1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây Tạng huyền bí

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi tom_xp, 28/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    - Sư Trưởng có nói rằng chúng ta có thể làm việc chung với nhau. Chúng ta đã tìm thấy được tiền kiếp của con: Con đã tiến bộ khá lắm. Bây giờ chúng ta muốn phát triển lại vài khả năng và sở đắt mà con đã thu thập được trong kiếp sống vừa qua. Chúng ta muốn rằng trong khoảng vài năm, con sẽ thu hoạch được nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời.
    Nói đến đây, Đại Đức bèn ngừng lại và chăm chú nhìn tôi một lúc rất lâu, với đôi mắt sáng dường như soi thấu mọi vật. Người lại nói:
    - Mọi người phải được tự do chọn lựa con đường của mình. Tương lai của con sẽ rất gian lao khổ cực trong bốn mươi năm nếu con chọn con đường tốt, nó sẽ đưa đến những phần thưởng lớn lao trong kiếp sau. Trái lại, trên con đường dở, con sẽ được giàu sang với đầy đủ mọi sự tiện nghi sung sướng của cỏi trần nhưng con sẽ không có được sự tiến bộ tâm linh. Vậy con hãy tự mình quyết định lấy.
    Nói xong, người nhìn tôi chờ đợi. Tôi đáp:
    - Bạch Ngài, cha con có nói rằng nếu con thất bại và rời khỏi tu viện, con không nên trở về nhà. Làm sao con có thể sống cuộc đời sung sướng tiện nghi nếu con không có nhà để trở về? Và ai sẽ chỉ dẫn cho con theo con đường tốt nếu con chọn đường đó?
    Đại Đức mỉm cười và nói:
    - Con đã quên rồi chăng? Chúng ta đã tìm thấy lại được kiếp trước của con. Nếu con chọn con đường dở, tức con đường dể dãi tiện nghi, con sẽ được quy định ngôi thứ trong một tu viện như một vị Hóa Thân. Và trong vài năm, con sẽ được đưa lên chức vị Sư Trưởng. Cha con chắc sẽ không cho đó là một sự thất bại chứ?
    Tôi bèn hỏi tiếp:
    - Bạch Đại Đức, theo ý ngài đó có phải là một sự thất bại không? Người đáp:
    - Phải. Với tất cả những gì mà ta biết, thì đối với ta, đó là một sự thất bại.
    - Bạch Đại Đức, ai sẽ hướng dẫn cho con?
    - Ta sẽ là người hướng dẫn con, nếu con chọn con đường tốt, nhưng con hãy tự mình quyết định lấy, không ai có quyền ép buộc con hết cả.
    .
  2. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Tôi ngước mắt lên nhìn Đại Đức và tôi cảm thấy tôi yêu mến người đối diện với tôi lúc ấy: Một người cao lớn, với đôi mắt đen huyền, cái nhìn trong sáng, một gương mặt cởi mở và một vầng tráng cao rộng. Phải, tôi cảm thấy tràng đầy thiện cảm đối với người! Tuy tôi mới lên bảy, cuộc đời tôi trước kia thật là vất vả khổ cực và tôi đã từng gặp gỡ nhiều nhân vật: Thật sự tôi có thể xét đoán tính chất của một người. Tôi nói:
    - Bạch sư phụ, con sẽ chọn con đường tốt và ước mong được làm đệ tử của Ngài.
    Tôi nói thêm với một giọng băn khoăn:
    - Nhưng chắc là con sẽ không thích làm việc nhiều!
    Đại Đức cất tiếng cười lớn, một giọng cười cởi mở, nó sưởi ấm lòng tôi và nói:
    - Lâm Bá, ở đời không ai là người thích làm việc nhiều, nhưng ít có người thành thật nhìn nhận điều ấy.
    Đại Đức nhìn vào các giấy tờ trên bàn và nói:
    - Một phép luyện bí mật sẽ cần thiết để giúp cho con mở được năng khiếu Thần Nhãn. Sau đó, chúng ta sẽ sử dụng khoa thôi miên để hối thúc sự học hỏi của con cho mau có kết quả. Chúng ta sẽ giúp cho con tiến rất xa trên các lãnh vực y khoa và Huyền Môn.
    Tôi cảm thấy e ngại trước một chương trình bề bộn như thế: Nó hứa hẹn một sự làm việc ráo riết không ngừng và khó nhọc dường nào! Nhất là sau khi tôi đã trải qua bao nhiêu sự học vấn khắc khổ trong bảy năm qua, không hề có dư thời giờ cho các môn giải trí... và chơi diều!
    Vị Lạt Ma dường như đọc được tư tưởng của tôi. Người nói:
    - Thực vậy, con hỡi. Sau này con sẽ có thời gian để chơi diều nhưng đó sẽ là những con diều thật lớn và có thể chở người ngồi bên trong. Còn hiện giờ, ta cần thiết lập một thời khắc biểu hợp lý đến mức tối đa.
    Sư phụ tôi lại cúi xuống mớ giấy tờ trên bàn:
    - Xem nào, từ chín giờ sáng đến một giờ trưa, có được chăng? Phải đấy, ta hãy bắt đầu như vậy. Con hãy đến đây mỗi buổi sáng đúng chín giờ thay vì dự buổi lễ sáng và ta sẽ thảo luận về những vấn đề quan trọng. Buổi học đầu tiên sẽ là sáng mai. Con có muốn nhắn gì với cha mẹ con không? Ta sẽ đến viếng song thân của con ngày hôm nay. Con hãy đưa cho ta mớ tóc củ của con hôm trước!
    Điều đó làm tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Khi một thiếu niên được nhận vào tu viện, người ta xuống tóc cho y và gởi cái bím tóc dài vừa cắt xong cho cha mẹ y qua sự trung gian của một thiếu niên Sơ Cơ để chứng minh rằng con của họ đã được thâu nhận. Trong trường hợp này thì chính Minh Gia Đại Đức đích thân đem cái bím tóc của tôi về nhà! Điều này có nghĩa là từ nay Đại Đức sẽ hoàn toàn đảm trách cuộc đời tôi và tôi đã trở nên đứa "Con tâm linh" của người.
    Minh Gia Đại Đức là một nhân vật rất quan trọng, một người có một trí thông minh hiếm có và được nổi tiếng khắp nơi ở xứ Tây Tạng. Tôi tin chắc rằng dưới sự dìu dắt của một vị sư như Ngài, tôi không thể nào thất bại.
