1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây nguyên ngày ấy

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Vo_Quoc_Tuan, 29/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Tây nguyên ngày ấy

    Đú với bác ptlinh, cũng post sách.
    Em xin post cuốn Tây Nguyên này ấy của bác sỹ Lê Cao Đài. Kể về hành trình 10 năm sống và chiến đấu tại bệnh viện 211 ( = 108 + 103 ) chiến trường Tây Nguyên. Một cuốn sách cực hay, chắc chắn mọi người sẽ có thêm nhiều hiểu biết về đường Trường Sơn và chiến trường ngày đó. Thật sự, cuốn sách này đúng là một làn gió mát tâm hồn (theo lời tựa giới thiệu của ĐT Hoàng Văn Thái) với mỗi chúng ta.
    Quá trình post có nhiều sai sót, mong các bác bỏ qua.


    CHUẨN BỊ

    Hà Nội, ngày 15-/2-/1965. Từ ngày sơ tán, đã trở
    thành lệ ở Viện quân y 103, nơi tôi đang công tác là cán
    bộ, nhân viên có thể làm việc liên tục các ngày lễ và chủ
    nhật để dồn 3-4 ngày nghỉ đi thăm gia đình ở nơi sơ tán.
    Hôm đó, tôi cũng vậy, sau khi mổ thực nghiệm liền 4
    con chó trong một ngày để hoàn thành chương trình
    nghiên cứu cuối năm, tôi lên Bắc Giang.thăm Hương và
    Lộc - vợ và con gái tôi.
    Tối chủ nhật, ở Bắc Giang trở về, rời ga Hàng Cỏ đi
    trên đường Hàng Lọng để về nhà bỗng nghe tiếng gọi ơi
    ới ở sau lưng, anh Bích, bác sĩ Viện quân y 103 từ một
    hàng phở chạy ra, hỏi tôi: "Anh có biết tin gì không?". : .
    Tôi ngạc nhiên "Không, tin gì?". ..
    Anh Bích nói "Hôm thứ sáu có điện của Cục Quân y
    mời anh lên làm việc ! " .
    Tôi càng ngạc nhiên hơn "Tôi không nhận được điện,
    mấy hôm nay tôi nghỉ về thăm gia đình". .
    Anh Bích đã là người đầu tiên cho tôi biết một nhiệm
    vụ quan trọng đang chờ đợi tôi, nhiệm vụ mà mọi cán bộ
    quân đội, trong giai đoạn hiện nay đang chờ đợi.

    16-/2-/965. Hôm nay, một bức điện gọi một loạt cán bộ
    ở Viện quân y 103-108 lên Cục Quân y nhận nhiệm vụ.
    Chúng tôi đạp xe trên đường từ Vân Đình - nơi bệnh
    viện sơ tán từ đầu năm 1965, về Hà Nội. Đầu mùa đông,
    nhưng còn ấm áp, nắng vàng rực rỡ trên những cánh
    đồng lúa chín đang gặt dở. Một tiếng rít xé lụa trên đầu.
    Trên bầu trời xanh ngắt, ba chiếc máy bay phản lực Mỹ
    bay vút để lại phía sau ba vệt khói trắng như ba giải lụa,
    quằn quại trên bầu trời rất lâu không tan hết...
    Từ hơn một năm nay, chính xác là từ ngày 5-8-1964,
    bầu trời miền Bắc sau 1 0 năm thanh bình lại bị xáo động
    bởi những tiếng rít và những bóng máy bay bất thường
    như vậy.
    Tuy chưa ai biết đích xác nhiệm vụ gì đang chờ đợi
    chúng tôi, nhưng mọi người cũng đã biết mang máng: đi
    công tác B?
    Đêm hôm đó, trong căn phòng họp rộng rãi rực rỡ ánh
    đèn của Tổng cục Hậu cần trong thành Hà Nội, đồng chí
    Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần kiêm Cục trưởng Cục
    quân y Vũ Văn Cẩn chính thức phổ biến quyết định của
    Bộ Quốc phòng, căn cứ vào yêu cầu của chiến trường
    quyết định thành lập một bệnh viện chuyên khoa tuyến
    cuối cùng cho chiến . trường miền Nam. Đồng chí nói
    tiếp: ''Tổng cục đã chỉ định Ban chỉ huy Bệnh viện gồm
    các bác sĩ Võ Văn Vinh - Cục phó Cục Quân y sẽ trực
    tiếp làm Viện trưởng, Khuất Duy Kính - Chính ủy, Lê
    Cao Đài - Viện phó phụ trách Ngoại, Trần Nam Hưng -
    Viện phó Nội, Lê Công Viện - Viện phó Hậu cần...

