1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thảo luận chung về các trận không chiến trên bầu trời Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi kqndvn, 02/04/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vipper

    vipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/09/2003
    Bài viết:
    37
    Đã được thích:
    0
    Đúng như bạn nói, người Đức gần đây đầu tư qua Nga rất nhiều(chủ yếu là đặt văn phòng nghiên cứu).Ngay ông thủ tướng Đức trong bài phát biểu giới thiệu máy bay Airbus A380 cũng mong muốn Châu âu hợp tác kỹ thuật hơn nữa , nhất là với Nga.
    Tuy nhiên, vì tập tính lâu đời ( có lẽ do thiếu tiền) ngưòi Đức cũng có nhận xét "Công nghệ Nga nền tản là giải quyết vấn đề chứ không phải như chúng ta ( Tấy Âu, Mỹ) Công nghệ là để hoàng thiện hơn." Do vậy mà ta cũng thấy từ máy bay, tàu, cái gì Nga cũng có , nhưng nếu chụp hình so sánh với đồ Âu , Mỹ thì không có tính thẩm mỹ, không có tư duy hoàn thiện.
    Tôi có coi 1 chương trình về tàu không gian Nga, phóng viên làm ctrình rất ngạc nhiên, ông ta thấy các ky sư gia cố các mối nối bên trong tên lửa bằng dây kẽm ( điều không tưởng ở Châu Âu). và ông ta phát biểu: " Như vậy mà người Nga đã lên vũ trụ đầu tiên, trong khi chúng ta đặt ra 1 loạt tiêu chuẩn cho an toàn kỹ thuật mà vẫn chưa có phi thuyền riêng (EADS)
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Ô, sao lại căt topic cãi nhau đi. Em hồi này bận quá, thính thoảng mới vào nét được, vào rồi chả thấy chỗ chơi đâu..
    Không chiến quá tầm nhìn: chiến tranh bảo vệ bầu trời miền bác là chiến tranh đầu tien sử dụng thứ này. Tất cả đều mới, đề chưa thử nghiệm, bất ngờ.
    Chúng ta đã nhiều lần nói về chiến tranh trên không, Miền Bắc.
    http://ttvnol.com/Quansu/152012.ttvn
    http://www.acepilots.com/vietnam/viet_aces.html
    Trong chuyện này thì bác chiangshan đóng gop rất nhiều công. Không hiểu có phong chức cho bác đóng nhiều công nhất cho chuyện này được không.
    Nhưng em có ý riêng, đó là Bolo. Trước đây, em đã rủ mọi người tham gia tìm hiểu, nhưng ít người hưởng ứng qua, rồi lại vào dịp em bận, nên quên mất. Em không có nhiều thông tin, nên làm theo kiểu này, em và các bác cùng post bừa bãi, song song trong lúc đó, em sẽ hỏi cụ thể những chi tiết cần quan tâm, có thế mới không loãng và có nhiều thông tin mà thông tin lại được kiểm lại chính xác. Hồi forum chưa sập đợt trước, em định kéo dài cai hk100 2. Nhưng chưa làm được nhiều để bốt thì mạng sập, rồi quên mất. Bây giờ dở lại các đống đang làm giở, e*** lại, post tạm cho đỡ phí công gõ hồi đó.
    Chúng ta có cần tìm hiểu quá chi tiết về việc này không???
    Tại sao sách vở nước ngoài nói về chiến tranh này nhiều đến vậy.
    Có thể giải thích điều đó rõ ràng qua ví dụ, cầu Hàm Rồng đã đứng vững vì sao và tại sao sau đó nó trúng đạn. Chiến tranh này được quan tâm một cách đặc biệt, nên dĩ nhiên, nhiều kẻ lợi dụng việc kể về chiến tranh này để nhồi nhét những ý riêng thông qua việc xuyên tạc. Nhưng mà, bản chất chiến tranh này vẫn là cuộc chiến đặc biệt được chú ý. Chúng ta có khi chỉ quan tâm đến nó như là quan tâm đến những chiến công hiển hách của cha anh, còn nugười nước ngoài và những người có trách nhiệm của ta, lại coi đây là chiến tranh có ý nghĩa đặc biệt về khoa học quân sự. Nó là cuộc chiến tranh mà các máy bay đã thoát khỏi dogflight, hay là chiến tranh cách mạng của kỹ thuât không chiến.
    Theo em: chúng ta cũng như người nước ngoài, nên tìm hiểu kỹ, rất kỹ về chiến tranh này. Người nước ngoài ngoài việc xuất bản rất nhiều sách kể về chiến tranh này vì nhiều mục đích khác nhau, xuyên tạc hay tôn vinh, trung thực bay bịa đặt, nhưng tất cả những điều mang tính tình cảm đó không thể át được thái độ nghiên cứu công phu, khoa học. Nhứng trận đánh của chiến tranh này là những trận đánh đầu tiên sử dụng phương pháp không chiến quá tầm nhìn, chiến tranh này đã xấy dựng nên những chiến thuật không chiến mới, từ những cú đòn cơ bản đến những chiến lược khổng lồ. Những trận không chiến dùng tên lửa đã có từ lâu, được thử nghiệm từ ww2 đến những trận chiến quyết liệt trên eo biển Đài Loan. Nhưng chỉ ở Bắc Việt Nam, tên lửa mới thật sự được hai bên xây dựng chiến thuật sử dụng. Cùng với chiến thuật là chiến lược mới hoàn toàn được xây dựng, kết quả của việc nghiên cứu thử nghiệm phương pháp không chiến còn ảnh hưởng lớn đến cơ cấu đội hình và cấu tạo từng chiếc máy bay chiến đấu. Ngay trong chiến tranh, những máy bay được cải tiến khẩn cấp để bịt những lỗ hổng khi thiết kế, sau chiến tranh, F-14, F-15 Mỹ đã được chế tạo từ những kinh nghiệm không chiến. Cơ cấu một số lượng lớn máy bay tiêm kích (interceptor) có tầm ngắn và rẻ như hồi ww2 được Liên Xô thay thế bởi cơ cấu số lượng nhỏ hơn của những máy bay đắt đỏ hơn: máy bay đa năng fighter.
    Tại sao chiến tranh trên không này lại trở thành một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử không chiến ngắn ngủi: thời thế. Chẳng phải người Việt Nam hay Mỹ tìm cách tôn vinh chiến tranh ấy, mà chính khi chiến tranh ấy diễn ra, các máy tính ra đời, phát triển với tốc độ kinh khủng, và ứng dụng vào máy bay. Những khí tài mới đòi hỏi những chiến thuật mới rròi tạo ra đầy những bất ngờ, và những phi công hai bên đã đem tính mạng mình ra để xây dựng nên phương pháp không chiến mới, làm sách giáo khoa cho cho không quân thế giới ngày nay. Một ví dụ về những thay đổi của điều kiện chiến đấu cơ bản nhất, chỉ thiếu tí chút lường trước tính toán, là một trong những trận đánh đầu tiên. Trước đây, chiến tranh TT hay WW2 chẳng hạn, việc máy bay săn mồi tuần tiễu là cần thiết và rất lợi, rình bắt các máy bay ném bom nặng nề. Nhưng ngày nay, cả ta và địch đều có radar mạnh. Địch có những máy bay cảnh giới từ rất xa. Kỹ thuật hiện đại cho phép chúng phát hiện ra ta kể cả một số trường hợp radar của chúng không với tới, 2 máy bay của ta mất khi đang đi tuần mà không rõ tại sao.
    Chúng ta không cố ý để các phi công của mình và đối phương trở thành những người thực hiện cuộc cách mạng không chiến, cũng không thể thực hiện được điều đó nếu muốn, vì chúng ta không chủ động được khí tài. Nhưng không quân của chúng ta thật anh hùng. Vừa thành lập, rất ít vũ khí, quá ít máy bay, lại vừa đánh vừa chứng kiến những bất ngờ kỹ thuật mới. Thế mà chúng ta đã cùng người Mỹ viết nên nhứng trang sách kinh điển về kỹ thuật không chiến.
    Em cùng các bác nhìn lại qua lịch sử không chiến ngắn ngủi, để hiểu số phận thế nào đã bắt buộc những phi công, dẫn đường, chỉ huy của chúng ta, ở một đất nước chưa hề sản xuất ra chiếc máy bay nào, lại phải thực hiện cuộc cách mạng không chiến. Thời cuộc nào đã làm họ trở thành những chiến binh tiên phong, những trận đánh nào đã làm những phi công ta và Mỹ được mô tả chi tiết trong những cuốn sách giáo khoa không chiến. Ngày nay, không ai nghi ngờ trình độ của phi công ta ngày ấy, họ đã trở thanh những mẫu mực kinh điển. Ngay từ thời trước 1975, Ngụy Sài Gòn cũng phải viết về phi công miền Bắc với những lời lẽ kính trọng nhất "đến các phi công ace Mỹ cũng phải nể sợ". Phi công Mỹ và các nhà viết lách hay chỉ huy Mỹ thì khỏi nói, họ khâm phục trong lòng và bên ngoài dùng những lời nể phục tôn vinh nhất khi nói về đối phương. Ngoài không quân các nước phải nghiên cữu kỹ và nghiêm túc các trận đánh của ta và người Mỹ ngày ấy thì các nhà văn và người đọc thế giới cũng quan tâm đặc biệt đến các trận không chiến này. Ô, mà em lan man rồi, nhưng có lẽ em lan man vì không thể nào tìm được cách nói nào thể hiện được tầm quan trọng của chiến tranh trên không này với kỹ thuật và chiến thuật không quân thế giới hiện đại.
    Những trận chiến anh hùng và những chiến thuật kinh điển đó tất nhiên không thể xây dựng bẳng tinh thân màu hồng hay quyết tâm mày đen. Nó là cuộc đấu trí dai dẳng và khốc liệt. Cái giá phải trả cho các chiến thuật ngày nay được không quân thế giới lấy làm sách giáo khoa đắt đỏ và đau thương, Phạm Tuân khi cất cánh chỉ còn hơn chục máy bay trực chiến, nhiều phi công đã kể lại cảm giác buồn bã phi nhìn giường ngủ đồng đội trống vắng.
