1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thanh Hoá, những điều cần biết ( Thông tin về địa lý, hành chính, kinh tế, du lịch ...của tỉnh Thanh

Chủ đề trong 'Thanh Hoá' bởi caycothu, 07/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0

    Huyện Quan Hoá qua các thời kỳ lịch sự
    Thời nhà Hán, vùng đất này thuộc miền đất cực tây huyện Ðô Lung, thời Tề đổi tên từ Ðô Lung thành Cát Lung. Ðến thời Ðường, vùng đất này thuộc huyện Trường Lâm. Thời Ðinh, Lê, Lý không thay đổi.
    Thời Lê có tên là châu Quan Gia (bởi có Mường Ca - Ða) thuộc phủ Thanh Ðô (bên cạnh các châu khác là: châu Lang Chánh, châu Tâm, châu Sâm).
    Năm Minh Mệnh thứ 16 (năm 1835) hợp nhất châu Tâm với châu Quan Gia để lập ra châu Quan Hóa. Châu Quan Hóa có tên từ đây.
    Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, châu Quan Hóa đổi tên thành huyện Quan Hóa với 32 xã và 1 thị trấn.
    Thực hiện Nghị định 72/CP của Chính phủ ngày 18-11-1996 về việc điều chỉnh địa giới tỉnh Thanh Hóa, huyện Quan Hóa chia làm 3 huyện: huyện Quan Hóa, huyện Quan Sơn và huyện Mường Lát. Vì thế, huyện Quan Hóa ngày nay chỉ còn 17 xã và 1 thị trấn.

    1) Tăng trưởng kinh tế 7 - 8%/năm. Cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng lâm - nông nghiệp - dịch vụ - thương mại và tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, lâm - nông nghiệp chiếm 73,3%; thuỷ sản 0,7%; công nghiệp 1,3%; xây dựng 9,3%; thương mại 14,4%.
    2) Văn hoá - xã hội:
    - Tăng dân số tự nhiên: 1%/năm.
    - Ðến năm 2005, 80% số xã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
    - Xoá hết hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 20% (năm 2005).
    - 60% dân số sống ở nông thôn được dùng nước sạch (năm 2005).
    - Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống còn 20% vào năm 2005.
    - Phấn đấu đạt 65% số làng văn hoá (50 làng), 80% số hộ gia đình văn hoá.
    3) Xây dựng Ðảng: tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đạt 65 - 70%, phát triển 600 đảng viên mới.


    Các dự án của ngành lâm nghiệp
    - Khoanh nuôi tái sinh tự nhiên 10.100ha, trong đó dự án 661 là 7.752ha, khu bảo tồn Pù Hu 1.550ha, khu bảo tồn Pù Luông 2.000ha.
    - Bảo vệ rừng phòng hộ: 22.430ha, trong đó dự án 661 là 15.430ha, khu bảo tồn Pù Hu 5.000ha, khu bảo tồn Pù Luông 2.000ha.
    - Trồng rừng tập trung: 575ha, trong đó dự án 661 là 400ha, vốn nhân dân: 50ha, khu bảo tồn Pù Hu 100ha, Pù Luông 25ha.
    - Trồng cây phân tán vốn nhân dân từ 50.000-60.000 cây/năm, tỷ lệ che phủ từ 57-69,5%.
    - Phát triển kinh tế trang trại vườn rừng kết hợp quy hoạch khai thác lâm sản. Ðến năm 2005, cây chủ đạo là cây luồng, dự kiến mỗi năm phấn đấu khai thác 1,8-2,5 triệu cây, phải đưa được vào chế biến tại địa bàn 1-1,5 triệu cây. Khai thác 1.000-1.300 tấn nứa nan thanh, 25-30 ngàn cây nứa cây, 750m3gỗ rừng và gỗ vườn các loại.
     
  2. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    HUYỆN VĨNH LỘCTiểu thủ công nghiệp và du lịch ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai
    - Diện tích tự nhiên: 157,62km2- Ðơn vị hành chính: 15 xã, 1 thị trấn- Dân số: 86.980 người- Bình quân lương thực tính theo đầu người: 545kg/năm



    Dưới sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, trong những năm gần đây, Vĩnh Lộc có bước tăng trưởng cao, đặc biệt ngành nông nghiệp phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, với một huyện có truyền thống lịch sử lâu đời, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá và tài nguyên đá phong phú thì sự phát triển kinh tế của Vĩnh Lộc thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Ðể tạo được bước đột phá trong phát triển kinh tế, Vĩnh Lộc cần tận dụng và phát huy tối đa tiềm năng cho sự phát triển tiểu thủ công nghiệp và du lịch.


    Ông Phạm Ngọc Vỵ - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lộc
    Vĩnh Lộc là một huyện trung du miền núi, nằm ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hoá. Phía bắc giáp huyện Thạch Thành, phía nam giáp huyện Yên Ðịnh, phía đông giáp huyện Hà Trung và phía tây giáp huyện Cẩm Thuỷ. Hệ thống giao thông thuỷ bộ khá phát triển với tuyến đường huyết mạnh là quốc lộ 217, quốc lộ 45 và 2 con sông Bưởi, sông Mã chảy qua. Thêm nữa, những dãy núi của huyện Vĩnh Lộc có trữ lượng lớn, chất lượng đá tốt, đẹp, có thể sản xuất vật liệu xây dựng và đá mỹ nghệ. Ðặc biệt, nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: thành nhà Hồ, phủ Trịnh... là tài sản vô giá của người dân Vĩnh Lộc nói riêng và của cả nước nói chung. Tất cả những nhân tố đó đã tạo cho Vĩnh Lộc những điều kiện hết sức cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội.
    Thành công trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
    Trong những năm qua, cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Ngành trồng trọt phát triển mạnh. Cơ cấu trà vụ được bố trí hợp lý để thích ứng với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc các loại cây trồng, phòng trừ sâu bệnh cũng được chú trọng. Do vậy, năng suất tăng cao, sản lượng và chất lượng tăng khá. Nếu năm 1995, năng suất bình quân đạt gần 30 tạ/ha thì đến năm 2002 đã tăng lên 60 tạ/ha. Nhờ đó, Vĩnh Lộc đã giữ vững và ổn định an ninh lương thực với mức lương thực bình quân đầu người đạt 545 kg/năm, tăng 171 kg so với năm 1995.
    Bên cạnh cây chủ lực lúa, các loại cây màu và cây công nghiệp cũng cho giá trị kinh tế cao. Cây thuốc lá một thời được coi là cây xoá đói giảm nghèo, giờ đã thay bằng cây mía, dâu, lạc... Diện tích các loại cây công nghiệp tăng đã góp phần nâng cao đời sống của nhiều hộ dân.
    So với các huyện trong tỉnh, ngành chăn nuôi của Vĩnh Lộc phát triển chậm hơn. Tuy vậy, trong 2 năm gần đây, Vĩnh Lộc cũng đã đưa nhiều vật nuôi có giá trị kinh tế vào chăn thả như: bò lai sind, lợn hướng nạc, bước đầu đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, để khai thác có hiệu quả vùng đồng, đặc biệt là vùng đồng trũng, Vĩnh Lộc đã mạnh dạn kết hợp sản xuất xen canh lúa và nuôi trồng thuỷ sản bằng mô hình lúa - cá. Mô hình kết hợp này bước đầu cho giá trị kinh tế cao, tận dụng tối đa đất ruộng, biến những vùng đất vốn bất lợi trong trồng trọt thành thuận lợi trong nuôi trồng thủy sản.
    Dưới sự quan tâm chỉ đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, chương trình trồng rừng theo dự án 327, 661 được Vĩnh Lộc duy trì đều đặn qua từng năm. Với chủ trương cải tạo đất, phủ xanh đất trống đồi trọc, huyện đã tiến hành giao đất, giao rừng, tăng trách nhiệm của chủ sử dụng đất. Diện tích rừng tăng không những góp phần giữ vững môi trường sinh thái, mà còn là một nguồn nguyên liệu dồi dào, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành chế biến và khai thác lâm sản trong tương lai.
    Tiểu thủ công nghiệp và du lịch, nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế
    Tuy nhiên, muốn thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện xác định: Vĩnh Lộc cần phải chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp.


    Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá Pham Minh Ðoan gắn huy chương lên quân kỳ "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" do Nhà nước trao tặng huyện Vĩnh Lộc tại sân vận động huyện (26 - 01 - 2001)