    Sáng ngày hôm ấy, khi trở về lớp học, tôi làm một người học trò rất lãng trí. Tôi để tư tưởng vẫn vơ đâu đâu, và bởi đó vị gia sư lại có dịp thỏa mản cái khuynh hướng sử dụng gậy gọc một cách thẳng tay!
    Tôi nhận thấy các giáo sư đã tỏ ra nghiêm khắc một cách quá đáng. Nhưng để tự an ủi, tôi nghỉ rằng dầu sao tôi đến đây là để học. Đó là lý do vì sao tôi đầu thai trở lại, tuy rằng hồi đó tôi không được biết rõ tôi cần phải học lại những gì.
    Ở Tây Tạng, người ta tin tưởng rất mạnh nơi sự luân hồi. Họ tin rằng một người đã đạt tới một trình độ tâm kinh nào đó, có thể chọn lựa sống trên một cõi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học hỏi thêm hay để giúp đỡ kẻ khác. Có khi một nhà hiền giả đã hỏi phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời mình nhưng lại qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hơp đó, người ta tin rằng nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất công việc đã bỏ dở trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy sẽ hữu ích cho nhân loại.
    Không mấy ai có thể nhờ người khác truy ra những tiền kiếp của mình, việc ấy đòi hỏi một vài ấn chứng, tổn phí nhiều tiền bạc và mất nhiều thì giờ. Những người nào cũng như trường hợp của tôi có những ấn chứng đó được gọi là những vị "Hóa Thân" (người đã tiến hóa cao, tình nguyện đào thai trở lại cõi trần ngay sau khi chết, để thực hiện một sứ mạng tâm linh cao cả). Những vị này hồi còn trẻ được dạy dỗ theo một kỹ luật vô cùng khắc khổ, giống như trường hợp của tôi, nhưng về sau đến lúc trưởng thành họ được sự kính trọng của tất cả mọi người. Về phần tôi, người ta sẽ dành cho tôi một sự huấn luyện đặc biệt nhằm tăng cường những kiến thức của tôi về khoa Huyền Môn. Để làm gì? Hồi đó, tôi chưa được biết rõ lý do.
    Những cú roi giáng xuống như mưa làm tôi giật mình, và đưa tôi trở về thực tế.
    - Thằng ngốc! Đồ gàn! Những ý nghỉ đen tối nào đã lọt vào trong cái sọ dày đặt của mi? May cho mi vì đã đến giờ dự lễ nếu không, chắc là mi còn bị ăn đòn!
    Kèm theo lời mắn mỏ ấy, vị giáo sư thịnh nộ đá vào đít tôi một đá nên thân và bước nhanh ra khỏi lớp học. Một bạn đồng môn của tôi nói:
    - Bạn đừng quên rằng trưa nay là tới phiên chúng ta phải làm công tác dưới bếp, tôi hy vọng chúng ta có thể vô bao đầy món Tsampa.
    Công tác làm bếp rất cực nhọc, vì những vị sư giám thi đối xử với chúng tôi như những kẻ nô lệ. Không có vấn đề nghỉ ngơi sau hai giờ công tác nặng nhọc đó. Làm bếp xong, chúng tôi phải trở lại lớp học ngay. Đôi khi người ta giữ chúng tôi ở lại bếp quá lâu nên chúng tôi đến lớp học trể giờ. Khi chúng tôi đến nơi thì vị giáo sư nổi trận lôi đình phân phát cho chúng tôi một loạt những cú roi, gậy như mưa tấc, không để cho chúng tôi có chút mảy may cơ hội để biện hộ cho sự trể giờ đó!
    .
  3. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Công tác đầu tiên của tôi trong nhà bếp suýt nữa cũng là công tác cuối cùng. Theo những hành lang lót đá, chúng tôi đi đến nhà bếp... không chút hứng khởi trong lòng. Một sư sãi nét mặt rất cáu kỉnh đứng đợi chúng tôi ở ngoài cửa. Khi vừa thấy chúng tôi đến, y kêu to:
    - Mau lên, thật là một lũ lười biếng và vô dụng. Mười đứa đầu tiên hãy vô nấu các nồi "Xúp de"!
    Tôi lọt nhằm số mười, tôi bèn đi cùng với những thiếu sinh khác xuống bếp do một cầu thang nhỏ. Dưới nhà bếp nóng kinh khủng. Trước mặt chúng tôi, những bếp lò phát ra những tia lửa đỏ. Nhiên liệu đốt lò là phân con Yak phơi khô và ép thành từng bánh tròn, được chất lên từng đống lớn gần bên các chảo đụn. Vị sư sãi chỉ huy việc nấu bếp quát lớn:
    - Hãy vác xuổng lên và xúc phân khô đổ vô lò!
    Tôi chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy tuổi lẫn lộn trong đám thiếu sinh mà đứa trẻ nhất cũng không dưới tuổi mười bảy. Tôi chỉ vừa đủ sức giơ cái xuổng lên toan xúc phân cho vào lò thì tôi vô ý thế nào làm lật cái chảo nước đang sôi lên hai bàn chân của vị sư sãi. Y thét lên trong cơn thịnh nộ, nắm lấy cổ họng tôi xoay một vòng... và loạng choạng té ngã. Tôi nhảy ra phía sau, nhưng tôi cảm thấy đau nhói kinh khủng và ngửi thấy mùi da thịt cháy khét. Tôi đã té ngã trên một cây sắt đầu nướng đỏ từ trong bếp lò văng ra. Thét lên vì đau đớn, tôi ngã lăn giữa những tro than cháy âm ỉ. Phần trên đùi bên trái của tôi, gần chổ xương háng bị cháy đến tận xương, chổ da thịt bị phỏng ấy đã để lại cho tôi một vết thẹo trắng, mà hiện nay còn làm cho tôi khó chịu. Chính vết sẹo ấy về sau đã làm cho người Nhật nhìn ra được tôi.