    Chiến tranh thế giới 2 kết thúc với hai trường phái không chiến. Đó là Mỹ-Nhật và Xô-Đức. Nếu như ở Thái bình dương, những tầu sân bay, hạm đội lớn, máy bay ném bom đường dài và những trận ném bom khủng khiếp là yếu tố quyết định thì ở châu Âu lại khác. Sau chiến tranh Tây Ban Nha, máy bay tiêm kích khẳng định vị trí. WW2, loại máy bay này và nhứng trận không chiến trở thành yếu tố quyết định trên bầu trời. Không quân châu Âu chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ trên mặt trận với khoảng cách đến căn cứ 1-2-3 trăm km. Các sân bay dã chiến làm vội di chuyển tiến lui theo mặt trận. Khác với máy bay ném bom, các máy bay không chiến có giá rẻ, nhỏ, nhẹ. Nhưng chúng có tốc độ, lực đẩy mạnh. Phươngh pháp chiến đấu cơ bản là đogflight: các máy bay làm xiếc để tìm cách bám đuôi nhau và nổ súng hạ mục tiêu phía trước. các mục tiêu hầu như chỉ bị hạ trong góc bắn hẹp, tầm lúc đó chỉ vài trăm met hiệu quả. Đến giữa ww2, các máy bay không chiến đã tách ra thành loại riêng, không như các máy bay ném bom tiền tuyến Pe, các máy bay đáng chặn IAK được thiết kế chuyên không chiến, chúng làm chủ bầu trời để các máy bay khác tấn công mặt đất, nhờ chuyên nghiệp như thế các interceptor(tiêm kích, đắnh chặn) có tốc độ và độ linh hoạt rất cao và số lượng lớn. Đến cuối ww2, nhứng máy bay không chiến càng chuyên nghiệp hơn, thậm chí người Đức còn thiết kế những tên lửa có người lái, tầm rất ngắn, thời gian hoạt động động cơ và tầm chỉ vài phút và 30km. Những máy bay tiêm kích đánh chặn thật sự mà Đức thiết kế là những máy bay dùng 1 động cơ turbine. Bản thiết kế TA-183 có thành công vĩ đại, trở thành thủy tổ của nhứng MIG nổi tiếng. TA-183 là một bản thiết kế máy bay 1 động cơ turbine, cánh xuôi sau, đuôi treo cao tự cân bằng, tải rất nhẹ vì không dự định mang bom. Nó có tốc độ tối đa khoảng 700km/h hoặc 900km/h và tầm tối đa chỉ vài trăm km. Tốc độ tối đa của nó không bao giờ có số chính xác, vì máy bay chưa thật sự được chế tạo. Nó dự định sử dụng một động cơ mới, có tốc độ vòng quay cao và số tầng nén thấp, đây là cấu hình động cơ rất đơn giản, rẻ tiền, thích hợp với nhiều tốc độ khác nhau, nhẹ. Ngày nay, chúng chỉ được trang bị cho tên lửa vì tuổi thọ thấp và nhiều trục trặc, nhưng ngày đó, người ta dự định rằng interceptor là loại máy bay rẻ và có thương vong lớn. Các bác có thể đọc topic của bác dangngoc về phi công Liên Xô và Đức hồi đó. Phần lớn các phi công tiêm kích mất cùng máy bay sau vài tháng tham chiến, họ phải chiến đấu liên tục với cường độ cao, đây là bài thi rất khắc nghiệt và hiệu qủa, những người còn lại thì lại sẽ sống rất dai, họ trở thành các ace khủng khiếp: tiếp tục kiểm tra lớp học trò mới bằng mạng sống. Họ đã xây dựng nên chiến thuật chiến đấu 3 chiều thay cho chiến thuật đội hình nhiều tầng chiến đấu ngang. Họ đã xây dựng nên cơ cấu không quân đặc trưng là số lượng khổng lồ máy bay tiêm kích. Động cơ của TA-183 không giờ được chế tạo, khoảng 13 mẫu thử dùng động cơ Juno 004 được Liên Xô thu lại trước khi chương trình thiết kế hoàn tất. Những người thực hiện chương trình tiếp tục công việc ở Liên Xô. Các máy bay phản lực IAK sau khi tham gia cuộc trình diễn cùng MIG đã hoàn thành vai trò lịch sử, nhường chỗ cho MIG-15, từ năm 1947 trở thành máy bay tiêm kích chủ lực Liên Xô. MIG-15 là bản mở rộng của TA-183 dùng động cơ RR N5, nặng hơn, bay nhanh hơn, vũ khí tốt hơn. Không chỉ ở Liên Xô, MIG-15 còn được cải tiến và chế tạo thử ở Thụy ĐIển và Argentina. MIG-15 được viện trợ với số lượng rất nhỏ, vài chục chiếc cho TQ và TT trước khi chiến tranh nổ ra vài tháng. Sau MIG-15, cấu hình một động cơ và hai động cơ cùng được dự tuyển để thành MIG-17, cấu hình một động cơ được chọn. Do chậm phát triển động cơ thích hợp, cấu hình MIG-17 hai động cơ được thiết kế muộn mằn và trở thành MIG-19. MIG-21 và F8, F-4 ra đời gần nhau, khoảng cuối thập niên 1950. Đến đây, các máy bay không chiến như MIG-21 đã có tốc độ tối đa M2. Việc phát triển MIG-21 rất công phu, có thể coi như là cuộc thử nghiệm ở Liên Xô cấu hình cánh tam giác, người ta vô cùng quyết tâm và nỗ lực tìm một thiết kế máy bay nhỏ, rẻ nhưng có khả năng không chiến mạnh. Một trong những mẫu thử thành công nhât của cuộc thi hoa hậu MIG-21 là chiếc máy bay sau trở thành F-16 Mỹ với thay thế đuôi đặc trưng từ F-4. Mẫu thử này đạt tốc độ tối đá M2,6 linh hoạt và mạnh mẽ, nó không được chọn vì giá cả, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là điện tử hồi đó không cho phép sử dụng bào khí trước(yêu cầu ổn định tự động thay cho máy bay tự cân bằng), loại "tiền F-16" này chỉ có 2 chiếc(Ye-8).
    Vâng, nếu không có điện tử thì các cuộc không chiến trên bầu trời miền Bắc không trở thành các trận không chiến kinh điển, các phi công ta và Mỹ không phải làm những lính tiên phong và những chiến thuật của họ không trở thành giáo khoa mẫu mực.
    Chiến tranh WW2 đã đẻ ra rất nhiều thứ, máy tính cũng thế. Người ta nói nhiều về những chiếc máy tính trước đó, nhưng chỉ trong WW2 máy tính mới trở thành sự thật. Nhưng chưa phải là vũ khí không chiến, vì máy tính ww2 to như những tòa nhà, không thể chất lên máy bay. Ô, cái này thì cùng năm MIG-15, chiếc đèn bán dẫn ra đời. Tất cả mọi thứ đều to lớn ra, nhưng chiêc đèn này thì càng ngày càng nhỏ lại. Có phải ông trời đã định cái số ấy của các phi công Việt Nam sau này không. Đèn bán dẫn và máy bay tiêm kích. Thiết bị điện tử thông minh và tốc độ siêu âm. Sự linh hoạt và vũ khí chính xác. Vâng, cõ lẽ thật sự có định mệnh. Năm 1947, nước VN đang ở gai đoạn gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cầm bom ba càng và gậy tầm vông, có người nào ở xứ sở lạc hậu xa lắc nơi chân trời ấy biết rằng, đâu đó trên quả đất này, ở hai nơi rất xa nhau, người ta vỗ tay, reo hò hay chúc mừng hai thành quả kỹ thuật mới mà 20 năm sau được những chiến sĩ thử nghiệm. Không, em cam đoan với các bác là, không một ai trên thế giới này năm 1947 nghĩ rằng, những chú bé chân đất mắt toét 20 năm sau sẽ cùng đối thủ xây dựng và thử nghiệm cuộc cách mạng trong không chiến: chiến đấu quá tầm nhìn. Hai yếu tố quan trọng nhất được đẻ ra năm 1947 định mệnh ấy.
    Vâng, tất cả 20 năm sau đều mới, bất ngờ, đều phải thử nghiệm. Đèn bán dẫn đã sinh ra radar, tên lửa, liên lạc, máy hỏi. Bán dẫn có vai trò quan trọng, nó lại có thuộc tính là từ năm 1947 đến nay, nó bé đi rất nhanh. Vì nó bé đi, năng lực của thiết bị điện tử mỗi ngày một mạnh. Vì điện tử mạnh, vũ khí mỗi ngày một khác và luôn luôn phải thử nghiệm. Các phi công ta và Mỹ đã được vinh dự có định mệnh thử nghiệm và tìm ra cách sử dụng nó.
    Radar thì được sử dụng từ đầu ww2. Tên lửa đối không có từ WW2. Nước Đức đã chế ra những SAM đầu tiên với phần động lực của V2. Hệ thống phòng không này sử dụng radar được trợ giúp bởi loại máy tính dòng và tên lửa có điều khiển chống lại không quân trong mọi thời tiết. AAM cũng được Đức chế tạo ww2, nó có động cơ nhiên liệu lỏng, điều khiển bằng dây dẫn và kích nổ bằng ngòi nổ âm thanh. Enzian là AAM đầu dò hồng ngoại thử nghiệm, không thành công. Hai thứ này, do máy tính rất tồi (X4 AAM không có hệ điện tử) nên chưa thể chiến đấu thật sự. Nhưng rõ ràng, máy bay không còn tự do với mặt đất nữa khi bay trên tầm pháo phòng không, vốn đã rất kém chính xác. Một thiết bị được người Đức phát triển và áp dụng, tối quan trọng là con quay hồi chuyển.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 05:20 ngày 05/04/2005
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Ô, sao lại căt topic cãi nhau đi. Em hồi này bận quá, thính thoảng mới vào nét được, vào rồi chả thấy chỗ chơi đâu..
    Không chiến quá tầm nhìn: chiến tranh bảo vệ bầu trời miền bác là chiến tranh đầu tien sử dụng thứ này. Tất cả đều mới, đề chưa thử nghiệm, bất ngờ.
    Chúng ta đã nhiều lần nói về chiến tranh trên không, Miền Bắc.
    http://ttvnol.com/Quansu/152012.ttvn
    http://www.acepilots.com/vietnam/viet_aces.html
    Trong chuyện này thì bác chiangshan đóng gop rất nhiều công. Không hiểu có phong chức cho bác đóng nhiều công nhất cho chuyện này được không.
