1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tháng Tư ác liệt (Olivier Todd)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 06/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tôi đồng ý với bác 1975Win và bác mechua155 là Olivier Todd đã sử dụng các tư liệu của ta. Đoạn về chuyến đi của tướng Dũng rất giống với những gì chúng ta đã đọc trong các hồi ký tướng lĩnh của ta. Còn chuyện Ngày 27-1, những người có trách nhiệm ở Nhà Trắng đã có trong tay bản tổng hợp hàng ngày của các cơ quan tình báo : ?oHình như Bắc Việt đã chuyển vào miền Nam một trong những sư đoàn dự bị của họ?. thì chỉ là ?ohình như?
    ---
    Tiếp tục :
    Buổi tối ngày 1-3, Tổng thống cũng mở tiệc chiêu đãi danh dự các đại biểu của phái đoàn. Trong khi nâng cốc chúc mừng, Thiệu nhắc lại có nhiều tổng thống Mỹ trước đây đã đảm bảo là chỗ dựa vững chắc cho thiêu.
    Thiệu nói thong thả :
    ?oSự cam kết long trọng ấy lại một lần nữa được nhắc đến vào đúng lúc ký Hiệp ước Paris. Người ta có thể tin vào lời hứa của Hoa Kỳ được không? Đây là thông điệp mà tôi mong muốn nhờ các ngài chuyển giúp tôi đến Hội nghị đại biểu lần thứ 94 của Hoa Kỳ?
    Trước khi đến Washington Chủ nhật ngày 2-3, nghị sỹ thuộc phe dân chủ đã có cuộc họp báo ở ngay sân bay. Sau khi đã ngừng chiến tranh, các đại biểu đã góp ý với Tổng thống Ford là thúc đẩy Kissinger tiếp tục thương lượng với Bắc Việt. Ông nghị sỹ này không biết rằng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cũng không hào hứng lắm với việc thương lượng dưới thế yếu của Hoa Kỳ khi phải đối mặt với người CS Bắc Việt.
    Khi các đại biểu chuẩn bị lên máy bay để về Mỹ, thì ông đại sứ Graham Martin vội vã lao ra :
    - Tôi có thể đi cùng các ông về Washington được không?
    Ông nghị sỹ và các đại diện đã gặp ông Martin nhiều lần vào những ngày cuối sửa soạn ra về Mỹ, nên không ai còn muốn gặp ông Martin, dù rằng trong vài giờ nữa ?" Nhưng làm thế nào để từ chối được điều yêu cầu ấy của ông Martin.
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Đến Washington, Martin nhận được ngay không khí lạnh nhạt của Bộ Ngoại giao. Tờ thông tin tình báo cuối cùng của CIA và của Bộ Ngoại giao khẳng định ?onhững đội quân của Bắc Việt ở phía nam vùng phi quân sự đang mạnh hơn bao giờ hết?, nhưng những đội quân này ?osẽ không có đủ khả năng đánh bại quân đội của chính phủ cộng hòa miền Nam VN một cách quyết định?
    Martin ở lại nhà riêng của con gái ở phố số 42 và lao vào việc chạy chọt gây sức ép. Bộ Ngoại giao đã cử một chiếc xe ô tô để phục vụ cho Martin tùy ý sư dụng. Những viên chức trẻ tuổi ở Ban châu Á và Đông Nam Á đã thường nhận được những lời mời hẹn của Martin. Ở Sài Gòn, sau Thiệu thì Martin là nhân vật có thế lực thứ 2. Ở Washington thì Martin chỉ là ông đại sứ không còn có vẻ long trọng gì nữa.
    Ở Bộ Ngoại giao, Martin cảm thấy ngay lề lối làm việc quan liêu bàn giấy, và hiểu ngay rằng ?ongười ta sẽ không tiến bộ được khi dính vào vấn đề Việt Nam? ?" Ngay cả các nghị sỹ thuộc Đảng Cộng hòa cũng hoàn toàn phải theo những luận thuyết của họ. Martin vấp phải những điều không nói ra được. Ông đã bơi ngược dòng và hiểu rằng nhiều thành viên trong phái đoàn đã lan truyền và phê bình gay gắt về vấn đề của ông. Có 1 người trong số các thành viên của phái đoàn còn nói công khai :
    - Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn sẽ còn phải đi tiếp, tay trong tay với chính phủ của Thiệu, sẽ thật khó khăn để phân biệt được bản chất của sự thật về quyền lợi của Mỹ ở Việt Nam.
