1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thảo luận chung về các trận không chiến trên bầu trời Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi kqndvn, 02/04/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    *****bmarines:
    Thực ra tớ chẳng quan tâm cậu bao đồng hay nhỏ mọn hay gì gì đó cả, cậu như thế nào mặc kệ cậu.
    Thực ra thì bác chẳng quan tâm tới việc người khác như thế nào hay nghĩ gì, đúng không? Bác cũng chẳng quan tâm tới chuyện mình làm sẽ ảnh hưởng tới người khác như thế nào, đúng không? Với tôi, bác chỉ gán cho tôi là như vậy để tiện cho cái mục đích của mình, để bảo vệ cái nguyên tắc của mình thôi mà. Bác quan tâm tới việc cái bác kqndvn đưa ra ảnh hưởng thế nào tới HP và những người khác, nhưng không buồn quan tâm tới cái bác gán cho người khác ảnh hưởng thế nào tới họ. Tôi nói có sai không? Double standard!
    Bác không quan tâm tới chuyện tôi bao đồng hay nhỏ mọn. Nhưng bác đã gán cho tôi hai cái từ đó. Bao đồng để nhằm gạt tôi ra ngoài cuộc tranh luận, để bớt một người phản ứng với bác. Nhỏ mọn là để tự bảo vệ mình, bằng cách HẠ THẤP người khác khi mình sai.
    Khích bác chút để cậu viết bài tiếp tiếp để tớ đi đến cái lõi vấn đề về chuyện cậu kqndvn thôi
    Huh? Làm sao bác biết trước là tôi sẽ viết bài tiếp? Võ đoán hả? Hay là bây giờ lại có chuyện biết trước, và chuyện biết trước không còn là nguỵ biện nữa? Bác vừa mới viết thế ở trang trước cơ mà, bài lúc 12:25 ngày 13/04, chuyện biết trước là nguỵ biện ý. Chuyện gì xảy ra vậy? Thế giới đảo lộn sau một đêm? Hay bác vẫn tiếp tục loanh quanh tìm lý do để biện hộ cho mình?
    Đến lúc này thì tớ nghĩ tớ đã đi đến cái lõi về những chuyện cậu kqndvn làm.
    Uh huh? Trong bài trước, tôi đã chỉ rõ cái lõi của chuyện của bác. Chế giễu người ta, rồi khi bị phản ứng thì làm to chuyện freedom of speech và đưa nguyên tắc ra để tự bảo vệ mình. ROTFLMAO
    Mấy câu hỏi lý sự kiểu cậu tớ chẳng hơi đâu trả lời, bản lĩnh lý luận thì mỗi người tự tạo cho mình thôi. Có điều buồn cười là cậu cứ tiếp tục hỏi tớ, nhưng cậu hỏi không với thái độ giải quyết vấn đề mà là hơn thua thì phải.
    Bản lĩnh lý luận gì ở đây? Bản lĩnh đánh lạc hướng để làm ra vẻ mình cao cả, hạ thấp người khác để đánh bóng bản thân, đó là những cái tôi vừa thấy. Còn hơn thua ư? Bác có ở trong đầu tôi đâu mà bác biết? Lại võ đoán hả? Không bản lĩnh lý luận nữa thì thôi, bác lại kéo sang chuyện hơn thua làm gì? Bác lại phải tìm cách hạ thấp tôi, bằng cách gán cho tôi cái chuyện hơn thua. Để đánh lừa người khác, hay để tự ru ngủ mình?
    Bác bắt đầu hơn thua, từ khi bác vội gán cái từ bao đồng cho tôi. Ngay cả đến bây giờ bác cũng vẫn thế, khi bác gán cho tôi cái chuyện hơn thua.
    Cả những chuyện kỹ thuật cũng thế, ban đầu tớ cũng có hứng vì nghĩ cậu muốn trao đổi thêm thông tin, nhưng chiều hướng càng ngày càng ridiculous. Tớ chẳng hơi đâu trả lời cậu.
    Making choice, huh? Cái chuyện tôi muốn trao đổi thêm thông tin ý, bác võ đoán hả? Geez! Tôi rất thích cái từ võ đoán này của bác! Càng thích hơn khi bác tìm cách gán nó cho người khác, nhưng lại quên bẵng đi mình đang như thế.
    Còn cái gì ridiculous cơ? Vẫn thế phải không? Hai lần trong một bài viết, bác nhường những cái dở cho người khác để biến mình thành đứng đắn, tốt đẹp. Bác không thể viết đơn giản là: ''Thôi! Tớ không muốn tranh cãi nữa! Dừng ở đây!'', được hay sao? Hay đơn giản là thôi không post nữa, được không? Bác muốn rút lui trong danh dự phải không? Rút lui, nhưng mình vẫn phải có tư thế HƠN, đúng không? Đến cả khi rút lui, bác cũng phải HƠN THUA với người ta, phải giữ phần HƠN. Làm sao bác có thể gán cho tôi cái vẻ hơn thua, trong khi bác vẫn cứ viết lung tung như thế? Making choice???!!!!!
    Mà tớ nghĩ cậu cũng nên tiếp tục độc thoại vậy nếu vẫn còn cảm thấy bực tức gì đó
    Bác võ đoán hay thế! Cứ như bác đã ở ngay đây vào một lúc nào đó và nhìn thấy tôi mặt đỏ gay, thở phì phò, răng nghiến kèn kẹt vì tức ý nhẩy? Mà ở trên thì là hơn thua, giờ thì là bực tức! Man, bao giờ thì bác mới thôi nghĩ ra và gán cho người khác những đặc tính mà người ta không có? Có lẽ là không bao giờ, vì bác luôn cần như vậy để làm cho mình HƠN người khác!
    Có điều này trước khi chấm dứt mấy chuyện này nói luôn là tớ cũng như nhiều bác cựu binh khác của box ngày càng thấy xa cái box này vì trong này có lẽ chỉ toàn các cậu mới lớn, thích cãi nhau hơn thua.
    Oh, come on! Giờ thì lại là một loạt các cậu mới lớn?! Rặt một lũ thích hơn thua?! Điều này làm bác cảm thấy người lớn hơn, phải không? Thấy dễ chịu hơn nữa chứ? Sao NGƯỜI LỚN như bác trước khi rút đi cứ phải quăng lại một vài thứ như cái bọn trẻ ranh còn đang thích hơn thua thế này? Tôi tưởng chỉ là với một mình tôi, nhưng hoá ra bác làm như vậy với rất nhiều người.
    To bác người lớn không thích cãi nhau hơn thua: Nếu bác không thích cãi nhau thì tuỳ bác. Chúng tôi, gồm tôi và nhiều người khác, cả ít tuổi tới nhỡ nhỡ, sồn sồn, và lớn tuổi, cũng không thích cãi nhau. Chỉ là chúng tôi không thích ngồi há mồm ra đọc những chuyện được bịa đặt xào nấu một cách thô thiển, mà có lẽ bác cũng đã đọc thấy, rồi gật lấy gật để, hay ngậm mồm lại rồi im tiếng để yên. Nếu bác chấp nhận như thế, thì xin bác cứ làm như thế và để mặc chúng tôi cãi nhau. Đừng nhảy bổ vào cãi nhau làm gì, để rồi lại như bác, submarines, rút đi nhưng vẫn phải quay đầu lại nói vớt một câu đại ý các cậu là một lũ trẻ con làm sao được như người lớn chúng tôi. Xin hãy cẩn thận giữ lấy cái vẻ đạo mạo của mình!
    LOL
    P.S. Lần sau thì nhớ rằng khi người ta nói chuyện nhẹ nhàng thì đừng vội nhảy dựng lên và gán cho người ta những thuộc tính đầy hay ho như thế. Hãy cứ từ từ tìm hiểu và đáp lại đúng mực.
    (Sorry mods và cả nhà. Last post regarding submarines.
    Nếu tôi có lỡ hùng hồn quá thì xin vui lòng hiểu rằng không phải tôi muốn vậy mà là do tôi đang bị lẫy nhiễm bệnh hùng hồn. Sẽ cố gắng sửa chữa.)
    Được hairyscary sửa chữa / chuyển vào 04:55 ngày 17/04/2005
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Không liên tục. Biết làm thế nào được, các bác xem là nên chuyển thằng này sang kia hay chuyển anh em nó về đây.
