1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây Sơn thập bát cơ thạch

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi caytrevietnam, 26/06/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Tây Sơn thập bát cơ thạch

    Trong bộ chỉ huy Tây Sơn thấy có nhắc đến "Thất hổ tướng" (7 võ tứơng tài ba), cùng với 6 văn quan gọi là "Lục kỳ sỹ" và 5 nữ lưu kiệt liệt gọi là "Ngũ phụng thư". Những người này được ví như 18 tảng đá nền móng của Tây Sơn nên được gọi là "Tây Sơn thập bát cơ thạch".
    Thất hổ tướng và Ngũ phụng thư thì được nói nhiều rồi, còn Lục kỳ sỹ là những ai các bác có biết ko? Thắc mắc là nhà Tây Sơn phần lớn là võ tướng, chẳng mấy khi nói đến văn quan cả, ko rõ trong 6 vị kia có ai "chiêu hồi" từ triều Lê ko? giống như trường hợp của cụ Ngô Thì Nhậm

    NGUYỆN MÃI LÀM NGƯỜI ĐẤT VIỆT PHÍA TRỜI NAM
    HOÀNG SA - TRƯỜNG SA MÁU THỊT CỦA VIỆT NAM

    Được caytrevietnam sửa chữa / chuyển vào 23:36 ngày 26/06/2008
  2. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Trời ơi Lục Kỳ sĩ bác tự hỏi cụ gúc gồ đi chứ. Chả đến 5 phút
    http://w3.60s.com.vn/truyen/765008/12112007.aspx
    Em có quyển về TS thập bát cơ thạch này, của tác giả Hữu Vinh, nhìn chung thông tin đưa ra còn nhiều chỗ nghi vấn. Lý do : Chắc do bạn Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi cho tiêu huỷ kha khá tư liệu về triều Tây Sơn
  3. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Đấy đấy bác Caytre ạ hỏi cụ Gúc cụ thông thái và hào phong lắm. Địa chỉ: www.google.com.vn
    Hình như mấy vị kỳ sĩ này chỉ có vai trò giúp Nguyễn Nhạc cai trị hành chính tổ chức ở trong nam. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân và Bắc Bộ dựa vào các sĩ phu cũ của nhà Lê. Mấy vị ấy tiếc rằng Nguyễn Nhạc về sau kém cỏi, thật uổng tài năng của họ.
  4. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    He he..thanks.....! Nhưng mà cái gì cũng tin cụ Gú gồ là ko được, thứ 2 là ko phải cái gì cụ ấy cũng có, cũng biết
  5. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Cho tớ hỏi cái quyển này tên chính là gì? xuất bản lâu chua?
  6. bluesky85

    bluesky85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Tây Sơn Lục Kỳ Sĩ
    Trong các bậc kỳ tài đến giúp nhà Tây Sơn, ngoài "Thất hổ tướng", "ngũ phụng thư" còn có "Lục kỳ sĩ". Bao gồm: Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Đình Tiệp, Cao Tắc Tựu. Đây là sáu nhân tài về văn chương, học thức sâu rộng, giúp Tây Sơn Vương mưu lược an dân, trị nước, nhất là thời Tây Sơn mới dựng nghiệp.
    Nguyễn Thung ở thôn Thuận Nghĩa (Tây Sơn) là người giàu có trong vùng, giỏi chữ nghĩa. Khi Nguyễn Nhạc xây dựng cơ sở khởi nghĩa ở vùng Tây Sơn, ông đem gia tài tặng tất cả cho Nguyễn Nhạc và theo nghĩa quân Tây Sơn. Với tính tình hào phóng, nhân hậu, Nguyễn Thung được rất được lòng mọi người. Sau khi Nguyễn Nhạc lấy được thành Quy Nhơn, xưng vương, ông được bổ làm Tri huyện Tuy Viễn (gồm 3 huyện: Bình Khê, An Nhơn và Tuy Phước). Truyền rằng: khi nhà Tây Sơn sụp đổ, ngôi mộ của ông ở Thuận Nghĩa bị vua Gia Long ra lệnh quân lính khai quật hốt xương cốt đem đổ xuống sông Côn. Tuy nhiên, vỏ mộ được xây kiên cố nên còn tồn tại đến sau này mới hư đổ mất tích do lụt lội.