    Xét điều kiện tự nhiên của Vĩnh Lộc cho thấy, huyện hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Với tài nguyên đá phong phú, Vĩnh Lộc có thế mạnh trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất đá. Toàn huyện hiện đã hình thành cụm công nghiệp khai thác và sản xuất đá. Năm 2002, giá trị xuất khẩu từ đá đạt 250.000 USD, dự kiến năm 2003 đạt 300.000 USD. Bên cạnh đó, trong những năm qua một số ngành nghề truyền thống tiếp tục được duy trì và phát triển, ngành chế biến gỗ, sản xuất đồ mộc, chế biến lương thực - thực phẩm, đã khẳng định vị thế trong ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, trong những năm kế tiếp, Vĩnh Lộc sẽ tập trung phát triển một số làng nghề như: mây giang đan, trồng dâu - nuôi tằm - ươm tơ nhằm đạt được mục tiêu tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế huyện.
    Là một huyện có diện tích không rộng, nhưng bù lại Vĩnh Lộc có nhiều di tích lịch sử văn hoá, những dấu ấn lịch sử còn lại khá đậm nét với khu di tích thành nhà Hồ, phủ Trịnh và quần thể lăng miếu thờ họ Trịnh, đền thờ Trần Khát Chân... Ðây là tiền đề, là thế mạnh để Vĩnh Lộc phát triển du lịch văn hoá lịch sử. Bên cạnh đó, những dãy núi, cùng dòng chảy của sông Bưởi và sông Mã đã tạo cho Vĩnh Lộc phong cảnh "sơn thuỷ hữu tình". Do đó, ngoài hệ thống hồ đập có thể khai thác để phát triển du lịch sinh thái, hệ thống hang động kéo dài, với những nhũ đá, suối nước là những địa điểm hết sức lý tưởng đối với khách du lịch trong và ngoài nước.
    Các ngành kinh tế - xã hội khác
    Cùng với nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, ngành thương mại - dịch vụ Vĩnh Lộc cũng phát triển tương đối đa dạng, thị trường mở rộng đến các thôn, xã trong huyện. Tổng mức bán lẻ năm 2002 ước đạt 70 tỷ đồng, tăng gần 2,5 lần so với năm 1995.
    Hoà nhịp với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng, kho bạc đã đáp ứng yêu cầu lưu thông tiền tệ, phục vụ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn sử dụng năm 2002 đạt khoảng 50 tỷ đồng, trong đó số vốn cho vay của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đạt khoảng 36 tỷ đồng, Ngân hàng phục vụ người nghèo đạt khoảng 11 tỷ đồng. Các hộ vay vốn sản xuất - kinh doanh đều đạt hiệu quả cao, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và dần ổn định. Thu nhập bình quân tính theo đầu người tăng từ xấp xỉ 100 USD (năm 1995) lên gần 300 USD (năm 2002), tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 10,5%.
    Với sách lược tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế phát triển, kết cấu hạ tầng trên địa bàn huyện đã được củng cố và tăng cường. Trong những năm qua, Vĩnh Lộc đã tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ Trung ương, tỉnh, vốn trợ giúp của các tổ chức nước ngoài và nguồn vốn do nhân dân đóng góp để đầu tư xây dựng nhiều công trình trọng điểm. Ðến nay, hầu hết các trường học, bệnh viện, công sở đã được xây dựng khang trang. Hệ thống giao thông nông thôn đang được nhựa hoá và bê tông hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình vận chuyển và thông thương giữa các địa phương. Mạng lưới bưu điện, thông tin liên lạc có những bước phát triển rộng khắp và đa dạng về loại hình dịch vụ với mức bình quân 1,5 máy/100 dân. Các trạm phát thanh, sau khi được đầu tư nâng cấp, đã đáp ứng được nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước.
    Công tác giáo dục - đào tạo cũng đạt được những tiến bộ đáng kể với quy mô cấp học, ngành học được mở rộng. Tính đến năm 2002, toàn huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học (đúng độ tuổi), trung học cơ sở; 01 trường trung học phổ thông, 06 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
    Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Ðảng về phát triển văn hoá cơ sở, đến hết năm 2002, toàn huyện đã khai trương 76 làng, cơ quan văn hoá, chiếm 70% tổng số làng, cơ quan trên toàn huyện.
    Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cũng đạt nhiều kết quả tốt. Các cơ sở khám, chữa bệnh được đầu tư nâng cấp, đảm bảo nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Ðồng thời, do thực hiện tốt chương trình y tế dự phòng nên nhiều năm liền Vĩnh Lộc không để xảy ra dịch bệnh, sức khoẻ của nhân dân được đảm bảo.
    Quốc phòng, an ninh - trật tự xã hội được củng cố và giữ vững. Các chỉ tiêu tuyển và giao quân đúng kế hoạch. Bên cạnh đó, huyện đã thực hiện tốt các chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách đối với người cao tuổi, người già cô đơn, gia đình chính sách...
    Nhằm phát huy những kết quả đạt được, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lộc đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2005. Trong đó, tập trung thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
    1) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp là nhiệm vụ then chốt. Ðồng thời, đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng khai thác những tiềm năng thế mạnh của huyện, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và chế biến vật liệu xây dựng.
    2) Tập trung phát triển ngành du lịch gắn với văn hoá truyền thống.
    3) Từng bước đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để từng bước tăng giá trị kinh tế trên một ha đất nhằm thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
    Có thể nói, trong những năm qua, Ðảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Lộc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Những định hướng và tiềm năng, cùng những thành tựu đạt được là động lực, nhân tố quan trọng giúp Ðảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Lộc tiếp tục thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới.
  3. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0

    Lịch sử và con người Vĩnh Lộc
    Cũng như các vùng đất khác của Thanh Hoá, Vĩnh Lộc có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Từ thời Bắc thuộc, Vĩnh Lộc là miền đất thuộc Tư Phố của bộ Cửu Chân. Sang thời Trần, vùng đất này có tên gọi là huyện Vĩnh Ninh. Thời Lê Trung Hưng, được đổi tên thành Vĩnh Phúc. Thời Tây Sơn, đổi tên thành Vĩnh Lộc và được giữ cho đến ngày nay.
    Trải qua thời gian của lịch sử, sau nhiều lần tách nhập, diện tích huyện Vĩnh Lộc hiện khoảng 157,62 km2, bao gồm 15 xã và 1 thị trấn, trong đó có 5 xã miền núi. Dân số tính đến ngày 1-4-1999 là 86.980 người, gồm 2 dân tộc Kinh và Mường (dân tộc Kinh chiếm 95,2%).
    Vĩnh Lộc là huyện có truyền thống yêu nước và tinh thần hiếu học, nơi phát tích của nhà Hồ và 12 đời chúa Trịnh. Thành nhà Hồ, phủ Trịnh - khu di tích lịch sử của huyện là những minh chứng lịch sử hào hùng của con người và mảnh đất nơi đây. Ngay từ thời phong kiến, huyện Vĩnh Lộc đã có nhiều người là những vị tướng giỏi cầm quân đánh giặc cứu nước như: Trần Khát Chân, Hoàng Ðình ái, Trịnh Khả, Tống Duy Tân. Phát huy truyền thống ấy, nhân dân Vĩnh Lộc đã hăng hái đi theo tiếng gọi của Ðảng, đóng góp sức người, sức của cho hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, nhân dân Vĩnh Lộc đã và đang hăng hái tham gia sản xuất và giành được nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh.


    Bảng vàng danh dự
    - Ngày 17-6-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76/SL tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất cho đồng bào và cán bộ Vĩnh Lộc, vì đã xoá nạn mù chữ trước thời hạn quy định và sớm nhất trong các huyện miền Bắc.
    - Ðược Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (năm 2001).
    - Lực lượng vũ trang huyện được tặng thưởng: 01 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 02 Huân chương Quân công hạng Nhì.
    - 5 xã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; 3 xã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
    - Trường tiểu học Vĩnh Thành, Trường trung học phổ thông Vĩnh Lộc được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
    - Về cá nhân, huyện Vĩnh Lộc có 03 Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, 01 Anh hùng Lao động và 37 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
    - Ngoài ra, Vĩnh Lộc còn được nhận nhiều bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, của tỉnh và các bộ, ngành cho tập thể, cá nhân.
  4. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    HUYỆN CẨM THUỶÐi lên từ sự kết hợp hài hoà giữa phát triển nông - lâm nghiệp - du lịch
    - Ðơn vị hành chính: 18 xã, 2 thị trấn- Tốc độ tăng trưởng GDP: 6,9%/năm- GDP bình quân/người/ năm: 2,47 triệu đồng- Cơ cấu kinh tế: nông - lâm - thuỷ sản 62,51%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản      9,16%; dịch vụ - thương mại 28,33%- Tổng sản lượng lương thực: 43.225 tấn- Bình quân lương thực đầu người: 392kg/năm


    Ðẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi là một chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước. Trên tin thần của chủ trương lớn đó, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Cẩm Thuỷ xác định: con đường phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn nhằm đạt tới ba mục tiêu cơ bản dân sinh, dân trí và dân chủ luôn gắn chặt với quá trình huy động, sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng của địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của tỉnh và Trung ương; của các ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
    Thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện khoá XVI và đẩy mạnh việc thực hiện 5 chương trình kinh tế lớn do Ðại hội Ðảng bộ huyện đề ra, trong giai đoạn 1999 - 2002, kinh tế - xã hội Cẩm Thuỷ đã có bước phát triển toàn diện. Ðặc biệt, sản xuất nông nghiệp đã đạt được kết quả khả quan, sản lượng lương thực tăng cao (43.225 tấn), lâm nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực (85 trang trại); hệ thống giao thông, thuỷ lợi, xây dựng cơ bản phát triển khá, thương mại - du lịch phát triển bền vững.
    Những kết quả đạt được từ đầu tư đúng hướng
    Là một huyện thuần nông, sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, nên trong thời gian qua, Ðảng bộ, Uỷ ban nhân dân cùng các ban, ngành trong huyện đã tích cực bám sát thực tế, tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và nâng cao hệ số sử dụng đất (từ 1 lần/năm lên 2,5 lần/năm), nhằm thúc đẩy kinh tế huyện phát triển toàn diện. Nhờ đó, sản xuất nông nghiệp huyện Cẩm Thuỷ phát triển khá vững chắc. Năng suất cũng như tổng sản lượng lương thực tăng nhanh, từ 33.800 tấn (năm 1995) lên 43.225 tấn (năm 2002). Nhiều xã trong huyện đạt năng suất 40 - 50 tạ/ha như: Cẩm Vân, Cẩm Tân, Cẩm Sơn, Cẩm Giang,... Bước đầu hình thành vùng cây công nghiệp mía (2.000ha), cây cao su, cây ăn quả.
    Cẩm Thuỷ là huyện có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế vườn đồi rừng, thu hút nhiều lao động với thu nhập ổn định. Ðặc biệt, sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết 07/TU của Tỉnh uỷ về phát triển trang trại, tốc độ phát triển và quy mô được nâng lên rõ rệt. Ðến nay, Cẩm Thuỷ đã có 58 trang trại với quy mô vừa và nhỏ, trong đó có 43 trang trại được phân loại theo quy chuẩn của Trung ương và 45 trang trại quy chuẩn huyện. Các loại hình trang trại được cơ cấu theo hình thức kết hợp giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi (chiếm 72,2%); trang trại chăn nuôi - nuôi trồng thuỷ sản (chiếm 3,5%). Nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiêp, nông thôn, tận dụng tiềm năng đất, nguồn lao động, trong những năm tới, huyện chủ trương tăng cường và khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế trang trại cả về quy mô, số lượng và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, huyện cũng rất quan tâm đến sự phát triển của ngành lâm nghiệp. Hàng năm, huyện đã trồng mới khoảng 579,5ha rừng, đưa tổng diện tích rừng trồng của toàn huyện năm 2002 lên 2.716 ha (riêng năm 2002 diện tích trồng mới là 1.093,2 ha). Diện tích rừng được khoanh nuôi và bảo vệ là 9.685ha. Ngoài ra, huyện đã quy hoạch đất lâm nghiệp và giao rừng với tổng diện tích 18.925,38ha, bằng 75% đất lâm nghiệp, trong đó giao 14.745,8ha cho 6.171 hộ, 3.997,7ha cho lâm trường, 18ha cho các tổ chức xã hội.