    Bệnh viện có một đội ngũ~ltán bộ lựa chọn trong các
    chuyên viên của hai bệnh viện tuyến cuối của Quân đội
    là viện quân y 108 và Viện quân y 103.
    Về các khoa Ngoại có các anh: Đinh Văn Lạc - Phó
    chủ nhiệm khoa Phẫu thuật thần kinh Viện quân y 108, Lê
    SYừ Liêm - Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật bụng Viện quân y
    103, Trương Công Cán - Phó chủ nhiệm khoa Chấn
    thương chỉnh hình Viện quân y 108 (VQY l08) t ~ nay
    chuyển về Viện 5 . . .
    Về Nội khoa có anh Nguyễn Văn âu - Chủ nhiệm
    khoa truyền nhiễm VQY 108, Đỗ Xuân Chương - Chủ
    nhiệm khoa Nội tiêu hóa VQY 103, Vũ Bích - Nội thần
    kinh 1 03 , Nguyên Đăng Gia - Nội tim mạch 1 08 ,
    Nguyễn Cảnh Cầu - Da liễu 108.
    Về chuyên khoa có Đào Gia Thìn - Tai mũi họng 108,
    Trần Quang Minh chuyên khoa mắt, Nguyễn Trung
    Lượng - Phẫu thuật hàm mặt.
    Các khoa Cận lâm sàng có các anh: Phạm Phú Thọ -
    Gây mê hồi sức 108, Lê Đức Tu - Sinh hóa học Viện
    quân y, Nguyễn Quang Huy - Vi sinh 103, Hà Nhưỡng-
    Giải phẫu bệnh lý 108...
    Chúng tôi nhìn nhau tin tưởng với đội ngũ cán bộ
    chuyên khoa có kinh nghiệm của các .Viện quân y lớn
    của Quan đội. Bệnh viện đi chiến trường cũng như địa
    điểm trú quân của bệnh viện sau này được giữ bí mật
    tuyệt đối tránh không cho địch phán đoán hướng chiến đấu của
    bộ đội sắp tới...
    Theo thứ tự mật danh quân sự đặt cho các phân đội
    quân y đi phục vụ chiến trường miền Nam. Bệnh viện
    của chúng tôi được đặt mã số Đoàn 84. Cán bộ chỉ huy
    bệnh viện cũng được yêu cáu đổi tên, lấy bí danh. Nhiều
    anh lấy tên con để làm bí danh cho mình, cũng có anh
    theo cách gọi của đồng bào miền Nam - lấy thứ tự trong
    gia đình. Anh Vinh có con trai lớn là Đạo nên lấy bí
    danh là Đạo, anh Hưng vì là con lớn trong gia đình nên
    trở thành anh Ba, tôi là con thứ năm trong gia đình nên
    nhận tên là anh Sáu... Các giấy tờ, chứng minh thư liên
    quan đến miền Bắc được yêu cầu để lại miền Bắc, chúng
    tôi được cấp chứng minh thư của Mặt trận dân tộc giải
    phóng miền Nam,..
    Hà Nội 17-/2-/965. Nhiều gia đình bị chia đôi từ
    năm 1954, riêng gia đình tôi cũng có ba chị em gái ở
    miền Nam. Thỉnh thoảng cha mẹ tôi chỉ nhận được
    những bưu thiếp ngắn ngủi... những cuốn sách nhỏ
    "Những lá thư từ miền Nam", bài thơ của Tố Hữu ... ~
    Phải chi em tới ñược cùng anh
    Chỉ một ngày thôi , kể ngọn ngành ?
    Càng làm da diết thêm nỗi đau của một đất nước bị
    chia cắt...
    Từ ngày 5-8-1964, sau "sự kiện Vịnh Bắc Bộ", máy
    bay Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh leo thang đánh ra miền
    Bắc. Tối hôm đó, gia đình tôi vừa đi nghỉ ở Sầm Sơn trở
    về loa truyền thanh trường Nguyễn Du, bên cạnh nhà
    báo tin không quân Mỹ đánh phá nhiều địa phương miền
    Bắc từ Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Ninh.

    Chúng tôi đều thấy một điều nghiêm trọng bắt đầu xáy
    ra, nhưng không ai nghĩ rằng phải hơn mười năm sau,
    chúng tôi mới có dịp đi nghỉ mát cùng với nhau lần nữa...