    Nhưng em có ý riêng, đó là Bolo. Trước đây, em đã rủ mọi người tham gia tìm hiểu, nhưng ít người hưởng ứng qua, rồi lại vào dịp em bận, nên quên mất. Em không có nhiều thông tin, nên làm theo kiểu này, em và các bác cùng post bừa bãi, song song trong lúc đó, em sẽ hỏi cụ thể những chi tiết cần quan tâm, có thế mới không loãng và có nhiều thông tin mà thông tin lại được kiểm lại chính xác. Hồi forum chưa sập đợt trước, em định kéo dài cai hk100 2. Nhưng chưa làm được nhiều để bốt thì mạng sập, rồi quên mất. Bây giờ dở lại các đống đang làm giở, e*** lại, post tạm cho đỡ phí công gõ hồi đó.
    Chúng ta có cần tìm hiểu quá chi tiết về việc này không???
    Tại sao sách vở nước ngoài nói về chiến tranh này nhiều đến vậy.
    Có thể giải thích điều đó rõ ràng qua ví dụ, cầu Hàm Rồng đã đứng vững vì sao và tại sao sau đó nó trúng đạn. Chiến tranh này được quan tâm một cách đặc biệt, nên dĩ nhiên, nhiều kẻ lợi dụng việc kể về chiến tranh này để nhồi nhét những ý riêng thông qua việc xuyên tạc. Nhưng mà, bản chất chiến tranh này vẫn là cuộc chiến đặc biệt được chú ý. Chúng ta có khi chỉ quan tâm đến nó như là quan tâm đến những chiến công hiển hách của cha anh, còn nugười nước ngoài và những người có trách nhiệm của ta, lại coi đây là chiến tranh có ý nghĩa đặc biệt về khoa học quân sự. Nó là cuộc chiến tranh mà các máy bay đã thoát khỏi dogflight, hay là chiến tranh cách mạng của kỹ thuât không chiến.
    Theo em: chúng ta cũng như người nước ngoài, nên tìm hiểu kỹ, rất kỹ về chiến tranh này. Người nước ngoài ngoài việc xuất bản rất nhiều sách kể về chiến tranh này vì nhiều mục đích khác nhau, xuyên tạc hay tôn vinh, trung thực bay bịa đặt, nhưng tất cả những điều mang tính tình cảm đó không thể át được thái độ nghiên cứu công phu, khoa học. Nhứng trận đánh của chiến tranh này là những trận đánh đầu tiên sử dụng phương pháp không chiến quá tầm nhìn, chiến tranh này đã xấy dựng nên những chiến thuật không chiến mới, từ những cú đòn cơ bản đến những chiến lược khổng lồ. Những trận không chiến dùng tên lửa đã có từ lâu, được thử nghiệm từ ww2 đến những trận chiến quyết liệt trên eo biển Đài Loan. Nhưng chỉ ở Bắc Việt Nam, tên lửa mới thật sự được hai bên xây dựng chiến thuật sử dụng. Cùng với chiến thuật là chiến lược mới hoàn toàn được xây dựng, kết quả của việc nghiên cứu thử nghiệm phương pháp không chiến còn ảnh hưởng lớn đến cơ cấu đội hình và cấu tạo từng chiếc máy bay chiến đấu. Ngay trong chiến tranh, những máy bay được cải tiến khẩn cấp để bịt những lỗ hổng khi thiết kế, sau chiến tranh, F-14, F-15 Mỹ đã được chế tạo từ những kinh nghiệm không chiến. Cơ cấu một số lượng lớn máy bay tiêm kích (interceptor) có tầm ngắn và rẻ như hồi ww2 được Liên Xô thay thế bởi cơ cấu số lượng nhỏ hơn của những máy bay đắt đỏ hơn: máy bay đa năng fighter.
    Tại sao chiến tranh trên không này lại trở thành một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử không chiến ngắn ngủi: thời thế. Chẳng phải người Việt Nam hay Mỹ tìm cách tôn vinh chiến tranh ấy, mà chính khi chiến tranh ấy diễn ra, các máy tính ra đời, phát triển với tốc độ kinh khủng, và ứng dụng vào máy bay. Những khí tài mới đòi hỏi những chiến thuật mới rròi tạo ra đầy những bất ngờ, và những phi công hai bên đã đem tính mạng mình ra để xây dựng nên phương pháp không chiến mới, làm sách giáo khoa cho cho không quân thế giới ngày nay. Một ví dụ về những thay đổi của điều kiện chiến đấu cơ bản nhất, chỉ thiếu tí chút lường trước tính toán, là một trong những trận đánh đầu tiên. Trước đây, chiến tranh TT hay WW2 chẳng hạn, việc máy bay săn mồi tuần tiễu là cần thiết và rất lợi, rình bắt các máy bay ném bom nặng nề. Nhưng ngày nay, cả ta và địch đều có radar mạnh. Địch có những máy bay cảnh giới từ rất xa. Kỹ thuật hiện đại cho phép chúng phát hiện ra ta kể cả một số trường hợp radar của chúng không với tới, 2 máy bay của ta mất khi đang đi tuần mà không rõ tại sao.
    Chúng ta không cố ý để các phi công của mình và đối phương trở thành những người thực hiện cuộc cách mạng không chiến, cũng không thể thực hiện được điều đó nếu muốn, vì chúng ta không chủ động được khí tài. Nhưng không quân của chúng ta thật anh hùng. Vừa thành lập, rất ít vũ khí, quá ít máy bay, lại vừa đánh vừa chứng kiến những bất ngờ kỹ thuật mới. Thế mà chúng ta đã cùng người Mỹ viết nên nhứng trang sách kinh điển về kỹ thuật không chiến.
    Em cùng các bác nhìn lại qua lịch sử không chiến ngắn ngủi, để hiểu số phận thế nào đã bắt buộc những phi công, dẫn đường, chỉ huy của chúng ta, ở một đất nước chưa hề sản xuất ra chiếc máy bay nào, lại phải thực hiện cuộc cách mạng không chiến. Thời cuộc nào đã làm họ trở thành những chiến binh tiên phong, những trận đánh nào đã làm những phi công ta và Mỹ được mô tả chi tiết trong những cuốn sách giáo khoa không chiến. Ngày nay, không ai nghi ngờ trình độ của phi công ta ngày ấy, họ đã trở thanh những mẫu mực kinh điển. Ngay từ thời trước 1975, Ngụy Sài Gòn cũng phải viết về phi công miền Bắc với những lời lẽ kính trọng nhất "đến các phi công ace Mỹ cũng phải nể sợ". Phi công Mỹ và các nhà viết lách hay chỉ huy Mỹ thì khỏi nói, họ khâm phục trong lòng và bên ngoài dùng những lời nể phục tôn vinh nhất khi nói về đối phương. Ngoài không quân các nước phải nghiên cữu kỹ và nghiêm túc các trận đánh của ta và người Mỹ ngày ấy thì các nhà văn và người đọc thế giới cũng quan tâm đặc biệt đến các trận không chiến này. Ô, mà em lan man rồi, nhưng có lẽ em lan man vì không thể nào tìm được cách nói nào thể hiện được tầm quan trọng của chiến tranh trên không này với kỹ thuật và chiến thuật không quân thế giới hiện đại.
    Những trận chiến anh hùng và những chiến thuật kinh điển đó tất nhiên không thể xây dựng bẳng tinh thân màu hồng hay quyết tâm mày đen. Nó là cuộc đấu trí dai dẳng và khốc liệt. Cái giá phải trả cho các chiến thuật ngày nay được không quân thế giới lấy làm sách giáo khoa đắt đỏ và đau thương, Phạm Tuân khi cất cánh chỉ còn hơn chục máy bay trực chiến, nhiều phi công đã kể lại cảm giác buồn bã phi nhìn giường ngủ đồng đội trống vắng.