    Các cán bộ ngành nông nghiệp thăm ruộng ngô và đậu tương trên đất 2 lúa tại cách đồng Phú Lai - xã Cẩm Giang


    Mặc dù là một huyện miền núi thuần nông, nhưng trong những năm gần đây, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hoạt động của các ngành giao thông, xây dựng, bưu chính - viễn thông, truyền hình vẫn đạt được những bước phát triển đáng kể. Việc đầu tư trang bị máy móc công nghệ mới hiện đại đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động khiến mọi mặt của đời sống xã hội có những thay đổi sâu sắc. Trong đó, giá trị sản lượng ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ bình quân đạt gần 17,93 tỷ đồng/năm với các mặt hàng chủ yếu như vật liệu xây dựng, mây tre đan, đồ mộc, may mặc...
    Kết cấu hạ tầng - tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế
    Ðầu tư kết cầu hạ tầng sẽ là tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế. Nhận thức được vấn đề đó, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Thuỷ luôn coi trọng công tác đầu tư cho lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi. Hàng năm, toàn huyện duy tu, bảo dưỡng 30,5 km đường giao thông, đào đắp hàng ngàn m3 đất đá, làm mới 20,1 km đường cấp phối và 3km đường bê tông nông thôn. Tổng kinh phí đầu tư cho giao thông nông thôn vào khoảng 1.811 triệu đồng/năm và tổng kinh phí làm thuỷ lợi 2.339,6 triệu đồng/năm.
    Bên cạnh đó, công tác xây dựng cơ bản cũng luôn được huyện quan tâm chỉ đạo. Trong những năm qua, Cẩm Thuỷ đã phát huy được nội lực trong dân, tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước để tập trung nguồn vốn xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, điện, bệnh viện, trường học... Ðến nay, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản lên tới 67,3 tỷ đồng, bình quân mỗi năm đầu tư 16,8 tỷ đồng, trong đó vốn do nhân dân đóng góp chiếm 9,6%. Nhờ đó, đến nay điện lưới quốc gia đã đến 19/20 xã, thị trấn trong huyện với 83,8% số hộ được dùng điện. 100% số xã có nhà truyền thông dân số. Toàn huyện có trên 424 máy điện thoại và phấn đấu cuối năm 2005 có 100% xã, thị trấn có máy điện thoại.
    Công tác xây dựng làng văn hoá thu được kết quả khả quan. Toàn huyện hiện có 96 làng, 2 cơ quan và 1 trường học đăng ký khai trương xây dựng đơn vị văn hoá. Trong đó, 40 làng đạt danh hiệu làng văn hoá cấp huyện, 9 làng đạt danh hiệu làng văn hoá cấp tỉnh. Hầu hết các làng văn hoá đều xây dựng hương ước, quy ước về thực hiện nếp sống văn hoá. Bên cạnh đó, huyện Cẩm Thuỷ còn có 5 di tích lịch sử được xếp hạng: chùa Mẫu (Cẩm Vân), chùa Chặng (Cẩm Sơn), chùa Rồng (Cẩm Thạch), suối cá (Cẩm Lương) và chùa Hà. Ðặc biệt, suối cá Cẩm Lương đã được Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh quy hoạch thành khu du lịch sinh thái, một tiềm năng lớn của huyện.
    Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ, chất lượng khám, chữa bệnh ngày càng được nâng lên. Ðến nay, toàn huyện có 1 trung tâm y tế huyện, 2 trạm khám đa khoa, 20 trạm xá ở 20 xã, thị trấn, 100% thôn, bản có cán bộ chuyên môn hoạt động, 60% số xã có bác sỹ, 17/20 xã, thị trấn có nhà khám chữa bệnh kiên cố. Chính nhờ làm tốt công tác tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ sinh con thứ ba giảm xuống chỉ còn 8,7%, tỷ lệ sinh giảm 0,6%/năm.
    Ngoài ra, huyện đã tập trung chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo một cách toàn diện. Toàn huyện hiện có 28 trường tiểu học, 21 trường trung học cơ sở và 3 trường trung học phổ thông. Số học sinh tiểu học là 13.370 em, trung học cơ sở 13.289 em, trung học phổ thông 4.025 em. Ðến nay, huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, 6 xã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và 4 trường tiểu học đạt trường chuẩn quốc gia.
    Ðịnh hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010
    Phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc, nêu cao ý thức tự lực tự cường, năng động, sáng tạo, tích cực khai thác nội lực, thu hút các dự án của Trung ương, các địa phương trong cả nước, nhằm tăng cường, cơ sở vật chất, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Thuỷ đề ra một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội như sau:
    Về nông, lâm nghiệp: tranh thủ mọi nguồn lực cho xây dựng, nâng cấp, cải tạo các công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, chủ động tưới tiêu cho 4.000ha diện tích cây trồng 2 - 3 vụ/năm. Thực hiện dồn điền, đổi thửa hợp lý tạo điều kiện cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, các chế phẩm sinh học để áp dụng thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh.
    Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: xây dựng hoàn chỉnh 3 khu công nghiệp tập trung ở thị trấn Cẩm Thuỷ, Cẩm Tú và Cẩm Tân. áp dụng các chính sách thu hút đầu tư, xây dựng ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, phấn đấu đến năm 2010 có từ 1.500-2.000 lao động làm việc ở các ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với mức thu nhập bình quân 4 - 5 triệu đồng/người/năm. Phấn đấu 100% xã có chợ nông thôn, mở rộng các nghề dịch vụ, buôn bán, hoàn chỉnh mạng lưới lưu thông hàng hoá từ huyện đến các khu dân cư, tăng số lao động trong khâu dịch vụ thương mại. Tập trung chỉ đạo xây dựng khu du lịch sinh thái suối cá Cẩm Lương, cửa Hà và các danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện nhằm phát triển lĩnh vực du lịch - một tiềm năng kinh tế lớn của huyện.


    Về xây dựng kết cấu hạ tầng: áp dụng đồng bộ các giải pháp đầu tư, tranh thủ mọi nguồn lực để tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời huy đông nội lực, phấn đấu đến năm 2010 đạt các mục tiêu về điện, đường, trường trạm hoàn chỉnh trên địa bàn huyện. Xây dựng các tuyến giao thông liên xã, đường Vân - Yên - Sơn, cầu treo Cẩm Lương, đường Ngọc - Long, đường 217-Cẩm Phú, đường Tú - Quý với tổng vốn đầu tư 38 tỷ đồng.


    Suối cá thần Cẩm Lương - điểm du lịch đầy tiềm năng
    Với truyền thống đoàn kết trên dưới một lòng, quyết tâm cao của lãnh đạo và các dân tộc huyện Cẩm Thuỷ đã và đang nỗ lực phấn đấu góp phần xứng đáng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, xây dựng quê hương Cẩm Thuỷ giàu đẹp, góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.


    Tên gọi huyện Cẩm Thuỷ có từ bao giờ?
    - Từ thời Hán về trước, đây là vùng rừng núi đại ngàn, dân cư thưa, công tác quản lý hành chính chưa vươn tới vùng này.
    - Thời thuộc Hán (năm 111 trước Công Nguyên), miền đất này thuộc huyện Ðô Lung, về sau ghép huyện Ðô Lung vào huyện Võ Biên. Ðến thời Tề, Ðô Lung được tách ra và đổi thành huyện Cát Lung.
    - Thời Trần - Hồ đất Cửu Long Man thuộc huyện Lỗi Giang của châu Thanh Hoá.
    - Thời Minh, ghép huyện Lỗi Giang vào huyện Nga Lạc của châu Thanh Hoá, sau đó lại tách Lỗi Giang khỏi huyện Nga Lạc và đổi tên thành huyện Lạc Thuỷ.
    - Thời Lê Sơ, năm 1434 và năm 1454, đổi tên thành huyện Ba Long, sau đó là huyện Da Cẩm.
    - Thời Lê Thánh Tông (1460 - 1469) đổi tên là huyện Cẩm Thuỷ.
    - Thời Minh Mệnh, huyện Cẩm Thuỷ bao gồm cả huyện Bá Thước (ngày nay).
    - Năm Thành Thái thứ 14 (năm 1902) tách 2 tổng của huyện Cẩm Thuỷ là Cố Lũng ghép vào châu Quan Hoá và Thiết ống ghép vào châu Lang Chánh. Năm Thành Thái thứ 16 (năm 1904) lại tách thêm hai tổng Sa Lung và Ðiền Lư ghép vào châu Quan Hoá.
    - Năm Khải Ðịnh thứ 10 (năm 1925), tách 4 tổng Cổ Lũng, Thiết ống, Sa Lung, Ðiền Lư để lập ra châu Tần Hoá. Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) đổi thành huyện Cẩm Thủy và được gọi cho đến ngày nay.
    - Ðịa giới hành chính huyện Cẩm Thuỷ được cố định từ cuối thế kỷ XIV gồm 5 tổng là: Quan Hoàng, Vân Tập, Cự Lữ, Mông Sơn và Gia Dụ. Hiện nay, huyện Cẩm Thuỷ có 18 xã và 2 thị trấn (thị trấn Cẩm Thuỷ và thị trấn Nông trường Phúc Do).