    Graham Martin thấy hầu như bị sỷ nhục ở Washington và cảm thấy phẩm giá và đặc quyền của mình không còn ra gì nữa. Giữ trách nhiệm đại sứ Mỹ ở Sài Gòn từ tháng 3-1973, Martin đã đến chậm vài ba ngày và đòi hỏi phải có riêng 1 máy bay để cho ông toàn quyền sử dụng ở thủ đô của miền Nam VN. Điều đó được thỏa thuận cho ông đại sứ của Hoa Kỳ, đại diện cho cá nhân tổng thống.
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Martin 63 tuổi, đôi mắt sắc sảo, tóc màu xám, sức khỏe yếu, hút rất nhiều thuốc, có dáng vẻ quý tộc, rất kiêu căng đối với người này, nhưng lại hòa nhã với người khác. Martin có nguồn gốc gia đình tầm thường, sinh ra ở bắc Caroline. Người cha linh mục của ông đã thường dạy con luôn nhớ 1 điều là : ?oCó nhiều cách để nói lên sự thật và điều đó tốt hơn là nói dối?. Trước các nghị sỹ hay những người đại diện, Martin sẵn sàng tỏ ra sự liêm khiết và luôn để lộ ra sự hiểu biết sáng suốt của mình.
    Ông chưa bao giờ theo học ở các trường đại học Harvard, Princeton hay Yale, mà chỉ theo học ở trường cao đảng Wake. Martin nghĩ rằng theo học về môn lịch sử, học về Latin và Hy Lạp sẽ giúp ông có được những ?oý nghĩ về quá khứ?. Ông dễ dàng kể lại câu chuyện lịch sử về Thucydide.
    Khi lên Washington, Martin đã trở thành một nhà báo khá lâu, nhưng lại ghét nghề nghiệp này nên ít hiểu về nghề đó. Martin cho rằng : Một nhà báo giỏi không được hại gì đến lợi ích của Hoa Kỳ. Nếu sự thật được nói ra mà không có lợi thì nên im lặng là hơn. Martin thấy rằng khối đông các nhà báo ở Washington và ở Sài Gòn, dù rằng không đồng nhất, cũng tỏ ra ?oủng hộ Hà Nội? và sớm muộn gì cũng chống lại Thiệu. Điều đó thật khác nhau.
    Martin tiếp tục nghề làm báo và chịu trách nhiệm về mục bảo hiểm xã hội dưới thời tổng thống Roosevelt. Ông tự tuyên bố mình là phe dân chủ, bởi vì ông là sỹ quan tình báo rồi là đại tá và chuyên gia về châu Á, và Đông Nam Á trong thời chiến tranh thế giới thứ 2. Và cũng bởi vì Martin luôn quan hệ với Alan Dulles, người thành lập ra tổ chức CIA. Ông tự phụ cho rằng mình hiểu rõ trong lĩnh vực ?osáng - tối?về tình báo hơn cả Polgar hay Frank Snepp.
    Tất cả những báo cáo mập mờ về những ý định của Bắc Việt làm ông đại sứ khó chịu. Chịu trách nhiệm công việc của đại sứ quán của Hoa Kỳ tại Paris từ năm 1947 đến 1955, Martin hiểu rõ người Bắc Việt. Martin là một trong những người phó của Kissinger ở Paris trong những cuộc thương lượng rồi dẫn đến có sự hiệp ước. Martin thường thấy chính phủ Pháp thương lượng riêng với ********* và phải nhượng bộ
    Martin làm đại sứ ở Thái Lan từ 1963 đến 1967, đã sử dụng ở Bangkok 1 hải cảng và 6 sân bay quân sự, mà không bao giờ ký chính thức với Thái Lan một hiệp ước hay một tạm ước. Martin thường tỏ ra khinh bỉ ?oý nghĩ quân sự hẹp hòi? nên chống lại Lầu Năm Góc dự định đưa các đội quân vào Thái Lan. Martin đã gặp Thiệu ở Bangkok.