    Chiến tranh thế giới 2 kết thúc với hai trường phái không chiến. Đó là Mỹ-Nhật và Xô-Đức. Nếu như ở Thái bình dương, những tầu sân bay, hạm đội lớn, máy bay ném bom đường dài và những trận ném bom khủng khiếp là yếu tố quyết định thì ở châu Âu lại khác. Sau chiến tranh Tây Ban Nha, máy bay tiêm kích khẳng định vị trí. WW2, loại máy bay này và nhứng trận không chiến trở thành yếu tố quyết định trên bầu trời. Không quân châu Âu chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ trên mặt trận với khoảng cách đến căn cứ 1-2-3 trăm km. Các sân bay dã chiến làm vội di chuyển tiến lui theo mặt trận. Khác với máy bay ném bom, các máy bay không chiến có giá rẻ, nhỏ, nhẹ. Nhưng chúng có tốc độ, lực đẩy mạnh. Phươngh pháp chiến đấu cơ bản là đogflight: các máy bay làm xiếc để tìm cách bám đuôi nhau và nổ súng hạ mục tiêu phía trước. các mục tiêu hầu như chỉ bị hạ trong góc bắn hẹp, tầm lúc đó chỉ vài trăm met hiệu quả. Đến giữa ww2, các máy bay không chiến đã tách ra thành loại riêng, không như các máy bay ném bom tiền tuyến Pe, các máy bay đáng chặn IAK được thiết kế chuyên không chiến, chúng làm chủ bầu trời để các máy bay khác tấn công mặt đất, nhờ chuyên nghiệp như thế các interceptor(tiêm kích, đắnh chặn) có tốc độ và độ linh hoạt rất cao và số lượng lớn. Đến cuối ww2, nhứng máy bay không chiến càng chuyên nghiệp hơn, thậm chí người Đức còn thiết kế những tên lửa có người lái, tầm rất ngắn, thời gian hoạt động động cơ và tầm chỉ vài phút và 30km. Những máy bay tiêm kích đánh chặn thật sự mà Đức thiết kế là những máy bay dùng 1 động cơ turbine. Bản thiết kế TA-183 có thành công vĩ đại, trở thành thủy tổ của nhứng MIG nổi tiếng. TA-183 là một bản thiết kế máy bay 1 động cơ turbine, cánh xuôi sau, đuôi treo cao tự cân bằng, tải rất nhẹ vì không dự định mang bom. Nó có tốc độ tối đa khoảng 700km/h hoặc 900km/h và tầm tối đa chỉ vài trăm km. Tốc độ tối đa của nó không bao giờ có số chính xác, vì máy bay chưa thật sự được chế tạo. Nó dự định sử dụng một động cơ mới, có tốc độ vòng quay cao và số tầng nén thấp, đây là cấu hình động cơ rất đơn giản, rẻ tiền, thích hợp với nhiều tốc độ khác nhau, nhẹ. Ngày nay, chúng chỉ được trang bị cho tên lửa vì tuổi thọ thấp và nhiều trục trặc, nhưng ngày đó, người ta dự định rằng interceptor là loại máy bay rẻ và có thương vong lớn. Các bác có thể đọc topic của bác dangngoc về phi công Liên Xô và Đức hồi đó. Phần lớn các phi công tiêm kích mất cùng máy bay sau vài tháng tham chiến, họ phải chiến đấu liên tục với cường độ cao, đây là bài thi rất khắc nghiệt và hiệu qủa, những người còn lại thì lại sẽ sống rất dai, họ trở thành các ace khủng khiếp: tiếp tục kiểm tra lớp học trò mới bằng mạng sống. Họ đã xây dựng nên chiến thuật chiến đấu 3 chiều thay cho chiến thuật đội hình nhiều tầng chiến đấu ngang. Họ đã xây dựng nên cơ cấu không quân đặc trưng là số lượng khổng lồ máy bay tiêm kích. Động cơ của TA-183 không giờ được chế tạo, khoảng 13 mẫu thử dùng động cơ Juno 004 được Liên Xô thu lại trước khi chương trình thiết kế hoàn tất. Những người thực hiện chương trình tiếp tục công việc ở Liên Xô. Các máy bay phản lực IAK sau khi tham gia cuộc trình diễn cùng MIG đã hoàn thành vai trò lịch sử, nhường chỗ cho MIG-15, từ năm 1947 trở thành máy bay tiêm kích chủ lực Liên Xô. MIG-15 là bản mở rộng của TA-183 dùng động cơ RR N5, nặng hơn, bay nhanh hơn, vũ khí tốt hơn. Không chỉ ở Liên Xô, MIG-15 còn được cải tiến và chế tạo thử ở Thụy ĐIển và Argentina. MIG-15 được viện trợ với số lượng rất nhỏ, vài chục chiếc cho TQ và TT trước khi chiến tranh nổ ra vài tháng. Sau MIG-15, cấu hình một động cơ và hai động cơ cùng được dự tuyển để thành MIG-17, cấu hình một động cơ được chọn. Do chậm phát triển động cơ thích hợp, cấu hình MIG-17 hai động cơ được thiết kế muộn mằn và trở thành MIG-19. MIG-21 và F8, F-4 ra đời gần nhau, khoảng cuối thập niên 1950. Đến đây, các máy bay không chiến như MIG-21 đã có tốc độ tối đa M2. Việc phát triển MIG-21 rất công phu, có thể coi như là cuộc thử nghiệm ở Liên Xô cấu hình cánh tam giác, người ta vô cùng quyết tâm và nỗ lực tìm một thiết kế máy bay nhỏ, rẻ nhưng có khả năng không chiến mạnh. Một trong những mẫu thử thành công nhât của cuộc thi hoa hậu MIG-21 là chiếc máy bay sau trở thành F-16 Mỹ với thay thế đuôi đặc trưng từ F-4. Mẫu thử này đạt tốc độ tối đá M2,6 linh hoạt và mạnh mẽ, nó không được chọn vì giá cả, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là điện tử hồi đó không cho phép sử dụng bào khí trước(yêu cầu ổn định tự động thay cho máy bay tự cân bằng), loại "tiền F-16" này chỉ có 2 chiếc(Ye-8).
    Vâng, nếu không có điện tử thì các cuộc không chiến trên bầu trời miền Bắc không trở thành các trận không chiến kinh điển, các phi công ta và Mỹ không phải làm những lính tiên phong và những chiến thuật của họ không trở thành giáo khoa mẫu mực.
    Chiến tranh WW2 đã đẻ ra rất nhiều thứ, máy tính cũng thế. Người ta nói nhiều về những chiếc máy tính trước đó, nhưng chỉ trong WW2 máy tính mới trở thành sự thật. Nhưng chưa phải là vũ khí không chiến, vì máy tính ww2 to như những tòa nhà, không thể chất lên máy bay. Ô, cái này thì cùng năm MIG-15, chiếc đèn bán dẫn ra đời. Tất cả mọi thứ đều to lớn ra, nhưng chiêc đèn này thì càng ngày càng nhỏ lại. Có phải ông trời đã định cái số ấy của các phi công Việt Nam sau này không. Đèn bán dẫn và máy bay tiêm kích. Thiết bị điện tử thông minh và tốc độ siêu âm. Sự linh hoạt và vũ khí chính xác. Vâng, cõ lẽ thật sự có định mệnh. Năm 1947, nước VN đang ở gai đoạn gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cầm bom ba càng và gậy tầm vông, có người nào ở xứ sở lạc hậu xa lắc nơi chân trời ấy biết rằng, đâu đó trên quả đất này, ở hai nơi rất xa nhau, người ta vỗ tay, reo hò hay chúc mừng hai thành quả kỹ thuật mới mà 20 năm sau được những chiến sĩ thử nghiệm. Không, em cam đoan với các bác là, không một ai trên thế giới này năm 1947 nghĩ rằng, những chú bé chân đất mắt toét 20 năm sau sẽ cùng đối thủ xây dựng và thử nghiệm cuộc cách mạng trong không chiến: chiến đấu quá tầm nhìn. Hai yếu tố quan trọng nhất được đẻ ra năm 1947 định mệnh ấy.
    Vâng, tất cả 20 năm sau đều mới, bất ngờ, đều phải thử nghiệm. Đèn bán dẫn đã sinh ra radar, tên lửa, liên lạc, máy hỏi. Bán dẫn có vai trò quan trọng, nó lại có thuộc tính là từ năm 1947 đến nay, nó bé đi rất nhanh. Vì nó bé đi, năng lực của thiết bị điện tử mỗi ngày một mạnh. Vì điện tử mạnh, vũ khí mỗi ngày một khác và luôn luôn phải thử nghiệm. Các phi công ta và Mỹ đã được vinh dự có định mệnh thử nghiệm và tìm ra cách sử dụng nó.
    Radar thì được sử dụng từ đầu ww2. Tên lửa đối không có từ WW2. Nước Đức đã chế ra những SAM đầu tiên với phần động lực của V2. Hệ thống phòng không này sử dụng radar được trợ giúp bởi loại máy tính dòng và tên lửa có điều khiển chống lại không quân trong mọi thời tiết. AAM cũng được Đức chế tạo ww2, nó có động cơ nhiên liệu lỏng, điều khiển bằng dây dẫn và kích nổ bằng ngòi nổ âm thanh. Enzian là AAM đầu dò hồng ngoại thử nghiệm, không thành công. Hai thứ này, do máy tính rất tồi (X4 AAM không có hệ điện tử) nên chưa thể chiến đấu thật sự. Nhưng rõ ràng, máy bay không còn tự do với mặt đất nữa khi bay trên tầm pháo phòng không, vốn đã rất kém chính xác. Một thiết bị được người Đức phát triển và áp dụng, tối quan trọng là con quay hồi chuyển.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 05:20 ngày 05/04/2005
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    20 năm sau chiến tranh ww2, các nhà kỹ thuật tìm mọi cách để thoát khỏi dogflight. Cả Liên Xô và Mỹ đều tìm đến phương pháp chiến đấu cơ bản ngày nay: mục tiêu được radar phát hiện, theo dõi, tên lửa có điều khiển từ máy bay mẹ hay đầu đạn tự động. Bước vào chiến tranh phá hoại miền Bắc, máy tính vẫn còn rất yếu, chưa thể điều khiển đầu đạn tự động hoàn toàn. Người ta đã chọn một cấu hình không chiến: máy bay có hai chỗ ngồi. Ngoài phi công, gunner sẽ là người lái tên lửa qua tín hiệu radio. Đây là phương pháp không chiến sử dụng tên lửa tầm xa ngày nay là phương pháp không chiến chủ lực của F-22. Nhưng ngày đó, các máy tính rất tồi nen không thể tự động hóa đầu đạn hoàn toàn được. Nguyên nhân trực tiếp là các radar hầu như không có khả năng phát hiện và theo dõi (lock) mục tiêu tự động, chúng truyền tín hiệu cho máy tính nhận dạng mục tiêu hiện đại nhất lúc đó là cặp mắt của phi công hay gunner, qua thiết bị converter tín hiệu cũng hiện đại cực kỳ là màn huỳnh quang của radar. ( Các bác đọc lịch sử không chiến, à, cái này có khi bác Chiangshan nhỡ rõ và bác có thể kể thêm cho em không, một ví dụ quan trọng như thế mà em quên hết cụ thể rồi, trong một trận đánh rất thuận lợi, một phi công của chúng ta trên MIG-17 bị mất tín hiệu radar ngắm bắn trong tầm cực gần, 1 hoặc vài km, vì radar dùng máy tính dòng không phân biệt được hai máy bay mục tiêu bay gần nhau. May sao, ông lập công suất sắc một lúc sau đó(chơi hai loạt hai chú) vì mục tiêu....bật đèn. Nhưng tí nữa ông mất mạng mà chả được gì vì suýt nữa....húc vào địch. Tất cả vì khả năng theo dõi phân biệt phát hiện mục tiêu quá tồi).
    Như vậy, phương pháp không chiến tầm xa lúc ấy vẫn rất thủ công. Có một điều là quân ta không được viện trợ phương pháp này. Nửa sau thập kỷ 60, Liên Xô có loại máy bay không chiến tầm xa như trên lớn nhất thế giới lúc đó (TU-28 năm 1961), tên lửa nặng và xa nhất, tầm máy bay cũng xa nhất. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, các phi công ta không được sử dụng loại máy bay không chiến tầm xa nào.