    Mục tiêu đến năm 2005, toàn huyện có 120 - 150 trang trại, nâng tỷ lệ số hộ nông dân, công nhân có trang trại lên mức 1,2 - 1,5%. Số lao động thường xuyên của một trang trại vào khoảng 10 người (hiện nay bình quân một trang trại có 3,05 lao động) với vốn đầu tư khoảng 80 - 100 triệu đồng, khuyến khích các chủ trang trại đầu tư đúng hướng, có chiều sâu, đưa khoa học kỹ thuật vào thâm canh, tăng năng suất


    Chỉ tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2010
    1) Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 55%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 20%, dịch vụ 25%.
    2) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7 - 8%/năm.
    3) GDP bình quân đầu người: 350 - 400USD/năm.
    4) Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 7 - 8%/năm.
    5) Sản lượng lương thực: 50.000 tấn/năm.
    6) Bình quân lương thực/người: 400kg/năm.
    7) Tỷ lệ tăng dân số 1%/năm.
    8) Hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 8 - 10%, không còn hộ đói.
    9) 100% số hộ dùng điện lưới quốc gia.
  5. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    HUYỆN TRIỆU SƠNChuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - hướng ưu tiên phát triển kinh tế
    - Diện tích tự nhiên: 292,2km2- Dân số: 212.450 người, gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Thái- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 9,1%/năm, trong đó: nông - lâm nghiệp tăng: 5,5%; công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng: 24%; dịch vụ tăng: 12,5%- Cơ cấu kinh tế: nông - lâm nghiệp 55%; công nghiệp - xây dựng cơ bản 18%; dịch vụ 27%.



    Ông Lê Văn Phan - Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Triệu Sơn


    Huyện Triệu Sơn nằm cách thành phố Thanh Hoá 20km về phía tây, phía bắc giáp huyện Thọ Xuân, phía nam giáp huyện Như Thanh, Nông Cống; phía tây giáp huyện Thường Xuân, phía đông giáp huyện Ðông Sơn. ở vào vị trí chuyển tiếp giữa các huyện đồng bằng với các huyện trung du miền núi, thuộc khu vực hành lang kỹ thuật quốc gia (đường điện 500KV, 220KV, 110KV, quốc lộ 47 và hệ thống tỉnh lộ) và vùng kinh tế Tây Nam của tỉnh Thanh Hoá, Triệu Sơn rất thuận lợi trong giao lưu kinh tế - văn hoá với các huyện trong tỉnh và cả nước.
    Huyện Triệu Sơn có địa hình thấp dần từ tây sang đông, chia làm hai vùng trung du miền núi và đồng bằng. Là huyện có cơ cấu kinh tế nông nghiệp nổi trội với 98,4% dân số sống ở nông thôn, tiềm năng về khoáng sản khá phong phú: mỏ quặng crôm trữ lượng 5 triệu tấn ở Tân Ninh, Thái Hoà, Vân Sơn, núi đá vôi trữ lượng 8 triệu m3, đất sét làm gạch ngói trữ lượng 5 triệu m3,... đã tạo nên thế mạnh cho Triệu Sơn trong phát triển ngành nông nghiệp và công nghiêp khai khoáng.
    Phát huy tiềm năng và thế mạnh sẵn có
    Với những tiềm năng sẵn có, từ năm 1999 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, nhân dân Triệu Sơn đã nỗ lực phát huy những điều kiện thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, không ngừng đổi mới tư duy, quán triệt chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế và đã đạt được những kết quả quan trọng.


    Trên lĩnh vực nông nghiệp, những năm gần đây, Triệu Sơn tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt việc đưa giống lúa lai vào sản xuất mang lại kết quả khả quan cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Bên cạnh cây lúa - cây lương thực chủ đạo - huyện cũng tập trung chỉ đạo mở rộng diện tích cây màu vụ đông, đưa vụ đông trở thành vụ sản xuất chính, trong đó đưa cây ngô và khoai đông vào chân đất hai vụ lúa. Nhờ đó, tổng diện tích gieo trồng năm 2002 đạt 26.557ha, tăng 543ha so với năm 2001. Tổng sản lượng lương thực đạt 118.000 tấn, tăng 4.000 tấn so với năm 2001, đây là năm được mùa lớn nhất của Triệu Sơn từ trước đến nay.


    Ðồng chí Trịnh Trọng Quyền - Bí thư Tỉnh uỷ cùng lãnh đạo huyện về thăm Thọ Ngọc
    Cùng với phát triển cây lương thực, huyện chú trọng vận động nhân dân trồng cây công nghiệp ngắn ngày như mía, lạc, đậu tương và các cây công nghiệp dài ngày như cây tre, cây cà phê, các loại cây ăn quả, bước đầu cho kết quả khả quan. Ngoài ra, dưới sự chỉ đạo của huyện, nhiều xã du nhập nghề sản xuất nấm, mộc nhĩ, bước đầu đã đem lại hiệu quả, hứa hẹn một hướng đầu tư mới cho nông dân.
    Ðể chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách toàn diện, Triệu Sơn còn tập trung phát triển chăn nuôi, chủ yếu nuôi bò lai sind và lợn hướng nạc theo mô hình kinh tế trang trại; tận dụng mặt nước ao hồ nuôi trồng thuỷ sản (tôm càng xanh, cá chim trắng). Trong đó, huyện chủ trương phát triển đàn bò sinh sản kết hợp nhằm tạo sức cày kéo, lấy thịt, lấy sữa, đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao dinh dưỡng bữa ăn cho nhân dân. Với sách lược phát triển đúng đắn, hiện nay, đàn trâu bò của huyện Triệu Sơn đã lên tới 22.500 con, trong đó có 16.000 bò. Cùng với phát triển đàn bò, Triệu Sơn đã xây dựng thành công mô hình chăn nuôi lợn nái ngoại với quy mô 5 - 10 con/hộ. Ðến nay, đàn lợn của huyện có 96.000 con, trong đó đàn nái ngoại đã sinh sản được trên 1.000 lợn con. Bên cạnh đó, huyện cũng đang xúc tiến xây dựng cơ sở chế biến thịt lợn đông lạnh xuất khẩu, nhằm chủ động tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
    Song, thành công nổi bật nhất của Triệu Sơn những năm qua, đó là hoàn thành mục tiêu dự án Tây Nam di hơn 1.000 hộ dân lên vùng kinh tế mới, cùng với đồng bào dân tộc ở xóm Thoi, Bao Lâm lập xã mới Bình Sơn. Với số vốn tự có của nhân dân, kết hợp cùng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, những năm qua, Triệu Sơn đã trồng được 300ha chè, 1.000ha mía, 350ha cà phê, 600 cây bồ đề, hàng trăm ha cây ăn quả các loại, trồng mới và khoanh nuôi trên 3.000ha rừng, chăm sóc và bảo vệ 830ha. Kinh tế trang trại đang dần được hình thành và phát triển khá sôi nổi. Hiện tại, Triệu Sơn có 370 trang trại, trong đó 50 trang trại với diện tích 2 - 50ha, vốn đầu tư 200 - 330 triệu đồng. Thêm vào đó, sự ra đời của một số cơ sở chế biến chè, gỗ,... đang tạo ra cơ cấu kinh tế lâm - nông - công nghiệp trong vùng, tạo thêm việc làm cho hàng ngàn lao động. Từ những thành công này, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Triệu Sơn xác định kinh tế vùng đồi là nhân tố mới có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, tạo sức bật cho kinh tế huyện phát triển nhanh, mạnh trong tương lai.
    Cùng với nông - lâm nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại cũng có nhịp độ tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 2002 đạt 76 tỷ đồng, tăng 15,1% so với năm 2001, trong đó tập trung vào một số ngành truyền thống như: sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông - lâm sản, đan lát mây tre, mộc dân dụng,... Các tổ hợp tiểu thủ công nghiệp chế biến nông - lâm sản tư nhân đã và đang hình thành ở nhiều nơi, quy mô từng bước được mở rộng.
    Kết cấu hạ tầng cũng đạt được những kết quả đáng ghi nhận
    Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, ưu tiên cho các chương trình phục vụ sản xuất và phúc lợi xã hội, công tác xây dựng kết cấu hạ tầng trong những năm qua thu được kết quả đáng ghi nhận. Các tuyến đường giao thông nông thôn (do dân đầu tư) được mở rộng, 5 trạm bơm chống úng, chống hạn, hệ thống kênh mương được kiên cố hoá; hệ thống đê điều, hồ đập thuỷ lợi được nâng cấp, khơi thông dòng chảy như: kênh tiêu Tân - Dân - Thế, Nổ Hẻn, sông Nhơm, sông Hoàng,... Những công trình này đã tạo thế chủ động trong tưới tiêu, phòng chống lũ lụt, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, đáp ứng nhu cầu thâm canh ngày càng cao.
    Hoạt động văn hoá - xã hội cũng thu được nhiều kết quả khả quan. Năm 2001, Triệu Sơn là một trong 3 huyện đi đầu tỉnh Thanh Hoá hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Chất lượng giáo dục được nâng lên, số học sinh giỏi, học sinh thi đỗ đại học, cao đẳng ngày càng tăng. Năm 2002, Triệu Sơn có 2 trường tiểu học được công nhận trường chuẩn quốc gia, đưa tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 9 trường. Cơ sở vật chất và trang thiết bị trong trường học được tăng cường với 10 trường cao tầng được xây dựng mới trong năm 2002, 4 trung tâm giáo dục cộng đồng được thành lập và đi vào hoạt động ở các xã: Thọ Tân, Vân Sơn, Phú Thọ, Bình Sơn. Ðến nay, 100% số xã đã có đài truyền thanh, phong trào thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, chất lượng hoạt động y tế đã được nâng lên, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện.
  6. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    Ðịnh hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2005
    Sau hơn 15 năm đổi mới, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Triệu Sơn đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận: kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Ðể đảm bảo sự phát triển bền vững, phát huy những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, từ nay đến năm 2005, huyện Triệu Sơn đặt nhiệm vụ trọng tâm là tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tạo bước chuyển mạnh trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; giữ vững quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
    Ðể các mục tiêu trên trở thành hiện thực, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Triệu Sơn đã đề ra nhiều giải pháp có tính khả thi, trong đó:
    1) Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ðưa nhanh các thành tựu công nghệ sinh học vào sản xuất, chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ phù hợp với các vùng trong huyện. Theo đó, mỗi năm đưa lúa lai vào gieo cấy từ 50% diện tích vụ chiêm xuân trở lên, 20% diện tích vụ mùa, số còn lại gieo cấy bằng giống lúa cấp I; phấn đấu đạt 5.000ha cây vụ đông, trong đó 60 - 70% diện tích được gieo trồng bằng các giống ngô lai hoặc giống mới có hiệu quả kinh tế cao... tiến tới xây dựng các mô hình 40 - 50 triệu đồng/ha canh tác, xây dựng các nông trại chăn nuôi công nghiệp, đạt lợi nhuận hàng trăm triệu đồng/hộ.
    2) Ðể đạt được mục tiêu phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ với tốc độ tăng trưởng 14 - 15%/năm, Triệu Sơn sẽ tiếp tục mở rộng các ngành nghề truyền thống như: sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá, chế biến nông, lâm sản, đan lát mây tre,... Tuy nhiên, để thực hiện hoàn thành mục tiêu này, Triệu Sơn cần quy hoạch đất đai, xây dựng các chính sách thu hút đầu tư nhằm phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân địa phương và vươn ra thị trường trong nước và thế giới, đồng thời tăng thêm việc làm cho người lao động.
    3) Huy động sức mạnh nội lực trong nhân dân kết hợp với tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Ðồng thời, quy hoạch các thị trấn, thị tứ thành các khu trung tâm kinh tế - văn hoá, dịch vụ - thương mại nhằm kích thích sản xuất phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế với các vùng xung quanh, thu hút các xí nghiệp sản xuất, chế biến vừa và nhỏ vào địa phương đầu tư, tạo động lực mới hướng tới đô thị hoá nông thôn.
    4) Ði đôi với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm,... cũng được quan tâm nhằm tạo nên diện mạo nông thôn mới, ngày một đổi mới, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao.
    Bước vào thiên niên kỷ mới với những thuận lợi và khó khăn, thách thức, nhiệm vụ của Ðảng bộ Triệu Sơn từ nay đến năm 2010 rất nặng nề. Song với truyền thống đoàn kết, tinh thần cách mạng kiên cường và ý chí tự lực tự cường, cùng những kinh nghiệm đúc kết trong thực tiễn hoạt động, nhất định Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân Triệu Sơn sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ huyện lần thứ XIV,... đưa Triệu Sơn tiến nhanh, tiến mạnh trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Có thêm nghề phụ - làng quê Minh Dân ngày càng giàu đẹp