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 15:21 ngày 20/01/2005
  4. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Là phi công lái máy bay trực thăng, là con nuôi một ông đại sứ bị ám sát ở Việt Nam, và đã từ lâu có vài người đoán trước là Martin sẽ trở nên cứng rắn. Thuyết phục được Hoa Kỳ không gửi đội quân lính thủy đến Thái lan, vào thời kỳ đó, Martin đã gửi đến Bộ Ngoại giao những bức điện tín cay độc mà ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dean Rusk thấy khó có thể chấp nhận được. Bộ Ngoại giao đã cách chức đại sứ của Martin ở Thái Lan và cử làm tùy viên chuyên trách vấn đề người di tản và việc di cư. Một chức vụ chỉ coi như nằm trong một hốc tường, chẳng có tác dụng gì. May mắn là khi ở Bangkok, vào một ngày đẹp trời ông đại sứ Martin đã trải thảm đỏ cho một luật sư của hãng nước giải khát Coca-Cola, một nhà chính trị ?ođã hết thời?, đó là ông Richard Nixon.
    Khi trở thành tổng thống, Nixon lại nghĩ đến sự chú ý của Martin đối với mình, nên đã cử Martin đến Rome. Tại đây, Martin đã làm bóng kinh nghiệm của mình với vai trò đứng đầu 1 nhiệm vụ. Tháng 12-1972, người ta đã thông báo cho Martin biết là tổng thống Nixon muốn cử ông làm đại sứ ở Sài Gòn. Lúc đầu Martin còn ngần ngừ muốn chấm dứt sự nghiệp của mình. Ở Sài Gòn luôn xảy ra các cuộc lật đổ nhau. Nhưng Haig đã gợi ý cho Martin về bổn phận và danh dự. Cuối cùng Martin chấp nhận làm đại sứ của Hoa Kỳ ở Sài Gòn.
    Trong khi Quốc hội khẳng định vai trò của Martin vào tháng 6-1973, thì ông đã tuyên bố :
    ?oChúng ta phải nhanh chóng chấm dứt đến mức có thể sự dính líu của người Mỹ vào Việt Nam, nhưng cách làm như thế nào thì chúng ta phải hết sức thận trọng? Chúng ta phải chấm dứt và để cho nền kinh tế của Việt Nam tự sống được??
    Ở Washington, Martin cũng nhắc lại lời đó nhưng không có kết quả lớn. Những lời xì xào bàn tán do các nhà báo và những nhà ngoại giao đã loan truyền từ trước, đã làm cho Martin tê liệt. Người ta không kết tội Martin không chịu làm việc, mà chỉ kết tội ông đại sứ đã làm cho công việc của mình ở Sài Gòn trở nên tồi tệ.
    Có người còn nói : ?oông chỉ nhìn thấy những cái cây mà không nhìn thấy cả cánh rừng?, hay ?oMartin đã bảo vệ Thiệu cùng với chính phủ của Thiệu quá đáng?.
    Có phải là người ta đã gây sự chia rẽ! Ông đại sứ gợi ý rằng : ?oChính nhờ có dầu trong quá trình mở mang nền kinh tế? nhưng với chiến tranh thì thật nguy hại?? Ông dựa vào việc xuất khẩu dầu, cá sẽ tạo cho miền nam VN ?omột sự may mắn sống sót?.
    Ở Washington, đại sứ Martin mở cuộc chiến tụt hậu về số tiền 300 triệu đô la viện trợ thêm cho thiệu. Mệt mỏi, không còn có thể chống cự lại được và chịu bệnh xưng tấy răng nên Martin đành trở về nhà mình ở bắc Caroline để chữa bệnh đau răng.
    Lúc này Martin đã xa Washinton và còn cách Sài Gòn quá xa hơn nữa.

  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Theo F. Snepp thì CIA lúc đó chỉ biết không chính xác là có 1 sư đoàn mới từ miền bắc vào xuất hiện ở Cao Nguyên (sư đoàn 320).