    Đằng nào thì cũng phải cho nốt đoạn nữa.
    Yevgeniy Pepelyaev bắt sống F-86.
    9:51, gày 6 tháng 10 năm 1956, Pepelyaev dẫn đầu một đội bay 10 MIG thuộc trung đoàn 196, là mọt phần của đội bay bảo vệ lớn thuộc tập đoàn Không Quân 64, đi đánh chặn máy bay địch. Sau khi đến vùng lõm, thung lũng sông Chjonchjongan đã được nhắt đến trên kia, thì đội của anh gặp một đội F-86. Trận đánh diễn ra khoảng 10km về phía Tây Nam Pakhchon, có khoảng 16 F-86 thanm gia trận đánh này. Ban đầu, đại tá Pepelyaev tấn công đôi F-86 thứ nhất và bắn ở khoàng cách 550 mét. Các máy bay Mỹ trượt giảm độ cao và ngoặt trái tránh được đạn, làm tràng bắn của Pepelyaev không kết quả. Pepelyaev và cảnh giới của anh bị tấn công bởi một đôi F-86 khác khi vòng thoát khỏi đnf tấn công ban đầu. Dẫn đầu đôi F-86 này bắn Pepelyaev một tràng thẳng hướng từ vị trí phải cao. Pepelyaev nhỡ lại:
    Tôi nhớ trận đánh này như là nó mới xảy ra hôm qua thôi. Chiéc dẫn đầu bắn vào máy bay của tôi và làm mẻ một miến nhỏ ở cửa hút gió.
    Tôi nhớ chiến thuật mà tôi và các bạn tôi đã phát triển trước chiến tranh, khi chúng tôi phát triển chiến thuật mới cho máy bay mới. Khi tấn cong đói đầu, khi cả hai máy bay đều cố gắng bám đuôi nhau. Đầu tiên là mọt hành động chiến thuật, làm ra vẻ thực hiện một vòng lượn nhằm vào một bên sườn địch, nhưng sau đó thực hiện một vobngf ngoặt theo hướng ngược lại và bám đuôi địch. Khi địch tìm cách thoát, sẽ bám chặt hơn đuôi nó. Lúc đó đã xảy ra điều như vậy. Khi tôi qua mặt Sabres trong một tình huón đối đầu, nó bắt đầu một cú ngoặt bên phải trong khi lập tức nâng độ cao. Tôi đang ở một hướng khác giữa độ cao và bắt đầu vòng sang hướng đó, về phía Sabres. Khi góc quay đã đạt 40-50 độ, tôi lập tức thực hiện một đường ngặt trái và kết thúc cú ngoặt gay sau chiếc Sabres dẫn đầu, hơi cao hơn nó và bên phải. Nó là ngay thẳng hướng trước mặt tôi với khoảng cách chỉ 100 mét. Tôi ấn mạnh cần lái cố gắng lấy đường bắn. Nhưng mà vòng chỉ thị mục tiêu luôn luôn treo cao lên hình chiếc Sabres. Trong khi đó gia tốc ngược cứ như muốn kéo tôi ra khỏi ghế. Tôi thực hiệm một đường xoáy lật đến lúc gia tốc ép tôi xuống ghế, làm việc ngắm trở nên thuận tiện. Sabres nhanh chóng thực hiện một đường lật như tôi, nhưng khi đó tôi đã lấy đường ngắm chính xác rồi. Tôi bắn nó ở khoảng cách 130 mét. Một viên đạn 37m trúng phía sau buồn lái. Nó nổ và Sabres lập tức mất độ cao. Tôi chả cần đuổi theo nó, sau phát đạn như vậy thì chẳng có lý do nào để đuổi theo nó cả. (HP: buồng phi công hỏng ngay lập tức. Nếu Sabres không lắp súng máy 12,7mm mà lắp đại bác 37mm như MIG-15 thì kết quả trận đánh đã ngược lại, Yevgeniy Pepelyaev nhảy dù và hôm nay chúng ta không có bài dịch này của em).
    Báo cáo trận đánh của trung đoàn 196 hôm đó thế này. Ddây là tình trạng máy bay địch sau khi Pepelyaev tấn công: ?o F-86 thực hiện một đường ngoặt trái rồi mất độ cao rất nhanh. Máy bay xoáy rơi xuống và kéo đằng sao một đám mây, nó được theo dõi bởi Pepelyaev, Ryzhkov,. Abakumov? Phi công của chiếc máy bay hỏng không thể nhảy dù được vì buồng lái hỏng. Một cái đuôi khói kéo dài đằng sau máy bay, máy bay tiếp túc hướng về phía vịnh Cao Ly trước mũi. Viên phi công rơi theo chiếc máy bay cháy đang xoáy. Tuy nhiien, chiếc máy bay không chạy được lâu, một đọi MIG khác của trung đoàn 176 đến, F-86 khó mà thoát được MIG.
    Báo cáo trận đánh của trung đoàn 176, của quyền trung đoàn trưởng, đại úy Constantine Sheberstov. ?oLúc 9h:12 toi dẫn đường toàn bộ đội bay tới Andju từ hướng Đông Bắc trong khi hạ độ cao. Khoảng 30 km phía bắc Andju độ cao 6100 mét tôi gặp một F-86 bay một mình phía trước và bên trái đội bay của chúng tôi. Chiếc F-86 đang chùi xuống đất với góc 45-50 độ và kéo đằng sau một cái đuôi khói. Tôi tăng góc xuống của tôi rồi bám theo F-86 ở tốc độ cao nhất. 2-3 phút sau tôi tóm được nó ở độ cao 1000 mét và bắn ở khoàng cách 350 mét từ tất cả 3 khẩu súng. Khi F-86 bắt đầu lật, tôi bắn tiếp một tràng và vươtỵ qua nó. Nhưng tôi thấy nó như là ổn định, quay lại bay ngang và hạ độ cao!!!!!!! Một lúc sau F-86 được theo dõi bởi cặp MIG đến dầu tiên, Milaushkin, sau đó là Fedorov nhìn thấy F-86 hạ cánh xuống bờ biển.?
    Chiếc máy bay hạ xuống ờ biển cách Phenvon 13km, phi công nhanh chóng được máy bay trực thăng cứu hộ, còn chiếc máy bay hỏng thì bị tủy triều trùm lên.
    (HP: phi công F-86 đã chứng tỏ độ trên cả tuyệt vời. Anh ta cố nhảy dù rồi nhanh chóng tự chứng minh là không thể làm được điều đó-ngoài việc làm máy bay mất thăng bằng và xoáy. Anh ta vừa cố lết đến bờ biển, vừa cho máy bay rơi xuống và cố bật hết cỡ cái động cơ hỏng dở. Máy bay chúi xuống làm tăng tốc độ, khi chỉ còn 1000 mét, trong lúc bị nện thêm phát nữa, tốc độ tích được trong khi rơi đã làm phi công F-86 lấy lại được thăng bằng và hạ cánh).
    Yevgeniy Pepelyaev tiếp tục kể:
    ?oÔi, sau đó là mọt vụ xì căng đan lớn. Tại sao lại thế, vì luôn luôn có những xung đột với các đơn vị khác. (ở đây là trung đoàn 196 do Pepelyaev chỉ huy và trung đoàn 176 cận vệ), mặt dù ?~zampolits?T kiểm soát (đây là các đơn vị quân cảnh và an ninh, theo dõi tinh thần quân đội). Tôi đã bắn hạ chiếc máy bay và tiếp tục bay với đội hình như cũ, trong khi đó trung đoàn 176 tếch khỏi phía sau chúng tôi và không thực hiện nhiệm vụ của họ trong trận đánh. Tôi hét lên, đến đây chũng tôi cần các anh giúp, suốt trận đánh chùng tôi dùng chung một tần số, họ im lặng, họ bay theo sự việc, quan sát chiếc F-86 hạ canh và báo cao lên trên. Sheberstov bắn chiếc máy bay ở khảnh cách 3-4km quay trở về căn cứ và viết báo cáo là đã bắn hạ. Anh ta viết báo cáo nhanh hơn và báo cáo chỉ huy sự đoàn. Họ điều tra, tôi mới hỏi Sheberstov:
    -Anh bắn rơi nó thế nào??