    Ngay đêm hôm đó, xe tô cấp cứu của Viện quân y
    1 08 đến đón tôi đi Lạch Trường cấp cứu cho những
    thương binh đầu tiên của Hải quân. Vừa ở Lạch Trường''
    về ôtô lại đón tôi sang sân bay Gia Lâm có máy bay trực
    thăng chờ sẵn đưa tôi ra Hòn Gai, cứu chữa cho một
    thương binh khác bị vết thương nặng vào ngực, mất hẳn
    một vạt xương sườn bằng lòng bàn tay, ''trông thấy phổi
    phập phồng phía dưới... Lúc này tôi đang là Chủ nhiệm
    khoa phẫu thuật ***g ngực của Viện Quân y 108 và là
    chuyên viên đầu ngành phẫu thuật ngực của Cục Quân y,
    nên được gọi đi cứu chữa các trường hợp thương binh
    nặng vào ngực, vượt khả năng điều trị của các bệnh viện
    tuyến trước.
    Máy bay trực thăng chở chúng tôi đậu xuống bãi cát
    bờ biển Bãi Cháy giữa rừng người đông nghịt, xúm xít vì
    lần đầu tiên có máy bay trực thăng đi cứu thương... Vừa
    xuống tới đất, anh phi công trẻ cười bảo tôi" trong khi
    chúng ta đang bay lại có máy bay Mỹ xâm phạm bầu trời
    miền Bắc... nhưng em không dám báo cho các anh biết
    để các anh đỡ sợ... "chúng tôi thật giật mình vì nếu gặp
    chúng thì chiếc máy bay chậm chạp, cồng kềnh, không
    vũ trang của chúng tôi có thể trở thành miếng mồi ngon
    cho chúng ! . . .
    Những tháng đầu năm 1965, đâu đâu cũng căng thẳng
    không khí chuẩn bị cho cuộc chiến đâu bảo vệ đất nước.

    Chung quanh Hà Nội, trên các cánh đồng xuất hiện các ~
    khẩu súng cao xạ nòng súng ngẩng cao, chĩa lên trời.
    Đêm đêm các đoàn xe xích dài ngoằng chưa từng thấy
    ầm ỳ kéo theo các tên lửa cồng kềnh, bánh xe xích hằn
    và băm nát mặt đường nhựa.
    Ven sông Hồng, sông đống mọc lên những công
    trường làm cầu phao qua sông, ánh đèn hàn lấp loé suất
    đêm. Trên các đường phố Hà Nội, từng đoàn thanh niên
    khoác lá ngụy trang, vai mang ba lô tập hành quân chiến
    đấu
    Từ nhiều năm nay, lương thực thực phẩm hàng tiêu
    dùng từ vải vóc, quần áo tới than củi, dầu đốt... đã phải
    bán theo định lượng. Mỗi gia đình có sổ mua gạo, tem
    phiếu để mua lương thực, thực phẩm. Những năm trước
    mặc dầu khẩu phần hạn chế, nhưng vẫn đủ mua theo tem
    phiếu. Tới cuối năm 65, có tháng mặc dầu có tem phiếu
    những vẫn không chắc mua được hàng. Hàng đoàn người
    dài sắp hàng trước các cửa hàng mậu dịch, nhiều gia đình
    phải dậy sớm từ bốn năm giờ sáng để giành chỗ trước...
    Các hàng quà thưa thớt, buổi sáng chỉ còn vài cửa
    hàng mậu dịch lớn có bán phở, nhưng cũng chỉ trong
    vòng một hai giờ là hết. Khách xếp hàng dài, các khách
    hàng cáu kỉnh và các cô mậu dịch viên nhẫn nại. Các
    quán quà ở chợ Đồng Xuân thu hẹp lại dần. Trên các vỉa
    hè Hàng Đào, Hàng Ngang phát triển các quầy nhỏ bán
    túi ny lông các cỡ lớn nhỏ. Khách hàng là những anh bộ
    đội cán bộ, có người mua một lúc hàng chục túi to nhỏ.
    Một anh bộ đội đưa chiếc hăng - gô đến chữa ở một

    cửa hàng gần chợ Hôm. Hôm sau đến lấy, ông thợ già
    đưa lại chiếc hăng - gô đã chữa tươm tất, nhưng nhất
    định không chịu nhận công chữa. ông nhìn anh bộ đội
    cười hóm hỉnh "Thôi, anh sắp đi xa..".
    Hình như tất cả thanh niên khoẻ mạnh, hăng hái của
    Hà Nội và miền Bắc đều chuẩn bị lên đường công tác B
    (vào miền Nam), công tác C (sang chiến trường Lào),
    những mật danh quân sự, nay không còn bí mật với ai
    nữa. Các bà già Hà Nội nhai trầu bỏm bẻm cũng thầm thì
    với nhau "cháu nó chuẩn bị đi B. .. đi C..." một cách vừa
    tự hào, vừa quan trọng...