    Còn chuyện CIA (Frank Snepp) biết được tướng Dũng vào nam chuẩn bị chiến dịch là ... khi tướng Dũng ra mắt quyển hồi ký vào năm 1976 !
    Nhân tiện cũng xin hỏi bác TLV, trong sách của Snepp, ông ta nói sư 320 diệt ngụy trên đường 7. Nhưng em lại thấy hình như chỉ có đoàn 986 tham trận mà thôi (xem bài của bác linh ở topic đại thắng muà xuân). Như vậy, Snepp có nhầm không ạ ?
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 21:56 ngày 20/01/2005
  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Đánh chặn, tiêu diệt địch trên đường số 7 là Sư đoàn 320
    Theo tư liệu của Tỉnh ủy Kak Lak :
    ...Triển khai ý định truy kích, Bộ Tư lệnh đã giao nhiệm vụ cho đại tá Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 và đại tá Bổng, chính ủy Sư đoàn nhanh chóng tổ chức cho Sư đoàn 320 truy kích quân địch rút chạy trên đường số 7. Sư đoàn được phối thuộc Trung đoàn 95B, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo binh, 110 xe ô tô vận tải chở quân và vũ khí, đạn dược.
    Lúc nhận lệnh truy kích, Sư đoàn 320 đang triển khai tiến công địch trên đường số 14, từ Thuần Mẫn tới Đạt Lý.
    Con đường tỉnh lộ số 1, từ Thuần Mẫn (Ea H?TLeo) đến Cheo reo khoảng 50 km, đi bộ nhanh cũng mất 1 ngày đêm. Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 64 / Sư đoàn 320) đang triển khai ở phía đông đường số 14, nhận lệnh tiến trước về hướng Cheo reo. Ban đêm, Tiểu đoàn 9 đốt đuốc, băng rừng chạy bộnhằm hướng đường số 7 lao tới. Cuộc bôn tập diễn ra nhanh chóng. Đến 16 giờ ngày 17-3, đại đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 đã đến được đường số 7. Anh em đã vượt qua cầu Sông Bờ, Đông thị xã khoảng 4 km, chặn địch lại. Như mũi tên lao cắm vào giữa đội hình quân địch, đại đội đã chiến đấu kiên cường giữa bốn bề quân địch dày đặc. Trong đêm 17-3, toàn bộ Tiểu đoàn 9 đã đến đầy đủ trên đường số 7 để ngăn chặn quân địch?
    Ngày 18-3, Trung đoàn 64 đã vượt qua cầu Sông Bờ, hình thành các chốt ngăn chặn địch trên đường số 7. Cầu sông bờ là cầu sắt, trọng tải thấp, xe của địch tranh nhau qua, xe tăng cũng dành đường để vượt khiến cầu bị sập, xe bị dồn lại. Một số xe của địch liều mạng, tranh nhau lội qua sông, bị lún xuống cát, hàng loạt xe nằm chết giữa sông. Một số địch vượt qua sông trước đã bị Trung đoàn 64 chặn lại.
    Trong khi đó Trung đoàn 9 của Sư đoàn 320 làm nhiệm vụ đuổi đánh phía sau đội hình rút chạy của địch. Sau khi đánh chiếm Phú Nhơn, Trung đoàn 9 đã theo đường số 14, đánh chiếm ngã 3 Mỹ Thạnh, tiếp đó tiến đến đường số 7.
    Trên đèo Ban B?Tlek, Trung đoàn 9 tiến công tiêu diệt tiểu đoàn bảo an và 1 bộ phận của liên đoàn biệt động 23 của địch
    Phối hợp với Trung đoàn 64 chặn đầu và Trung đoàn 9 đuổi đánh ở phía sau. Hồi 11 giờ ngày 18-3, Trung đoàn 48 bắt đầu tấn công vào giữa đội hình địch ở Cheo reo. Đến 18 giờ cùng ngày, Trung đoàn 48 chiếm xong thị xã Cheo Reo...