    Chúng tôi đến chỗ rửa ảnh và tìm trong film, nó trình bầy trên phim cảu anh ta chỉ thấy bờ biển và chiếc máy bay các xa 3km. Trong khi đó, trên film của toi, máy bay nga trước mặt, khoàng cách 130m. Có hai nhóm Sabres phục vụ ở Cao Ly, nhóm đầu tiên sơn vạch đen trắng trên cánh và nhóm thứ hai sơn mày vàng. Tôi lại hỏi Sheberstov:
    -Cái máy bay rơi có vạch màu gì. ?"Trả lời: Vàng.
    ?"OK-tôi tiếp-chúng ta đi tìm cái máy bay về, nếu nó vàng là của anh, đen trắng là của tôi.
    Kỹ thuật lliền đem cái máy bay về căn cứ, ôi, nó đen trắng và có một lỗ to tướng sau buồng lái.
    (HP, trường hợp này nhà ta cũng gặp một lần, đạn 37mm AA khi quá gần thì không nổ trở thành đạn xuyên).
    Ơr đây, giải thích đôi điều về ký hiệu máy bay. Đen tắng là kí hiệu của đoàn bay 4, vàng viền đen là ký hiệu của đoàn bay 51. Theo một số sách vở thì đoàn bay 51 chỉ sử dụng F-86 sau ngày 1-12. Tại sao Sheberstov lại nói ông thấy máy bay có vạch vàng. Điều đó được giải thích về sau này. Đoàn bay 51 trướng đây dùng F-80, từ tháng 9 đoàn bay chuyển máy bay của họ cho những đơn bị ném bom để đi Nhật nhận máy bay F-86. 75 chiếc (3 phi đội) từ Mỹ đã chuyển đến đoàn 51 ở Nhật. Nhưng sau đó, 25 chiéc lại chuyển đến đoàn bay 4 để bù số máy bay rơi (), trước đấy, ở đoàn 51, nó đã được sơn vạch vàng và điều này giải thích F-86 vạch vàng của đoàn bay 51 xuất hiện trên chiến trường trướng khi đoàn bay trở về. Đến mùa hè 1952 thì các vạch sơn cánh này gióng nhau trên tất cả các đơn vị và chỉ có thể phân bbiệt được ở đuôi.
    Trở lại ngày 6 tháng 10 năm 1951, tuy mọi việc như vậy, nhưng người ga râtá thích cãi nhau xong lại muốn mọi việc êm đẹp, thế là đại úy Sheberstov được ghi công đã bắn hạ chiếc Sabre này. Tất nhiên, không có ?ogun camera photos? của anh trong Album chiến thắng trên không của trung đoàn 176. Thay vào đoa là ảnh chhiếc máy bay bị bắn hạ đỗ trên bãi biển.
    Tuy rắc rối, chiếc máy bay này cũng trở thành phần thưởng lớn đối với các nhà kỹ thuật Soviet. Sư đoàn 324 lâp tức cử một đội tìm kiếm, từ sân bay Andju đi tìm chiếc máy bay. N. M Chepelev nhớ lại:
    Chúng tôi định kéo chiếc máy bay khoảng 1km đến bờ đê cho an toàn. Vì khi thủy triều, nước biển có thể ngập máy bay. Đội tìm kiếm của chúng tôi do kỹ sư trưởng Trung Đoàn, Kazankin dẫn đầu. Đội còn có đại úy Mohov của xưởng sửa chữa máy bay trung đoàn. Chúng tôi mang theo dụng cụ chuẩn bị trước để tháo đuôi cánh và thân máy bay. các kỹ sư sửa chữa là tôi, Volokshanin, Semyon Fedulov. Sau này, họ ở trong viện thiết ké máy bay MIKOYAN.
    Chúng tôi chọn một ngày có mây nặng để tháo máy bay. Chúng tôi đáng ra đã hoàn thành tốt đẹp nếu Mỹ không phát hiện ra và bắn về phía chúng tôi từ biển. Một chiếc F-84 muốn tấn công chúng tôi từ trên mây, đến giờ tôi vẫn khong hiểu tại sao hắn bay cao lên và bắt đầu tìm kiếm chúng tôi vòng quanh. Chúng tôi nhảy qua lại giữa hai mặt đê còn chiếc máy bay không thể bay cao hơn nữa để tấn công chúng tôi thuận tiện hơn. Đây là máy bay trinh sát và nó không mang bom. Cuối cùng, chiếc máy bay đó đi mất, và do đó, nếu chúng tôi không hoàn thành công việc trong một ngày thì chúng tôi khong còn cơ hội sống thêm nữa. Chúng tôi đem đến 500 cong nhân Trung Quốc, họ kéo máy bay lên khỏi nước và chất lên xe Studebekkers. Công việc hoàn thành lúc 4 giờ. Chúng tôi đi ban đênm và ngày trú ẩn trung hầm ngầm. Tôi chở phần trướng thân và đi đầu, hướng đi và lịch trình của chúng tôi được người Mỹ biết và đánh phá. Mặc dầu vậy, một chiếc trong bọ họ cũng suyt tóm được chúng tôi. Khi đó tôi vẫn đang trên đường tới hầm ngầm tiếp theo, mà trời đã rạng đông. Những xe đi sau thì nghỉ ngơi trong hầm trước đó. Khi chúng tôi tới gần hầm thì lái xe Medvedev thấy bánh không ăn lái lắm., và chúng tôi phát hiện ra một B-26 đang tìm cách tấn công đằng sau. May sao, chúng tôi lao được vào hầm với tốc độ cao, chiếc B-26 bắn vài quả tên lửa. Bây giờ thì ổn, chúng tôi đã ở độ sâu 1km trong khi tên lửa may lắm xuyên được 10 mét.
    Cuối cùng, chúng tôi đến nhà ăn trưa của phi công sau khi đánh nhau. Họ chạy đến vây quanh và ngắm nghiá Sabre. Đây là lần đầu tiên họ nhìn nó gần dến như vậy, tuy rằng nó đang được tháo. Các phi công kể cho chúng toi, họ đã được cử đi để đánh chặn B-29, đang ném bom chỗ chiếc F-86 Sabre hạ cánh. Họ nghĩ rằng chúng tôi đã chết, một trường học ở gần đấy bị phá hủy mọi thứ trên mặt đất.
    Tôi hút hai chai kerosene và một ít thứ nước đỏ dỏ từ máy bay Sabre. TRở về, chúng tôi sử dụng hỗn hợp ASh-70/10 cồn và glyxêrin cho giảm chấn và hốn hợp GZ-50/50 cho các ốn thủy lực, nhưng những thứ này có thể đông lại khi trời lạnh. Sau này, ở Liên Xô người ta tìm dược thứ hõn hợp thay cho giảm xóc và hệ thống thủy lực gọi là AMG-10, giống hệt nửa chai đỏ đỏ tôi hút từ Sabre. Chúng tôi đã lấy trộm chiếc máy bay từ tay người Mỹ trong điều kiện gần như không thể làm được. Thế mà còn có ý kiến từ Maxcơva: ?~làm sao mà các anh lại giử cho chúng tôi một cái máy bay đầy bùn như vậy.?T. Sau khi xem xét, các phi công của tập đoàn quân 64 rất ấn tượng với máy bay này. Nó có buồng lái rộng, thoải mái, hệ thống lái và ngắm bắn hoàn thiện hơn máy bay Liên Xô.
    Yevgeniy Pepelyaev nhớ lại tiếp. Khi máy bay đến sân bay, người ta muốn mahg nó đi ngay, nhưng tôi đề nghị để nó lại một thời gian, khi đó các phi công đã tiến bộ vì quen hơn với nó. Tôi ngồi trong buồn lái, đó là một buồng lái sắp xếp tốt, tôi có cảm giác như ngòi trong ghế một chiếc xe sang trọng.