    Võ Xuân Hoài, Trương Mỹ Ngọc, đức cao học rộng là hai ngôi sao về văn học đương thời ở Bình Khê và An Nhơn. Cao Tắc Tựu đẹp người, học rộng tinh thông binh pháp, tính tình điềm đạm. Thường ngày ông ít nói, nhưng khi bàn luận binh pháp thì ông rất sôi nổi, làu thông kinh sử, mọi người rất kính phục. La Xuân Kiều người Phù Cát, một văn sĩ nổi tiếng trong vùng, giỏi chữ nôm, thông minh hoạt bát, lại có tài cỡi ngựa, bắn cung. Triệu Đình Tiệp, học rộng, ưa thực tế ghét phù hoa, tánh thanh khiết nghiêm nghị, trọng tín nghĩa và giỏi việc cai trị.
    Họ là những nhân vật rường cột khi nhà Tây Sơn hình thành, sau này khi sự nghiệp mở rộng thành công, họ là người hoạch định chính sách trị nước, an dân, qui định thi cử có thêm nhiều nhân tài đến với nhà Tây Sơn. "Lục kỳ sĩ" được người đương thời kính trọng, nhà vua tin dùng. Thất hổ tướng, Lục kỳ sĩ, Ngũ phụng thư đã trở thành mười tám viên đá tảng dựng nên nền móng nhà Tây Sơn. Đáng tiếc là sau khi nhà Tây Sơn không còn, sự trả thù của Gia Long vô cùng tàn khốc, những tác phẩm văn chương của họ bị tiêu hủy, không ai dám cất giữ, lưu truyền, nên bị thất lạc. Ngày nay, hầu như ít còn lưu lại dấu tích. Thật là một mất mát của lịch sử và văn hóa nước nhà!
  7. bluesky85

    bluesky85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    NGŨ PHỤNG THƯ
    Nét độc đáo của lực lượng Tây Sơn, không những có Thất hổ tướng, Lục kỳ sĩ mà còn xuất hiện Ngũ phụng thư là 5 bậc anh thư đã đóng góp không nhỏ trong cuộc khởi nghĩa thành công; đó là Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung và Huỳnh Thị Cúc.
    14. Bùi Thị Xuân
    Tương truyền Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân có chung một nguồn gốc. Thời chúa Nguyễn (1533- 1775), hai anh em Lê Kim Bảng và Lê Kim Bôi gốc người Nghệ An vào lập nghiệp ở vùng Phú Phong. Để tránh sự chú ý của chính quyền về gốc tích của mình, họ hẹn nhau khi sanh con, cải sang họ mẹ. Sau Lê Kim Bảng lấy con gái họ Bùi ở Phú Phong, sinh hạ Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Thu và Bùi Thị Nhị, không có con trai. Lê Kim Bôi làm rể nhà họ Võ ở Phú Mỹ (?) sinh được con trai, Võ Văn Dũng là con út (20). Vậy Bùi Thị Xuân và Võ Văn Dũng là chị em thúc bá.
    Một thuyết khác cho rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân là ái nữ của Bùi Đắc Chí và gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, quê quán ở ấp Xuân Hòa khách hộ, thôn An Hòa, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bà được theo đòi nghiên bút, lại khéo tay nổi tiếng viết chữ đẹp và công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Tuy vậy, địa thế và phong thổ ảnh hưởng rất lớn đến con người, quê hương bà chỉ có phía tây liền với Phú Phong, còn phía đông lấy suối làm ranh giới, nam giáp núi, bắc giáp sông; bà được hun đúc bởi đất hiểm nên không theo nếp nữ nhi thường tình mà thích võ hơn văn, lơ là việc trang điểm và thường mặc áo hiệp sĩ.