    ---

    ---
    Về Sư đoàn 968 tôi chỉ được biết nhiệm vụ ban đầu là tiến hành các hoạt động nghi binh ở Bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 hành quân vào khu tập kết chiến dịch ở Nam Tây Nguyên. Còn sau này ít thấy nói đến Sư đoàn này, hay là bị tổn thất? Tôi cũng đang tìm hiểu...
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 23:36 ngày 20/01/2005
  7. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Em xin cảm ơn bác TLV rất nhiều, mới hỏi đã được trả lời ngay!
    Như vậy đúng là sư đoàn 320 có tham chiến trong trận này. Còn đoàn 968, vì con số cao như thế, em nghĩ nó chỉ là 1 đơn vị tạm thời để huấn luyện tân binh trước khi bổ sung cho những đơn vị chủ công. Như vậy rất có thể là một số đơn vị của 968 được điều động về 320 sau trận nghi binh ở Plây Cu và tham gia trận truy kích đường 7.
    Xin chúc bác vài sao và vài chai đế
  8. mechua155

    mechua155 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2003
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Hi các bác
    Sư 968 là một đơn vị bộ binh nhẹ của Bộ tư lệnh đường Trường sơn gồm 2 trung đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo hỗn hợp
    trong chiến dịch tây nguyên nó được tăng cường 1 đại đội xe tăng và một số pháo 130mm, DKB làm nhiệm vụ nghi binh ở Kontum và Plây cu, 2 trung đoàn của nó nghi binh như 2 sư 10 và 320 hoạt động ở bắc Tây nguyên.
    Sau khi phía VNCH rút chạt khỏi kontum và Playcu, sư 968 vào chiếm 2 địa bàn này cùng sư đoàn công binh 470 BTL trường sơn và sư 377 phòng không, có một bộ phận nhỏ truy kích theo đường số 7.
    Sau đó toàn bộ sư đoàn này tiến xuống đồng bằng theo đường 19, phối hợp cùng sư đoàn 3 QK 5 giải phóng An khê, tiến xuống giải phóng Bình định ngày 31/3/1975, đánh tan sư đoàn 22 QĐ2 VNCH, là sư đoàn cuối cùng của QĐ2 nguỵ. Một bộ phận của sư 968 giải phóng 1 số đảo ở miền trung. Sau khi sư đoàn 3 QK5 và các đơn vị của quân đoàn 3 vào nam bộ, sư 968 tiến xuống Phú Yên - Khánh hoà thay chân các đơn vị này và làm nhiệm vụ phòng thủ vùng mới giải phóng và dự bị cho chiến dịch HCM
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    2 ?"TIẾNG CHUÔNG BÁO TỬ Ở ĐÀ NẴNG
    -------​
    Tướng Dũng, tổng chỉ huy ở miền Nam, đặt bản doanh trong khu rừng âm u và rậm rạp cách 35 km về phía Tây thành phố Ban Mê Thuột, cách biên giới Campuchia có 10 km. Ở vùng cao nguyên này nơi nào cũng có những con sông, hồ và thác nước. Người ta có thể dễ dàng giấu quân trong vùng này, 1 đội, 1 trung đội, thậm chí cả 1 sư đoàn. Quân đội quốc gia đi theo các thung lũng. Họ thấy cần thiết phải kiểm soát, phải giữ được những con đường quốc lộ thời thuộc Pháp, vì đó đều là những con đường chiến lược. Vùng này giàu nguyên liệu gỗ tre, rộng lớn và hiểm trở. Những công dân Việt Nam, những người miền núi không biết nói tiếng Việt Nam, đã sống trên cao nguyên này hàng thế kỷ. Họ làm ruộng, săn bắn và chăn nuôi nhưng vẫn thành lập những bản làng khác lạ với quốc gia. Dù là người miền Nam hay người miền Bắc, người Việt Nam luôn có những ?ovấn đề? với người dân tộc miền núi.