    Nhìn từ bên trong buồng lái, F-86 thong suốt, trong khi kính ngắm lồi ra ở MIG. Thong thường, phi công bị vỡ mặt khi hạ cánh khẩn cấp vì điều đó. F-86 cái gì cũng nhẵn mà sạch trừ hệ thống vạch lưới và ngắm bắn trứớc phaỉ buồn lái. F-86 có một là bàn đường chên trời vạch chia tự do và chính xác. AGK-47B là là bàn đường chân trời của chúng tôi hoạt đọng khong được tốt. AGI-1 là con quay đường chân trời của chúng ta tốt như của F-86, giống hệt, dừng từ năm 1954, nhưng màu sơn của họ dễ nhìn hơn, họ là mày xanh nhạt, còn ta là xám xanh.:
    Maý bay sau đó được khám bởi quyền chỉ huy sư đoàn 18, sư 303, đại tá Smorchkov?T Alexander. ?oTấu cả bẩn thỉu và bùn. máy bay được đem đến sân bay bởi Kozhedub trong điều kiện tồi tệ như vậy, đó là những gì mà đầu tien tôi trông thấy nó. Chúng tôi nhậu mừng chiến thắng và báo cáo về Maxcơva. ? Một điều khó hiểu của chúng tôi hồi đó là, hình như Sabre không thể bị đánh trộm từ phía sau, có thể nó được trang bị rađar đối kháng bán cầu sau. Bây giờ thì chiếc máy bay bị bắt dã mở toang bí mật, Sabre có góc nhìn từ buòng lái rất tốt. Trên MIG lúc đó, phi công chỉ thò cái đầu lên cùn tất cả từ vai chìm xuống thân. Để phi công MIG nhìn thấy những gì dưới đuôi của nó, nó chỉ có thể lộn ngược máy bay. Còn Sabre, được mệnh danh là ?othằng gù? vì có buồng lái lớn, chúng ta thường ngạc nhiên tại sao nó như vậy, nay đã có câu trả lời. Máy bay sớm được gửi đến Maxcơva. Nó đến NII VVS sau một chuyến đi dài cuối năm 1951, ở đây, nó được các chuyen gia hàng không nghiên cứu kỹ. Tháng 7 năm 1952, một chiếc F-86 nữa lại đến với họ, lần này là loại ?oE?. Cách đó một tháng rưỡi, ngày 13-05-1952, máy bay bị trúng pháo phòng không, máy bay do phi công Walker Mahurin điều khiển, có số F-86E-10-NA, s/n: 51-2789. chi tiết về vụ này có trên ?okhông lực thế giới?. Liên Xô đã có ý định sản xuất máy bay copy F-86 có dộng cơ Nga, Chương trình đã được quyết định cho nhóm thiết kế số 1 Kondratyev. NHưng chương trình sớm bị dừng lại khi quyết định thành lập trở lại nhóm Sukhoi. (chi tiết về vụ này, em đã đề cập trên HK100 phần 1)
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Không liên tục. Biết làm thế nào được, các bác xem là nên chuyển thằng này sang kia hay chuyển anh em nó về đây.
    Đằng nào thì cũng phải cho nốt đoạn nữa.
    Yevgeniy Pepelyaev bắt sống F-86.
    9:51, gày 6 tháng 10 năm 1956, Pepelyaev dẫn đầu một đội bay 10 MIG thuộc trung đoàn 196, là mọt phần của đội bay bảo vệ lớn thuộc tập đoàn Không Quân 64, đi đánh chặn máy bay địch. Sau khi đến vùng lõm, thung lũng sông Chjonchjongan đã được nhắt đến trên kia, thì đội của anh gặp một đội F-86. Trận đánh diễn ra khoảng 10km về phía Tây Nam Pakhchon, có khoảng 16 F-86 thanm gia trận đánh này. Ban đầu, đại tá Pepelyaev tấn công đôi F-86 thứ nhất và bắn ở khoàng cách 550 mét. Các máy bay Mỹ trượt giảm độ cao và ngoặt trái tránh được đạn, làm tràng bắn của Pepelyaev không kết quả. Pepelyaev và cảnh giới của anh bị tấn công bởi một đôi F-86 khác khi vòng thoát khỏi đnf tấn công ban đầu. Dẫn đầu đôi F-86 này bắn Pepelyaev một tràng thẳng hướng từ vị trí phải cao. Pepelyaev nhỡ lại:
    Tôi nhớ trận đánh này như là nó mới xảy ra hôm qua thôi. Chiéc dẫn đầu bắn vào máy bay của tôi và làm mẻ một miến nhỏ ở cửa hút gió.
    Tôi nhớ chiến thuật mà tôi và các bạn tôi đã phát triển trước chiến tranh, khi chúng tôi phát triển chiến thuật mới cho máy bay mới. Khi tấn cong đói đầu, khi cả hai máy bay đều cố gắng bám đuôi nhau. Đầu tiên là mọt hành động chiến thuật, làm ra vẻ thực hiện một vòng lượn nhằm vào một bên sườn địch, nhưng sau đó thực hiện một vobngf ngoặt theo hướng ngược lại và bám đuôi địch. Khi địch tìm cách thoát, sẽ bám chặt hơn đuôi nó. Lúc đó đã xảy ra điều như vậy. Khi tôi qua mặt Sabres trong một tình huón đối đầu, nó bắt đầu một cú ngoặt bên phải trong khi lập tức nâng độ cao. Tôi đang ở một hướng khác giữa độ cao và bắt đầu vòng sang hướng đó, về phía Sabres. Khi góc quay đã đạt 40-50 độ, tôi lập tức thực hiện một đường ngặt trái và kết thúc cú ngoặt gay sau chiếc Sabres dẫn đầu, hơi cao hơn nó và bên phải. Nó là ngay thẳng hướng trước mặt tôi với khoảng cách chỉ 100 mét. Tôi ấn mạnh cần lái cố gắng lấy đường bắn. Nhưng mà vòng chỉ thị mục tiêu luôn luôn treo cao lên hình chiếc Sabres. Trong khi đó gia tốc ngược cứ như muốn kéo tôi ra khỏi ghế. Tôi thực hiệm một đường xoáy lật đến lúc gia tốc ép tôi xuống ghế, làm việc ngắm trở nên thuận tiện. Sabres nhanh chóng thực hiện một đường lật như tôi, nhưng khi đó tôi đã lấy đường ngắm chính xác rồi. Tôi bắn nó ở khoảng cách 130 mét. Một viên đạn 37m trúng phía sau buồn lái. Nó nổ và Sabres lập tức mất độ cao. Tôi chả cần đuổi theo nó, sau phát đạn như vậy thì chẳng có lý do nào để đuổi theo nó cả. (HP: buồng phi công hỏng ngay lập tức. Nếu Sabres không lắp súng máy 12,7mm mà lắp đại bác 37mm như MIG-15 thì kết quả trận đánh đã ngược lại, Yevgeniy Pepelyaev nhảy dù và hôm nay chúng ta không có bài dịch này của em).
    Báo cáo trận đánh của trung đoàn 196 hôm đó thế này. Ddây là tình trạng máy bay địch sau khi Pepelyaev tấn công: ?o F-86 thực hiện một đường ngoặt trái rồi mất độ cao rất nhanh. Máy bay xoáy rơi xuống và kéo đằng sao một đám mây, nó được theo dõi bởi Pepelyaev, Ryzhkov,. Abakumov? Phi công của chiếc máy bay hỏng không thể nhảy dù được vì buồng lái hỏng. Một cái đuôi khói kéo dài đằng sau máy bay, máy bay tiếp túc hướng về phía vịnh Cao Ly trước mũi. Viên phi công rơi theo chiếc máy bay cháy đang xoáy. Tuy nhiien, chiếc máy bay không chạy được lâu, một đọi MIG khác của trung đoàn 176 đến, F-86 khó mà thoát được MIG.
    Báo cáo trận đánh của trung đoàn 176, của quyền trung đoàn trưởng, đại úy Constantine Sheberstov. ?oLúc 9h:12 toi dẫn đường toàn bộ đội bay tới Andju từ hướng Đông Bắc trong khi hạ độ cao. Khoảng 30 km phía bắc Andju độ cao 6100 mét tôi gặp một F-86 bay một mình phía trước và bên trái đội bay của chúng tôi. Chiếc F-86 đang chùi xuống đất với góc 45-50 độ và kéo đằng sau một cái đuôi khói. Tôi tăng góc xuống của tôi rồi bám theo F-86 ở tốc độ cao nhất. 2-3 phút sau tôi tóm được nó ở độ cao 1000 mét và bắn ở khoàng cách 350 mét từ tất cả 3 khẩu súng. Khi F-86 bắt đầu lật, tôi bắn tiếp một tràng và vươtỵ qua nó. Nhưng tôi thấy nó như là ổn định, quay lại bay ngang và hạ độ cao!!!!!!! Một lúc sau F-86 được theo dõi bởi cặp MIG đến dầu tiên, Milaushkin, sau đó là Fedorov nhìn thấy F-86 hạ cánh xuống bờ biển.?