    Năm 12 tuổi, một hôm thầy đồ có việc phải đi, giao lớp lại cho trưởng tràng coi sóc. Bọn học trò trai đem Bùi Thị Xuân ra giễu cợt bèn ra câu đối: ?oNgoài trai trong gái, dưa cải dưa môn?. Một người trong bọn đối lại: ?oĐứng Xuân ngồi thung, lá vông lá chóc?. Cả bọn cười ầm lên. Bùi Thị Xuân giận đỏ mặt, vung tay đi quyền tới tấp vào hai người ấy rồi bỏ về, từ ấy quyết theo nghiệp võ (21)
    Họ Bùi học võ với một bà lão suốt ba năm, đêm nào cũng luyện tập từ đầu hôm đến gà gáy. Học xong môn quyền rồi đến song kiếm, lại còn học nhảy xa, nhảy cao, nhảy sào... môn nào cũng điêu luyện, tiếng đồn bay xa khắp vùng. Xuất sư, bà mở trường dạy võ cho nữ giới, môn sinh có đến vài chục người, xuất sắc nhất là Bùi Thị Nhạn.
    Từ ngày cứu Trần Quang Diệu thoát khỏi nanh vuốt của mãnh hổ, Bùi Thị Xuân gia nhập phong trào Tây Sơn. Ngày khởi nghĩa bà được phong Đại tổng lý, sung vào đạo quân thứ ba lo việc củng cố hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
    15. Bùi Thị Nhạn
    Bùi Đắc Lương, một cự phú ở ấp Xuân Hòa, sinh hạ 3 trai là Bùi Đắc Chí, Bùi Đắc Trung, Bùi Đắc Tuyên và hai gái là Bùi Thị Loan, Bùi Thị Nhạn. Bùi Thị Xuân là trưởng nữ của Bùi Đắc Chí, còn Bùi Thị Nhạn là quý nữ của Bùi Đắc Lương, nên mặc dù vai vế trong gia tộc là cô cháu nhưng bà Xuân lớn tuổi hơn bà Nhạn (22).
    Bùi Thị Nhạn thông minh, có năng khiếu về võ nghệ, là môn đệ xuất sắc nhất trong võ đường Bùi Thị Xuân. Bà mau chóng trở thành một nữ kiếm khách và là một sĩ quan cao cấp trong đạo quân của Bùi nữ tướng.
    Sau bà Nhạn kết duyên với Nguyễn Huệ, khi người vợ trước là bà Phạm Thị Liên qua đời.
    16. Trần Thị Lan
    Cũng theo Nhà Tây Sơn của Quách Tấn và Quách Giao, Trần Thị Huệ và Trần Thị Lan là con của Trần Kim Báu và cháu nội của võ sư Trần Kim Hùng, quê quán ở ấp Trường Định khách hộ, thuộc (tổng) Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ Qui Nhơn nay là thôn Trường Định, xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn (quận Bình Khê cũ).
    Tương truyền, lúc Thị Huệ 8 tuổi và Thị Lan 3 tuổi thì mẹ mất, cha buồn phiền bỏ nhà vào huyện Quảng Phước phủ Bình Khương (23) mở trường dạy võ, gửi hai con sống với ông bà nội ở quê nhà. Lớn lên Thị Huệ học nữ công với bà nội, Thị Lan thích theo nghiệp võ của ông nội, học chuyên về kiếm thuật và luyện thân lanh lẹ như chim én nên lấy biệt hiệu là Ngọc Yến.
    Chín năm sau, Trần Thị Lan được 12 tuổi thì cha mất. Ông nội phải dẫn hai cháu vào Ninh Hòa thọ tang, để có tiền lộ phí ông phải bày kế mãi võ. Khi về đến chợ Gò Chàm, ông đang mãi võ thì gặp sự xung đột với Nguyễn Văn Tuyết nhưng tiền hung hậu kiết.