    Người ta tìm mọi cách tự động hóa việc ngắm bắn. Tầm gần tạo nhiều thuận lợi hơn cho máy tính điện tử. Để thi qua bài chiến đấu mọi thời tiết, các nhà kỹ thuật đã thử nghiệm nhiều loại tên lửa tự bám mục tiêu. Liên Xô sản xuất và trang bị tên lửa đèn chiếu, được coi là tên lửa tầm ngắn quan trọng nhất của Liên Xô trong những năm 1950. Người Đức đẻ ra ý định đầu dò hồng ngoại đầu tiên, tên lửa Enzian. Ban đầu, đầu dò hồng ngoại là một gương quay, quét ảnh lên một sensor độc nhất. Sau này, cùng với việc đèn bán dẫn nhỏ đi, số lượng điểm dò tăng lên. Việc thiếu năng lực thiết bị điện tử được bổ sung bởi nhiều phát minh cơ học thú vị, như các bánh xe ổn định ở đuôi tên lửa AIM9, nhưng để cân bằng tên lửa, con quay hồi chuyển vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Một việc quan trọng với cuộc không chiến của không quân ta, cái quan trọng nhất với không chiến tầm ngắn xảy đến 28-10 năm 1958. Lúc này có một xung đột trên không ở eo biển Đài Loan, không quân TQ yếu thế thua đau. (Bọn Tầu rất nhiều tiềm lực và hay khoe mẽ, nhưng bao giờ không chiến cũng thua đau, ngay cả sau này Tầu và TT sang ta không chiến cùng quân ta, cũng dở hơi thì phải, bác chiangshan có thể cho em rõ hơn về việc bọn này tham chiến trực tiếp và kết quả của chúng được không). Tầu bị Đài Loan hạ bằng một thứ tên lửa lạ, mạnh, xa, chính xác hơn súng máy nhiều. Một vài tên lửa bắn trượt rơi xuống biển, liền được tìm lại bằng mọi cách và chở đến Moscow. Những quả tên lửa AIM-9 không nổ này gây ấn tượng mạnh với các nhà kỹ thuật Soviet. Thế là, AAM chủ lực trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc Atoll ra đời, tên lửa là phát triển tiếp theo của Enzian Đức bỏ dở trong ww2, chương trình phát triển hợp tác với các nhà khoa học Đức . Nó nhanh chóng thay thế tên lửa đèn chiếu và trở thành tên lửa tầm ngắn chủ lực. Ngày đó, các tên lửa này còn có đầu dò rất yếu nên chỉ có thể bắn được ở góc hẹp và tầm ngắn. Trong lần tranh cãi trước về đuôi của AIM-9, bác Đức Xì có đưa một trang, nói người ta không biết tại sao AIM lại được copy, rồi phỏng đoán bằng những câu chuyện tình báo hấp dẫn. Đây là thông tin về việc copy này bác Đức xì à.
    Như vậy, ước mơ về các cuộc không chiến điện tử được người Đức đặt ra từ trong ww2. Họ không chỉ ước không, mà họ đã thiết kế và thực hiện những vũ khí không chiến chủ yếu, phụ vụ cho cuộc không chiến điện tử quá tầm nhìn, điều kiện điện tử hồi đó đã không cho họ hoàn thành. Chiến tranh Triều Tiên vẫn là trận hỗn chiến dogflight hoàn toàn. Các cuộc không chiến trên eo biển Đài Loan, quân Đài Quốc yếu hơn nhiều quân Mỹ, thắng lợi lớn với những vũ khí tối tân kỳ lạ. Tốc độ phát triển của kỹ thuật điện tử nhanh chóng.v.v.v Những điều đó, cho thấy linh cảm rằng rằng quân ta sẽ phải bắt đầu chiến tranh bảo vệ bầu trời miền Bắc trong những điều kiện rất lạ, rất khó khăn, những trận không chiến theo một kiểu chưa diễn ra bao giờ: kỹ thuật không chiến quá tầm nhìn.
    MIG-19 ít được Liên Xô chế tạo nhưng lại được các nước khác sản xuất rất nhiều. Đặc biệt là TQ, như do bất đồng từ 1960, TQ đã không được chuyển giao đầy đủ công nghệ, máy bay có động cơ yếu hơn nhiều so với MIG-19 nguyên bản, nó có súng rất mạnh. Nhưng khi nó ra đời thì phương pháp không chiến bằng tên lửa và radar đã hình thành. Chiếc MIG-19 và anh em sinh đôi của nó MIG-17 là MIG cuối cùng sử dụng phương pháp bắn súng làm vũ khí chủ lực. Phía bên Mỹ, F-8 cũng vậy. Ban đầu đươc thiết kế để bắn súng, rồi phải cải tiến để dùng tên lửa. Ta cũng có ý định cải tiến MIG-17 lắp tên lửa, nhưng không thành công. MIG-17 có thế mạnh đặc biệt là vòng lượn hẹp. Thật ra, máy bay tiêm kích vốn đã có thể lượn hẹp, và MIG-17 còn có thể lượn hẹp hơn do nó là đồ cổ. MIG 15, 17,19 là thế hệ máy bay không chiến phản lực đầu tiên của Liên Xô. MIG-21 là máy bay không chiến đầu tiên sử dụng tên lửa là vũ khí chủ yếu. Máy bay này sử dụng tên lửa tầm ngắn, một cách không chiến hơn dogflight một tí tẹo. Nhưng thừa kế truyền thống máy bay tiêm kích, nó có động cơ rất khỏe so với khối lượng. Thế mạnh đặc biệt cảu máy bay này là không chiến theo chiều thẳng đứng, cách không chiến của chim sơn ca. Lực lượng không chiến Mỹ mạnh nhất là máy bay đa năng F-4. Mỹ không dùng cách xây dựng lực lượng không quân giống Liên Xô và Đức. LX và Đức thiết kế những loại máy bay chuyên nghiệp cho một nhiệm vụ, nhờ đó họ có đội máy bay rẻ và có thể có số lượng lớn. Mỹ chế tạo một mẫu máy bay đa năng, rồi từ mẫu đó, họ làm ra nhiều loại con cho từng nhiệm vụ. Điều đó làm cho các máy bay đắt đỏ, nhưng lại chỉ cần duy trì một số lượng nhỏ máy bay chiến đấu trong biên chế. Một thay đổi lớn với cơ cấu không quân Liên Xô cũng như thiết kế máy bay không chiến Mỹ sau chiến tranh. LX thì thiết kế máy bay đa năng như Mỹ, sử dụng động cơ đa năng turbofan bypas như các loại SU thay cho hàng vạn MIG như MIG-15,17,21. Còn Mỹ thì chú trọng đến không chiến tầm ngắn và chế tạo F-14, F-15.
    Thê là, bước vào chiến tranh chống phá hoại miền Bắc, chúng ta thừa kế các ông anh kỹ thuật không chiến. Đó là lực lượng máy bay tiêm kích. Đây là những máy bay rất linh hoạt, nhỏ rẻ. Chúng được thiết kế để bảo vệ bầu trời tiền tuyến, tầm gần. Những điểm yếu của chúng được bù lại bằng số lượng rất lớn. Điều cuối cùng đó thì ta không có. Cuộc thử nghiệm phương pháp không chiến bằng thiết bị điện tử diễn ra với một lực lượng rất chênh lệch. Khó hiểu là máy bay được thiết kế để sử dụng số lượng mới lại có thực tế chiến đấu số lượng ít.
    Về lịch sử không chiến trên bầu trời bắc Việt. Có nhiều giai đoạn. Đến năn 1967, có thể chia ra hai giai đoạn.
    1: không quân nhân dân Việt Nam xuất hiện. Không quân nhân dân đã chiến đấu những trận đầu tiên. Làm đối phương kinh hoàng bằng một lực lượng rất chênh lệch. Bản thân chúng ta chúng gặp rất nhiều bất ngờ. Tính chủ quan xuất hiện ngay sau trận đánh đầu tiên, gây thương vong. Giai đoạn này đã khẳng định phương pháp chủ lực của không quân ta: sử dụng ưu thế dẫn đường mặt đất. Mỹ yếu thế hơn vì ở xa hậu phương, nhưng họ có những máy bay cảnh giới mạnh. Mỹ cũng như ta, đều gặp phải khó khăn về kinh nghiệm chiến đấu. Các vũ khí mới làm chiến tranh trên không hoàn toàn khác với những chiến tranh trước đây. Về cơ bản, càng đấu trí, ta càng yếu thế do lực lượng chính lúc này là MIG-17, MIG-19 đã quá lạc hậu.
    2: chiến dịch Bolo, hay "top gun", Hải quân Mỹ tìm được cách đối phó, đây là cuộc đấu trí ghay gắt. Đây có lẽ là giai đoạn nhiều thú vị nhất. Càng ngày, ta càng yếu thế do sử dụng MIG-17 lạc hậu. Nhưng những lần đầu tiên dùng MIG-21 lại không thành công, đến nỗi nhiều ý kiến lo sợ, muốn quay lại MIG-17 và MIG-19. Bản chất đầu giai đoạn này (1967). Mỹ tận dụng ưu thế F-4 là tầm bay xa, thời gian bay lâu, phục kích ở vùng radar ta khó theo dõi được hay bí mật bám sát sân bay, hay lảng vảng ở xa độ máy bay F-105 ném bom.