    Cô mậu dịch cửa hàng dược phẩm Hàng Bài ngạc
    nhiên thấy bộ đội mua quá nhiều bao cao su tránh thai
    Primeros mà chọn toàn cỡ to nhất... thì ra không biết từ
    đâu nẩy ra kinh nghiệm là cho thuốc men, ruốc, đường,
    nhồi vào bao cao su tránh thai rất tốt, vừa nhẹ, vừa tránh
    được ẩm ướt... Có anh bạn ngạc nhiên một cách thích thú
    bảo tôi: cả một ki-lô ruốc nhồi vào bao cao su cũng được
    anh ạ! Nó chả co giãn mà...?
    Những vài tháng sau chặng hành quân băng đèo, vượt
    suối vào tới chiến trường, cùng anh bạn đó bảo tôi "Chết
    mẹ rồi anh ơi... ruốc đắng hết cả, không làm sao nuốt
    được ! " Thì ra trong bao cao su có hóa chất để diệt tinh
    trùng, lượng hóa chất rất ít, chỉ như ít bột dính vào bao,
    không mấy ai để ý, nhưng cũng đủ để làm hỏng ruốc...!
    Từ đầu năm 65, máy bay Mỹ lại ném bom đánh phá ác
    liệt miền Bắc, chợ Vân Đình bị đánh giữa phiên, hàng
    trăm người bị thương khiêng nườm nượp vào bệnh viện.

    Các khu phố thưa dần. Cán bộ đến từng nhà để đôn
    đốc vận động nhân dân đi sơ tán. Các chuyến tàu xe chật
    ních ông già, bà già, trẻ con... mang theo hòm xiểng,
    chăn màn, quần áo... cả lợn, gà, mèo chó... đi về các tỉnh.
    Các cơ quan cũng được lệnh đi sơ tán ra các vùng ngoại
    thành, các khu phố vắng bớt người. Chiều thứ bảy, chủ
    nhật, trên các con đường ngoại thành, hàng đoàn dài xe
    đạp xe gắn máy của các ông bố, bà mẹ đi thăm con.
    Trên tay lái, đè o hàng, đè o gạo, thực phẩm, xoong nồi,
    kể cả củi đuốc, gà qué...
    Ngành xây dựng có mặt hàng mới làm các hầm cá
    nhân bằng xi măng. Trên những bãi cỏ, vườn hoa, bờ
    sông, ngổn ngang những ống tròn như những ống cống
    có nắp bằng xi măng. ông được chôn hai bên đường dọc
    các phố. ông để làm hầm trú ẩn cá nhân thật tuyệt vời,
    không ngấm nước, không sụt lở... và sau này, khi hòa
    bình trở lại thì lại có thể dùng làm giếng...
    Hà Nội 18-/2-/965. Vợ tôi tiếp nhận tin tôi đi phục
    vụ chiến trường miền Nam một cách bình tĩnh. Giống
    như mọi gia đình bộ đội khác, trong lúc này, chúng tôi
    chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đi chiến đấu giải phóng miền
    Nam, thống nhất Tổ quốc.
    Trước đây một năm, chú Tề - em rể chúng tôi (chồng
    cô Hồng - em gái Hương) là giáo viên, Hiệu phó một
    trường học sinh miền Nam cũng đã từ biệt gia đình và từ
    đó đến nay không thấy có tin tức...
    Sau kháng chiến chống Pháp được vài năm hòa bình
    ngắn ngủi, trước tình hình Hiệp nghị Geneve năm 54 bị

    phá hoại, thời hạn hai năm Hiệp thương tổng tuyển cử
    thống nhất đất nước trôi qua, rồi những tin tức về những
    cuộc tàn sát, đàn áp người kháng chiến cũ liên tiếp bay
    ra, nguy cơ chia cắt lâu dài đất nước... từ những năm 59-
    60 rục rịch có những có những đơn vị đáu liên được bí
    mật đưa vào miền Nam.
    Tới năm 65, sau khi địch leo thang đánh ra miền Bắc
    thì hầu như việc đưa các đơn vị vũ trang vào miền Nam
    không còn là điều bí mật như trước nữa. Mọi gia đình và
    mọi cán bộ chiến sĩ đều được chuẩn bị sẵn sàng. Gia
    đình tôi, cũng như các gia đình bộ đội khác, bình tĩnh
    tiếp nhận tin tôi chuẩn bị đi chiến trường. Giáng Hương
    vợ tôi ngoài công tác giảng dạy ở trường Cao đẳng Mỹ
    thuật ở nơi sơ tán, còn tất bật chuẩn bị cho tôi lên đường.