    Sau này Trần Thi Huệ kết duyên với Nguyễn Nhạc, Trần Thị Lan lên thăm chị ở cơ sở kinh doanh Trường Trầu (ấp Kiên Mỹ) gặp được Bùi Thị Xuân, hai bên kết nghĩa và nằm trong đội quân Bùi nữ tướng. Khi Nguyễn Văn Tuyết tìm đến Tây Sơn, lại gặp Trần Thị Lan, cháu nội của thầy mình, cả hai rất mừng và kết duyên cầm sắt.
    17. Nguyễn Thị Dung
    Bà Dung là em của Nguyễn Văn Xuân, người làng Lạc Phổ huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi. Nghe tiếng thầy Trương Văn Hiến ở An Thái, anh em đến xin thọ giáo. Trường không thu nạp nữ sinh nên chỉ có Nguyễn Văn Xuân được nhận, còn Nguyễn Thị Dung thì Giáo Hiến giới thiệu đến võ đường của Bùi Thị Xuân ở Xuân Hòa.
    Nguyễn Thị Dung sở trường về kiếm, tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn là một sĩ quan cao cấp trong đội nữ binh của Bùi Thị Xuân. Sau Nguyễn Thị Dung kết duyên với Trương Văn Đô người làng Mỹ Khê huyện Sơn Tịnh (cùng tỉnh), một danh tướng của Tây Sơn.
    18. Huỳnh Thị Cúc
    Thị Cúc là em của Huỳnh Văn Thuận, người làng Đông Quang huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi. Huỳnh Văn Thuận và Nguyễn Văn Xuân là bạn tâm giao, cả hai đều có tài văn học và cùng thọ giáo Trương Văn Hiến. Như trường hợp của Thị Dung, bà Huỳnh Thị Cúc cũng được họ Bùi thu nhận vào võ đường.
    Trong hàng môn đệ của Bùi Thị Xuân, đều đứng dưới cờ khởi nghĩa của Nguyễn Nhạc, sau đó họ lần lượt kết hôn với các tướng lãnh Tây Sơn. Duy có Huỳnh Thị Cúc quyết không lập gia đình, suốt đời gắn bó với đoàn nữ binh của Bùi Đại tướng.
    Trên đây là 18 người đầu tiên đến với anh em Nguyễn Nhạc, họ là những tảng đá đắp móng xây nền dựng lên cơ nghiệp nhà Tây Sơn.
    Nói vậy, công thần buổi ban đầu của Tây Sơn không chỉ có thế, phải còn nhiều người nữa, chẳng hạn bên võ có: Đô đốc Đặng Văn Long tự là Tử Vân, hiệu là Đặng Thiết Tý (cánh tay của họ Đặng cứng như sắt), người huyện Tuy Viễn; Nội hầu Phan Văn Lân, học trò Giáo Hiến, người miền ngoài, không rõ phủ huyện; Nguyễn Văn Xuân, tì tướng của Trần Quang Diệu, sau khi hạ thành Qui Nhơn được theo phò tá Nguyễn Nhạc ở mặt trận phía bắc; Tư mã Ngô Văn Sở lãnh cờ hiệu Chinh nam Đại tướng quân, tiến chiếm gọn ba phủ Phú Yên, Diên Khánh và Bình Thuận...Ngoài các tướng, bên văn cũng có các học sĩ theo giúp Tây Sơn như : Mã Vĩnh Thắng người huyện Tuy Viễn, nức tiếng về thơ và từ; Võ Văn Cao quê nhà ở chân núi Cù Mông phía địa phận tỉnh Phú Yên, tính cương trực, làm việc cẩn trọng và nghiêm túc, ghét thơ văn phù phiếm, chuộng Nho giáo, chống tư tưởng Lão Phật; Lưu Quốc Hưng người Phú Yên, bản chất chính trực và cương quyết; Huỳnh Văn Thuận người Quảng Ngãi, hay chữ từ nhỏ, thông kinh sử, có tài thuyết phục; Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh tổ tiên ở Nghệ An bị chúa Nguyễn bắt vào huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi, nhà nghèo nhưng hiếu học, anh em đều thọ giáo thầy Trương Văn Hiến...