    Sau năm 1967, có thể chia ra hai giai đoạn
    1: Phi công Phạm Thanh Ngân tìm ra phương pháp chiến đấu giống như chim sơn ca, bằng trận đánh F-102, MIG-21 đã thắng trong trận đấu trí tìm cách đánh mới hiệu quả. Phi công này là huấn luyện viên của nhiều phi công nổi tiếng như Cốc, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất:->phi công thử nghiệm chiến thuật-thử nghiệm trong chiến đấu. Đây là phương pháp chiến đấu tận dụng triệt để hai điểm nổi trội của MIG-21. Điểm thứ nhất là dẫn đường, điểm thứ hai là không chiến chiều thằng đứng. MIG-21 có khả năng đổi hướng rất mạnh, tốc độ leo cao tốt. Phi công Phạm Thanh Ngân là phi công có trình độ không chiến xuất sắc, người hướng dẫn của nhiều phi công ưu tú, trong đó có Cốc. Em không hiểu ai là người đề xuất phương án tấn công này. Đại khái, một tổ bay 2 người, tận dụng dẫn đường để bay thấp. Gần đến mục tiêu MIG vọt lên cao. Tiếp theo, MIG lại từ trên cao bổ xuống từ phía sau mục tiêu, bắn, về. Trong khi một MIG bắn thì một MIG cảnh giới. Máy bay cảnh giới từ xa của Mỹ hướng Thái Lan chỉ quan sát rõ khi mục tiêu ở độ cao 2-6km. Do đó, thời gian MIG nằm trong vùng nó quan sát được rất ngắn, khó phát hiện. Trận đánh đầu tiên cũng thú vị. Phi công Phạm Thanh Ngân khi chuẩn bị tấn công thì thấy mục tiêu rất giống MIG, anh dừng tấn công bật máy hỏi, khi có kết quả là địch thì chỉ còn cách mục tiêu hơn 1km. Hóa ra đây là chiếc F102 cánh tam giác. Phương pháp này chấm dứt một thời gian dài yếu thế của ta, làm các phi công rất phấn khởi. Phạm Thanh Nga có vẻ gì đó như một phi công thử nghiệm phương pháp đánh mới, do đó, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất. Giai đoạn này đặc trưng là việc sử dụng MIG 21. Quân ta đã có một chiến thuật đầu tiên, bbắt đầu làm chủ phương pháp không chiến bằng tên lửa của máy bay tốc độ cao.
    Có một điều khó hiểu em chưa biết là: tại sao ta biết được một vài đặc tính kỹ thuật của máy bay cảnh giới từ xa Mỹ.
    2: giai đoạn Mỹ tấn công ồ ạt trước khi bại trận. Vừa xem xong trên đài truyền hình, các bác có thể thấy Mỹ bị sức ép mạnh mẽ rút quân. Trước đây Mỹ đã dùng B-52 quy mô lớn, nhưng mùa hè 1972 mới là trận B-52 lớn nhất, 420.000 tấn bom. Trận bom này có hiệu quả rõ rệt, buộc ta rút quân. Sau đó, là 12 ngày đêm. MIG rất ít xuất hiện, nhưng là những trận thắng rất mạnh, như 2 trận bắn rơi B-52. Hầu như chiến thuật giống như trận đánh trên của Phạn Thanh Ngân. Lần này, nhờ laser mới xuất hiện và thiết bị điện tử mới. Mỹ đã được sử dụng những vũ khí tầm xa, vũ khí có điều khiển thay cho động tác bổ nhào vào gần pháo phòng không bảo vệ mục tiêu. Máy bay chiến thuật Mỹ thực hiện được một số nhiệm vụ trước đây rất khó. Cầu hàm Rồng, Long Biên sập. Trang bị của ta cũng mạnh lên, nhưng do những biến động chính trị, viện trợ cho ta chậm trễ. Bù lại, ta đã có nhiều kinh nghiệm và tổ chức chỉ huy tốt hơn phòng không không quân.
    Trong box, đã có một đường link đến một tiểu thuết về giai đoạn 1 khá kỹ. Em xin bắt đầu việc tìm hiểu bằng một vài thông tin gian đoạn hai, bắt đầu từ đầu năm 1967. Đây là giai đoạn Mỹ tìm được phương pháp không chiến tận dụng thế mạnh của F-4. F-4 được thiết kế "kiểu Mỹ", tức là máy bay đa năng. Có một vài loại F-4 khác nhau để không chiến hay tấn công mặt đất. Nó có bộ đuôi kiểu tên lửa đặc trung cho họ nhà F thích hợp với bay đường dài, động cơ ưu việt, có thời gian chiến đấu dài và tầm xa. Máy bay mang tên lửa điều khiên thủ công qua radar như trên. F-4 khi lượn vòng hep mất tốc độ và hoàn toàn không được các nhà thiết kế chú ý tới không chiến tầm ngắn. So sánh nó với các máy bay không chiến hiện đại lúc đó cũng giống như F-22 bây giờ.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 05:21 ngày 05/04/2005
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    20 năm sau chiến tranh ww2, các nhà kỹ thuật tìm mọi cách để thoát khỏi dogflight. Cả Liên Xô và Mỹ đều tìm đến phương pháp chiến đấu cơ bản ngày nay: mục tiêu được radar phát hiện, theo dõi, tên lửa có điều khiển từ máy bay mẹ hay đầu đạn tự động. Bước vào chiến tranh phá hoại miền Bắc, máy tính vẫn còn rất yếu, chưa thể điều khiển đầu đạn tự động hoàn toàn. Người ta đã chọn một cấu hình không chiến: máy bay có hai chỗ ngồi. Ngoài phi công, gunner sẽ là người lái tên lửa qua tín hiệu radio. Đây là phương pháp không chiến sử dụng tên lửa tầm xa ngày nay là phương pháp không chiến chủ lực của F-22. Nhưng ngày đó, các máy tính rất tồi nen không thể tự động hóa đầu đạn hoàn toàn được. Nguyên nhân trực tiếp là các radar hầu như không có khả năng phát hiện và theo dõi (lock) mục tiêu tự động, chúng truyền tín hiệu cho máy tính nhận dạng mục tiêu hiện đại nhất lúc đó là cặp mắt của phi công hay gunner, qua thiết bị converter tín hiệu cũng hiện đại cực kỳ là màn huỳnh quang của radar. ( Các bác đọc lịch sử không chiến, à, cái này có khi bác Chiangshan nhỡ rõ và bác có thể kể thêm cho em không, một ví dụ quan trọng như thế mà em quên hết cụ thể rồi, trong một trận đánh rất thuận lợi, một phi công của chúng ta trên MIG-17 bị mất tín hiệu radar ngắm bắn trong tầm cực gần, 1 hoặc vài km, vì radar dùng máy tính dòng không phân biệt được hai máy bay mục tiêu bay gần nhau. May sao, ông lập công suất sắc một lúc sau đó(chơi hai loạt hai chú) vì mục tiêu....bật đèn. Nhưng tí nữa ông mất mạng mà chả được gì vì suýt nữa....húc vào địch. Tất cả vì khả năng theo dõi phân biệt phát hiện mục tiêu quá tồi).
    Như vậy, phương pháp không chiến tầm xa lúc ấy vẫn rất thủ công. Có một điều là quân ta không được viện trợ phương pháp này. Nửa sau thập kỷ 60, Liên Xô có loại máy bay không chiến tầm xa như trên lớn nhất thế giới lúc đó (TU-28 năm 1961), tên lửa nặng và xa nhất, tầm máy bay cũng xa nhất. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, các phi công ta không được sử dụng loại máy bay không chiến tầm xa nào.
    Người ta tìm mọi cách tự động hóa việc ngắm bắn. Tầm gần tạo nhiều thuận lợi hơn cho máy tính điện tử. Để thi qua bài chiến đấu mọi thời tiết, các nhà kỹ thuật đã thử nghiệm nhiều loại tên lửa tự bám mục tiêu. Liên Xô sản xuất và trang bị tên lửa đèn chiếu, được coi là tên lửa tầm ngắn quan trọng nhất của Liên Xô trong những năm 1950. Người Đức đẻ ra ý định đầu dò hồng ngoại đầu tiên, tên lửa Enzian. Ban đầu, đầu dò hồng ngoại là một gương quay, quét ảnh lên một sensor độc nhất. Sau này, cùng với việc đèn bán dẫn nhỏ đi, số lượng điểm dò tăng lên. Việc thiếu năng lực thiết bị điện tử được bổ sung bởi nhiều phát minh cơ học thú vị, như các bánh xe ổn định ở đuôi tên lửa AIM9, nhưng để cân bằng tên lửa, con quay hồi chuyển vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Một việc quan trọng với cuộc không chiến của không quân ta, cái quan trọng nhất với không chiến tầm ngắn xảy đến 28-10 năm 1958. Lúc này có một xung đột trên không ở eo biển Đài Loan, không quân TQ yếu thế thua đau. (Bọn Tầu rất nhiều tiềm lực và hay khoe mẽ, nhưng bao giờ không chiến cũng thua đau, ngay cả sau này Tầu và TT sang ta không chiến cùng quân ta, cũng dở hơi thì phải, bác chiangshan có thể cho em rõ hơn về việc bọn này tham chiến trực tiếp và kết quả của chúng được không). Tầu bị Đài Loan hạ bằng một thứ tên lửa lạ, mạnh, xa, chính xác hơn súng máy nhiều. Một vài tên lửa bắn trượt rơi xuống biển, liền được tìm lại bằng mọi cách và chở đến Moscow. Những quả tên lửa AIM-9 không nổ này gây ấn tượng mạnh với các nhà kỹ thuật Soviet. Thế là, AAM chủ lực trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc Atoll ra đời, tên lửa là phát triển tiếp theo của Enzian Đức bỏ dở trong ww2, chương trình phát triển hợp tác với các nhà khoa học Đức . Nó nhanh chóng thay thế tên lửa đèn chiếu và trở thành tên lửa tầm ngắn chủ lực. Ngày đó, các tên lửa này còn có đầu dò rất yếu nên chỉ có thể bắn được ở góc hẹp và tầm ngắn. Trong lần tranh cãi trước về đuôi của AIM-9, bác Đức Xì có đưa một trang, nói người ta không biết tại sao AIM lại được copy, rồi phỏng đoán bằng những câu chuyện tình báo hấp dẫn. Đây là thông tin về việc copy này bác Đức xì à.
    Như vậy, ước mơ về các cuộc không chiến điện tử được người Đức đặt ra từ trong ww2. Họ không chỉ ước không, mà họ đã thiết kế và thực hiện những vũ khí không chiến chủ yếu, phụ vụ cho cuộc không chiến điện tử quá tầm nhìn, điều kiện điện tử hồi đó đã không cho họ hoàn thành. Chiến tranh Triều Tiên vẫn là trận hỗn chiến dogflight hoàn toàn. Các cuộc không chiến trên eo biển Đài Loan, quân Đài Quốc yếu hơn nhiều quân Mỹ, thắng lợi lớn với những vũ khí tối tân kỳ lạ. Tốc độ phát triển của kỹ thuật điện tử nhanh chóng.v.v.v Những điều đó, cho thấy linh cảm rằng rằng quân ta sẽ phải bắt đầu chiến tranh bảo vệ bầu trời miền Bắc trong những điều kiện rất lạ, rất khó khăn, những trận không chiến theo một kiểu chưa diễn ra bao giờ: kỹ thuật không chiến quá tầm nhìn.