    Chiếc máy bay hạ xuống ờ biển cách Phenvon 13km, phi công nhanh chóng được máy bay trực thăng cứu hộ, còn chiếc máy bay hỏng thì bị tủy triều trùm lên.
    (HP: phi công F-86 đã chứng tỏ độ trên cả tuyệt vời. Anh ta cố nhảy dù rồi nhanh chóng tự chứng minh là không thể làm được điều đó-ngoài việc làm máy bay mất thăng bằng và xoáy. Anh ta vừa cố lết đến bờ biển, vừa cho máy bay rơi xuống và cố bật hết cỡ cái động cơ hỏng dở. Máy bay chúi xuống làm tăng tốc độ, khi chỉ còn 1000 mét, trong lúc bị nện thêm phát nữa, tốc độ tích được trong khi rơi đã làm phi công F-86 lấy lại được thăng bằng và hạ cánh).
    Yevgeniy Pepelyaev tiếp tục kể:
    ?oÔi, sau đó là mọt vụ xì căng đan lớn. Tại sao lại thế, vì luôn luôn có những xung đột với các đơn vị khác. (ở đây là trung đoàn 196 do Pepelyaev chỉ huy và trung đoàn 176 cận vệ), mặt dù ?~zampolits?T kiểm soát (đây là các đơn vị quân cảnh và an ninh, theo dõi tinh thần quân đội). Tôi đã bắn hạ chiếc máy bay và tiếp tục bay với đội hình như cũ, trong khi đó trung đoàn 176 tếch khỏi phía sau chúng tôi và không thực hiện nhiệm vụ của họ trong trận đánh. Tôi hét lên, đến đây chũng tôi cần các anh giúp, suốt trận đánh chùng tôi dùng chung một tần số, họ im lặng, họ bay theo sự việc, quan sát chiếc F-86 hạ canh và báo cao lên trên. Sheberstov bắn chiếc máy bay ở khảnh cách 3-4km quay trở về căn cứ và viết báo cáo là đã bắn hạ. Anh ta viết báo cáo nhanh hơn và báo cáo chỉ huy sự đoàn. Họ điều tra, tôi mới hỏi Sheberstov:
    -Anh bắn rơi nó thế nào??
    Chúng tôi đến chỗ rửa ảnh và tìm trong film, nó trình bầy trên phim cảu anh ta chỉ thấy bờ biển và chiếc máy bay các xa 3km. Trong khi đó, trên film của toi, máy bay nga trước mặt, khoàng cách 130m. Có hai nhóm Sabres phục vụ ở Cao Ly, nhóm đầu tiên sơn vạch đen trắng trên cánh và nhóm thứ hai sơn mày vàng. Tôi lại hỏi Sheberstov:
    -Cái máy bay rơi có vạch màu gì. ?"Trả lời: Vàng.
    ?"OK-tôi tiếp-chúng ta đi tìm cái máy bay về, nếu nó vàng là của anh, đen trắng là của tôi.
    Kỹ thuật lliền đem cái máy bay về căn cứ, ôi, nó đen trắng và có một lỗ to tướng sau buồng lái.
    (HP, trường hợp này nhà ta cũng gặp một lần, đạn 37mm AA khi quá gần thì không nổ trở thành đạn xuyên).
    Ơr đây, giải thích đôi điều về ký hiệu máy bay. Đen tắng là kí hiệu của đoàn bay 4, vàng viền đen là ký hiệu của đoàn bay 51. Theo một số sách vở thì đoàn bay 51 chỉ sử dụng F-86 sau ngày 1-12. Tại sao Sheberstov lại nói ông thấy máy bay có vạch vàng. Điều đó được giải thích về sau này. Đoàn bay 51 trướng đây dùng F-80, từ tháng 9 đoàn bay chuyển máy bay của họ cho những đơn bị ném bom để đi Nhật nhận máy bay F-86. 75 chiếc (3 phi đội) từ Mỹ đã chuyển đến đoàn 51 ở Nhật. Nhưng sau đó, 25 chiéc lại chuyển đến đoàn bay 4 để bù số máy bay rơi (), trước đấy, ở đoàn 51, nó đã được sơn vạch vàng và điều này giải thích F-86 vạch vàng của đoàn bay 51 xuất hiện trên chiến trường trướng khi đoàn bay trở về. Đến mùa hè 1952 thì các vạch sơn cánh này gióng nhau trên tất cả các đơn vị và chỉ có thể phân bbiệt được ở đuôi.
    Trở lại ngày 6 tháng 10 năm 1951, tuy mọi việc như vậy, nhưng người ga râtá thích cãi nhau xong lại muốn mọi việc êm đẹp, thế là đại úy Sheberstov được ghi công đã bắn hạ chiếc Sabre này. Tất nhiên, không có ?ogun camera photos? của anh trong Album chiến thắng trên không của trung đoàn 176. Thay vào đoa là ảnh chhiếc máy bay bị bắn hạ đỗ trên bãi biển.
    Tuy rắc rối, chiếc máy bay này cũng trở thành phần thưởng lớn đối với các nhà kỹ thuật Soviet. Sư đoàn 324 lâp tức cử một đội tìm kiếm, từ sân bay Andju đi tìm chiếc máy bay. N. M Chepelev nhớ lại:
    Chúng tôi định kéo chiếc máy bay khoảng 1km đến bờ đê cho an toàn. Vì khi thủy triều, nước biển có thể ngập máy bay. Đội tìm kiếm của chúng tôi do kỹ sư trưởng Trung Đoàn, Kazankin dẫn đầu. Đội còn có đại úy Mohov của xưởng sửa chữa máy bay trung đoàn. Chúng tôi mang theo dụng cụ chuẩn bị trước để tháo đuôi cánh và thân máy bay. các kỹ sư sửa chữa là tôi, Volokshanin, Semyon Fedulov. Sau này, họ ở trong viện thiết ké máy bay MIKOYAN.
    Chúng tôi chọn một ngày có mây nặng để tháo máy bay. Chúng tôi đáng ra đã hoàn thành tốt đẹp nếu Mỹ không phát hiện ra và bắn về phía chúng tôi từ biển. Một chiếc F-84 muốn tấn công chúng tôi từ trên mây, đến giờ tôi vẫn khong hiểu tại sao hắn bay cao lên và bắt đầu tìm kiếm chúng tôi vòng quanh. Chúng tôi nhảy qua lại giữa hai mặt đê còn chiếc máy bay không thể bay cao hơn nữa để tấn công chúng tôi thuận tiện hơn. Đây là máy bay trinh sát và nó không mang bom. Cuối cùng, chiếc máy bay đó đi mất, và do đó, nếu chúng tôi không hoàn thành công việc trong một ngày thì chúng tôi khong còn cơ hội sống thêm nữa. Chúng tôi đem đến 500 cong nhân Trung Quốc, họ kéo máy bay lên khỏi nước và chất lên xe Studebekkers. Công việc hoàn thành lúc 4 giờ. Chúng tôi đi ban đênm và ngày trú ẩn trung hầm ngầm. Tôi chở phần trướng thân và đi đầu, hướng đi và lịch trình của chúng tôi được người Mỹ biết và đánh phá. Mặc dầu vậy, một chiếc trong bọ họ cũng suyt tóm được chúng tôi. Khi đó tôi vẫn đang trên đường tới hầm ngầm tiếp theo, mà trời đã rạng đông. Những xe đi sau thì nghỉ ngơi trong hầm trước đó. Khi chúng tôi tới gần hầm thì lái xe Medvedev thấy bánh không ăn lái lắm., và chúng tôi phát hiện ra một B-26 đang tìm cách tấn công đằng sau. May sao, chúng tôi lao được vào hầm với tốc độ cao, chiếc B-26 bắn vài quả tên lửa. Bây giờ thì ổn, chúng tôi đã ở độ sâu 1km trong khi tên lửa may lắm xuyên được 10 mét.
