thì mỗi tháng chỉ được về thăm nhà một lần, ngoài ra không được biếu tặng gì cả.
    [3]Ý nói già dặn về đạo lý.
    [4]Nay gọi là thi Thánh đoán.
    [5]Tức lễ thụ phong thầy cả, đã nói ở Q. VI.
    [6]Thiên văn thì thi xem mây, địa lý thi làm thử trên đống cát, lại giấu đồ vật đi để thi tài bói, đem người ra để thi xem tướng.
    [7]Sợ những người này đã hiểu các phép kín, ra ngoài ắt lộ chuyện.
    [8]Tức là phép thi chuyển từ cấp thầy giảng lên cấp thầy già.
    [9]Tức là phép thi chuyển cấp từ thầy già lên thầy cả (linh mục).
    [10]Nếu hỏi thái thượng hoàng có vợ cho nên mới có con. Chúa Trời có vợ đâu mà cũng có con? Không biết hỏi như vậy bọn họ trả lời thế nào?
    [11]Khi Jêsu mới sinh ra sao chúa Trời lại không sai một bà vú nuôi bảo hộ, đến khi Jêsu khôn lớn hãy sai Jêsu từ bên ngoài đến làm tôi, như thế thì người ta làm sao mà chỉ trích được?
    [12]Nhà Nho ta cho đức trinh phải giữ suốt đời người. Tả đạo hiểu đức trinh khác hẳn nhà Nho ta. Cái thuyết ấy đã thấy ở trên đây.
    [13]Ánh sáng là vật vô sinh cho nên vẫn trong suốt như cũ. Còn Maria là người, đã sinh đẻ thì làm sao còn trong sạch được nữa?
    [14]Nay xem người Tày, Nùng ở nước ta có phép ?ochú thi? (đọc chú bên thi hài người chết) và cũng có phép cấm con em các quan lang không được lấy con nhà dân.
    [15]Lúc đầu môn đồ đều lấy trong dân. Nay phần nhiều chọn trong số con cái nhà quan.
    [16]Phép này ở trên đã nói tới.
    [17]Sợ tiết lộ ý mật hoặc nảy sinh ý định bỏ đạo.
    [18]Sợ tiết lộ ý mật hoặc nảy sinh ý định bỏ đạo.
    [19]Tiếp theo còn 50 điều nữa được lược bớt. Hình luật gồm 9 điều, cũng lược bỏ không ghi.
    [20]Tên phiên âm trong nguyên văn.
    [21]Nay tả đạo ở nước ta chính đúng như thế!
    [22]Ở phía nam cửa thành. (Tên phiên âm chữ Hán, chưa rõ nguyên ngữ. ND)
    [23]Xem đó thì biết vua tôi Tây Dương vẫn thờ cúng tổ tiên chứ không bỏ.
    [24]Nhất thống = thâu tóm; thu về một mối. Thông thường từ này dùng để chỉ ý quyền hành, lãnh thổ trong một nước thu về một mối sau một thời kỳ chia cắt. Nếu nói rộng ra với các nước có chủ quyền thì từ đó bao hàm ý: xâm lược, thôn tính. Tác giả sách này đã dùng từ ?onhất thống? theo ý thứ hai đó.
    [25]Giám mục đốc chính: người đứng đầu giáo đoàn ở một nước, do Giáo hoàng chỉ định; cũng gọi là giám mục khâm mạng.
    [26]Ở đây có thể nhầm lẫn về con số, nhưng chúng tôi cứ dịch đúng như nguyên thư đã chép, vì nghĩ rằng ý câu văn đã rõ, còn các con số đó chỉ có ý nghĩa đại khái mà thôi.
    [27]Hoa Lan, Huề Lan, Hoa Lang cũng là một. Ngày nay ta gọi đạo Tây Dương là đạo Hoa Lang là nhân theo tên được Bạch Hoa Lang mà gọi vậy.
    [28]Tây Vực: từ dùng để chỉ các tiểu quốc phía Tây châu Á, thuộc vùng Trung Đông hiện nay. Tuy vậy, ở đây tác giả nói đến một nước riêng biệt, chưa biết chính xác là nước nào.
    [29]Tên phiên âm trong nguyên thư.
    [30]Tên phiên âm theo nguyên thư.
    [31]Tiên phiên âm trong nguyên văn. Trong thư tịch Hán Nôm, PhaLangSa, PhápLangSa, PhúLăngSa đều là phiên âm tên nước Pháp (France).
    [32]Sợ người ta bỏ đạo.
    [33]Sợ những người ấy mật tâu với triều đình đem quân đến đánh. Tả đạo gọi những người theo đạo là ?oở trong nhà? (cư gia trung), bỏ đạo lấy vợ gọi là ?ora gánh việc đời? (xuất dài thế sự), đều dùng cách nói lờ mờ, sợ người ngoài biết chuyện. Nhưng người ta ai là người chẳng ở trong nhà? Mà việc làm của người thiên hạ việc gì chẳng là ?oviệc đời??
    [34]Nguyên văn: Hán tịch trách a thần (?), kèm đó có chú thích: như tiếng Hán gọi là huyện quan. Chưa rõ a thần phiên âm từ chữ gì.
    [35]Nguyên thư chép: bán quý (= nửa quý), tạm dịch là gần nửa năm cho xuôi ý.
    Quyển IX
    Thời Hậu Lê, giặc Tây ẩn náu ở nước ta
    Đời nhà Thanh, Dương tặc công nhiên đến Trung Quốc
    Ngày nay, các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng, Cao Man, Ai Lao, Tiêm La đều có người Tây Dương vào lén lút cai quản [1] . Vào khoảng đời Tiền Lê [2] ở nước ta, giám mục đốc chính ở Chiêm Thành tên thánh là Giacôbê [3] vẽ bản đồ quận Châu Nhai ở giữa biển gửi về cho Giáo hoàng, tâu rằng: ?oNay ở miền Đông thổ [4] có vùng đất ở giữa biển vốn là đất thuộc quyền cai trị của Trung Hoa, địa thế cao ráo rộng bằng một quận. Từ đó có thể đi suốt phía đông của nước Đại Minh, phía bắc thông với nước Đại Nam, phía nam thông đến Chiêm Thành, ba mặt đường biển chỉ một ngày đêm là tới nơi. Thật là một xứ có địa thế rất đẹp, đi về phía tây thông đến các cửa biển nước ta, xin chọn khâm mạng đại thần đến đóng ở đó để mưu lợi vạn đời?.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này