    Để che dấu 3 sư đoàn tập trung trong vùng này mà không bị phát hiện, tướng Dũng đã ra lệnh chỉ được liên lạc với nhau bằng điện thoại, tuyệt đối không được dùng vô tuyến. Tướng Dũng ca ngợi những phong cảnh hoành tráng lộng lẫy, thích nghe những tiếng lá khô vàng ròn vỡ dưới chân của mình. Những chiếc lá ?okhộp? đẹp đẽ, chỉ cần một tia lửa nhỏ đã bùng cháy. Những người lính ít quan tâm đến cảnh vật điền viên mơ mộng như tướng Dũng. Sau mỗi lần xảy ra những đám cháy ở đây, họ lại phải đi sửa những đường dây điện thoại.
    Người ta phải mắc dây điện thoại thật cao ở trong rừng, vì voi rứng có thể phá hoại các đường dây điện thoại, nhiều khi tới vài trăm mét.
    Năm 1975, Bộ tham mưu quân đội Bắc Việt đã sử dụng thứ khi tài rất hiện đại của Liên Xô, nhưng họ lại thiếu những bản đồ. Tướng Dũng muốn biết tường tận vùng Ban Mê Thuột, thủ phủ của tỉnh Đác Lắc. Ông cử một sỹ quan và vài người giả làm thường dân, thâm nhập vào thành phố. Họ đã hốt hoảng quay trở lại, viên sỹ quan đã choáng người, nói :
    - Thành phố to rộng lắm, gần như thành phố Hải Phòng của miền Bắc.
    Những người của toán tuần tra đã thấy thật ấn tượng về những vùng ngoại thành, những ngôi nhà ?osáng rực ánh đèn néon?. Ở Bộ tham mưu ngoài miền Bắc, người ta cho rằng Ban Mê Thuột không đáng kể gì. Vì Ban Mê Thuột chỉ có 150.000 dân là cùng, làm sao so được với Hải Phòng có gần 1 triệu dân.
    Với số quân vượt trội của mình, tướng Dũng muốn làm tăng thêm sự bất ngờ. Ông hạn chế các toán tuần tra và lo lắng đến ?onhiều chướng ngại vật? như ruộng đồng và các vị trí tăng cường mạnh, mà các vũ khí nặng và các đơn vị chiến xa phải vượt qua. Ông muốn các đơn vị cơ giới tấn công của mình phải được tiến lên nhanh chóng.
    Với một tầm vóc khiêm tốn, nhưng lần đầu tiên chiến lược ?obão táp? (Blitzkrieg) được áp dụng ở Việt Nam
  10. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Xin cám ơn bác mechua bổ sung Như vậy trận đường 7 do sư 320 và một số đơn vị 968 tham chiến.
    Về chuyện CIA biết nhưñg gì về ý định chiến lược của ta thì Frank Snepp cũng tả như sau :
    "Quân đội Bắc Việt Nam mơ? đâ?u cuộc tiến công Buôn Mê Thuột trên Tây Nguyên nga?y 1 tháng 3, bă?ng việc đánh chiếm la?ng nho? Đức Lập, một đô?n duy nhất cu?a Nam Việt Nam đóng ơ? xa, giưfa biên giới CPC va? thị xaf. Nhiê?u đơn vị quân đội Bắc Việt Nam đánh các vị trí tiê?n tiêu dọc đươ?ng số 19 giưfa Pleiku va? bơ? biê?n, cắt hă?n con đươ?ng na?y. Nga?y 4 tháng 3, việc duy nhất co?n lại đê? hoa?n tha?nh giai đoa?n đâ?u cuộc tiến công cu?a ông Văn Tiến Dufng, đó la? việc đánh cắt đươ?ng số 14 giưfa Pleiku va? Buôn Mê Thuột. Trong khi đó ơ? Sa?i Go?n, tôi la?m xong một ba?n nhận định vê? chiến lược cu?a quân đội Bắc Việt Nam cho Hoa Thịnh Đốn, trong đó tôi nêu rof tất ca? nhưfng gi? tôi biết vê? ý định cu?a Bắc Việt Nam. Tôi dự kiến, ít nhất sef có 4 sư đoa?n Bắc Việt Nam định cô lập Huế va? Đa? Năfng trong nhưfng tuâ?n tới, co?n nhưfng đơn vị khác sef đánh lấn nhưfng vu?ng ơ? bơ? biê?n, phía nam quân khu I. Có thê? đô?ng thơ?i họ sef tiến công Quân khu II va?o hệ thống đươ?ng sá ơ? phía Nam, phía Đông các thị xaf Kon Tum, Pleiku va? chung quanh Buôn Mê Thuột. Va? tôi đaf hoa?n toa?n lâ?m lâfn. Tôi đaf không dự kiến được cộng sa?n sef đánh va?o nơi na?o đâ?u tiên. Ở sứ quán Myf tại Sa?i Go?n, chúng tôi không hê? biết Đại tướng Văn Tiến Dufng đang ơ? miê?n Nam Việt Nam, lại ca?ng không biết việc ông đặt sơ? chi? huy ơ? phía Tây Nam Buôn Mê Thuột đang chuâ?n bị tiến công thị xaf. Quân tiếp, viện cu?a cộng sa?n kéo va?o vu?ng na?y ma? không hê? có ai biết. Nếu đúng la? cộng sa?n chuâ?n bị mơ? một chiến dịch mu?a khô mới thi? không một ai trong chúng tôi biết rof mục tiêu chính cu?a họ".