    Một cơn náo loạn đã diễn ra sau đó. Những sư sãi khác từ khắp nơi vội vàng chạy đến. Người ta mau mau đỡ tôi đứng dậy giữa đám tro tàn. Tôi bị những vết phỏng khắp thân mình nhưng nặng nhất là vết thương ở bắp đùi. Người ta mau cõng tôi lên những tầng lầu trên, ở đó, một vị Lạt Ma y sĩ cố gắng chữa trị vết phỏng để cố lấy cái chân tôi. Thỏi sắt nướng đó là một vật dơ bẩn và để dính lại trong vết thương những mạt cưa sắt rĩ sét. Vị y sĩ phải moi trong vết thương để lấy ra những miếng sắt vụn này, cho đến khi vết phỏng được rữa sạch trơn. Kế đó, y sĩ rịt thuốc lên vết thương và băng bó cẩn thận. Còn những vết phỏng nhẹ ở khắp thân mình thì y sĩ thoa lên một chất thuốc nước làm bằng chất dược thảo nó làm cho tôi bớt đau rất nhiều.
    Sự đau đớn, nhứt nhói vẫn âm ĩ và tôi tưởng chắc là sẽ không còn sử dụng chân trái của tôi được nữa. Khi đã băng bó xong, vị Lạt Ma y sĩ gọi một sư sãi khiêng tôi vào một gian phòng bên cạnh và đặt tôi nằm trên nệm. Một vị sư già bước vào ngồi dưới đất ở bên cạnh giường tôi và bắt đầu đọc kinh cầu nguyện. Tôi thầm nghỉ: "Thật là tốt đẹp thay mà cầu nguyện ơn trên che chở cho tôi sau khi tôi vừa bị một tai nạn!" Sau cái kinh nghiệm bản thân về sự đau đớn cực hình này, tôi quyết định sẽ sống một cuộc đời đức hạnh. Tôi nhớ đến một bức tranh vẽ cảnh địa ngục, trong đó một quỷ sứ hành hình một nạn nhân bằng cách lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ đốt thân hình y ở gần chổ mà tôi bị phỏng.
    Có lẽ người ta sẽ nghỉ rằng trái với đều mà họ vẫn tưởng các sư sãi là những kẻ ác ôn. Nhưng sư sãi là gì? Ở xứ Tây Tạng, danh từ đó áp dụng cho mọi người phái nam sống trong một tu viện Lạt Ma Giáo, dẫu cho họ không phải là người tu. Hầu như bất cứ người nào cũng có thể trở nên sư sãi. Một trẻ thiếu nhi thường được gởi vào một tu viện để trở nên "Sư sãi" mà nó không cần được hỏi ý kiến. Đôi khi, đó là một người trưởng thành đã chán công việc đi chăn cừu và muốn có một máy nhà ấm cúng để đụt sương tuyết khi tiết trời lạnh lẽo sụt xuống đến bốn mươi độ dưới số không. Khi đó, y xin làm sư sãi trong tu viện. Không phải vì lý tưởng tôn giáo mà vì y muốn tự đảm bảo lấy ít nhiều tiện nghi vật chất. Các tu viện dùng những "Sư sãi" đó như những người lao công để làm những công tác xây cất, cày bừa hay quét dọn. Ở những nơi khác thì những người đó được gọi là nô bọc hay bằng một danh từ tương tự. Phần nhiều những người đó đã sống một cuộc đời rất khổ nhọc: Sống ở những vùng cao nguyên từ ba ngàn đến bảy ngàn thước bề cao, không phải là một cuộc đời dễ chịu. Đối với người Tây Tạng, thì một "Sư sãi" chỉ có nghĩa là một người như mọi người thường. Họ dùng danh từ Trappa để chỉ những người tu sĩ.
    Những vị Lạt Ma (Lama) là những bậc cao tăng, thuộc một cấp đẳng cao. Đó là những bậc đạo sư, hay tôn sư. Thí dụ như Lạt Ma Minh Gia Đại Đức sẽ là vị tôn sư của tôi, và tôi sẽ là đệ tử của người. Kế đó, ở cấp đẳng cao hơn nữa là những vị sư trưởng. Không phải tất cả những vị này đều đảm trách việc trông coi một tu viện; nhiều vị nắm giữ những chức vụ cao trong chính phủ hoặc đi ta bà từ tu viện này đến tu viện khác. Có đôi khi một vị Lạt Ma lại ở cấp đẳng cao hơn vị sư trưởng; mọi sự đều tùy nơi những hoạt động của người.
    Những người được côi như là những vị "Hóa Thân" (người ta đã chứng minh rằng đó là trường hợp của tôi) có thể được chỉ định làm chức sư trưởng vào năm mười bốn tuổi, sau khi đã vượt qua một cuộc thi rất khó khăn. Những vị này thường là nghiêm khắc nhưng không hung dữ và không bao giờ bất công.
    Một thí dụ khác về sư sãi là trường hợp các sư sãi cảnh binh. Nhiệm vụ duy nhất của họ là duy trì trật tự, họ không có phận sự gì trong việc tế tự, lễ bái ở các đề chùa, họ chỉ cần có mặt để xem mọi việc có xảy ra đúng theo quy tắc luật lệ không. Họ thường rất hung tợn cũng như phần nhiều các sư sãi nô bọc như đã nói ở trên (nhưng không vì thế mà họ làm giảm uy tín của các tu viện). Người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một ông thánh chỉ vì y làm tôi tớ cho một vị giám mục!
    Đây trở lại vấn đề tôi bị phỏng lửa khi đi làm công tác dưới bép. Hiệu lực của chất thuốc vừa tan dần, tôi hồi tỉnh lại và cảm thấy như mình bị lột da. Trong cơn mê sản tôi tưởng tượng dường như một ngọn đuốt đang cháy được đặt vào một cái lỗ trống trong bắp đùi bên trái của tôi.
    .
  4. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Thời giờ trôi qua. Tôi lắng nghe những tiếng động trong tu viện: Vài loại âm thanh đã quen thuộc đối với tôi, nhưng có nhiều loại khác mà tôi không nhận ra là những tiếng động gì. Toàn thân tôi bị rung chuyển vì những cơn đau điếng dữ dội. Tôi nằm sấp trên bụng nhưng những vết phỏng cũng lan rộng đến phía trước của thân mình tôi. Tôi nghe một tiếng động nhẹ: Có người đến ngồi gần bên tôi. Một giọng đầy thiện cảm và nhân từ của Minh Gia Đại Đức nói thì thầm bên tai tôi:
    - Con hỡi, chắc là con bị đau lắm. Thôi hãy ngủ đi.