    Ngàn Nưa với Bà Triệu và tên gọi Triệu Sơn
    Từ thế kỷ III đến nay, nhân dân vẫn lưu truyền sự nghiệp, công trạng của một nữ nhân hào kiệt có khí phách lớn lao, đó là Vua Bà - Triệu Thị Trinh.
    Bà sinh ngày 2-10-226, lúc nhỏ có tên là nàng ẩu, người vùng đất Nưa Sơn, quận Cửu Chân (Thanh Hoá). Thời ấy, phía Bắc, Tam quốc tranh bá đồ vương, đất Nam bị nhà Ngô cai trị, dân chúng khổ cực. Bà Triệu bỏ vào rừng Na Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Chỉ trong vài năm, uy danh lừng lẵy, Bà Triệu đã thu phục cả vùng đất Cửu Chân.
    Nhà Ngô bèn sai Hành Dương đốc quân Ðô uý Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu, kiêm chức Hiệu uý đem đại quân xuống phía Nam. Lục Dận mấy phen bị thua trận liên tiếp bèn dùng kế đưa quân Ngô trần truồng tiến đánh. Bà Triệu bình sinh hay e thẹn, nay đột nhiên thấy hình dáng như vậy không khỏi xấu hổ, liền cắp giáo che mặt quay đi, quân sỹ tan tác. Nhìn bốn phía đều thấy giặc Ngô vây bọc, Bà Triệu lên núi phóng hoả tự đốt mình, khi ấy bà mới 23 tuổi.
    Người con gái họ Triệu anh hùng hào kiệt, quả cảm tài năng ấy đã để lại cho lịch sử đất Việt cũng như đất Cửu Chân (Thanh Hoá), đất Ngàn Nưa (Triệu Sơn, Như Thanh) một tấm gương sáng ngời về ý thức tự chủ, đoàn kết đánh giặc, không chịu kiếp nô lệ.
    Năm 1965 thành lập huyện mới, người đời lấy tên họ Triệu (họ Bà Triệu) và dấu ấn chiến tích Nưa Sơn để tạo nên một tên mới huyện Triệu Sơn, nghĩa là huyện Bà Triệu anh hùng.


    Các chỉ tiêu kinh tế đến năm 2005
    - Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân: 9 - 10%/năm.
    Trong đó:
    + Nông nghiệp 5,5%.
    + Công nghiệp và xây dựng 14 - 15%.
    + Dịch vụ 12%.
    - Bình quân GDP/đầu người: 350 - 370USD/năm.
    - Tổng sản lượng lương thực: 130.000 - 140.000 tấn.
    - Hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5%.


    Các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm
    1) Chương trình sản xuất lương thực thực phẩm.
    2) Chương trình phát triển kinh tế vùng đồi.
    3) Chương trình tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
    4) Chương trình xây dựng thị trấn, thị tứ.
    5) Chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng.
    6) Chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo.
    7) Chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
  7. THANHHOATTVNOL

    THANHHOATTVNOL Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    HUYỆN THỌ XUÂNTừng bước ổn định, vững bước tiến vào tương lai
    Năm 2002:- Diện tích tự nhiên: 303,22 km2- Dân số: 233.255 người- Ðơn vị hành chính: 38 xã và 3 thị trấn- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: 11,1%/năm- Thu nhập bình quân đầu người: 371,5 USD/năm- Bình quân lương thực: 495 kg/người/năm.



    Thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng khởi xướng và lãnh đạo, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Thọ Xuân đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện từ kinh tế - xã hội đến quốc phòng - an ninh. Thành tựu đó được thể hiện rõ nét ở mức tăng trưởng kinh tế hàng năm gắn với kết quả giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Những tiến bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; những công trình kiến trúc hạ tầng cơ sở được xây dựng mới và nâng cấp; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Những thành quả đó đã tạo tiền đề để Thọ Xuân vững tiến vào tương lai.


    Ông Lê Công MinhChủ tịch UBND huyện Thọ Xuân
    Nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, Thọ Xuân là vùng đất "địa linh nhân kiệt" có vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước. Huyện lỵ Thọ Xuân - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá - cách thành phố Thanh Hoá (đi theo quốc lộ 47) 36km về phía tây và nằm ngay bên hữu ngạn sông Chu - con sông lớn thứ hai của Thanh Hoá, hàm chứa nhiều huyền thoại đẹp về lịch sử, văn hoá...
    Ðặc biệt, khu đô thị công nghiệp Lam Sơn - Sao Vàng, một trong bốn khu kinh tế động lực của tỉnh Thanh Hoá và khu di tích lịch sử Lam Kinh đang trở thành vùng đất đầy tiềm năng, mở ra triển vọng lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp và du lịch. Không chỉ vậy, huyện còn được cấu tạo bởi hai dạng địa hình: bán sơn địa (trung du) rất thích hợp với trồng cây công nghiệp và đồng bằng châu thổ phì nhiêu, cùng với hệ thống sông Chu, sông Cầu Chày, sông Nhà Lê, hệ thống nông giang, Ðập Bái Thượng đã khẳng định thế mạnh của Thọ Xuân trong phát triển nền nông nghiệp toàn diện.
    Hiệu quả từ chiến lược phát triển đúng hướng
    Phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang, trong thời kỳ đổi mới, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Thọ Xuân đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực với mức tăng trưởng cao. Trong đó, năm 2002 mức tăng trưởng GDP của huyện đạt 11,7%, GDP bình quân đầu người đạt 371,5 USD/năm, tăng 41,6% so với năm 1997. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp.
    Có được thành tựu đó là do Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân đã vạch ra chiến lược phát triển đúng đắn, hợp lý, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện. Ðiều đó được minh chứng bằng tốc độ tăng trưởng cao của các ngành kinh tế:
    Sản xuất nông nghiệp, với quỹ đất 15.347 ha, trong những năm qua, huyện đã hình thành các vùng chuyên canh, thâm canh theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo khả năng khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế vùng, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, nâng cao hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác. Theo đó, Thọ Xuân đã thành lập nhanh các hợp tác xã nông nghiệp và phi nông nghiệp, hoàn thành công tác dồn điền, đổi thửa để tích tụ đất. Sau 3 năm thực hiện, Thọ Xuân đã có 61 hợp tác xã được thành lập. Bên cạnh đó, các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng rộng rãi hơn, các giống mới có năng suất và chất lượng cao đã được đưa vào sản xuất, tạo ra khả năng chuyển dịch cơ cấu mùa vụ. Nhờ đó, năng suất và sản lượng lương thực tăng nhanh (gần 5.000 tấn/năm). Cụ thể, nếu năm 1997, tổng sản lượng lương thực đạt 92.220 tấn thì đến năm 2002 đạt 115.888 tấn (tăng 20,4%).


