1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tên các triều đại Trung Quốc có nguồn gốc từ đâu?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi nhina84, 04/09/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nhina84

    nhina84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/03/2006
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Tên các triều đại Trung Quốc có nguồn gốc từ đâu?

    Em có một thắc mắc nhỏ, bác nào biết xin chỉ giáo giúp! Cảm ơn các bác nhiều!
    Tại sao hầu hết các triều đại Trung Quốc khi thành lập lại không đặt tên triều đại theo dòng họ vua?( Lưu bang lập ra nhà Hán, Dương Kiên lập ra nhà Tuỳ , thời Tam Quốc...) .
    Việt Nam ta chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc, tại sao ko chịu ảnh hưởng điều này?( Các triều đại Việt Nam được đặt theo tên dòng họ)
  2. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    [đùa]Tớ chỉ biết Chu Nguyên Chương đặt tên cho triều đình của mình là nhà Minh vì ông ta vốn thuộc tà đạo Minh giáo[/đùa]
  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Hình như các triều đại đều lấy tên đất làm tên, ví như nhà Thương còn gọi là Ân, Hán thì trước đấy Lưu Bang được phong làm Hán vương ở đất Hán Trung, nhà Nguyên và nhà Thanh là xuất xứ từ 1 câu trong Kinh thi (Thanh trước đó gọi là Hậu Kim)
  4. vieetvnam

    vieetvnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2007
    Bài viết:
    628
    Đã được thích:
    1
    Hốt Tất Liệt đặt tên cho triều đại mới là Nguyên là một từ trong câu "Đại tai (khai?) càn nguyên".
    Lý Uyên trước khi lên ngôi có tước là Đường Công nên đặt tên là Đường cho triều đại.
    Các vua Việt Nam nhà mình chắc đều nghĩ dân ta, nước ta là một, là VIệt nên toàn đặt tên nước giống nhau
  5. hatbuicodoc

    hatbuicodoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    330
    Đã được thích:
    0
    Theo tôi suy nghĩ chủ quan thì là thế này:
    Khái niệm "Nước" ( Quốc) của người Tàu xưa là chỉ một vùng đất tự trị, đại diện là một chúa phong kiến.( Thiên dân, vương thổ: dân là của trời, đát là của vua ) Ví dụ như thời nhà Chu với khoảng 800 chư hầu, thì mỗi vùng đất của chư hầu được gọi là một "nước", còn "Thiên tử" thì được công nhận như vua chung của cả "thiên hạ".
    Khi các lãnh chúa thôn tính lẫn nhau , thì phe thắng trận mở rộng bờ cõi của nước mình, nhưng tên nước ( Quốc hiệu) thì vẫn không đổi. Ví dụ như nước Tần nhỏ bé của Tần Mục công- chư hầu nhà Chu, nước Tần là một phần Trung Quốc của Tần Chiêu Vương, nước Tần thống nhất Trung Nguyên của Tần Thuỷ Hoàng, đều là nước Tần.
    Khi một lãnh chúa hay thủ lĩnh khởi binh tranh giành đất đai thì được coi là việc lập quốc ( thành lập một nước mới) hoặc phục quốc ( khôi phục một nước đã mất). Dĩ nhên về thực chất, đó chỉ là thành lập/khôi phục một chính quyền của một dòng họ, nhưng vào thời bấy giờ thì không có sự phân chia giữa quốc gia và chính quyền.
    Có hai trường hợp đặt tên nước, trường hợp 1 là đặt theo tên một vùng đất có trước. Thường gặp khi trước khi trở thành hoàng đế chung của Trung nguyên, vị thủ lĩnh đã là chủ nhân của một vùng đất nào đó ( sở hữu do được phong thưởng hay do chiếm đoạt bằng vũ lực) tức là đã sở hữu một nước, theo quan điểm nói trên, ví dụ như Lưu Bang là Hán Vương, sở hữu Hán Trung, Tào Tháo là Nguỵ Vương, đưọc phong cho đất Ngụỵ...vv Như vậy việc thống nhất Trung Nguyên được nhìn nhận như việc mở rộng lãnh thổ sẵn có cho bao trùm thiên hạ, và khi thành hoàng đế thì quốc hiệu vẫn là quốc hiệu sẵn có ( tên đất)
    Trường hợp hai, vẫn theo quan điểm Quốc gia<=>chính quyền. Khi lập chính quyền thì coi như lập nước mới, khi đặt một quốc hiệu mới thì tìm những từ có ý nghĩa tốt đẹp để đặt. Ví dụ như Đại Nguyên, Đại Thanh.
    Khi chép sử, thì tên nước (quốc hiệu) được dùng để đại diện cho triều đại cai trị.
    Đó là lí do khiến người ta nói triều Đường, triều Hán mà không nói triều Lý, triều Lưu.
    Còn Việt Nam mình, do tinh thần chống ngoại xâm được mài dũa qua nhiều thế kỉ, khái niệm Quốc gia gắn liền với khái niệm dân tộc. Việc nhiều dòng họ cai trị cùng dùng chung một quốc hiệu có ngụ ý thể hiện việc chủ quyền của quốc gia được gìn giữ và kế thừa ( Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hến đã lâu) Nước Việt được coi là một, dù dòng họ nào cai trị.
    Do dùng chung quốc hiệu, việc dùng Quốc hiệu để chỉ triều đại như Tàu là không thể, do đó các nhà sử học đặt tên triều đại theo tên dòng họ cai trị.
  6. nhina84

    nhina84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/03/2006
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    thanks bác!
  7. vohansat