    (?)"Trưa nga?y 10 tháng 3, cộng sa?n tiến công thị xaf tư? phía Bắc va? phía Tây...Trận đánh đaf kết thúc sau 30 giơ? chiến đấu ma? chính phụ Sa?i Go?n vâfn chưa có một ý niệm rof ra?ng vê? nhưfng sự kiện đang xa?y ra. Mafi tới nga?y 14 tháng 3 họ mới biết được tin thị xaf Buôn Mê Thuột đaf mất. Nguô?n tin tức duy nhất họ biết la? nhưfng bức a?nh do không quân Myf va? do ngươ?i Nam Việt Nam chụp. Nhưfng bức a?nh ấy hâ?u như không nói với chúng tôi điê?u gi? ca?. Tôi nhớ có xem một va?i tập a?nh một, hai nga?y sau khi Bắc Việt Nam mơ? cuộc tấn công, thấy khói va? đô? vơf ơ? sân bay, phâ?n co?n lại trong thị xaf có ve? yên tifnh. Một va?i xe tăng đô? ơ? chợ chính, gâ?n "ba" Bạch Thư?. Một va?i ngươ?i tư? tư? đi xe đạp chung quanh. Tư? nhưfng chứng cứ nghe?o na?n ấy, chúng tôi cho ră?ng lực lượng chính phu? đaf đâ?y lu?i được trận tiến công. Nhưng điê?u ngược lại mới la? sự thật. Thị xaf đaf nă?m trong tay quân Bắc Việt Nam".
    (?)"Cuộc tiến công Buôn Mê Thuột cufng bất ngơ? đối với Tô?ng lafnh sự Myf ơ? Nha Trang la? Moncrieff Spear. Nga?y 13 tháng 3, sau khi nghe Howard Archer, tru?m CIA ơ? Quân khu II, báo cáo Pleiku đaf nhanh chóng biến tha?nh một thị xaf ma, Spear đaf cho di ta?n ngay các nhân viên không câ?n thiết".
    (?)"Va?o nga?y 15 tháng 3, chi? 4 nga?y sau cuộc tấn công, tô?ng thống Việt Nam Cộng ho?a Nguyêfn Văn Thiệu thống báo với các tướng lifnh la? cao nguyên miê?n Trung pha?i bị bo? rơi. Vậy la? ông ta bo? luôn ca? quân khu I va? II. Hâ?u như chi? qua một đêm, ông ta pha?i nhượng mất nư?a đất nước...
    Suốt buô?i chiê?u da?i vô tận (15/3), quân cu?a Phú (Tư lệnh Quân khu II) rút chạy kho?i Pleiku va? Kon Tum hết sức lộn xộn. Ba?n thân cuộc rút chạy như một tro? tre? con. Tướng Tất, ngươ?i điê?u khiê?n cuộc rút chạy đaf quên ca? việc chuâ?n bị sơ đă?ng nhất. Không có ai đi điê?u tra ti?nh hi?nh đươ?ng 7B đến Phú Bô?n va? ra bơ? biê?n. Không có phương tiện gi? đê? chơ? ha?ng nghi?n ngươ?i dân chắc chắn sef kéo theo quân đội. Do đó lính va? dân chen chúc, trộn lâfn với nhau, co?n xe tăng va? xe bọc thép chơ? nặng thi? lại dâfn đâ?u. Không chịu nô?i sức nặng, đươ?ng bộ lún, bị phá. Một đoa?n gô?m hai nghi?n xe hơi, xe gíp, xe vận ta?i nhanh chóng ngập trong một con sông bu?n...".