    Vài ngón tay nhẹ nhàng lướt trên lưng tôi dọc theo xương sống, nhẹ lướt thêm nữa và thêm nữa. Thế rồi... tôi mê man ngủ thiếp đi.
    Một vầng mặt trời êm ấm chiếu rạng ngời trước mặt tôi. Tôi thức dậy và chớp mặt liên hồi. Tư tưởng đầu tiên đến với tôi khi tôi vừa chợt tỉnh là hình như có người đá tôi vài đá vì tôi đã ngủ quá lâu. Tôi định nhảy xuống giường để hối hả đi dự buổi lễ sáng nhưng tôi bèn té ngữa ra sau, khắp mình mẩy đâu nhứt như rần. Thì ra đó là cơn mê sảng... Chân trái tôi đau quá.
    Một giọng dịu hiền ưu ái nói với tôi:
    - Lâm Bá, con hãy nằm yên. Hôm nay con có thể nghỉ.
    Tôi quay đầu nhìn lại lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng tôi đang nằm trong phòng của Minh Gia Đại Đức, còn Sư Phụ thì ngồi gần bên tôi. Người nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi và mỉm cười:
    - Tại sao con ngạc nhiên? Phải chăng là một việc thường tình mà hai người bạn ở gần bên nhau khi một người bị đau ốm?
    Tôi đáp bằng một giọng rã rời mệt mõi:
    - Nhưng sư phụ là một vị Lạt Ma cao cả, còn con chỉ là một đứa trẻ nhỏ.
    - Lâm Bá chúng ta đã cùng nhau đi một đoạn đường rất dài trong những kiếp trước. Hiện giờ con chưa nhớ lại được điều đó nhưng ta nhớ rõ, vì chúng ta đã sống rất gần bên nhau trong những kiếp vừa qua. Còn bây giờ con cần phải nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúng ta sẽ điều trị bắp chân con cho mau lành, con đừng lo gì cả!
    Tôi liên tưởng đến cái bánh xe luân hồi sinh tử và nghỉ đến những điều răng trong kinh thánh của xứ tôi: "Người tâm hồn quảng đại sẽ được sống một cuộc đời giàu sang không bao giờ dứt, còn kẻ hèn tiển ít róng sẽ không bao giờ được sự ưu ái, từ tâm. Người có quuyền thế hãy sống một cách quảng đại với những kẻ khác đến nhờ vả mình. Y hãy nhìn xa để thấy con đường dài của sự luân hồi sinh tử. Sự giàu sang luân chuyển như những bánh xe, nay nó thuộc về người này, mai nó thuộc về người khác. Kẻ hành khất ở kiếp này có thể trở nên một vị vương hầu ở kiếp sau, còn vị vương giã ngày nay có thể trở nên kẻ ăn mày trong một tương lai xa gần".
    .
  5. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Khi đó tôi hiểu một cách chắc chắn không còn nghi ngờgì nữa, mặt dầu trong cơn đau đớn thể xác và mặt dầu tuổi tôi còn nhỏ, rằng Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi là một tâm đức và tôi có thể tin tưởng lời giáo huấn của người. Rõ ràng là sư phụ tôi biết rõ rất nhiều điều về tôi, nhiều hơn rất xa những gì mà tôi có thể biết được. Tôi rất nóng lòng muốn làm việc chung với người và tôi quyết định rằng tôi sẽ là một người đệ tử gương mẫu. Tôi cảm thấy một cách rõ rệch rằng giữa chúng tôicó một sự đồng thanh đồng khí rất chặt chẽ và tôi lấy làm cảm kích sự xoay vần của định mệnh nó đã đặt tôi dưới sự hường dẫn dìu dắt của người.
    Tôi qay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Những tắm nệm của tôi đang nằm được đặt trên một cái bàn để cho tôi có thể nhìn thấy bên ngoài. Cảnh vật rất là hùng tráng. Đằng xa, ở bên ngoài những nóc nhà chen chút nhau phía dưới cửa sổ của tôi, thành phố Lhassa vươn mình dưới ánh nắng mặt trời, với những ngôi nhà nhỏ sơn màu lợt xinh xắn. Trong thung lũng, con sông Kỳ Giang uốn khúc giữa những cánh đồng xanh tươi nhất thới giới. Những dãy núi xa tít chân trời ửng màu đỏ sậm với những đỉnh núi đội tuuết trắng phau. Trên những ngọn núi gần hơn, những vết màu vàng lóng lánh chen chút nhau trên sườn núi, đó là nóc của những tu viện. Bên tay trái, điện Potala nhô lên caonhư một ngọn núi biệt lập.
    Về phía tay mặt, một cụm rừng nhỏ trong đó rải rác những đền chùa và trường học. Đó là địa phạn của vị Thiên Giám Quan, một nhân vật quan trọng mà vai trò duy nhất trong đời là tạo nên một nhịp cầu giao cảm giữa cõi trần giang vật chất và cõi giới vô hình, và tiên tri điều họa phúc của quốc gia. Dưới mắt tôi, trên sân mặt tiền, những sư sãi thuộc các cấp đi qua lại không ngớ. Vài vị trong số đó, những người sư sãi lao công, mặc áo màu nâu sậm. Một nhóm thiếu sinh của tu viện ở xa mặt áo trắng. Những sư sãi cao cấp cũng có mặt ở đó, đều mặt áo màu đỏ sậm, với manh yểm tâm bằng lụa vàng, chỉ rằng họ thuộc thành phần viên chức tối cao của chính phủ. Một vài vị cưỡi ngựa hay cưỡi lừa. Những người thường dân thì cưỡi ngựa đủ màu còn các sư sãi bắt buộc phải cưỡi trắng. Tất cả những cảnh tượng đó là cho tôi quên cả hiện tại. Điều làm cho tôi quan tâm hơn hết là làm sao cho chống bình phục để có thể sử dụng hai chân của mình.