    ************* Trần Ðức Lương thăm vùng nguyên liệu mía tại xã Quảng Phú - huyện Thọ Xuân


    Với mục tiêu tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thọ Xuân đã tập trung khai thác và phát triển vùng kinh tế động lực Lam Sơn, hình thành vùng chuyên canh, thâm canh cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Ðặc biệt là cây mía, Thọ Xuân đã hình thành vùng nguyên liệu mía gần 4.000 ha, trong đó đưa diện tích mía công nghệ cao cho năng suất cao (140 - 150 tấn/ha) vào sản xuất năm 2002. Quy hoạch vùng nguyên liệu mía đã trở thành thế mạnh của kinh tế vườn đồi, mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu hàng hoá, tạo điều kiện cho khu công nghiệp mía đường Lam Sơn phát triển vững chắc.
    Cùng với quy hoạch vùng cây công nghiệp, Thọ Xuân cũng quy hoạch lại diện tích đất rừng hiện có. Tính đến nay, hơn 1.000 ha đồi rừng đã được giao cho kinh tế hộ quản lý và chuyển từ khai thác là chủ yếu, sang khoanh nuôi chăm sóc bảo vệ. Ðồng thời, việc trồng mới 200 ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, không những tạo ra khả năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng đất đai, lao động, cải tạo môi trường sinh thái trên địa bàn, mà còn tạo vùng cung cấp nguyên liệu cho Công ty Giấy Mục Sơn. Kết quả này cho thấy sự kết hợp giữa lâm nghiệp với vùng nguyên liệu đã tạo nên sự gắn bó nông - lâm nghiệp với công nghiệp, công nhân với nông dân, làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế - xã hội các xã trung du, miền núi trong những năm gần đây.
    Bên cạnh đó, Thọ Xuân còn chú trọng đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, nâng cao chất lượng, tận dụng tốt lợi thế của từng vùng, từng địa phương, từng mùa vụ để phát triển vật nuôi thích hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mô hình chăn nuôi trong các hộ gia đình, trang trại đã và đang phát triển tốt. Giá trị thu nhập từ chăn nuôi tăng cao, nếu năm 1997 đạt 69,8 tỷ đồng thì đến năm 2002 đã tăng lên 86,4 tỷ đồng, chiếm 29,3% GDP nông - lâm nghiệp. Hiện nay, ngành chăn nuôi Thọ Xuân đang tập trung vào các vật nuôi có giá trị kinh tế cao như: lợn hướng nạc, bò lai sind, bò sữa, đưa Thọ Xuân trở thành huyện có sản lượng thịt bò, thịt lợn cao nhất tỉnh. Ðặc biệt, trong vài năm gần đây, Thọ Xuân đã kết hợp chặt chẽ với Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn thực hiện chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa, bước đầu đã du nhập và lai tạo, cung cấp 1.500 bò sữa giống cho các hộ nuôi ở các xã Quảng Phú, Xuân Thiên, Thọ Xương (trong đó có 1.000 con bò sữa nhập từ Niu Dilân). Sản lượng sữa nuôi thực nghiệm đạt khá, tạo hướng phát triển mạnh trong các năm tới. Ngoài ra, chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản, ong... cũng được đẩy mạnh, đã góp phần tận dụng tốt lợi thế của từng địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong từng hộ sản xuất.
    Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển khá nhanh với tốc độ tăng trưởng 16 - 18%/năm. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống như: sản xuất cót ép, rèn, kim hoàn... đã xuất hiện một số nghề mới như trồng dâu nuôi tằm, thêu ren xuất khẩu, sản xuất bột giấy thô nguyên liệu, chế tác đồ mộc cao cấp,... Nhưng so với sự phát triển của nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Thọ Xuân phát triển chưa xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có. Tuy nhiên, việc quy hoạch các cụm làng nghề, một loạt các nhà máy chế biến nông - lâm sản như: nhà máy chế biến sữa, nhà máy chế biến cồn và khu đô thị công nghiệp Lam Sơn được hình thành, trong những năm kế tiếp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp sẽ phát triển mạnh mẽ hơn.
    Thương mại - dịch vụ đang trên đà phát triển mạnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 15 - 16%, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế huyện. Các loại hình dịch vụ công cộng, dịch vụ tập thể, dịch vụ tư nhân ngày càng đa dạng, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ. Ðặc biệt, trong dịch vụ nông nghiệp, sản xuất - kinh doanh của các loại hình hợp tác xã đang từng bước khẳng định vai trò, vị trí trong kinh tế nông thôn. Các trung tâm thương mại, thị tứ được hình thành và nhanh chóng đi vào kinh doanh sầm uất đã đáp ứng yêu cầu giao lưu hàng hoá của người dân trong huyện. Bên cạnh đó, với 15 km đường Hồ Chí Minh chạy qua khu kinh tế động lực Lam Sơn và sát với khu di tích lịch sử Lam Kinh đang trong quá trình tôn tạo sẽ mở ra triển vọng to lớn, điều kiện hết sức thuận lợi để Thọ Xuân phát triển du lịch, góp phần đưa ngành thương mại - dịch vụ trở thành một ngành trọng tâm trong phát triển kinh tế của huyện.
    Kết cấu hạ tầng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận
    Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được ổn định khiến diện mạo huyện Thọ Xuân có biến chuyển lớn. Kết cấu hạ tầng được chú trọng đầu tư xây dựng, hàng loạt công trình mới đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Có được đổi thay như vậy là nhờ sự quan tâm, trợ giúp vốn của Nhà nước, cùng cố gắng, nỗ lực của nhân dân nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát triển kinh tế - xã hội.
    Nhận thức được ý nghĩa của việc phát triển nguồn nhân lực, Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo phát triển công tác giáo dục, đẩy nhanh cả về quy mô và chất lượng. Ðội ngũ giáo viên được nâng cao về trình độ và chuẩn hoá theo các cấp học. Số học sinh giỏi tăng đều qua các năm. Ðến nay, huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở đạt trên 95% số xã, 16/41 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Ðặc biệt, trường phổ thông cơ sở Sao Vàng là trường chuẩn quốc gia đầu tiên của tỉnh.
    Cơ sở phát thanh, phát lại truyền hình và hệ thống truyền thanh cơ sở được đầu tư nâng cấp đảm bảo chất lượng, phát huy được hiệu quả tuyên truyền. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) đã và đang được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân hưởng ứng tích cực. Ðến cuối năm 2002, huyện có 130 làng văn hoá, 2 cơ quan văn hoá, 11/38 xã đã hoàn chỉnh khai trương 100% làng văn hoá.
    Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được cấp uỷ Ðảng và chính quyền huyện quan tâm. Vì vậy, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cũng như đội ngũ cán bộ y tế luôn đảm bảo hoàn thành tốt công tác khám, chữa bệnh theo tuyến, theo khu vực. Ðối với y tế dự phòng, với quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, vệ sinh nước sạch luôn được tuyên truyền và kiểm tra, không để xảy ra dịch bệnh lớn.
    Quốc phòng- an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững và ổn định. Các nhiệm vụ quốc phòng, nhiệm vụ kế hoạch quân sự địa phương được hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng tuyển quân, giao quân.
  8. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    Ðịnh hướng phát triển đến năm 2005
    Phát huy những thành quả đạt được, trong những năm tới, Thọ Xuân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nêu cao ý thức tự lực tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, khai thác có hiệu quả các tiềm năng lợi thế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại và những ngành nghề có tiềm năng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ða dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường, hình thành sự liên kết kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ. Gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
    Ðể đạt được mục tiêu trên Thọ Xuân tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện, tập trung mọi nguồn lực để tạo bước đột phát trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế - đây là nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn tới. Trong đó, tập trung mọi nguồn lực cho một số ngành có khả năng tăng tỷ trọng trong GDP như công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ.
    1) Tăng diện tích mía hiện có lên mức 4.500 ha, phát triển vùng nguyên liệu mía thâm canh theo hướng công nghệ cao, phát triển nghề nuôi bò thịt, bò sữa và chế biến thức ăn gia súc. Vùng trọng điểm lúa sẽ tập trung đầu tư theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng. Ðẩy nhanh việc thành lập hợp tác xã, trang trại trong trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp để tích tụ đất, từ đó tăng hiệu quả sử dụng quỹ đất lên mức bình quân 45 - 50 triệu đồng/ha/năm.
    2) Ðẩy nhanh công tác tôn tạo các di tích lịch sử để đưa vào khai thác du lịch, từ đó tăng nhanh tỷ trọng ngành thương mại - dịch vụ.
    3) Cần nhanh chóng triển khai thực hiện các dự án "dâu - tằm - tơ" tại vùng bãi bồi sông Chu; khôi phục các làng nghề truyền thống, đưa thêm ngành nghề mới, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Chủ động tìm nguồn vốn đầu tư, thành lập các nhà máy chế biến nông - lâm sản, tìm đầu ra cho sản phẩm nông - lâm sản.
    Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, huy động nguồn lực trong dân để phát triển nhanh mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện, nhất là hệ thống giao thông nông thôn, tạo thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
    Những thành tựu to lớn mà Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân Thọ Xuân đạt được trong những năm qua là thành quả tất yếu từ sự quan tâm đầu tư có hiệu quả của Nhà nước, sự giúp đỡ của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, cùng sự chỉ đạo, lãnh đạo sát sao của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện. Ðồng thời, đây cũng chính là động lực, tạo bước phát triển nhanh, mạnh và vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của huyện Thọ Xuân.
  9. THANHHOATTVNOL