    vohansat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    05/02/2007
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    14
    Tuy nhiên em cũng thấy có trường hợp khác biệt, đó là quốc hiệu Đại Ngu :D
  8. acongadanh

    acongadanh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/06/2006
    Bài viết:
    1.021
    Đã được thích:
    0
    Ngu ởđây đâu có ý là "DỐT"
  9. vieetvnam

    vieetvnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2007
    Bài viết:
    628
    Đã được thích:
    1
    Bác hatbuicodoc lập luận rất có lý
    Còn chữ "Ngu" trong quốc hiệu nước ta thời Hồ có nghĩa là yên vui, chứ không phải là dốt. Ngoài ra Hồ Quý Ly còn ngụ ý rằng mình có dòng dõi của Ngu Thuấn - một trong Ngũ Đế của Tàu cổ (Thuấn là người đất Ngu, được Nghiêu truyền ngôi cho) vì tổ tiên nhà Hồ là từ Tàu di cư sang Việt Nam từ thời Ngũ Đại Thập Quốc.
  10. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Các Triều đại TQ từ trước đến nay là:
    Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Tam Quốc (Nguỵ, Thục Hán, Ngô), Tấn, Tuỳ, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. xen kẽ vào những thời đại đó là các thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc, Bắc Triều, Nam Triều, Ngũ Đại Thập Quốc, Sau đây tôi chỉ nêu ra một số Nguồn gốc các tên Triều đại( Trước đây tôi có post một bài nói về cái này rồi nếu bạn nào muốn biết có thể tham khảo ở cuốn "Đàm Thiên, Thuyết Địa, Luận Nhân"
    Hạ, Thương, Chu, Tần: Tên các bộ tộc
    Hán: tên sông nơi quê của Hán Cao tổ Lưu Bang: Sông Hán Thuỷ - Tên Hiệu trước khi Lên Hoàng Đế của Lưu Bang là : Hán Vương
    Nguỵ, Tấn: Tên được phong
    Đường, Tống: các thời đại này lấy tên của các nước thời Xuân Thu ở đúng nơi Họ Nổi Lên
    Nguyên: lấy từ câu: "Đại Tài Càn Nguyên"
    Minh: Lấy từ câu: "Minh Vương Xuất Thế, Di Lặc tái Sinh"
    Thanh: đổi tên từ Hậu Kim vì trong tiếng TQ Kim và Thanh cùng thanh âm.
    đặc biệt có 1 QG ở Trung Quốc cũng lấy họ của người đứng đầu QG làm tên hiệu đó là nước Trần thời Nam, Bắc Triều người đứng đầu QG đó là Trần Bá Tiên( từng là tướng của nhà Hậu Lương dẫn quân sang Giao Châu để chống lại Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương
    Có bác nào có tài liệu khác thì tham khảo và post lên để anh em biết nhiều hơn
    Nhà Hạ (2205 đến 1767 TrCN)
    Nhà Thương(khoảng 1600 TCN - khoảng 1027 TCN) thường được gọi là Ân vì đóng đô ở đất Ân
    Nhà Chu (thế kỷ 11 TCN đến 256 TCN)
    Tây Chu: đất Phong (nay thuộc tây Tràng An, Thiểm Tây)
    Đông Chu:Lạc Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay
    Tần: (778 TCN-207 TCN) Hàm Dương
    Hán:(206 TCN?"220 SCN)
    Tây Hán: Trường An
    Đông Hán: Lạc Dương
    Tam Quốc:
    Nguỵ Lạc Dương
    Thục Hán: Hán Trung
    Ngô: Kiến Khang
    Tấn (265 - 420 CN)
    Tây Tấn : Trường An
    Đông Tấn: Kiến Khang - Nam Kinh
    Nam Bắc Triều:
    Nam Triều: Lưu tống, Nam tề, lương, trần
    Bắc triều: Bắc Nguỵ, Tây Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu
    Nhà Tuỳ: (581 - 618) Tràng An(Tây An)
    Nhà Đường:(618 - 907) Tràng An, Tây An
    Ngũ Đại Thập Quốc:
    Khái quát về 5 đời 10 nước
    5 triều đại là:
    Hậu Lương (907-923) : của người Hán
    Hậu Đường (923-936) : của người Sa Đà
    Hậu Tấn (936-947) : Sa Đà
    Hậu Hán (947-951) : Sa Đà
    Hậu Chu (951-960) : Hán
    Năm triều đại này nối tiếp nhau làm chủ hết hoặc gần hết phương Bắc, nên được coi là chính thống, mặc dù chỉ 2 triều đại là của người Hán, còn 3 triều đại là của người Sa Đà.
    10 nước là:
    Ngô ở An Huy ngày nay, vua là người Hán
    Tiền Thục ở Tứ Xuyên ngày nay, vua là người Hán
    Ngô Việt ở Triết Giang ngày nay, vua là người Hán
    Sở ở Hồ Nam ngày nay, vua là người Hán
    Mân ở Phúc Kiến ngày nay, vua là người Hán
    Nam Hán ở Quảng Đông ngày nay, vua là người Hán
    Nam Bình ở Hồ Bắc ngày nay, vua là người Hán
    Hậu Thục ở Tứ Xuyên ngày nay, vua là người Hán
    Nam Đường ở Giang Tô ngày nay, vua là người Hán
    Bắc Hán ở Sơn Tây ngày nay. Riêng nước này ở vùng Hoa Bắc. Vua là người Sa Đà.
    Ngoài ra còn có Liêu- Khiết Đan(Thép luyện), Hạ, Thổ Phiên, Đại lý, Kim
    Nhà Tống
    Bắc Tống
    Nam tống
    Nguyên
    Minh
    Thanh

Chia sẻ trang này