    Ba ngày sau, người ta cho rằng tốt hơn tôi nên ngồi dậyvà thử đi đứng xem sao. Chân trái tôi còn cứng đơ và làm cho tôi rất đau đớn. Chỗ vết phỏng đã sưng lên và có mủ vì những mảnh sắt vụn rĩ sét mà người ta khong thể gắp ra được. Vì tôi không thẻ đi đứng một mình, người ta làm cho tôi một cây nạng gỗ để tôi dùng mà đi một chân, tôi đi nhún nhẩy cũng như con chim bị thương. Toàn thân tôi vẫn còn những vết phỏng và những chỗ phồng da nhung chân trái tôi làm cho tôi đau đớn nhiều hơn các chỗ khác.Tôi không thể ngồi được mà phải nằm nghiêng bên mặt hoặc nằm sấp tôi không thể dự các buổi lễ cầu nguyện hay đi đến lớp học nên Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi dạy tôi học tại tư thất từ sáng đến chiều. Người tuyên bố hài lòng về những kiến thức mà tôi thu thập được trong thời "Niên thiếu" của tôi, người nói:
    - Nhưng, nhiều điều trong những kiến thức đó chỉ là những kỷ niệm mà con đã mang theo từ những kiếp trước.
    .
  6. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    PHẦN VI
    Đời Sống Trong Tu Viện​
  7. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Hai tuần lễ trôi qua những vết phỏng của tôi đã gần khỏi. Cái chân tôi còn làm cho tôi hơi đau nhưng càng ngày càng bớt dần. Tôi yêu cầu được áp dụng thời khắc biểu như thường lệ vì tôi thấy cần phải cử động đôi chút. Tôi được phép ngồi tùy ý hoặc nằm sấp trên bụng. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng hteo tư thế liên hoa, nhưng tôi không thể ngồi như vậy vì chân tôi còn đau.
    Ngày đầu tiên tôi trở lại lớp học để gặp lại các bạn cũ, thì có công tác làm bếp vào buổi trưa. Tay cầm một tấm bản đá tôi có phận sự kiểm điểm những bao lúa mạch nha sấy. Lúa mạch nha được trải lên những tảng đá hâm nóng đến bóc khói: Cái nồi "Xúp de" mà tôi đã làm lật đỗ đến bị phỏng, được đặt ở phía dưới. Khi đã trải đều lúa mạch nha trên những tảng đá, người ta mới đóng cửa và nhóm thiếu sinh chúng tôi đi qua hành lang đến một văn phòng tại đây người ta xay giã lúa mạch nha đã sấy xong. Cối xay là một cối đá hình ống loa lật ngược, vành tròn đường kính độ một thước sáu tấc. Lòng cối xay có chạm khắc những đường lồi lõm để giữ lúa. Một tảng đá vĩ đại cũng hình ống loa, nhưng đặc ruột đặt vào lòng cối để nghiền nát lúa. Tảng đá này được nâng bằng một cái đòn tay bằng gỗ mà thời gian đã làm cho trơn bóng, ở hai đầu cái đòn tay này có gắn chặt các đòn tay nhỏ hơn giống như những cây căm của một bánh xe không có vành. Lúa mạch nha sấy được đổ vào cối đá, rồi các sư sãi và những trẻ thiếu nhi mới nắm lấy những cây căm bánh xe để vận chuyển khối tảng đá nặng đến hàng mấy tấn. Khi tảng đá đã xoay vòng thì công việc không còn nặng nhọc lắmvà chúng tôi cùng cất tiếng hát hợp xướng. Ít nhất tại đây tôi có thể hát mà không bị bắt tại trận! Nhưng làm vận chuyển tảng đá này là cả một công trình khó nhọc. Tất cả mọi người đều phụ giúp một tay trợ lực. Kế đó phải để ý coi chừng nó luân chuyển luôn luôn không lúc nào ngừng. Những số lượng mạch nha sấy được đổ thêm vào cối và lúa sấy xong thoát ra ngoài ở phần dưới cối. Chính thứ lúa xay này được trải một phần nữa lên nhưng tảng đá nóng để sấy lại là chất liệu căn bản để là món Tsampa. Mỗi người chúng tôi đều đem theo trong mình một ít Tsampa đủ ăn trong một tuần hay nói đúng hơn là một số lúa mạch nha đã xay nát và sấy lại. Đến bữa ăn, chúng tôi lấy ra một phần nhỏ đựng sẵn trong cái bộc da và đổ vào những cái chén riêng của mình. Sau khi đổ thêm trà pha bơ chúng tôi dùng ngón tay trộn đều và nhồi cho đến khi nó trở thành một thứ bánh, rồi mới ăn.
    Qua ngày hôm sau, công tác làm bếp gồm có việc nấu trà bơ. Ở gian phòng khách của nhà bếp có đặt một cái chảo đụn khổng lồ với dung lượng sáu trăm bảy mươi lăm lít. Chảo đụn này đã được lau chùi bằng cát và trở nên sạch bóng như còn mới.
    Từ sáng sớm, chảo đụn này đã được chứa nước đến phân nữa và nấu sôi lên sùng sụt. Chúng tôi có phận sự đi lấy những bành trà đã phơi khô và đập tan ra thành từng mảnh vụn. Trà này được ép cứng lại thành từng bành lớn hình vuông như viên gạch, mỗi bành cân nặng từ bảy đến tám kg, được chở từ Trung Hoa hay Ấn Độ đến Lhassa bằng đường bộ xuyên qua các truyền núi. Những mãnh vụn vừa đập ra được nén vào chảo nước đang sôi. Một sư sãi thêm vào đó một tảng muối cục thật lớn, một sư sãi khác bỏ thêm vô một muối hóa chất (bicarbonnate de soude). Khi tất cả đều sôi sụt người ta mới đổ thêm vào từng mảng bơ làm bằng sửa của con Yak, và để lửa cháy trong lò suốt nhiều giờ. Trà trộn với bơ này có một giá trị dinh dưỡng rất tốt và dùng thêm với món Tsampa nó có đầy đủ chất bổ dưỡng để cho người Tây Tạng sống được quanh năm. Công việc khó nhọc nhất là giữ cho lửa cháy trong. Thay vì dùng phân củi người ta dùng phân con Yak phơi khô làm chất nhiên liệu để đốt lửa. Chất nhiên liệu này luôn luôn được dự trữ quanh năm thành một lượng dùng không bao giờ cạn. Phân bò đốt cháy tỏa ra một mùi vị rất chát và nồng nặc.