    Chúng tôi quen nhau từ trong kháng chiến chống
    Pháp, sau chiến địch Hà Nam Ninh năm 1951 . Trung
    đoàn 88, Đại đoàn 308 - nơi tôi công tác về nghỉ ngơi
    củng cố ở Quần Tín, một vùng quê thanh bình thuộc tỉnh
    Thanh Hoá. Lúc đó tôi đang làm Chủ nhiệm quân y Trung
    đoàn tôi gặp Hương đang tản cư vơi gia đình ở đây.
    Hương là con gái lớn trong một gia đình văn nghệ sĩ.
    Cha là nhà vãn Vũ Ngọc Phan, mẹ là nhà thơ Hằng
    Phương.
    Lúc này tôi cũng đang thích văn chương. Trong những
    cuộc hành quân đi bộ dài ngày của Trung đoàn từ Biên
    giới Cao Bắc Lạng xuống Trung du rồi sang Đông Bắc
    ề đồng bằng Hà Nam Ninh... tối tối, tôi vẫn say sưa
    dịch từ bản tiếng Pháp sang tiếng Việt cuốn truyện "Tinh
    cầu (L''etoile) của nhà văn Liên Xô Ka/akevitch. Hương
    là độc giả đầu tiên và duy nhất đọc bản dịch của tôi và đã
    rất khen. Hương cũng nhận chép lại bản dịch sạch sẽ cho
    tôi
    Sau dó tôi theo đơn vị đi tiếp các chiến dịch Hòa Bình,
    sang Tây Bắc. Thượng Lào... Hương thì từ Khu 4 lên
    Việt Bắc theo học trường Mỹ thuật. Trên đường đi ngang
    qua đồn Tu Vũ - nơi trung đoàn chúng tôi vừa tiêu diệt
    gọn trong một đêm trăng. Đồn còn đang bốc lửa, trên
    đường Hương viết cho tôi một lá thư trong có chép mấy
    câu thơ Pháp, hình như của Madeleine Riffaud
    Par les monrs, je rais lout droil
    Par les déf lés étroils
    Je ne sais par où tu passes ,
    je n ái pas rrou ì''é tes traces .
    Mais je sens que tu es là! . . . "
    Tạm dịch:
    Em đi qua những vùng đồi núi
    Trên nhĩmg con đường hẹp
    Không biêt anh qua đâu
    Không thấy dấu chân anh
    Nhưng vẫn thấy anh ở đâu đây?
    Giữa các chiến dịch, tôi tranh thủ về thăm Hương ở
    trường Mỹ thuật đang sơ tán trong rừng gần Tuyên
    Quang. Tình cảm chúng tôi sâu nặng thêm và chúng tôi
    xây dựng với nhau giữa những ngày chiến đau ác liệt
    nhất năm 1954. Lễ cưới thật đơn giản, quần áo cưới cô
    dâu chỉ may được một áo vét ka ki mới, còn chú rể thì có
    một bộ quân phục mượn của anh bạn.
    Sáng hôm cưới chúng tôi ra đăng ký kết hôn ở ủy ban
    nhân dân xã, nơi gia đình Hương tản cư, trước sự chứng
    kiến của cha mẹ Hương, ông Phan Khôi là cậu mẹ
    Hương, nhà văn Tô Hoài và đại diện cơ quan bên tôi. Sau
    đó mọi người về ăn liên hoan. Bữa tiệc cưới có hai con
    gà còn củi thì do cô dâu và cô Hằng - em gái của Hương
    vào rừng kiếm từ hôm trước.
    Đêm tân hôn, ở ngay căn nhà tranh nơi gia đình tản
    cư cha mẹ Hương sang ở nhà hàng xóm. Giường cưới là
    một chiếc giường tre ọp ẹp. Đại diện gia đình tôi không
    lên dự đám cưới được vì đường sá xa xôi và đầy bom
    đạn. Sau hôm cưới, tôi đưa Hương về chào cha mẹ và các
    anh chị tôi, lúc đó đang tản cư ở Thanh Cù, Phú Thọ,
    xuôi thuyền từ ghềnh Quýt Tuyên Quang về Đoan Hùng,
    Phú Thọ rồi đi bộ tiếp từ Đoan Hùng về Thanh Cù...
