1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thất Chân nhân quả truyện

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi battambattu, 23/05/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Ông giảng dạy việc toàn chân diệu lý nói rằng:
    - Đây gọi toàn chân là trước sau trọn việc chân, không có ý giả. Người đời ai mà không có lòng chân? Như đặng chỗ chân mà không giữ để nó đổi ý giả nhận làm việc chân thì đó chẳng phải là chân rồi. Còn ai mà chẳng có ý chân? Nếu như chẳng giữ để xen tạp việc dối thì mất chỗ chân. Ai lại không có tình chân? Nếu chẳng giữ để nó tư niệm, các việc nhiễm lậu thì sai mất chỗ chân. Bởi cái Tâm, Ý, Tính, khi ban đầu thiệt chân, vì tại chẳng tập sửa chế, để tán kế biến đổi việc huyễn mị thì thành ra chỗ giả, phải mất chỗ chân. Ba việc ấy do tại chỗ: Thiên-Tính, Lý-Tính và bản-Tính, ba cái Tính ấy thường hay bền tốt; hễ có phát ra thì tại chỗ Thiên-Lương (1) làm việc chi thường thấy tự nhiên như nguyện.
    Vì cái lòng là chủ cái ý; tình là khách của ý. Hễ lòng có ý chân, tình chân, thì trong tình ý thấy đặng lòng chân do lòng phát ra ý thiệt, do ý thiệt mới có tình ngay thì máy thiên cơ hiện đủ! Như vậy mà người chẳng chân sao đặng? Vì tại người không có Tâm chân thì chẳng có ý thiệt, ý chẳng thiệt, tình chẳng ngay, làm chi cũng khó nên đặng.
    Thường thấy người học Đạo, khi vọng niệm tự dấy động, hay tưởng nhớ các việc: hễ có ý riêng thì lòng chẳng được chân. Còn lúc Tình thì dục tưởng theo hoài, hễ có cái niệm thì lòng chẳng được thiệt, chỗ động tịnh cũng đều vọng, thì tư dục chẳng dứt. Như vậy làm sao đặng thành? Vì tại lòng chẳng chân sinh mối nghi hoặc, hoặc trọn không chân ý, nửa chân nửa giả; đương khi việc chân giả là trời người tương tiếp, người thú hai đường, nên hư tại đó, ý tình chẳng cho qua đặng, như mười mắt xem, mười tay chỉ. Cho nên người học Đạo phải có 3 việc sợ, 4 việc biết (2) vì vậy mà nhà tối chẳng khá khinh.
    Còn như mình muốn nghiệm xét chỗ Đạo chân, trước phải hỏi cái Tình, như Tình chân thì khá biết Tâm Ý cũng đồng chân; bằng như chưa được chân, thì các việc đều còn giả. Nên việc tu chân phải lấy Ý làm trước. Bởi cái Ý nó hay thông hiểu các việc, tưởng đâu thì nhiễm đó, hễ Ý thành, Lòng thành, Tình thiệt, thì tự nhiên chắc đặng chân thật.
    Còn như muốn biết việc chân cùng chẳng chân, thì trước xem lời nói, bằng lời nói không chắc thì chẳng phải lòng chân. Xét việc làm, như việc làm chẳng tuân lãnh các lời trên dạy, cực khổ không cam, thì biết ý chẳng phải thiệt. Bởi vậy việc tu là tu trừ cái Tâm ngoài Tâm; cái Ý ngoài Ý; Tình ngoài Tình; chẳng tham chẳng nhiễm, đều bỏ ra ngoài, quyết phải sửa bề trong làm nhất. Đương khi khởi muốn điều chi, nói quấy việc chi, không nhằm lẽ Đạo thì phải thâu cái chí Thiên-Lương, bỏ dứt Tâm-Phàm, đừng cho nghi tưởng, hai lòng xen tạp tình ý chẳng cho rối loạn (Thí như mình muốn làm ruộng, thì phải cày bừa cho kỹ, cỏ đào cho sạch gốc thì tự nhiên không sinh lại). Như vậy mới gọi là thiệt, trong ngoài một mảy không giả, gọi là Toàn chân.