    Chúng tôi bị bắt buộc phải làm những công tác này không phải là vì thiếu nhân công mà là vì muốn xóa bỏ tối đa mọi sự phân biệt giai cấp. Chúng tôi nghỉ rằng con người chỉ có một kẻ thù ấy là sự chia rẽ, cách biệt. Làm việc bên cạnh một người, nói chuyện cởi mở với y hãy, có dịp thông cảm với y rồi thì y sẽ không là một kẻ thù của ta nữa. Ở Tây Tạng mỗi năm một lần, những vị quan to hay chức sắc có quyền thế từ bỏ quyền hành của mình trong một ngày, và bất cứ một thuộc hạ nào của họ cũng có quyền nói lên những gì y cảm nghĩ trong lòng nếu một vị Sư Trưởng tỏ ra lạm quyền hóng hách người ta sẽ nói lên một cách công khai và nếu sự phiền trách đó là đúng thì người khiếu nại sẽ không bị một sự trừng phạt nào. Phương pháp đó tỏ ra rất hiệu quả nên sự lạm dụng quyền hành cũng rất ít khi xảy ra. Nó đảm bảo một sự công bình xã hội, để cho những người thuộc viên ở cấp dưới có cơ hội phát biểu những cảm nghĩ của họ đối với những kẻ có quyền thế.
    Chúng tôi phải làm việc nhiều trong lớp học và ngồi xếp hàng dưới đất. Khi giảng bài và viết trên bảng đen thì vị giáo sư đứng trước mặt học trò. Nhưng khi chúng tôi làm bài thì ông giáo sư đi rảo đằng sau lưng chúng tôi, thành thử chúng tôi phải làm việc cẩn thận vì chúng tôi không biết ông ta đang rình đứa nào! Ông ta không lúc nào rời cây gậy, một cây gậy mập như cây dùi cui mà ông ta không ngần ngại "Sử dụng" trên bất cứ bộ phận nào trên thân thể chúng tôi: Vai, đầu, lưng, không kể đến những bộ phận "Cổ điển" Ông ta không cần phân biệt đó là chỗ nào, miễn là những cú gậy gộc đó đánh thật đau.
    Chúng tôi học rất nhiều về môn toán pháp, môn này là một kỷ luật cần thiết để đoán khoa chiêm tinh. Khoa chiêm tinh Tây Tạng thật vậy không có gì là ngẫu nhiên tình cờ, nó được thiết lập trên những nguyên tắc khoa học.Tôi phải học nhiều về khoa chiêm tinh vì môn này là tối cần thiết trong việc hành nghề y khoa. Một y sỹ nên điều trị bệnh nhân theo từng hạn nguời, sự phân hạn này là do khoa chiêm tinh quy định. Điều trị theo nguyên tắt đó là tốt hơn cho đơn kê thuốc một lý do mơ hồ là thuốc ấy đã chữa khổi bệnh cho một người khác. Bên cạnh những bản đồ chiêm tinh rất lớn treo trên tường, còn có những bản đồ khác vẽ hình những thảo dược. Những bản đồ này được thay đổi luôn luôn mỗi tuần và chúng tôi phải biết rõ tất cả mọi loại cỏ thuốc. Sau này, những cuộc xuất hành sẽ được tổ chức để đi hái thuốc, nhưng chúng tôi chỉ được tham dự những cuộc ngao du đó khi nào chúng tôi đã có những kiến thức sâu rộng, để người ta có thể tin tưởng rằng chúng tôi sẽ không hái lầm những loại cỏ xấu. Những chuyến đi hái thuốc đem đến cho chúng tôi những ngao du rất thoải mái dễ chịu tạm quên được cuộc đời phẳng lặng buồn chán của tu viện. Có những chuyến đi kéo dài đến ba tháng; đó là những cuộc xuất hành lên vùng thượng du, một vùng bao bọc xung quanh bởi những dãy núi có tuyết phủ quanh năm, bề cao từ sáu ngàn đến tám ngàn thước trên mực nước biển, nơi đó những vùng băng tuyết xen lẫn với những thung lũng xanh tươi với khí hậu ôn hòa nhờ bởi những suối nước nóng. Trong vùng này người ta có một kinh nguyện độc nhất trên đời. Người ta chỉ cần đi một quảng đường dài năm mươi thước để trãi qua một khí hậu lạnh đến bốn mươi độ đưới không, đến một khí hậu nóng bốn mươi lăm độ trong bóng mát. Vùng này của xứ sở Tây Tạng không ai được biết, chỉ trừ một thiểu số các sư sãi.
    Tu viện của chúng tôi được nổi bởi kỷ luật khắc khổ và nột nề giáo dục chặt chẽ. Một số lớn các sư sãi từ các tu viện khác đến đây từ giã chúng tôi để đi đời sống dễ chịu hơn. Chúng tôi coi họ như những kẻ thất bại với chúng tôi là những người thuộc thành phần ưu tú. Nhiều tu viện không có buổi lễ khuya; các sư sãi đi ngủ sớm vào lúc tối và thức dậy trời đã sáng. Chúng tôi khinh thường họ như những kẻ yếu hèn, thấp kém vì tuy rằng chúng tôi bất mãn với quy tắc quá khắc khổ của tu viện, chúng tôi lại không bằng lòng cho quy tắc đó bị sửa đổi, nếu nó đưa chúng tôi tới hậu quả là hạ thấp chúng tôi xuống trình độ kém hèn của kẻ khác.
    Kế đó là phải loại trừ những kẻ yếu. Chỉ có những người rất khỏe mạnh mới trở về sau những cuộc xuất hành lên vùng thượng du lạnh như băng tuyết; ngoại trừ những sư sãi ở tu viện Chakpori, không có ai dám đi lên đó. Các vị đạo sư, vốn đầy minh triết quyết định loại bỏ nhưng người không thể chịu đựng được cuộc sống kham khổ, trước khi họ có dịp làm liên lụy đến kẻ khác. Trong năm học đầu tiên chúng tôi hầu như không có lúc nào nghỉ ngơi, giải trí hay có dịp vui chơi thỏa thích. Mỗi giây phút của chúng tôi đều dành cho sự học và làm việc.
    Một điều mà tôi còn biết ơn các vị sư, là các Ngài đã dạy chúng tôi phương pháp sử dụng trí nhớ. Phần nhiều người Tây Tạng có trí nhớ tốt, nhưng riêng phần chúng tôi là sinh viên y khoa, học để trở thành các tu sỹ kim y sỹ, thì chúng tôi cần biết tên và đặc tính của nhiều loại dược thảo cùng cách biến chế và sử dụng các loại cỏ thuốc. Chúng tôi cũng cần hiểu biết tường tận khoa chiêm tinh và thuộc lào tất cả các kinh điển Phật Pháp.