    (?)"Nga?y 16 tháng 3, buô?i chiê?u, tôi dự tha?o cho Polga (ngươ?i phụ trách CIA ơ? Sa?i Go?n) một ba?n tươ?ng tri?nh vê? hậu qua? cu?a việc rút bo? Tây Nguyên. Vê? mặt lịch sư?, cuộc rút chạy na?y không đê? lại một điê?u gi? tốt. Nó la?m nhớ lại cuộc rút lui cu?a quân Pháp kho?i Kon Tum năm 1954 đánh dấu bước đâ?u việc chấm dứt chế độ thực dân Pháp ơ? phía Nam nước Việt Nam, cufng như chiến thắng cu?a cộng sa?n ơ? Điện Biên Phu?, mấy tháng sau, mơ? đâ?u cho sự cáo chung na?y ơ? phía Bắc.
    Đại tướng Vof Nguyên Giáp, nha? chiến lược bậc thâ?y cu?a Việt Minh trước đây đaf tư?ng viết ră?ng: Ngươ?i na?o kiê?m soát được Tây Nguyên thi? nắm được chi?a khóa cu?a Đông Dương. ý kiến na?y được thực hiện. Thật vậy, hệ thống đươ?ng sá ơ? vu?ng na?y la? nhưfng con đươ?ng lý tươ?ng cho việc đi lại giưfa miê?n Bắc va? miê?n Nam Việt Nam, đô?ng thơ?i vu?ng na?y cufng la? một bậc nha?y hoa?n ha?o cho một cuộc chiến tranh chớp nhoáng tiến ra bơ? biê?n".
    (?)"Nga?y 25 tháng 3 chính phu? nam Việt Nam báo tin Huế thất thu?. Tôi la?m cho Polga một ba?n báo cáo, trong đó tôi cố gắng ta? cuộc rút lui chiến lược hôfn loạn bă?ng nhưfng tư? dêf hiê?u. Tôi viết: Tám ti?nh đaf mất trong ba tuâ?n qua, bốn ti?nh khác đang bị uy hiếp.
    (..)"Quá trưa nga?y 28 tháng 3, sư đoa?n 3 cu?a Nam Việt Nam không co?n nưfa. Tin thất thiệt bay vê? bộ tư lệnh cu?a tươ?ng Trươ?ng. Trươ?ng gọi cho Thiệu ơ? Sa?i Go?n đê? nghị da?nh cho ông ta một sự "linh động" na?o đó. Thiệu không the?m ho?i gi? vi? biết ră?ng "linh động" có nghifa la? di ta?n ngay va? triệt đê? bă?ng đươ?ng biê?n!"
    (?)"Nga?y 29 tháng 3, không rof giơ? na?o, tướng Ngô Quang Trươ?ng, tư?ng được coi la? sif quan ưu tú nhất cu?a quân đội Nam Việt Nam đang bơi va? trôi giưfa nhưfng con sóng nguy hiê?m ơ? ngoa?i khơi Đa? Năfng. Ông không pha?i la? ngươ?i bơi gio?i, ngươ?i ta pha?i vớt ông ta lên tâ?u tuâ?n tra cu?a Việt Nam đang đón".
    (?)"Quân đội Việt Nam tan raf. Số quân bị loại kho?i vo?ng chiến đấu trong giai đoạn na?y cu?a cuộc chiến tranh lên tới 150.000 ngươ?i. Phương tiện chiến tranh bị phá hu?y hay bi đối phương thu đáng giá một ty? đô-la".

    Ha?i Trung sưu tầm
    panzerlehr trích báo QĐND

Chia sẻ trang này