    THANHHOATTVNOL Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0

    Lịch sử hình thành và tên gọi của huyện Thọ Xuân
    1. Tên gọi và địa giới hành chính:
    Thời thuộc Hán (năm 111 trước công nguyên đến năm 210 sau công nguyên), vùng đất Thọ Xuân thuộc huyện Tư Phố; từ năm 581 đến năm 905 thuộc huyện Di Phong, và sau đó là huyện Trường Lâm.
    Thời Trần, Thọ Xuân thuộc huyện Cổ Lôi. Từ năm 1466, Thọ Xuân có tên là Lôi Dương. Thời Nguyễn (năm 1826), huyện Lôi Dương hợp với huyện Thụy Nguyên thành phủ Thọ Xuân. Lỵ sở phủ Thọ Xuân trước năm 1895 đóng ở Thịnh Mỹ (nay thuộc xã Thọ Diên) sau dời về Xuân Phố (Xuân Trường ngày nay). Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), phủ Thọ Xuân đổi thành huyện Thọ Xuân.
    2. Lịch sử hình thành
    Ngay từ thời tiền sử, vùng đất Thọ Xuân ngày nay đã có người cư trú. Dấu ấn về thời kỳ dựng nước còn lại khá đậm nét. ở vùng tả ngạn sông Chu, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều trống đồng, thạp đồng và công cụ sản xuất.
    Từ thế kỷ thứ X, Thọ Xuân đã là vùng đất phát triển. Ðến thế kỷ XV, Thọ Xuân là căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn. Là huyện có truyền thống yêu nước, cách mạng, Thọ Xuân là nơi sinh dưỡng nhiều vị vua sáng, tôi hiền như: Lê Ðại Hành, Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông; Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn Linh, Trịnh Khắc Phục,... đã làm rạng danh quê hương. Truyền thống ấy đã được hun đúc phong trào Cần Vương (Thọ Xuân là căn cứ chống Pháp). Ði theo tiếng gọi của Ðảng, người dân Thọ Xuân đã đóng góp sức người, sức của cho các cuộc kháng chiến cứu quốc của dân tộc.
    Trong thời kỳ đổi mới, với truyền thống hiếu học, thượng võ, cần cù, nhẫn nại, trọng nghĩa khí, đùm bọc san sẻ khi gặp khó khăn, hoạn nạn, người dân Thọ Xuân - lớp cha trước, lớp con sau đã và đang giành được nhiều thắng lợi quan trọng trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.


    Di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng quốc gia
    1) Di tích lịch sử kiến trúc Lê Hoàn tại xã Xuân Lập, gồm: đền thờ, lăng Hoàng Khảo, lăng Quốc Mẫu, lăng bố nuôi Lê Ðột và đền sinh thánh.
    2) Khu di tích lịch sử Lam Kinh (xã Xuân Lam và thị trấn Lam Sơn) gồm: đền thờ Lê Thái Tổ, cung điện, lăng bia các vua và hoàng hậu nhà Lê.
    3) Ðền thờ và lăng mộ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm (tại xã Thọ Diên và Xuân Lập).
    4) Quần thể di tích cách mạng xã Xuân Hoà, Thọ Xuân.
    5) Quần thể di tích lịch sử cách mạng xã Xuân Minh huyện Thọ Xuân.
    Ngoài ra, Thọ Xuân còn nhiều di tích được xếp hạng cấp tỉnh như: đền thờ khắc Quốc công Lê Văn An (làng Diên Hào - xã Thọ Lâm), đền thờ Quốc Mẫu (làng Thịnh Mỹ - xã Thọ Diên).


    Mục tiêu chủ yếu đến năm 2005
    - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 11,1%/năm. Trong đó: nông nghiệp 5,5%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 15,4%; dịch vụ 15,3%.
    - Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 39,8%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản: 21,1%; dịch vụ, ngành khác: 39,1%.
    - Thu nhập bình quân tính theo đầu người: 475 USD/năm trở lên.
    - Tổng sản lượng lương thực: 110.000 tấn (ngũ cốc có hạt).
    - Sản lượng mía nguyên liệu: 330.000 - 350.000 tấn.
    - Bình quân giá trị thu nhập trên 1ha canh tác: 30 triệu đồng trở lên.
    - Thu ngân sách tăng bình quân: 5%/năm trở lên.

     Cơ cấu kinh tế của Thọ Xuân (1997 - 2005) Ðơn vị: %


    Năm

    1997

    1999

    2000

    2002

    2003

    2005 (Dự kiến)


    Nông - lâm nghiệp

    57,4

    54,6

    51,4

    47,2

    44,4

    39,8


    Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

    15,8

    15,7

    16,5

    18,4

    20

    21,1


    Thương mại - dịch vụ

    26,8

    29,7

    32,1

    34,4

    35,6

    39,1
  10. caycothu

    caycothu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/01/2004
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    HUYỆN QUẢNG XƯƠNGÐi lên nhờ đổi mới tư duy


    Ông Nguyễn Ðức Dũng - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Xương


    Quảng Xương được xem là một huyện nghèo của tỉnh Thanh Hoá, đồng đất không mấy thuận lợi, lại chịu nhiều thiên tai. Song, hiện nay, kinh tế của huyện vào diện khá của tỉnh, GDP liên tục tăng qua các năm, thu nhập bình quân đầu người có mức tăng khá (298,7 USD năm 2002), đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Thêm nữa, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại. Sự đổi thay kỳ diệu đó có được là do Quảng Xương đã đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cánh làm.
    Là một huyện đồng bằng ven biển có diện tích đất tự nhiên 227,63 km2, Quảng Xương đã từ lâu được coi là trọng điểm lúa của tỉnh. Với chiều dài bờ biển gần 18km, Quảng Xương là một trong những huyện có tiềm năng về thuỷ, hải sản. Hơn nữa, nằm trên các trục quốc lộ 1A, quốc lộ 45, 47, tỉnh lộ số 4, phía bắc là thành phố Thanh Hoá với khu công nghiệp Lễ Môn, phía nam là Khu công nghiệp động lực Nghi Sơn - Tĩnh Gia, đồng thời là huyện có vị trí trọng yếu về an ninh - quốc phòng của tỉnh. Ðây là lợi thế đặc biệt quan trọng để thu hút đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng.
    Kinh tế tăng trưởng nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng


    Công ty trách nhiệm hữu hạn Soto - một trong những doanh nghiệp đóng góp không nhỏ cho phát triển kinh tế - xã hội huyện Quảng Xương