    Một phương pháp tập luyện trí nhớ đã được thực nghiệm trãi qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi ngồi trong một gian phòng có những tủ lớn chứa đựng hằng muôn nghìn học tủ. Mỗi học tủ có dán nhãn hiệu bên ngoài, có in chữ khá lớn dễ đọc từ chỗ chúng tôi ngồi. Mỗi đề tài học tập mà chúng tôi đã thụ huấn được sắp hạng trong mỗi hộc tủ thích nghi. Chúng tôi phải hình dung rõ ràng trong trí mỗi đề tài vào vị trí nhất định của mỗi học tủ. Với ít nhiều công phu tập luyện, người ta có thể đi vào gian phòng bằng tư tưởng một cách rất dễ dàng mở đúng phóc các hộc tủ mình muốn và lấy ra các tài liệu mình tìm kiếm cùng với những đề tài liên quan.
    Các vị giáo sư đặc biệt nhấn mạnh với chúng tôi hiểu sự cần thiết có một trí nhớ được tập luyện thuần thục. Họ vấn nạn chúng tôi một cách ráo riết với mục đích duy nhất là thử thách trí nhớ của chúng tôi. Những câu hỏi đó không có một sự mạch lạc hay liên lạc vì với nhau, để cho không có một dòng tư tưởng liên tục nào giúp chúng tôi trả lời được dễ dàng. Những câu hỏi đó thường liên quan đến những đoạn bí hiểm trong cách kinh điển tôn giáo, chen lẫn với những câu hỏi đứt đoạn về các loại dược thảo. Kẻ nào quên sẽ bị trừng phạt nặng nề: Không có trí nhớ là một tội ác không thể dung thứ, phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chúng tôi lại không có nhiều thời giờ để suy nghĩ mà phải trả lời ngay tức khắc. Chẳng hạn như giáo sư hỏi học trò:
  8. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    - Con hãy nói lại hàng thứ năm, trang mười tám trong quyển thứ bảy của bộ kinh Kangyur. Hãy mở hôïc tủ... xem hàng chữ đó là gì?
    Trừ phi người ta có thể trả lời ngay trong mười giây đồng hồ, tốt hơn là nên giữ im lặng, vì sự trừng phạt còn khốc liệt hơn nếu trả lời sai, dẫu cho sự sai lầm nhỏ nhặt đến đâu. Dầu sao, đó cũng là một phương pháp rất tốt và rất hữu hiệu để tập luyện trí nhớ. Chúng tôi không thể có thường xuyên những sách vỡ tham khảo ở bên cạnh mình, vì sách của chúng tôi gồm những tờ giấy đóng lại trong những cái bìa bằng gỗ, thường đo đến một thước chiều dài và bốn tất tây chiều ngang, là những vật quá kềnh kàng. Về sau, tôi nhận thấy rằng thật là một điều tối ưu quan trọng mà có một trí nhớ tốt.
    Trong năm đầu, chúng tôi bị ngăn cấm không đuợc rời khỏi tu viện. Những người nào vi phạm sẽ bị đóng cửa không cho vào khi họ trở về. Luật lệ này chỉ được áp dụng ở tu viện Chakpori là nơi mà kỷ luật gắt gao đến nỗi người ta sợ rằng nếu để cho chúng tôi ra ngoài, thì chúng tôi sẽ không trở lại lần nữa. Riêng về phần tôi, tôi nhìn nhận rằng có lẽ tôi cũng trốn biệt luôn không trở lại, nếu tôi có chỗ nào khác để dung thân! Tuy nhiên, sau một năm, chúng tôi đã quen với đời sống ở tu viện.
    Trong năm đầu tiên đó, chúng tôi không được phép chơi các môn giải trí; người ta bắt buộc chúng tôi làm việc không ngừng, điều này giúp cho họ loại trừ những đứa trẻ thể chất yếu đuối, không chịu nỗi sự căng thẳng thần kinh tột độ. Sau những tháng học khó khăn đó, chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi hầu như đã quên mất cả sự chơi bời tiêu khiển. Những môn thể dục điền kinh có mục đích tăng cường sức chịu đựng dẻo dai của chúng tôi, và có một sự công dụng thực tế cho chúng tôi sau này.
    Khi tôi gần lên tám tuổi. Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi, cho tôi biết rằng theo sự giải đoán của các nhà chiêm tinh, thì sau ngày sinh nhật của tôi, sẽ là ngày thuận lợi để cho tôi bắt đầu luyện thần nhãn. Tôi không cảm thấy lo ngại gì cả, vì tôi biết rằng sư phụ tôi sẽ có mặt tại chỗ và tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người. Như sư phụ tôi đã nhắc nhở nhiều lần cho tôi biết, khi tôi mở được thần nhãn, tôi sẽ có thể nhìn thấy rõ chân tướng của mọi người mọi vật. Theo khoa Huyền Môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ bên ngoài do cái linh hồn, hay "Chân Ngã", điều khiển mọi tác động trong giấc ngủ và sau khi chết. Con người sinh ra trong một thể xác yếu đưới bất toàn để học hỏi kinh nghiệm và tiến bộ ở cõi trần. Khi y ngủ, con người trở về một cõi giới khác, linh hồn thoát ra ngoài thể xác vật chất và phưởng phất trên cõi ấy tuy rằng nó còn dính liền với thể xác bởi một "Sợi dây bạc" (Cordon magnétique: Sợi dây từ khí, làm bằng chất dỉ thái, mắt phàm không nhìn thấy được. Nó long lanh như màu bạc, nối liền thể xác với linh hồn, có thể kéo dài đến vô tận khi linh hồn phiêu diêu trên cõi trung giới trong giấc ngủ). Sợi dây bạc này chỉ đứt đoạn vào lúc chết. Những giấc mộng là những kinh nghiệm sống trên cõi trên trong khi ngủ. Khi linh hồn trở về nhập vào thể xác, sự giật mình thức giấc làm méo mó xiêu vẹo ký ức của giấc mộng, trừ phi người ta đã trãi qua một sự huấn luyện đặc biệt, bởi đó "Giấc mộng" có thể trở nên dị kỳ đối với người thức giấc. Nhưng vấn đề này sẽ được giải thích đầy đủ hơn ở một chương sau khi tôi tường thuật lại những kinh nghiệm cá nhân của tôi trên địa hạt này.
