1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tên tự? (eg. Gia Cát Lượng tự Khổng Minh)

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi katyusha, 31/12/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. katyusha

    katyusha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2003
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    0
    Tên tự? (eg. Gia Cát Lượng tự Khổng Minh)

    Chào các bác. Em vốn thích tiếng Trung mà chưa có thời gian học hành cẩn thận, chỉ mò mẫm học amateur là chính, nên có nhiều cái chưa hiểu đến nơi đến chốn.
    Có một cái em rất băn khoăn và thắc mắc là cách đặt tên tự (Chinese style name) là như thế nào? Bác nào biết giải thích kỹ kỹ một chút cho em nhé! Thanks!
  2. vinhattieu

    vinhattieu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    2.169
    Đã được thích:
    0
    Sở dĩ Trung Quốc (và cả Việt Nam) có lệ đặt tên tự vì hai nước đều có phong tục cữ tên chính. Để tỏ lòng kính trọng thì người ta thường gọi tên tự. Ví dụ Gia Cát Lượng khóc Chu Du thì kêu là "Thương thay Công Cẩn".
    Tục này có từ thời Chiến Quốc, qua thời gian có nhiều thay đổi, nhưng nhìn chung có mấy lối đặt tên tự sau:
    1. Tên tự và tên chính đồng nghĩa nhau. Ví dụ Lượng (Gia Cát Lượng) và Minh (Khổng Minh) đều có nghĩa là sáng.
    2. Tên tự và tên chính trái nghĩa nhau. Ví dụ Hàn Dũ, một trong Đường Tống bát đại văn gia tên tự là Thoái Chi. Dũ là tiến, Thoái là lùi.
    3. Tên tự và tên chính liên quan tới nhau về nghĩa. Ví dụ Du và Cẩn là hai thứ ngọc, nên Chu Du tự là Công Cẩn và Gia Cát Cẩn tự là Tử Du. Những chữ như Công, Tử, Khổng, Chi, Trường v.v... được thêm vào tên tự cho đẹp đẽ hoa mĩ.
    4. Tên tự và tên chính chỉ hai vật liên tưởng tới nhau. Ví dụ Triệu Vân tự là Tử Long, vì ta vẫn hay nói long vân tế hội.
    5. Sau này có thêm những lối đặt tên tự khác rất phức tạp. Người ta có thể chiết tự từ tên chính, hoặc căn cứ vào những áng văn, điển cố: Lộc Long lấy tự là Tại Điền, vì trong Kinh Dịch có quẻ "Hiện long tại điền"; Diên Bình Trọng lấy tự là Hy Án, vì mong được như Án Anh tự Bình Trọng đời Tề Cảnh Công.
    Ở Việt Nam cũng có phép đặt tên tự, nhưng mức độ phổ biến dường như không bằng Trung Quốc, hay đúng hơn là tính phổ thông trong sử dụng tên tự không bằng Trung Quốc. Về cơ bản các nguyên tắc cũng giống như Trung Quốc cả thôi. Ví dụ: Lê Quý Đôn tự Doãn Hậu (đôn hậu), Phan Bội Châu tự Hải Thu (Hải Thu là vật thu về từ biển >>> Châu), Phạm Đình Hổ tự Tùng Niên (Tùng Niên là tuổi của cây tùng >>> hổ phách). Bùi Kỷ tự là Ưu Thiên vì trong sách có chuyện người nước Kỷ lo trời sập.
  3. trungneo

    trungneo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/03/2006
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    khâm phục sự hiểu biết của vinhatieu..

Chia sẻ trang này