    Với 41 xã, thị trấn, huyện Quảng Xương chia thành hai vùng rõ rệt: đồng bằng và ven biển. Song phần lớn số dân vẫn sống bằng sản xuất nông nghiệp là chính, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn không chỉ là sự quan tâm của các cấp uỷ Ðảng, mà còn là nỗi trăn trở của bà con nông dân. Bởi vậy, các cấp uỷ Ðảng và chính quyền xã, huyện cùng lo với dân, cán bộ huyện thường xuyên xuống xã để điều tra, xem xét từng vùng đất để từ đó vận động khuyến khích dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng sao cho hợp lý.
    Với chủ trương, sách lược phát triển hợp lý, đến nay, nhiều xã trong huyện đã lựa chọn cho mình hướng đi đúng. Trong đó có những xã đã chuyển hàng chục ha đất cấy lúa bị thoái hoá sang trồng cói, phục vụ nhu cầu phát triển thủ công nghiệp. Ðiển hình là xã Quảng Khê, từ một xã trong nhiều năm thuộc diện đói nghèo, đất thoái hoá đã chuyển 100 ha lúa năng suất thấp sang trồng cói, giá trị thu nhập từ một sào trồng cói gấp 4 lần giá trị thu nhập từ 1 sào trồng lúa. Các xã Quảng Hợp, Quảng Ninh... cũng chuyển sang trồng hàng trăm ha dâu nuôi tằm. Nhờ vậy, hiện nay, giá trị thu từ những ha trồng cói, dâu được nâng lên, qua đó tạo nguồn nguyên liệu góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiêp - tiểu thủ công nghiệp. Nếu năm 2001 tốc độ phát triển chỉ đạt 15% thì sang năm 2002 đã tăng lên 17%, năm 2003 đạt khoảng 18,5%. Ðối với các xã đất ruộng màu mỡ, Uỷ ban nhân dân xã đã chỉ đạo người dân tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, coi trọng cả ba vụ trong năm, tăng nhanh diện tích cây vụ đông trên đất 2 lúa, đồng thời đưa vào triển khai canh tác những giống lúa cho năng suất cao. Trong đó, giống lúa lai F1 được đưa vào canh tác đã cho năng suất ban đầu khá cao, giống lúa Bác Ưu 903 đạt 22 tạ/ha. Do đó, dù nhiều xã đã chuyển sang trồng cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nhưng sản lượng lúa của huyện Quảng Xương vẫn khá cao. Huyện Quảng Xương vẫn được coi là huyện trọng điểm lúa của tỉnh.
    Vùng đất chua ven biển chi chít hố bom ở phía bắc sông Yên một thời để cỏ, lau mọc um tùm, giờ đây đã được cải tạo thành đồng nuôi trồng thủy sản nước lợ. Từ Quảng Trung, Quảng Chính... qua vùng bãi ngang, cát trắng đến các xã Quảng Phú ở hạ lưu sông Mã, diện tích trồng triều cứ thế nhân rộng mãi, kéo dài đến hút tầm mắt. Vẫn đất cũ, người cũ (dân xứ Quảng), nhưng tư duy kinh tế, phương thức sản xuất mới đang được nhân rộng, đánh thức tiềm năng vùng triều. Cùng với chủ động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thời gian qua, các địa phương đã quy hoạch lại diện tích vùng triều, mở rộng đồng nuôi, mạnh dạn chuyển nhiều ha đất trồng lúa và cói cho năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản nước lợ. Theo số liệu thống kê, năm 2002, sản lượng thu hoạch thủy sản nước lợ ở Quảng Xương đạt 849 tấn trong đó có 450 tấn tôm sú, nâng sản lượng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản ở Quảng Xương lên 6.700 tấn, tăng 15% so với năm 2001.
    Không những tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Quảng Xương tăng lên qua các năm, mà tỷ trọng dịch vụ thương mại cũng theo một hướng đi mới. Nếu năm 2001 tốc độ tăng trưởng là 11,97%, chiếm 28,14% GDP, thì đến năm 2002 đạt 13,7% chiếm 19,09%. Trong đó, công nghiêp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại tăng cả về tốc độ lẫn tỷ trọng trong GDP, tạo nên sự phát triển bền vững lâu dài cho Quảng Xương.
    Kết cấu hạ tầng, giao thông phát triển mạnh
    Cùng với sự tăng trưởng cao của kinh tế, các vấn đề xã hội và kết cấu hạ tầng của Quảng Xương ngày càng được củng cố và cải thiện. Là huyện có số dân đông nhất nhì trong tỉnh, năm 2002, toàn huyện có 110.850 lao động, thường xuyên có 9 -10% lao động thiếu việc làm. Lượng lao động dồi dào, tạo nên lợi thế về nhân lực, nhưng hiện nay vẫn chưa phù hợp với sự phát triển của kinh tế, hàng năm huyện vẫn phải tổ chức làm đầu mối để đưa dân đi phát triển kinh tế ở nhiều tỉnh. Năm 2002, bằng nhiều hình thức khác nhau như tạo việc làm tại chỗ, tham gia xuất khẩu lao động, huyện đã giải quyết việc làm cho gần 5.000 lao động, góp phần giảm số hộ đói nghèo xuống còn 16,5%.
    Ðến nay, hệ thống giao thông thuỷ lợi cơ bản đã được hoàn thiện. Hiện nay, 100% số xã đã có đường ôtô đến xã, toàn huyện có 60 km đường rải nhựa, hệ thống cầu cống trên các trục đường giao thông đảm bảo thông tuyến, không những tạo nên thuận lợi cho việc đi lại, mà còn là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Ðối với hệ thống thuỷ lợi, hiện có 65% diện tích sản xuất được tưới bằng nguồn nước tự chảy (8.000 ha), 35% diện tích còn lại được tưới bằng nguồn nước tạo nguồn với hình thức chủ yếu là bơm điện và bơm dầu (4.000 ha), kênh mương tưới phần lớn đã được xây dựng và kiên cố, tạo thuận lợi lớn cho nông nghiệp phát triển. Mạng lưới điện, nước không ngừng được củng cố, đến nay, hiện có 85% số dân được dùng nước hợp vệ sinh, 99% số hộ sử dụng điện lưới quốc gia.
    Mạng lưới thông tin liên lạc được phát triển nhanh và từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ cho việc trao đổi thông tin trong sản xuất cũng như nhu cầu tình cảm. Hiện nay, toàn huyện có 37 trạm bưu điện văn hoá xã.
    Giáo dục và y tế là hai vấn đề luôn được quan tâm ở Quảng Xương, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ngày càng được xây dựng và hoàn thiện. Hầu hết các xã đều có cơ sở khám chữa bệnh, đáp ứng được sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của người dân. Văn hoá xã hội phát triển, an ninh chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư.
    Giải pháp phát triển các ngành sản xuất chính Về nông nghiệp - ngư nghiệp:
    Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, coi trọng cả ba vụ mùa trong năm, tăng nhanh diện tích cây vụ đông trên đất 2 lúa, đưa hệ số sử dụng ruộng đất lên 2,45 - 2,5 lần vào năm 2005. Ðảm bảo vững chắc về an toàn lương thực, gắn tăng năng suất cây trồng với giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích.
    Mở rộng quy hoạch vùng sản xuất cây công nghiệp và cây xuất khẩu đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp (cói, đay, dâu tằm...) và sản phẩm cho xuất khẩu (tơ, tằm, lạc...).
    Quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản ở phía nam, phía bắc huyện và vùng ven biển. Phấn đấu đến năm 2005 nuôi trồng được 1.500 ha tôm, cua xuất khẩu. Trước mắt bố trí nuôi tôm công nghiệp ở các xã ven biển và các xã vùng phía nam huyện trên 300 ha.
    Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
    Tập trung phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh với tốc độ tăng GDP năm 2005 là 20%.
    Quy hoạch cụm công nghiệp du lịch Tiên Trang trên 300 ha (hiện nay, Công ty SOTO đã sử dụng 40 ha, thu hút gần 1.000 lao động dệt len xuất khẩu), dành quỹ đất tạo điều kiện cho các đối tác vào sản xuất công nghiệp, du lịch sinh thái.
    Phát triển các ngành dịch vụ và du lịch:
    Xúc tiến triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu du lịch nam Sầm Sơn, quy hoạch 512 ha giai đoạn I: quy hoạch chi tiết 270 ha, hướng bố trí xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng sức và tắm biển, vui chơi giải trí, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Tiếp tục lập các dự án để đầu tư kết cấu hạ tầng để sớm khai thác tiềm năng vùng biển.
    Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư, phát triển các cơ sở dịch vụ tạo ra nhiều loại hình dịch vụ có quan hệ mật thiết với nhau trên địa bàn như: dịch vụ tư nhân, tổ hợp tác dịch vụ...
    Ðể có thể đạt được mục tiêu đã đề ra đến năm 2005, thu hút được các nhà đầu tư vào các dự án nhằm phát triển kinh tế - xã hội của huyện, Quảng Xương ngoài việc thực thi tốt những chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước và tỉnh Thanh Hoá còn có những chính sách riêng của huyện như: mặt bằng sản xuất và điều kiện thuê khá thuận lợi; chuyển mục đích sử dụng đất theo đúng mức giá thấp nhất trong khung giá Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định; liên doanh cùng địa phương để tổ chức sản xuất; tạo một hành lang pháp lý bảo vệ an ninh - trật tự và môi trường trong sạch; giải quyết nhanh gọn về thủ tục thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất... Tất cả những chính sách đó đã và đang phát huy tác dụng trong những năm qua, nó được minh chứng bằng sự phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Xương, thể hiện được sự đổi mới tư duy của một huyện với truyền thống sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, giờ đây đã nhận thức được cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát triển.


    Mục tiêu, định hướng phát triển đến năm 2005
    - Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 11 - 12%/năm. Trong đó:
    + Nông nghiệp: 6 - 6,5%/năm.
    + Ngư nghiệp: 17% - 18%/năm.
    + Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản: 17,5 - 18%/năm.
    + Dịch vụ - thương mại: 13,5 - 14%/năm.
    - Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp: 38 - 39%, ngư nghiệp: 14 - 15%, công nghiêp - tiểu thủ công nghiệp: 17 - 18%, dịch vụ - thương mại: 29 - 30%.
    - Thu nhập bình quân: 400 USD/người/năm.
    - Giá trị xuất khẩu: 6 - 6,5 triệu USD.
    - Tổng sản lượng lương thực (quy thóc): 130.000 tấn.
    - Ðến năm 2005 không còn hộ đói, giảm hộ nghèo dưới 10%.
    - Giải quyết việc làm cho 5.000 lao động/năm


    Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư
    1) Xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp 300 ha (ở xã Quảng Trung, Quảng Chính) và các xã vùng ven biển có khả năng nuôi trồng thuỷ, hải sản.
    2. Ðầu tư vào Khu du lịch nam Sầm Sơn giai đoạn I: 270 ha. Xây dựng khu nghỉ dưỡng, khu du lịch sinh thái, khu vui chơi giải trí phục vụ cho du khách trong và ngoài nước.
    3) Xây dựng cụm công nghiệp - du lịch Tiên Trang với quy mô 300 ha, tập trung vào các hạng mục: đầu tư mới các hoạt động sản xuất công nghiệp; khu du lịch tắm biển, vui chơi giải trí; xây dựng cảng cá Quảng Nham; xây dựng các cơ sở chế biến hải sản biển.
    4) Thực hiện quy hoạch mở rộng thị trấn, là trung tâm của huyện lỵ. Trong đó, xây dựng khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; xây dựng khu vui chơi giải trí, thể thao; xây dựng khu giới thiệu quảng bá sản phẩm trong huyện.
    5) Xây dựng cơ sở chế biến súc sản, hải sản đông lạnh tại xã Quảng Lĩnh công suất 2.000 tấn/năm, vốn đầu tư 5 tỷ đồng.
    6) Cần đầu tư cho các tuyến đường giao thông chính và cơ sở vật chất trường học cao đẳng.
     

Chia sẻ trang này