    Hòa bình lập lại, Hương còn vất vả đi cải cách ruộng
    đất mấy năm rồi mới được về trường tiếp tục học Trung
    cấp rồi Cao đẳng Mỹ thuật. Chúng tôi sống được vài năm
    hạnh phúc bên nhau. Sau khi tốt nghiệp Hương được giữ
    lại làm cán bộ giảng dạy trường Cao đẳng Mỹ thuật, sau
    này là trường Đại học Mỹ thuật, còn tôi thì tiếp tục công
    việc ở trường sĩ quan Quân y, Viện quân y 108 rồi 103.
  2. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Hà Nội 20-/2-/965. Ngay hôm được giao nhiệm vụ,
    chúng tôi bàn giao công việc cho người ở lại và bắt tay
    vào việc chuẩn bị tổ chức bệnh viện mới. Đảng ủy họp,
    Chỉ huy Viện họp đề nghị nhân viên chuẩn bị phương
    tiện, dụng cụ. Nhiệm vụ của chúng tôi được giao là xây
    dựng bệnh viện tuyến cuối của chiến trường miền Nam,
    thu nhận thương bệnh binh vượt khả năng điều trị của
    các bệnh viện phía trước gửi về.
    Chưa ai trong chúng tôi hình dung được chiến trường
    miền Nam ra sao, điều kiện sinh sống và làm việc như
    thế nào, nhưng tất cả chúng tôi đều rất lạc quan, tin
    tưởng.
    Và chúng tôi cứ theo mô hình của Bệnh viện tuyến
    cuối của miền Bắc, như Viện quân y 108 hay 103 để tổ
    chức và xin trang bị. Các bức điện tới tấp gửi đi các Viện
    quân y 5, 9, 10... điều động người. Các bác sĩ trẻ, các y
    sĩ y tá kỹ thuật viên... lục tục kéo về. Một số mới tốt
    nghiệp các trường. Thuốc men, trang thiết bị là những
    vấn đề khá lớn. Chưa bao giờ có một bệnh viện lớn như
    vậy được đưa vào chiến trường miền Nam. Trang bị,
    phương tiện được dự trù tương tự như bệnh viện tuyến
    cuối cùng của miền Bắc, từ trang thiết bị X quang, hóa
    nghiệm, dụng cụ mổ, bàn mổ, các đèn mổ hiện đại, nồi
    hấp nặng hàng tạ, tủ lạnh chạy bằng điện và bằng dầu,
    quần áo cho thương bệnh binh, kể cả cho bệnh nhân trẻ
    em, giường đệm, chăn màn, sách cho thư viện, sách
    chuyên môn và truyện cho thương bệnh binh. Thuốc
    men, hóa chất chuẩn bị dùng cho 3 năm, các nguyên tắc,
    quy định được xóa bỏ. Chúng tôi được phép trực tiếp vào
    các kho Quan y để lựa chọn các thuốc men, trang bị cần
    thiết. Tổng cục Hậu cần và Cục Quân y thống nhất với
    Bộ Y tế đưa ra nguyên tắc: nếu thứ gì trong các cơ sở
    Quân y không có thì được giới thiệu đi tìm ở các cơ quan
    bạn trong và ngoài quân đội. Nguyên tắc đề ra là trang
    thiết bị thuốc men, sách vở chuyên môn, nếu có hai thì
    chúng tôi có thể xin một vào miền Nam, một để lại miền
    Bắc. Những khuôn mặt khắc khổ khó khăn đầy nguyên
    tắc cứng nhắc cũng trở thành vui vẻ niềm nở trước mấy
    câu: Chuẩn bị cho công tác B.
    Dược sĩ Bính - giám đốc kho C trước đống hàng đồ sộ
    mà chúng tôi xin lãnh mang đi, khuyên tôi: "Các anh đi
    chuyến này như người lên cung trăng ấy, không biết trên
    ấy ra sao, liệu có mang đi được không, mang vào có
    dùng được không? Sao các anh không đi trước đi, xem
    trong ấy ra sao rồi hãy đưa vào có hơn không?".
    Anh Vinh Viện trưởng, người đã bốn lần vượt Trường
    Sơn trong Kháng chiến chống Pháp, cũng có lúc ghé tai
    tôi bảo nhỏ: "Ta phải chuẩn bị tinh thần sống như
    Robinson Crusoé (Nhân vật trong câu chuyện huyền
    thoại châu âu tương tự như câu chuyện An Tiêm
    của Việt Nam. một mình sống trên hoang đảo
    ?" chú thích của tác giả) đấy anh à!".
    Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy đấy là một lời khuyên
    thiết thực. Nhưng trong không khí đầy lạc quan tin tưởng
    lúc đó không ai nghe. Các Chủ nhiệm khoa cứ dự trù xin
    trang thiết bị đủ mọi thứ theo hình mẫu của một bệnh
    viện tuyến cuối cùng miền Bắc.