  2. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Lã-Tổ đem lẽ Toàn chân dạy cho Hiếu-Liêm rồi bảo Hiếu Liêm quì day mặt hướng Nam. Lã-Tổ lấy tay xỉ trong mặt lần thứ nhất cũng không có sắc buồn. Lần thứ nhì xỉ một cái mạnh cũng để ý tự nhiên. Qua lần thứ ba, ông xỉ thiệt mạnh khiến Hiếu-Liêm trật chân té ngửa mà Hiếu-Liêm cũng cười, liền đứng dậy lạy, thưa rằng:
    - Thân khó đặng sinh mà may sinh; Đạo khó đặng gặp mà may gặp. Nay nhờ Trời mở hội, đường Huỳnh Đạo đặng nghe, nhờ phụ mẫu hiệp thành thân, ơn trọng thầy cứu mạng. Lã-Tổ nghe nói dứt lời, biết Hiếu-Liêm thấu đặng huyền cơ, bèn chỉ qua việc tu:
    - Luyện kỹ, trúc cơ, an lư, lập đảnh, thể dược hườn đơn, hỏa hầu, sưu thêm, các việc công phu dạy đủ. Vương-Hiếu-Liêm thọ giáo tu hành. Lã-Tổ nói rằng:
    - Như trò Đạo thành rồi phải mau qua Sơn-Đông độ bảy vị Thất chân. Bảy vị đó khi trước là 7 cái bông sen vàng đưa cho trò đó! Lã-Tổ dặn dò xong rồi cùng Chung-Tổ sửa mình: Một ông cầm song kiếm, một ông cầm quạt lông, vụt một cái hóa ra hai con hạc, hai vị liền cỡi đi mất.
  3. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Vương-Hiếu-Liêm ngó theo trên không trung, quì lạy rồi trong lòng còn tư tưởng hai Tiên, lại thấy Vương-Mậu với Ngọc Khuê chạy tới nói rằng:
    - Tôi vâng lệnh bà đến kiếm ông, định chắc ở đây, may quá đặng gặp, mau thỉnh ông về, sợ bà trông đợi. Hiếu-Liêm theo về, trong lòng thầm nhớ lời Lã-Tổ dạy Đạo, thâu thúc không rời. Về đến nhà vào phòng nằm nghỉ.
    Bà Châu-Thị nghe nói ông về, vô hỏi thăm, hỏi đôi ba lần không thấy trả lời, dường như có ý tưởng nhớ việc chi, bà thấy vậy khuyên ông rằng:
    - Mấy lần rồi không tiếc thân thể, cứ buông khơi ra ngoài, khiến cho tôi lo sợ, e có ngày thất hư phẩm hạnh. Hiếu-Liêm đương tư tưởng việc huyền công chẳng hề nghe tới. Bà lại khuyên nói một hồi lâu chừng đến câu thất hư phẩm hạnh, ông liền đáp theo:
    - Thất hư phẩm hạnh? Thất hư phẩm hạnh? Bà nghe ông nói lời trái lý không nhằm, chắc trong mình có bệnh nên chẳng hỏi nữa, liền trở ra. Ông lại trong lòng tưởng rằng:
    - Nghĩ việc khiên triền còn khuấy rối như vậy, tu sao đặng thành công? Khó đặng liễu Đạo! Nếu chẳng lập phép đoạn dứt trần duyên này e trọn đời khó đặng giải thoát.
    Thầm tưởng hồi lâu, tính ra một kế. Hễ thấy ai tới thì trong miệng làm như nói không ra tiếng, việc nhà đều không ngó ngàng tới nữa, nằm tại thơ phòng làm như người mất trí. Ăn mặc không cần, ngơ ngơ như người thất vọng. Bà thấy vậy lo rầu chẳng xiết, mỗi ngày hỏi thăm mấy lần, thấy ông bua lua ba-la nói nghe chẳng rõ, cứ ngẩn ngơ lắc đầu; bà không biết làm sao, liền sai Ngọc-Khuê đi thỉnh bạn hữu của ông đặng hỏi coi cớ sao vậy. Mấy người bạn cùng ông thường hay thương mến tin cậy, có việc thỉnh thì đến liền. Khi đó thấy người đến thơ phòng hỏi thăm rằng:
    - Hiếu-Liêm nay khá bớt chăng? Hiếu Liêm nghe hỏi lắc đầu lấy tay khoác, nói nghe không đặng. Mấy người thấy vậy biết là có bệnh, mà chẳng hiểu bệnh chi. Có một người nói:
    - Tôi coi bệnh của ông giống bệnh trúng phong bất-ngữ, chẳng biết phải không? Xóm bên đông có ông Trương-Hải-Thanh làm thuốc có tiếng, vậy thỉnh đến coi mạch thì biết căn bệnh. Châu-Thị nghe nói, sai Ngọc-Khuê đi thỉnh, hồi lâu thầy đến. Bạn hữu đứng dậy mời thầy uống nước rồi thuật lại chứng bệnh cho thầy nghe, thỉnh thầy coi mạch. Lúc thầy coi mạch rồi, biết mạch không bệnh, mà cũng y lời mấy ông nói rằng:
    - Thiệt quả bệnh trúng phong bất-ngữ, để tôi hốt ít thang chắc mạnh. Nói rồi liền biên toa.