    Các nhân vật vừa nêu trên có thể họ đến với Tây Sơn sau ngày khởi nghĩa, hoặc vì một lý do nào khác mà người đời không liệt vào hàng Thập bát cơ thạch?
    Có điều đáng tiếc cho lịch sử Việt Nam, cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn chỉ cách nay trên 200 năm, thế mà những gì đã xảy ra ở triều đại này rất mơ hồ, nhiều tài liệu còn trái ngược nhau, chẳng hạn như giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, ai anh, ai em? Lai lịch những công thần và diễn biến của cuộc khởi nghĩa ra sao? Ngày nay chỉ còn biết căn cứ vào các bức thư của giáo sĩ, vào sự tương truyền, vào rất ít ở chính sử, liệt truyện của triều Nguyễn và Thanh sử...
    Ai đã gây ra nạn khan hiếm tài liệu về Tây Sơn? Nguyễn Ánh, khi lên ngôi (1802) không những trả thù tận gốc rễ những người theo Tây Sơn mà còn có cả một sách lược dài hạn tiêu hủy tàn tích Tây Sơn, tận diệt nền văn hóa Tây Sơn. Chính sách ấy được duy trì suốt triều đại nhà Nguyễn (1802- 1945).
    Năm 1885- 1887, Mai Xuân Thưởng người làng Phú Lạc xã Bình Thành huyện Tây Sơn, ứng nghĩa Cần Vương chống Pháp ở Bình Định, bị triều đình Đồng Khánh kết tội ?oDương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, âm vị ngụy Nhạc phục thù?. Bản án trảm quyết 11 người, ngoài 5 tướng lãnh như Bùi Điền (Thống trấn), Nguyễn Đức Nhuận (Hiệp trấn)..., 7 người còn lại đều là Mai tộc gồm: Mai Xuân Thưởng (Nguyên Soái) cùng bà con liên hệ với ông như Mai Xuân Quang (anh ruột), Mai Xuân Khánh (em ruột) cũng bị xử tử với tội danh ?okhông biết can ngăn?; 4 người anh em họ là Hòa, Vân, Nghị, Dao bị bị xử chém với tội danh ?ođã nhận chức hàm?. Các người khác trong Mai tộc tuy không can dự cũng bị liên lụy như 3 người bác là Chất (72 tuổi), Đức (65 tuổi), Hanh (62 tuổi); 4 anh họ thân là Dư, Dương, Tuyết, Ngân và 5 người em họ thân là Cẩm, Hoán, Dũng, Hóa, Pháp đều bị giải về quê quán giao cho chính quyền địa phương quản thúc (24). Bản án khắc nghiệt với Mai tộc chỉ vì Mai Xuân Thưởng có bà cao tổ cô Mai Thị Hạnh là vợ của Nguyễn Phi Phúc, tức thân mẫu của Nguyễn Nhạc.
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0

    Truyền thuyết là dàn giáo nâng đỡ lịch sử. May nhờ truyền thuyết mà các nhân vật Tây Sơn vẫn lưu truyền mặc dù bị nhà Nguyễn cấm đoán, xoá bỏ ghi chép về Tây Sơn.
    Giá như viết 1 bộ sử thi hoành tráng thì nhiều người sẽ tìm hiểu về nhà Tây Sơn nhỉ Đã có Tây Sơn bi hùng truyện cũng theo sử thi nhưng không được hấp dẫn lắm.

Chia sẻ trang này