    Một số vị lãnh đạo cấp trên còn bốc hơn chúng tôi, có
    đồng chí tuyên bố: Tổng cục sẽ chỉ thị cho Công binh
    xây dựng bệnh viện sẵn sàng để các đồng chí làm việc.
    Sẽ có ôtô chuyển thương binh đến bệnh viện cho các
    đồng chí. Nếu cần có nước máy sẽ xây dựng nhà máy
    nước. Một đồng chí khác nói: "Nếu cần có ôxy để gây
    mê hay cho thương binh nặng thì chúng tôi có thể cấp
    cho các đồng chí máy sản xuất ôxy", có điều là khi có
    máy thì đùng làm gì cho hết vì mỗi ngày máy có thể sản
    xuất hàng trăm bình ôxy trong khi nhu cầu của Bệnh
    viện thì chỉ vài bình là đủ. Cũng có những ý kiến thiết
    thực hơn, nhắc chúng tôi phải chuẩn bị tinh thần bước
    vào một cuộc sống cực khổ. Nhưng trong không khí sục
    sôi lạc quan lúc đó, chúng tôi cũng không suy nghĩ gì
    nhiều về những ý kiến này.
    Hà Nội 25-/2-/965. Từ mấy năm nay, các bác sĩ
    chuyên khoa mắt phát hiện ra có chuyện bất thường
    trong mắt của tôi. Mặc dầu bản thân tôi không thấy gì
    đặc biệt. Tôi không thấy đau, nhức, sức nhìn vẫn bình
    thường. Là một phẫu thuật viên chuyên khoa về phẫu
    thuật ***g ngực, vào thời kỳ đầu của sự phát triển chuyên
    khoa này ở miền Bắc cũng như trong quân đội, tôi
    thường phải tiến hành những cuộc phẫu thuật đầy sóng
    gió, căng thẳng trên tim và phổi, có nhiều cuộc phẫu
    thuật kéo dài 5-6 tiếng liền nhưng mắt tôi vẫn thấy bình
    thường. Chỉ nhân một cuộc kiểm tra mắt thường kỳ, bác
    sĩ Viện 108 mới phát hiện ra mắt tôi có điều bất thường,
    áp lực trong mắt tăng cao. Các anh yêu cầu tôi vào Viện
    theo dõi và hội chẩn với các Giáo sư nhãn khoa của Viện
    Mắt trung ương và chẩn đoán tôi bị thiên đầu thống thể
    đơn thuần và yêu cầu tôi phải nhỏ thuốc làm giảm nhãn
    áp Pilocalpine hàng ngày, ngoài ra phải giữ chế độ làm
    việc chặt chẽ, tránh căng thẳng, không thức đêm.
    Bệnh viện miễn cho tôi không phải trực đêm và yêu
    cầu tôi không học thêm ngoại ngữ ban đêm vì lúc này
    giống như nhiều cán bộ khoa học khác tôi đang học thêm
    tiếng Nga và tránh những cuộc mổ căng thẳng, kéo dài.
    Từ ba bốn năm nay, tôi vui vẻ chấp hành quy định về
    dùng thuốc và không trực đêm, nhưng còn các kiêng kỵ
    khác thì không kiêng được. Đi chiến trường chắc chắn
    những điều kiêng kỵ trên sẽ không thể thực hiện được.
    Tuy nhiên để cẩn thận, tôi tới khoa Dược Viện 108 xin
    thuốc nhỏ mắt Pilocarpine như thường lệ. Những nếu lĩnh
    thuốc đã pha sẵn thì mang bao nhiêu cho vừa, vả lại
    thuốc pha sẵn để lâu sẽ bị hỏng, vì vậy tôi đề nghị xin
    lĩnh dạng bột để vào đó pha chế ra dung dịch. Chủ nhiệm
    khoa Dược - Dược sĩ Đinh Ngọc Lâm nhăn nhó: đây là
    thuốc độc bảng B, phát bột cho cậu làm sao được?
    Thuyết phục không được, tôi vỗ khẩu súng ngắn mới
    được phát để đi vào chiến trường, nói đùa: thuốc của anh
    có nguy hiểm bằng khẩu súng này không, sao tôi được
    phát mang đi mà không mang thuốc đi được? Cuối cùng
    chúng tôi thỏa thuận là khoa Dược sẽ phát thuốc bột,
    nhưng không trực tiếp cho tôi mà cho khoa Dược đoàn 84
    cho đúng chế độ quy định.