    Cuối cùng, chúng tôi đến nhà ăn trưa của phi công sau khi đánh nhau. Họ chạy đến vây quanh và ngắm nghiá Sabre. Đây là lần đầu tiên họ nhìn nó gần dến như vậy, tuy rằng nó đang được tháo. Các phi công kể cho chúng toi, họ đã được cử đi để đánh chặn B-29, đang ném bom chỗ chiếc F-86 Sabre hạ cánh. Họ nghĩ rằng chúng tôi đã chết, một trường học ở gần đấy bị phá hủy mọi thứ trên mặt đất.
    Tôi hút hai chai kerosene và một ít thứ nước đỏ dỏ từ máy bay Sabre. TRở về, chúng tôi sử dụng hỗn hợp ASh-70/10 cồn và glyxêrin cho giảm chấn và hốn hợp GZ-50/50 cho các ốn thủy lực, nhưng những thứ này có thể đông lại khi trời lạnh. Sau này, ở Liên Xô người ta tìm dược thứ hõn hợp thay cho giảm xóc và hệ thống thủy lực gọi là AMG-10, giống hệt nửa chai đỏ đỏ tôi hút từ Sabre. Chúng tôi đã lấy trộm chiếc máy bay từ tay người Mỹ trong điều kiện gần như không thể làm được. Thế mà còn có ý kiến từ Maxcơva: ?~làm sao mà các anh lại giử cho chúng tôi một cái máy bay đầy bùn như vậy.?T. Sau khi xem xét, các phi công của tập đoàn quân 64 rất ấn tượng với máy bay này. Nó có buồng lái rộng, thoải mái, hệ thống lái và ngắm bắn hoàn thiện hơn máy bay Liên Xô.
    Yevgeniy Pepelyaev nhớ lại tiếp. Khi máy bay đến sân bay, người ta muốn mahg nó đi ngay, nhưng tôi đề nghị để nó lại một thời gian, khi đó các phi công đã tiến bộ vì quen hơn với nó. Tôi ngồi trong buồn lái, đó là một buồng lái sắp xếp tốt, tôi có cảm giác như ngòi trong ghế một chiếc xe sang trọng.
    Nhìn từ bên trong buồng lái, F-86 thong suốt, trong khi kính ngắm lồi ra ở MIG. Thong thường, phi công bị vỡ mặt khi hạ cánh khẩn cấp vì điều đó. F-86 cái gì cũng nhẵn mà sạch trừ hệ thống vạch lưới và ngắm bắn trứớc phaỉ buồn lái. F-86 có một là bàn đường chên trời vạch chia tự do và chính xác. AGK-47B là là bàn đường chân trời của chúng tôi hoạt đọng khong được tốt. AGI-1 là con quay đường chân trời của chúng ta tốt như của F-86, giống hệt, dừng từ năm 1954, nhưng màu sơn của họ dễ nhìn hơn, họ là mày xanh nhạt, còn ta là xám xanh.:
    Maý bay sau đó được khám bởi quyền chỉ huy sư đoàn 18, sư 303, đại tá Smorchkov?T Alexander. ?oTấu cả bẩn thỉu và bùn. máy bay được đem đến sân bay bởi Kozhedub trong điều kiện tồi tệ như vậy, đó là những gì mà đầu tien tôi trông thấy nó. Chúng tôi nhậu mừng chiến thắng và báo cáo về Maxcơva. ? Một điều khó hiểu của chúng tôi hồi đó là, hình như Sabre không thể bị đánh trộm từ phía sau, có thể nó được trang bị rađar đối kháng bán cầu sau. Bây giờ thì chiếc máy bay bị bắt dã mở toang bí mật, Sabre có góc nhìn từ buòng lái rất tốt. Trên MIG lúc đó, phi công chỉ thò cái đầu lên cùn tất cả từ vai chìm xuống thân. Để phi công MIG nhìn thấy những gì dưới đuôi của nó, nó chỉ có thể lộn ngược máy bay. Còn Sabre, được mệnh danh là ?othằng gù? vì có buồng lái lớn, chúng ta thường ngạc nhiên tại sao nó như vậy, nay đã có câu trả lời. Máy bay sớm được gửi đến Maxcơva. Nó đến NII VVS sau một chuyến đi dài cuối năm 1951, ở đây, nó được các chuyen gia hàng không nghiên cứu kỹ. Tháng 7 năm 1952, một chiếc F-86 nữa lại đến với họ, lần này là loại ?oE?. Cách đó một tháng rưỡi, ngày 13-05-1952, máy bay bị trúng pháo phòng không, máy bay do phi công Walker Mahurin điều khiển, có số F-86E-10-NA, s/n: 51-2789. chi tiết về vụ này có trên ?okhông lực thế giới?. Liên Xô đã có ý định sản xuất máy bay copy F-86 có dộng cơ Nga, Chương trình đã được quyết định cho nhóm thiết kế số 1 Kondratyev. NHưng chương trình sớm bị dừng lại khi quyết định thành lập trở lại nhóm Sukhoi. (chi tiết về vụ này, em đã đề cập trên HK100 phần 1)
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây là một chiến thật đặc biệt, tấn công đối đầu. Chiến thật này được nhà ta áp dụng nhiều bằng MIG-17, nó cho phép máy bay MIG cổ lỗ tấn công F-105 và thậm chí F-4 có tốc độ cao hơn nhiều.
    Bài trên, các bác đã thấy ai là người cụ thể chế ra chiến thuật đó và chế ra cụ thể từ bao giờ. Sau này, chúng ta sẽ làm rõ hơn chiến thuật tấn công đối đầu và phòng thủ vòng tròn của MIG.
    Bên phải là đường bay của MIG. Như em đã phân tích trên, các vũ khí không chiến quá tầm nhìn hồi ctvn, không thể cho phép tấn công ở góc đối đầu như MIG. Đây là góc lợi thế của MIG khi chặn địch, có được do MIG ít giảm tốc khi đổi hướng. Khi bắt buộc cùng nhau lượn gấp thế này, địch buộc phải lượn gấp và mất tốc độ hơn MIG, đành phải nhường cho MIG thế thắng. (trận ở Đồ Sơn em kể trên đầu topic, MIG tránh đạn của F-4 và tấn công-hạ gục, trong khi bình thường F-4 có tốc độ hơn 2 lần MIG 17. Trận đánh làm những người kể chuyện quốc tế đến giờ vẫn khâm phục và tìm hiểu kỹ, nếu không tìm hiểu kỹ chẳng bao giờ họ viết tại sao. Các bác có nhớ trận đó em đã kể không, em bôi đậm trong lần kể đó: "Mig lắc máy bay tránh hết tên lửa ''từ phía F-4 tấn công trước'', rồi tấn công về phía F-4, bắn hạ". Các bác cứ đặt các bác vào vị trí biết một chút về không chiến xem, MIG-17 là máy bay cổ lỗ dưới âm, F-4 là máy bay có tốc độ tối đa trên 2 lần âm thanh, có tên lửa và radar không chiến hiện đại bậc nhất lúc đó.
    Các F như F-4 có bọ đuôi đặt biệt, đây là bộ đuôi của tên lửa, chúng làm máy bay này ổn định đường bay, tiết kiệm nhiên liệu khi bay đường dài. Nhưng bộ đuôi làm máy bay mất rất nhiều năng lượng và tốc độ khi bụng máy bay có góc lớn so với hướng bay (tình huống bụng máy bay ưỡn ra chống lực ly tâm để máy bay vòng). Chỉ đến F-18, F-22, bộ đuôi củ chuối này mới được bỏ đi, thay bằng đuôi phẳng ngang.
    Bên trái là MIG, bên phải là F-4 vẽ phác, trường hợp vòng gấp, không khí thổi từ bụng máy bay lên lưng máy bay để chống lực ly tâm. MIG ổn định và ít không làm không khí trượt rồi xoáy hơn F, ít tốn năng lượng để đổi hướng và giữ tốc độ hơn. Bộ đuôi của F khi bay đường dài làm máy bay ít mất năng lượng do tròng trành.