    MIG-19 ít được Liên Xô chế tạo nhưng lại được các nước khác sản xuất rất nhiều. Đặc biệt là TQ, như do bất đồng từ 1960, TQ đã không được chuyển giao đầy đủ công nghệ, máy bay có động cơ yếu hơn nhiều so với MIG-19 nguyên bản, nó có súng rất mạnh. Nhưng khi nó ra đời thì phương pháp không chiến bằng tên lửa và radar đã hình thành. Chiếc MIG-19 và anh em sinh đôi của nó MIG-17 là MIG cuối cùng sử dụng phương pháp bắn súng làm vũ khí chủ lực. Phía bên Mỹ, F-8 cũng vậy. Ban đầu đươc thiết kế để bắn súng, rồi phải cải tiến để dùng tên lửa. Ta cũng có ý định cải tiến MIG-17 lắp tên lửa, nhưng không thành công. MIG-17 có thế mạnh đặc biệt là vòng lượn hẹp. Thật ra, máy bay tiêm kích vốn đã có thể lượn hẹp, và MIG-17 còn có thể lượn hẹp hơn do nó là đồ cổ. MIG 15, 17,19 là thế hệ máy bay không chiến phản lực đầu tiên của Liên Xô. MIG-21 là máy bay không chiến đầu tiên sử dụng tên lửa là vũ khí chủ yếu. Máy bay này sử dụng tên lửa tầm ngắn, một cách không chiến hơn dogflight một tí tẹo. Nhưng thừa kế truyền thống máy bay tiêm kích, nó có động cơ rất khỏe so với khối lượng. Thế mạnh đặc biệt cảu máy bay này là không chiến theo chiều thẳng đứng, cách không chiến của chim sơn ca. Lực lượng không chiến Mỹ mạnh nhất là máy bay đa năng F-4. Mỹ không dùng cách xây dựng lực lượng không quân giống Liên Xô và Đức. LX và Đức thiết kế những loại máy bay chuyên nghiệp cho một nhiệm vụ, nhờ đó họ có đội máy bay rẻ và có thể có số lượng lớn. Mỹ chế tạo một mẫu máy bay đa năng, rồi từ mẫu đó, họ làm ra nhiều loại con cho từng nhiệm vụ. Điều đó làm cho các máy bay đắt đỏ, nhưng lại chỉ cần duy trì một số lượng nhỏ máy bay chiến đấu trong biên chế. Một thay đổi lớn với cơ cấu không quân Liên Xô cũng như thiết kế máy bay không chiến Mỹ sau chiến tranh. LX thì thiết kế máy bay đa năng như Mỹ, sử dụng động cơ đa năng turbofan bypas như các loại SU thay cho hàng vạn MIG như MIG-15,17,21. Còn Mỹ thì chú trọng đến không chiến tầm ngắn và chế tạo F-14, F-15.
    Thê là, bước vào chiến tranh chống phá hoại miền Bắc, chúng ta thừa kế các ông anh kỹ thuật không chiến. Đó là lực lượng máy bay tiêm kích. Đây là những máy bay rất linh hoạt, nhỏ rẻ. Chúng được thiết kế để bảo vệ bầu trời tiền tuyến, tầm gần. Những điểm yếu của chúng được bù lại bằng số lượng rất lớn. Điều cuối cùng đó thì ta không có. Cuộc thử nghiệm phương pháp không chiến bằng thiết bị điện tử diễn ra với một lực lượng rất chênh lệch. Khó hiểu là máy bay được thiết kế để sử dụng số lượng mới lại có thực tế chiến đấu số lượng ít.
    Về lịch sử không chiến trên bầu trời bắc Việt. Có nhiều giai đoạn. Đến năn 1967, có thể chia ra hai giai đoạn.
    1: không quân nhân dân Việt Nam xuất hiện. Không quân nhân dân đã chiến đấu những trận đầu tiên. Làm đối phương kinh hoàng bằng một lực lượng rất chênh lệch. Bản thân chúng ta chúng gặp rất nhiều bất ngờ. Tính chủ quan xuất hiện ngay sau trận đánh đầu tiên, gây thương vong. Giai đoạn này đã khẳng định phương pháp chủ lực của không quân ta: sử dụng ưu thế dẫn đường mặt đất. Mỹ yếu thế hơn vì ở xa hậu phương, nhưng họ có những máy bay cảnh giới mạnh. Mỹ cũng như ta, đều gặp phải khó khăn về kinh nghiệm chiến đấu. Các vũ khí mới làm chiến tranh trên không hoàn toàn khác với những chiến tranh trước đây. Về cơ bản, càng đấu trí, ta càng yếu thế do lực lượng chính lúc này là MIG-17, MIG-19 đã quá lạc hậu.
    2: chiến dịch Bolo, hay "top gun", Hải quân Mỹ tìm được cách đối phó, đây là cuộc đấu trí ghay gắt. Đây có lẽ là giai đoạn nhiều thú vị nhất. Càng ngày, ta càng yếu thế do sử dụng MIG-17 lạc hậu. Nhưng những lần đầu tiên dùng MIG-21 lại không thành công, đến nỗi nhiều ý kiến lo sợ, muốn quay lại MIG-17 và MIG-19. Bản chất đầu giai đoạn này (1967). Mỹ tận dụng ưu thế F-4 là tầm bay xa, thời gian bay lâu, phục kích ở vùng radar ta khó theo dõi được hay bí mật bám sát sân bay, hay lảng vảng ở xa độ máy bay F-105 ném bom.
    Sau năm 1967, có thể chia ra hai giai đoạn
    1: Phi công Phạm Thanh Ngân tìm ra phương pháp chiến đấu giống như chim sơn ca, bằng trận đánh F-102, MIG-21 đã thắng trong trận đấu trí tìm cách đánh mới hiệu quả. Phi công này là huấn luyện viên của nhiều phi công nổi tiếng như Cốc, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất:->phi công thử nghiệm chiến thuật-thử nghiệm trong chiến đấu. Đây là phương pháp chiến đấu tận dụng triệt để hai điểm nổi trội của MIG-21. Điểm thứ nhất là dẫn đường, điểm thứ hai là không chiến chiều thằng đứng. MIG-21 có khả năng đổi hướng rất mạnh, tốc độ leo cao tốt. Phi công Phạm Thanh Ngân là phi công có trình độ không chiến xuất sắc, người hướng dẫn của nhiều phi công ưu tú, trong đó có Cốc. Em không hiểu ai là người đề xuất phương án tấn công này. Đại khái, một tổ bay 2 người, tận dụng dẫn đường để bay thấp. Gần đến mục tiêu MIG vọt lên cao. Tiếp theo, MIG lại từ trên cao bổ xuống từ phía sau mục tiêu, bắn, về. Trong khi một MIG bắn thì một MIG cảnh giới. Máy bay cảnh giới từ xa của Mỹ hướng Thái Lan chỉ quan sát rõ khi mục tiêu ở độ cao 2-6km. Do đó, thời gian MIG nằm trong vùng nó quan sát được rất ngắn, khó phát hiện. Trận đánh đầu tiên cũng thú vị. Phi công Phạm Thanh Ngân khi chuẩn bị tấn công thì thấy mục tiêu rất giống MIG, anh dừng tấn công bật máy hỏi, khi có kết quả là địch thì chỉ còn cách mục tiêu hơn 1km. Hóa ra đây là chiếc F102 cánh tam giác. Phương pháp này chấm dứt một thời gian dài yếu thế của ta, làm các phi công rất phấn khởi. Phạm Thanh Nga có vẻ gì đó như một phi công thử nghiệm phương pháp đánh mới, do đó, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất. Giai đoạn này đặc trưng là việc sử dụng MIG 21. Quân ta đã có một chiến thuật đầu tiên, bbắt đầu làm chủ phương pháp không chiến bằng tên lửa của máy bay tốc độ cao.
    Có một điều khó hiểu em chưa biết là: tại sao ta biết được một vài đặc tính kỹ thuật của máy bay cảnh giới từ xa Mỹ.
    2: giai đoạn Mỹ tấn công ồ ạt trước khi bại trận. Vừa xem xong trên đài truyền hình, các bác có thể thấy Mỹ bị sức ép mạnh mẽ rút quân. Trước đây Mỹ đã dùng B-52 quy mô lớn, nhưng mùa hè 1972 mới là trận B-52 lớn nhất, 420.000 tấn bom. Trận bom này có hiệu quả rõ rệt, buộc ta rút quân. Sau đó, là 12 ngày đêm. MIG rất ít xuất hiện, nhưng là những trận thắng rất mạnh, như 2 trận bắn rơi B-52. Hầu như chiến thuật giống như trận đánh trên của Phạn Thanh Ngân. Lần này, nhờ laser mới xuất hiện và thiết bị điện tử mới. Mỹ đã được sử dụng những vũ khí tầm xa, vũ khí có điều khiển thay cho động tác bổ nhào vào gần pháo phòng không bảo vệ mục tiêu. Máy bay chiến thuật Mỹ thực hiện được một số nhiệm vụ trước đây rất khó. Cầu hàm Rồng, Long Biên sập. Trang bị của ta cũng mạnh lên, nhưng do những biến động chính trị, viện trợ cho ta chậm trễ. Bù lại, ta đã có nhiều kinh nghiệm và tổ chức chỉ huy tốt hơn phòng không không quân.
    Trong box, đã có một đường link đến một tiểu thuết về giai đoạn 1 khá kỹ. Em xin bắt đầu việc tìm hiểu bằng một vài thông tin gian đoạn hai, bắt đầu từ đầu năm 1967. Đây là giai đoạn Mỹ tìm được phương pháp không chiến tận dụng thế mạnh của F-4. F-4 được thiết kế "kiểu Mỹ", tức là máy bay đa năng. Có một vài loại F-4 khác nhau để không chiến hay tấn công mặt đất. Nó có bộ đuôi kiểu tên lửa đặc trung cho họ nhà F thích hợp với bay đường dài, động cơ ưu việt, có thời gian chiến đấu dài và tầm xa. Máy bay mang tên lửa điều khiên thủ công qua radar như trên. F-4 khi lượn vòng hep mất tốc độ và hoàn toàn không được các nhà thiết kế chú ý tới không chiến tầm ngắn. So sánh nó với các máy bay không chiến hiện đại lúc đó cũng giống như F-22 bây giờ.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 05:21 ngày 05/04/2005
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Chiến dịch bolo là nỗ lực đầu tiên của Mỹ tìm cách không chiến mới thích hợp với vũ khí mới.