    Hà Nội 4-/-/966, Lễ Giáng sinh và Tết dương lịch
    1966 trôi qua nhanh chóng trong không khí tấp nập
    chuẩn bị đi chiến trường. Địa điểm tập kết cho đoàn
    đầu tiên là trường sĩ quan Hậu cần bên Gia Lâm. Hàng ngày,
    chúng tôi tập trung ở đây để họp bàn giao nhiệm vụ
    chuẩn bị rồi phân tán đi các nơi để lĩnh trang thiết bị
    đóng gói, liên hệ với vận tải quân sự, lập kế hoạch
    chuyển vào B3-S9, S9 là địa điểm cuối cùng của chúng
    tôi lúc này chúng tôi không biết là đâu.Riêng trong chỉ
    huy Viện, chúng tôi cũng chỉ biết mang máng, đó là
    vùng thuộc ngã ba biên giới Việt Nam-lào-campuchia,
    là cửa ngõ vào chiến trường Tây nguyên....
    Sau khoảng gần một tháng, thấy ở Gia Lâm không
    thuận tiện cho việc liên hệ với các cơ quan ở Hà Nội nên
    chúng tôi được chuyển về Viện Quân y 108. Ban ngày
    làm công tác chuẩn bị, buổi tối rèn luyện hành quân. Mỗi
    tối tập hành quân khoảng 1 0- 1 2 cây số từ ; giờ tối tới 1 0
    giờ đêm theo hành trình từ Viện Quân y 1 08, quanh qua
    bệnh viện Việt Xô, đi dọc theo bờ sông về phía nam
    thành phố, rồi quay trở lại.
    Những năm trước, các đoàn đi được tổ chức thật bí
    mật, người đi được lựa chọn kỹ lưỡng, chủ yếu là cán bộ,
    bộ đội miền Nam tập kết, sau là các thành phần cốt cán,
    lý lịch trong sạch, Đảng viên...
    Các đoàn đi được bí mật tập kết ở một địa điểm cách
    Hà Nội khoảng 40 km để học chính trị, tập hành quân, ăn
    uống bồi dưỡng theo chế độ đặc biệt trước khi đi vài
    tháng rồi mới lên đường. Đoạn đường miền Bắc đi vào
    ban đêm trên những xe tải bọc kín, khi vào tới địa phận
    miền Nam thì càng phải kín đáo, thận trọng hơn theo
    khẩu hiệu lúc này là "Đi không đấu, nấu không khói,
    nói không to, ho không tiếng" có nghĩa là: đi không để lại
    dấu vết, ngoài những đường mòn trong rừng, nếu phải
    vượt qua một quốc lộ hay một con đường có dân qua lại
    phải đi vào ban đêm và phải cử người đi sau cùng xóa hết
    các vết chân để lại trên đường. Nấu nướng ban ngày
    không có khói, ban đêm không có ánh lửa, không để cho
    máy bay quan sát được, bếp Hoàng Cầm - một kiểu bếp
    có ống khói đào ngầm dưới đất để không tỏa khói được
    phổ biến rộng rãi. Trong sinh hoạt, họp hành nói chuyện
    cũng không được để lộ ra tiếng động to, đài phát thanh
    phải vặn nhỏ chỉ vừa người nghe, không được chặt cây
    mạnh, không nói to, hát to... để tránh sự phát hiện của
    biệt kích.
    Nhưng sang tới đầu năm 1966, các quy định nghiêm
    ngặt đã được nới lỏng vì vậy đoàn chúng tôi mới được tập
    kết ngay ở Hà Nội. Buổi tối khi tập hành quân đi ngang
    qua sân bệnh viện Việt Xô, bệnh nhân của bệnh viện
    nhìn chúng tôi đi qua và động viên "Hoan hô các Bác sĩ
    đi B". Chúng tôi lặng lẽ đi thành hàng dọc trên con
    đường đê vắng vẻ, trong không khí se lạnh đầu mùa
    đông. Đoàn chúng tôi gồm nhiều lớp cán bộ thuộc nhiều
    thế hệ khác nhau. Lớn tuổi nhất là anh Vinh - Viện
    trưởng, thuộc lớp Bác sĩ cuối cùng trước Cách mạng
    tháng 8 của trường Đại học y Hà Nội, anh là một sinh
    viên giỏi, nội trú các bệnh viện và là bác sĩ nội khoa có
    uy tín trong quân đội. Anh đã 4 lần vượt Trường Sơn ra
    Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1945,
    ngày đầu Nam tiến, anh vào Khu 5 công tác . Năm 1 951

Chia sẻ trang này