    Vừa rồi kỷ niệm topic vượt qua 1 vạn lượt đọc đầu tiên. Bác kqndvn dủa thật là có chủ ý sáng suốt khi chế tạo topi này. Nó đã là hấp dẫn nhất hiện tại và đang vươn lên trở thành hấp dẫn hàng đầu box mọi thời kỳ. Topic đang vươn lên để mong sánh ngang các cường quốc KH100, AT-14, mổ xẻ tên lửa....
    Em thì em khoái món không chiến này lắm, hợp với bác không quần thật.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:07 ngày 17/04/2005
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây là một chiến thật đặc biệt, tấn công đối đầu. Chiến thật này được nhà ta áp dụng nhiều bằng MIG-17, nó cho phép máy bay MIG cổ lỗ tấn công F-105 và thậm chí F-4 có tốc độ cao hơn nhiều.
    Bài trên, các bác đã thấy ai là người cụ thể chế ra chiến thuật đó và chế ra cụ thể từ bao giờ. Sau này, chúng ta sẽ làm rõ hơn chiến thuật tấn công đối đầu và phòng thủ vòng tròn của MIG.
    Bên phải là đường bay của MIG. Như em đã phân tích trên, các vũ khí không chiến quá tầm nhìn hồi ctvn, không thể cho phép tấn công ở góc đối đầu như MIG. Đây là góc lợi thế của MIG khi chặn địch, có được do MIG ít giảm tốc khi đổi hướng. Khi bắt buộc cùng nhau lượn gấp thế này, địch buộc phải lượn gấp và mất tốc độ hơn MIG, đành phải nhường cho MIG thế thắng. (trận ở Đồ Sơn em kể trên đầu topic, MIG tránh đạn của F-4 và tấn công-hạ gục, trong khi bình thường F-4 có tốc độ hơn 2 lần MIG 17. Trận đánh làm những người kể chuyện quốc tế đến giờ vẫn khâm phục và tìm hiểu kỹ, nếu không tìm hiểu kỹ chẳng bao giờ họ viết tại sao. Các bác có nhớ trận đó em đã kể không, em bôi đậm trong lần kể đó: "Mig lắc máy bay tránh hết tên lửa ''từ phía F-4 tấn công trước'', rồi tấn công về phía F-4, bắn hạ". Các bác cứ đặt các bác vào vị trí biết một chút về không chiến xem, MIG-17 là máy bay cổ lỗ dưới âm, F-4 là máy bay có tốc độ tối đa trên 2 lần âm thanh, có tên lửa và radar không chiến hiện đại bậc nhất lúc đó.
    Các F như F-4 có bọ đuôi đặt biệt, đây là bộ đuôi của tên lửa, chúng làm máy bay này ổn định đường bay, tiết kiệm nhiên liệu khi bay đường dài. Nhưng bộ đuôi làm máy bay mất rất nhiều năng lượng và tốc độ khi bụng máy bay có góc lớn so với hướng bay (tình huống bụng máy bay ưỡn ra chống lực ly tâm để máy bay vòng). Chỉ đến F-18, F-22, bộ đuôi củ chuối này mới được bỏ đi, thay bằng đuôi phẳng ngang.
    Bên trái là MIG, bên phải là F-4 vẽ phác, trường hợp vòng gấp, không khí thổi từ bụng máy bay lên lưng máy bay để chống lực ly tâm. MIG ổn định và ít không làm không khí trượt rồi xoáy hơn F, ít tốn năng lượng để đổi hướng và giữ tốc độ hơn. Bộ đuôi của F khi bay đường dài làm máy bay ít mất năng lượng do tròng trành.
    Vừa rồi kỷ niệm topic vượt qua 1 vạn lượt đọc đầu tiên. Bác kqndvn dủa thật là có chủ ý sáng suốt khi chế tạo topi này. Nó đã là hấp dẫn nhất hiện tại và đang vươn lên trở thành hấp dẫn hàng đầu box mọi thời kỳ. Topic đang vươn lên để mong sánh ngang các cường quốc KH100, AT-14, mổ xẻ tên lửa....
    Em thì em khoái món không chiến này lắm, hợp với bác không quần thật.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:07 ngày 17/04/2005
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Không có thời gian để dịch, đành paste nguyên bản tiếng Anh.
    Sách: Những bài học được và mất từ các trận không chiến đầu tiên.
    Nhà xuất bản: Đại học Hàng không, 2003.
    America''''s first air battles : lessons learned or lessons lost? / Aldon E. Purdham Jr
    Publish info Maxwell Air Force Base, Ala. : Air University Press, [2003]
    Phần này có câu kết luận mà mấy bạn yêu phi công Việt nam chắc thích lắm đây.
    Trang 36-37
    Dù phi công của KQ Bắc Việt không đạt được ưu thế trên không, họ đã thực sự thách thức (did challenge) sự thống trị trên không của Mỹ ở Việt nam nhiều hơn là các phi công Trung quốc từng làm ở Triều tiên
    Air Superiority
    The air superiority tactics employed in Vietnam were fundamentally different from those of Korea. In Korea, the USAFachieved air superiority early.
    During the Vietnam War, on the other hand, the USAF?Ts protective fighter screen covered only Thailand and South Vietnam. Therefore, the North Vietnamese air force (NVAF) operated from airfields that were immune to attack until the third year of the Rolling Thunder campaign.51 Ad***ionally, in 1965 the NVAF began bolstering its integrated air defense system by
    gradually increasing its number of surface-to-air missiles
    (SAM).52 Consequently, beginning in 1965, the Air Force carried
    out air missions, such as interdiction, while simultaneously
    trying to gain air superiority.
    While the US Air Force was concerned about the air-to-air threat in South Vietnam, the most significant threat facing US aircraft at the beginning of 1965 was antiaircraft fire. At that time, older US aircraft were ideally suited for missions over North and South Vietnam. However, the North Vietnamese were also rapidly increasing their air defense threat in 1965. In September 1964, North Vietnam had 22 early warning (EW) and four fire control (FC) radars.53 By March 1965, the North Vietnamese had increased their EW radars to 31 and their FC radars to nine. SAMs would later pose a significant threat to USAF aircrews in Vietnam. However, that was not the case as early as March 1965.
    In fact, North Vietnam did not launch the first of thousands of
    SA-2 SAMs at Air Force aircraft until July 1965. On 21 March 1965, Air Force aircraft began attacking North Vietnamese supply routes south of the 20th parallel and gradually shifted their assault north. Over the first month of these attacks, US aircraft did not face any NVAF fighters. However, NVAF training proved its effectiveness when a MiG-17 first downed a US aircraft on 4 April 1965. In response to the increased MiG-17 threat, the Air Force deployed EB-66 electronic warfare aircraft to Southeast Asia in April 1965. The EB-66s carried radar jammers that could mask the approach of US strike aircraft and degrade the effectiveness of North Korean GCI radars. As mentioned earlier, the F-4C was also introduced into the Vietnam War at this time. The F-4?Ts extended range AIM-7 Sparrow radar-guided air-to-air missile (AAM), and close range AIM-9 Sidewinder infrared AAM provided the F-4 with a tremendous air-to-air capability.
    Even though the F-4 was not as maneuverable as the MiG-17,
    the AIM-7 and AIM-9 allowed the F-4 to counter the MiG-17
    without engaging in a dogfight. With its radar and AIM-9 capabilities, the F-4C could detect and destroy enemy aircraft before they were close enough to pose a threat.58 However, in Vietnam, the F-4 was unable to capitalize on these advantages, because US Air Force rules of engagement (ROE) required that aircrews identify aircraft visually before attacking them.Consequently, when pursued by an F-4, a MiG-17 could stay just outside of the effective threat envelope of the AIM-7 and use its maneuverability to overcome the high speed and acceleration of the F-4.
    Although NVAF pilots did not achieve air superiority, they did challenge US air dominance in Vietnam more so than Chinese pilots did in the Korean War.