    Cái hào quang bao bọc xung quanh thể xác, mà bất cứ ai cũng có thể tập luyện để nhìn thấy với một vài điều kiện, chỉ là phản ảnh của nguồn sinh lực ở bên trong con người. Chính cái hào quang đó, cùng với nhiều điều khác nữa, là những sự vật vô hình huyền bí mà việc mở thần nhãn sẽ giúp cho tôi nhìn thấy rõ.
  9. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    PHẦN VII
    Tôi mở thần nhãn​
  10. tom_xp

    tom_xp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Ngày sinh nhật của tôi đã đến. Ngày đó tôi được tự do không phải đi đến lớp học hay đi dự lễ. Vào lúc sáng sớm, Minh Gia Đại Đức có nói với tôi:
    - Lâm Bá, hôm nay con hãy vui chơi thỏa thích. Chúng ta sẽ đến tìm con chiều nay.
    Kể từ chiều hôm đó tôi bế môn nhập thất trong một gian phòng nhỏ, và không được bước ra khỏi phòng trong suốt ba tuần lễ. Trong thời gian đó không ai được bước ra khỏi phòng để kiếm tôi trừ ba vị Lạt Ma cao cấp trong đó có Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Ba vị Lạt Ma mỗi ngày đều đến vào đúng giờ để chỉ dẫn cho tôi một phép luyện bí truyền để mở thần nhãn. Trong khi đó, người ta cho tôi ăn uống rất nhiều, chỉ vừa đủ duy trì sự sống. Sau ba tuần lễ khổ luyện dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, tôi đã đạt tới sự thành công. Sư phụ tôi bèn nói:
    - Lâm Bá, từ nay con đã thật sự trở thành một cao đồ trong môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ nhìn thấy rõ chân tướng của mọi người chứ không phải là chỉ nhìn thấy cái bề ngoài của họ mà thôi.
    Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một kinh nghiệm lạ lùng mà nhận thấy rằng ba vị Lạt Ma đều được bao phủ chung quanh mình bằng một ánh hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau, tôi mới hiểu rằng đó là nhờ ba vị đã có một đời sống tinh khiết và không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế, mà trái lại phần đông người đời có một cái hào quang với một hình dạng và màu sắc khác hẳn.
    Khi tôi đã phát triển được cái nhãn quang thần thông đó, tôi phát hiện được những rung đôïng khác nữa xuất phát từ trung tâm hào quang của con người. Kế đó, tôi có thể đoán biết tình trạng sức khỏe của một người bằng cách nhìn xem màu sắc và hình dáng cái hào quang của y. Cũng y như thế, bằng cách nhìn xem sự thay đổi màu sắc trong hào quang của một người, tôi có thể biết rằng người ấy nói thật hay nói dối. Thần nhãn của tôi, tuy vậy không phải chỉ dùng để quan sát thân thể của một người mà thôi. Người ta còn cho tôi một bầu thủy tinh mà tôi thường dùng để quan sát bằng thần nhãn và bây giờ tôi vẫn còn giữ. Những bầu thủy tinh này không phải là những vật nhiệm màu gì cả mà chỉ là những khí cụ mà thôi. Cũng như một ống kính hiển vi hay viễn vọng kính, do những định luật tự nhiên cho phép ta nhìn thất những sự vật mà lúc bình thường ta không nhìn thấy được, thì một bầu thủy tinh cũng vậy. Nó có tác dụng như một trung tâm để sử dụng con mắt thần, nó giúp cho người ta có thể đột nhật vào cõi giới tiềm thức của mọi vật và nhìn thấy những sự vật diễn biến trong quá khứ hay tương lai xuất hiện trong đó. Mọi loại thủy tinh không phải đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người thu hoạch được kết quả tốt hơn với loại thủy tinh khoán thạch, có người lại thích hợp với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước lạnh bằng ve chai hoặc một đĩa tròn màu đen huyền. Nhưng dầu người ta sử dụng một kỹ thuật nào, thì các nguyên tắc vẫn là một.
    Sau khi tôi đã hoàn tất việc luyện thần nhãn một cách an toàn, các vị Lạt Ma quyết định rằng tôi có thể rời khỏi gian phòng mà tôi đã nhập thất và trở về với cuộc sống bình thường, nhưng tôi sẽ dành phân nữa thời giờ của tôi bên cạnh Minh Gia Đại Đức để cho sư phụ tôi sẽ tăng cường sự học đạo của tôi bằng một vài phương pháp. Còn phân nữa thời gian kia sẽ dành cho những buổi học và buổi lễ cầu nguyện, không phải vì cái giá trị giáo dục của những buổi ấy mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân bình về mọi sự. Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy đạo cho tôi. Nhưng còn bây giời thì tôi chỉ nghĩ đến vấn đề... ăn! Tôi đã phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần và nay tôi phải ăn trả đũa để bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt Ma vói ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi. Nhưng ra ngoài hành lang, tôi nhìn thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh, với những vết lớn màu đỏ chói như lửa cùng khắp thân mình. Tôi bèn kêu lên một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về phòng. Các vị Lạt Ma nhìn tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu vì sợ hãi và nói:
    - Một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang.
    Minh Gia Đại Đức chạy phóng ra ngoài. Khi sư phụ trở lại phòng. Người vừa mỉm cười vừa nói:
    - Lâm Bá, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận hào quang của y giống như một đám khói xanh, vì trình độ tiến hóa của y còn thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới phòng ăn vì chắc con đã đói lắm!
    Thật là một kinh nghiệm vô cùng lý thú khi tôi gặp lại những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rõ, nhưng sự thật thì tôi chưa biết gì về họ cả. Nay tôi chỉ cần nhìn họ để đọc những tư tưởng thầm kín, tình thương chân thành, sự ganh tị hay sự thờ ơ lãnh đạm của họ đối với tôi.
    Không phải chỉ nhìn những màu sắc trên hào quang của mỗi người mà biết tất cả, người ta còn phải tập giải đoán ý nghĩa của những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi cùng ngồi ở một chổ vắng vẻ, từ nơi đó chúng tôi có thể quan sát những người đi đường bước vào cổng đền.

Chia sẻ trang này