    Năm 1966. Sử dụng lợi thế là dẫn đường mặt đất, đánh trên sân nhà, các MIG gây khó khắn lớn cho không quân Mỹ. Với thế mạnh áp đảo cả về chất lượng máy bay, không quân Mỹ bị không quân ta gây cho nhứng thiệt hại đáng kể. Ngày nay, chũng ta biết được rằng ngày đó chúng tá chỉ có vài chục chiếc máy bay đời cổ. Chiến dịch bắt đầu từ đầu năm 1967.
    Miêu tả chiến dịch đó qua tranh vẽ. Robin Olds, người thiết kế chiến thuật này. phi công giầu kinh nghiệm từ ww2 với 16 trận thắng.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 06:08 ngày 05/04/2005
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Chiến dịch bolo là nỗ lực đầu tiên của Mỹ tìm cách không chiến mới thích hợp với vũ khí mới.
    Năm 1966. Sử dụng lợi thế là dẫn đường mặt đất, đánh trên sân nhà, các MIG gây khó khắn lớn cho không quân Mỹ. Với thế mạnh áp đảo cả về chất lượng máy bay, không quân Mỹ bị không quân ta gây cho nhứng thiệt hại đáng kể. Ngày nay, chũng ta biết được rằng ngày đó chúng tá chỉ có vài chục chiếc máy bay đời cổ. Chiến dịch bắt đầu từ đầu năm 1967.
    Miêu tả chiến dịch đó qua tranh vẽ. Robin Olds, người thiết kế chiến thuật này. phi công giầu kinh nghiệm từ ww2 với 16 trận thắng.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 06:08 ngày 05/04/2005
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tuyệt quá panzerlehr
    Tớ đang loay hoay không biết làm thế nào để post ảnh lên, vì scan ở trường sẽ bị bọn nó tóm cổ Vi phạm bản quyền ngay. Ở Mỹ này tội Copy right là ra khỏi trường ngay lập tức.
    Bây giờ phải nhờ bác tiếp. Tôi và bác chúng ta cùng phối hợp để bản dịch cho có hiệu quả.
    Thứ nhất, nếu có dịch sai, bác chỉnh lý.
    Thứ hai. Tớ dịch phần nào nhờ bác post hộ ảnh phần đấy. Nhiều phần tớ chưa dịch vì không post được ảnh thì người đọc sẽ khó mà hiểu được
    Thứ 3, bác có thời gian thì dịch đỡ cho một phần. Mỗi ngày tớ nhiệt tình lắm cũng chỉ dịch được 1 tiếng thôi. Cả tuần thì chỉ dịch được vào cuối tuần. Còn lại thời gian phải học và đi làm thêm (bắt chước Bác Hồ ngày xưa quá ha?!).
    Mod mấy hôm nay làm việc hiệu quả phết đấy.
    Nhờ Mod chuyện này. Topic này là để cung cấp nội dung sách dịch sách nguyên bản, có một số so sánh với tài liệu của ta, và phải ghi rõ nguồn. Đề nghị Mod chuyển hết các bài của Huyphuc81_nb sang topic khác, quá trình phát triển thiết kế máy bay, Triều tiên, Đài loan không phải là chủ đề chính ở đây. Các lời bình luận ngắn gọn của anh em khác ngắn gọn và theo sát nội dung thì để lại.
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tuyệt quá panzerlehr
    Tớ đang loay hoay không biết làm thế nào để post ảnh lên, vì scan ở trường sẽ bị bọn nó tóm cổ Vi phạm bản quyền ngay. Ở Mỹ này tội Copy right là ra khỏi trường ngay lập tức.
    Bây giờ phải nhờ bác tiếp. Tôi và bác chúng ta cùng phối hợp để bản dịch cho có hiệu quả.
    Thứ nhất, nếu có dịch sai, bác chỉnh lý.
    Thứ hai. Tớ dịch phần nào nhờ bác post hộ ảnh phần đấy. Nhiều phần tớ chưa dịch vì không post được ảnh thì người đọc sẽ khó mà hiểu được
    Thứ 3, bác có thời gian thì dịch đỡ cho một phần. Mỗi ngày tớ nhiệt tình lắm cũng chỉ dịch được 1 tiếng thôi. Cả tuần thì chỉ dịch được vào cuối tuần. Còn lại thời gian phải học và đi làm thêm (bắt chước Bác Hồ ngày xưa quá ha?!).
    Mod mấy hôm nay làm việc hiệu quả phết đấy.
    Nhờ Mod chuyện này. Topic này là để cung cấp nội dung sách dịch sách nguyên bản, có một số so sánh với tài liệu của ta, và phải ghi rõ nguồn. Đề nghị Mod chuyển hết các bài của Huyphuc81_nb sang topic khác, quá trình phát triển thiết kế máy bay, Triều tiên, Đài loan không phải là chủ đề chính ở đây. Các lời bình luận ngắn gọn của anh em khác ngắn gọn và theo sát nội dung thì để lại.
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Dịch qua mấy trận thắng để lấy khí thế cho anh em. Còn bây giờ quay lại từ đầu, bởi vì đúng là phải đọc từ đầu thì mới hiểu hết được tình hình.
    Địch thủ (Antagonists)
    Trang 10 - 13
    Lực lượng oanh kích chính của KQ Mỹ ở miền Bắc Việt nam trong chiến dịch Sấm Rền là F105 Thần sấm. F105 B ban đầu được thiết kế là máy bay ném bom nguyên tử chiến thuật tầm xa, bay thấp dùng ở Châu Âu. Nó có cánh bé để bay nhanh và khoang mang bom hạt nhân. F105 D với hình dáng gần như giống hệt được phát triển làm máy bay ném bom hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, với thùng dầu ở vị trí khoang chứa bom.
    F105 gặp vấn đề lớn về bảo trì, nhưng đã được giải quyết trước chiến dịch. Đa số F105 model có một phi công, nhưng cũng có F105F 2 phi công dùng cho các sứ mệnh đặc biệt.
    F105 là loại máy bay nhanh nhất thế giới ở tầm thấp, và cho dù được thiết kế chuyên biệt cho ném bom, trong chiến dịch Sấm rền (Rolling Thunder), F105 kịch chiến với Mig nhiều hơn so với toàn bộ các máy bay khác cộng lại.
    F105 mang khẩu hoả diệm sơn M-61 (20mm - Vulcan), với tốc độ bắn 6,000 viên /phút, và khi sử dụng như tiêm kích (ít khi thôi), có thể mang 4 tên lửa tầm nhiệt Aim-9 sidewinder treo ở hai giá đúp. Giá đúp này gây ra nhiều sức cản, và làm giảm khối lượng bom đạn mang theo, nên ít khi F105 mang Aim9 trong các phi vụ ném bom. Vì cánh nhỏ nên cung cấp rất ít lực nâng cho F105 khi ngoặt, nó nổi tiếng vì kém cơ động, nhưng bất chấp khả năng lượn kém, khẩu cannon và tốc độ cao sau khi đã vứt bom khiến cho chiếc F105 được điều khiển tốt rất hữu dụng trong các cuộc không chiến trống lại Mig17.
    Một nửa các đơn vị air-to-air của Hải quân Mỹ trang bị F8 một ghế, một máy bay tiêm kích không biết thoả hiệp (uncompromising air superiority fighter). Nhanh và cơ động lanh lẹ, trang bị súng 20mm Colt Mark 12 và 2 hoặc 4 tên lửa Sidewinder ở ngang sườn, và một bộ ra đa có khả năng hạn chế. Phi công F8 được huấn luyện đặc biệt tốt với các trận đánh quần vòng (dogfight) và tự hào về thành tích; Họ tin rằng máy bay của họ là loại tốt nhất trong không chiến trên thế giới. F8 xuất kích từ các tàu sân bay loại nhỏ, thuộc thế hệ Project 27 - Charlie, sản xuất từ WW 2: Es*** class carriers, Oriskany, Bon Homme Richard, Han****, Intrepid, Lexington, Ticonderoga, và Shangri La, vốn đều được sửa chữa để vận hành máy bay phản lực.
    (đoạn này có nhiều photo nhưng chưa có điều kiện scan).
    Cả KQ và HQ sử dụng F4 Phantom II, hai chỗ. Ban đầu F4 được phát triển nhằm đem lại cho HQ lực lượng tiêm kích trang bị ra da và tên lửa, nhưng với performance so impressive, KQ cũng chọn luôn nó làm máy bay chiến đấu đa năng. HQ gọi F4 là F4 B; KQ gán là F4C, nhưng về bản chất chúng là một loại máy bay. Từ lúc đầu, F4C trở thành lực lượng tiêm kích chủ đạo của KQ, nhưng F4B thì chia sẻ nhiệm vụ với F8.
    Trên phần lớn các khía cạnh, F4 là một máy bay excelent. Tăng tốc nhanh, bay gấp đôi tốc độ âm thanh ở tầm cao và siêu thanh ở tầm thấp, và có hệ thống ra đa cực mạnh vận hành bởi người phi công thứ hai ngồi ở ghế sau. Ở F4 HQ, phi công ngồi sau là navigator, gọi là RIO (radar intercept officer). Ở F4 KQ, phi công ngồi sau là người vừa mới tốt nghiệp bay, thường được biết đến như GIB (guy in back). F4 của KQ cũng thường mang tổ hợp điều khiển bay dùng cho GIB; F4 HQ thì không .
    Khi không chiến, F4 có thể mang tới 8 tên lửa, 4 AIM9 tìm nhiệt và 4 tên lửa dẫn đường bằng rada tầm xa AIM7 Sparrow. THeo xu thế, F4 không trang bị súng, và trên thực tế, ít phi công yêu cầu lắp đặt chúng.
    Bác panzerlehr post ảnh hộ.
    Tớ nghỉ hai ngày để viết assignment. Thứ 5 lại dịch tiếp.

Chia sẻ trang này