    Trang 41:
    Conclusion
    Because much of the Air Force?Ts training prior to the Vietnam War corresponded with its nuclear-oriented strategy and doctrine, US aircrews were very effective in employing nuclear
    weapons but not conventional ones. However, unlike their
    counterparts in the Korean War, these aircrews were able to
    operate at airfields in-country for several years prior to the initial
    period of operations. This advantage likely assisted them
    in making adjustments during that initial period, thus resulting
    in improved CAS and interdiction operations. Ad***ionally, the
    A-1 and F-4 CAS aircraft that aircrews flew in Vietnam were more effective than the F-51 and F-80 CAS platforms that aircrews flew in Korea. Yet, despite the employment of a new
    fighter and AAMs, the Air Force was not as successful in
    improving its air superiority capability. This diminished success was largely due to restrictive ROE and a robust North
    Vietnamese effort to strengthen its air defense system as the
    war ensued. By the end of the Vietnam War, enemy tactics had evolved from counterinsurgency to conventional force-on-force operations.
    Phần tiếp theo của cuốn sách là về chiến dịch ở Iraq.
    Link thì trước mình đã cung cấp rồi.
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Không có thời gian để dịch, đành paste nguyên bản tiếng Anh.
    Sách: Những bài học được và mất từ các trận không chiến đầu tiên.
    Nhà xuất bản: Đại học Hàng không, 2003.
    America''''s first air battles : lessons learned or lessons lost? / Aldon E. Purdham Jr
    Publish info Maxwell Air Force Base, Ala. : Air University Press, [2003]
    Phần này có câu kết luận mà mấy bạn yêu phi công Việt nam chắc thích lắm đây.
    Trang 36-37
    Dù phi công của KQ Bắc Việt không đạt được ưu thế trên không, họ đã thực sự thách thức (did challenge) sự thống trị trên không của Mỹ ở Việt nam nhiều hơn là các phi công Trung quốc từng làm ở Triều tiên
    Air Superiority
    The air superiority tactics employed in Vietnam were fundamentally different from those of Korea. In Korea, the USAFachieved air superiority early.
    During the Vietnam War, on the other hand, the USAF?Ts protective fighter screen covered only Thailand and South Vietnam. Therefore, the North Vietnamese air force (NVAF) operated from airfields that were immune to attack until the third year of the Rolling Thunder campaign.51 Ad***ionally, in 1965 the NVAF began bolstering its integrated air defense system by
    gradually increasing its number of surface-to-air missiles
    (SAM).52 Consequently, beginning in 1965, the Air Force carried
    out air missions, such as interdiction, while simultaneously
    trying to gain air superiority.
    While the US Air Force was concerned about the air-to-air threat in South Vietnam, the most significant threat facing US aircraft at the beginning of 1965 was antiaircraft fire. At that time, older US aircraft were ideally suited for missions over North and South Vietnam. However, the North Vietnamese were also rapidly increasing their air defense threat in 1965. In September 1964, North Vietnam had 22 early warning (EW) and four fire control (FC) radars.53 By March 1965, the North Vietnamese had increased their EW radars to 31 and their FC radars to nine. SAMs would later pose a significant threat to USAF aircrews in Vietnam. However, that was not the case as early as March 1965.
    In fact, North Vietnam did not launch the first of thousands of
    SA-2 SAMs at Air Force aircraft until July 1965. On 21 March 1965, Air Force aircraft began attacking North Vietnamese supply routes south of the 20th parallel and gradually shifted their assault north. Over the first month of these attacks, US aircraft did not face any NVAF fighters. However, NVAF training proved its effectiveness when a MiG-17 first downed a US aircraft on 4 April 1965. In response to the increased MiG-17 threat, the Air Force deployed EB-66 electronic warfare aircraft to Southeast Asia in April 1965. The EB-66s carried radar jammers that could mask the approach of US strike aircraft and degrade the effectiveness of North Korean GCI radars. As mentioned earlier, the F-4C was also introduced into the Vietnam War at this time. The F-4?Ts extended range AIM-7 Sparrow radar-guided air-to-air missile (AAM), and close range AIM-9 Sidewinder infrared AAM provided the F-4 with a tremendous air-to-air capability.
    Even though the F-4 was not as maneuverable as the MiG-17,
    the AIM-7 and AIM-9 allowed the F-4 to counter the MiG-17
    without engaging in a dogfight. With its radar and AIM-9 capabilities, the F-4C could detect and destroy enemy aircraft before they were close enough to pose a threat.58 However, in Vietnam, the F-4 was unable to capitalize on these advantages, because US Air Force rules of engagement (ROE) required that aircrews identify aircraft visually before attacking them.Consequently, when pursued by an F-4, a MiG-17 could stay just outside of the effective threat envelope of the AIM-7 and use its maneuverability to overcome the high speed and acceleration of the F-4.
    Although NVAF pilots did not achieve air superiority, they did challenge US air dominance in Vietnam more so than Chinese pilots did in the Korean War.
    Trang 41:
    Conclusion
    Because much of the Air Force?Ts training prior to the Vietnam War corresponded with its nuclear-oriented strategy and doctrine, US aircrews were very effective in employing nuclear
    weapons but not conventional ones. However, unlike their
    counterparts in the Korean War, these aircrews were able to
    operate at airfields in-country for several years prior to the initial
    period of operations. This advantage likely assisted them
    in making adjustments during that initial period, thus resulting
    in improved CAS and interdiction operations. Ad***ionally, the
    A-1 and F-4 CAS aircraft that aircrews flew in Vietnam were more effective than the F-51 and F-80 CAS platforms that aircrews flew in Korea. Yet, despite the employment of a new
    fighter and AAMs, the Air Force was not as successful in
    improving its air superiority capability. This diminished success was largely due to restrictive ROE and a robust North
    Vietnamese effort to strengthen its air defense system as the
    war ensued. By the end of the Vietnam War, enemy tactics had evolved from counterinsurgency to conventional force-on-force operations.
    Phần tiếp theo của cuốn sách là về chiến dịch ở Iraq.
    Link thì trước mình đã cung cấp rồi.
  8. VietKedoclap

    VietKedoclap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    1.188
    Đã được thích:
    0
    Trong vòng 5 năm ( trước 2001 ) Không quân Ấn Độ rơi 81 chiếc MIG chết 34 phi công toàn vì tai nạn các loại . Công ty sản xuất MiG nói lỗi do ấn độ dùng phụ tùng thay thế không đạt tiêu chuẩn chất lượng . Ấn nói máy bay rơi ngay cả khi dùng phụ tùng chính hiệu và MiG muốn trốn tránh lỗi thiết kế . Nói chung một trận khẩu chiến tàn khốc đã kéo dài . Ấn từ chối mua MiG-27 sau đó vì cho là thiết kế yếu kém . Ngày nay MiG không đạt được khả năng tiêu thụ như xưa nữa . Đa số khách hàng củ quay sang Su hoặc mua máy bay từ quốc gia khác . Sự thật về vấn đề thiết kế của MiG ra sao ? Đề nghị các Bác giúp Bình Luận vấn đề này .
    http://www.stratmag.com/issue2Sep-1/page02.htm
  9. VietKedoclap

    VietKedoclap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    1.188
    Đã được thích:
    0
    Trong vòng 5 năm ( trước 2001 ) Không quân Ấn Độ rơi 81 chiếc MIG chết 34 phi công toàn vì tai nạn các loại . Công ty sản xuất MiG nói lỗi do ấn độ dùng phụ tùng thay thế không đạt tiêu chuẩn chất lượng . Ấn nói máy bay rơi ngay cả khi dùng phụ tùng chính hiệu và MiG muốn trốn tránh lỗi thiết kế . Nói chung một trận khẩu chiến tàn khốc đã kéo dài . Ấn từ chối mua MiG-27 sau đó vì cho là thiết kế yếu kém . Ngày nay MiG không đạt được khả năng tiêu thụ như xưa nữa . Đa số khách hàng củ quay sang Su hoặc mua máy bay từ quốc gia khác . Sự thật về vấn đề thiết kế của MiG ra sao ? Đề nghị các Bác giúp Bình Luận vấn đề này .
    http://www.stratmag.com/issue2Sep-1/page02.htm
  10. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    tin Ấn rơi 81Mig trong 5 năm liệu có là tin vịt không đấy. Rơi 2-3 chiếc là dừng bay, điều tra chán chê cả rồi. Không lẽ bọn Ấn là loại vịt ngốc cứ bay thoải mái đến nổi rớt 81 chiếc, không biết chừng nào tụi nó mới chịu ngừng bay! Mig ở các nước khác thì sao?

Chia sẻ trang này