    Vì ông Võ-Cử thiệt không bệnh,
    Chẳng phải tiên-sinh trị chẳng minh.
  4. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Chú thích hồi thứ hai:
    (1) Người có đạo mới biết chỗ Thiên-Lương, muốn biết phải tìm thầy học Đạo.
    (2) Ba việc sợ là: sợ mạng Trời, sợ người có đức, sợ lời Thánh nhân.
    Còn bốn việc biết là: Trời biết, Đất biết, Người biết, Quỉ Thần biết.
    Trên núi có Sơn Thần, dưới sông có Thủy Thần, ngoài đường có Lam-Lộ Thần Kỳ, trong nhà có Thần ốc lận ở tại chái nhà. Bởi vậy người tu phải hằng sợ một mình tuy chỗ không ai, nhưng chẳng dám làm điều quấy vì tuy không người biết nhưng Trời Đất Quỉ Thần biết. Làm được vậy thì tự nhiên thể đồng Trời Đất. Người không tu cũng vậy.
  5. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 3​
    Thọ Thiên triệu Sơn-Đông độ thế,
    Nhập địa đạo Chung-Nam tàng thân
    Nghĩa là:
    Vâng lịnh Trời qua Sơn-Đông độ đời,
    Vào hang động ở núi Chung-Nam ẩn mình.​
    Có bài kệ rằng:
    Ý đời nóng nguội thiệt thêm cười,
    Đoạt lợi tranh danh biết mấy mươi,
    Dễ độ súc sinh người khó độ,
    Nguyện độ súc sinh khó độ người.
    Bởi ông Hiếu-Liêm nguyên thiệt không bệnh, chẳng qua là giả bệnh, muốn dứt việc khiên triền đặng học Đạo. Trương-Hải Thanh nào biết được ẩn ý ông, nên xem mạch rồi khó hiểu đặng bệnh, cũng tùy ý mà nói là bệnh trúng phong bất-ngữ, cũng biên toa đưa cho chủ rồi lấy tiền lễ ra về, làm lấy có mà thôi. Lúc nọ bạn hữu từ tạ ông ra về nói rằng: Xin ông rán bảo trọng, chúng tôi ít bữa đến thăm. Ông gật đầu, thảy đều về hết. Châu-Thị thấy khách về rồi bảo Thu-Lan và Ngọc-Khuê đi hốt thuốc về sắc, rồi Thu-Lan bưng vào phòng mời cha uống, lại thấy ông trợn trắng, vùng té một cái, Thu-Lan hoảng liền để chén thuốc, lật đật chạy ra. Bà thấy vậy sai vô nữa, nó không dám vô, ông bưng chén thuốc đổ trong vách.
    Từ đó đến sau, một mình Ngọc-Khuê ra vô, chẳng ai dám vào phòng ông hết. Hễ ông thấy mặt vợ con thì đấm họng dậm chân. Qua bữa sau Châu-Thị niệm tình vợ chồng vào hỏi thăm lần nữa, ông cũng làm như vậy. Còn từ khi ông giả trúng phong đến sau, trong ngoài đều giao cho bà toan liệu; bà con thân thích cũng không đến đặng; duy có bạn hữu thăm một hai lần, thấy ông làm như vậy không dám tới nữa, người người đều than tiếc. Bị đau bệnh nặng mà ở chỗ nhà vắng một mình, nào ai thấu đặng ý đó! Ấy là ông muốn thanh tịnh ở trong thơ phòng ngộ Đạo mà giả chước như vậy; đặng bó buộc công phu, quên dứt việc trần, không không một niệm.
    Ở đặng 12 năm, đại đơn đặng thành!
    Có bài kệ rằng: (ca giọng trầm)
    Vợ làm bằng hề, con làm bạn
    Khát uống trà, rồi đói ngật phạn (ăn cơm)
    Coi lại cùng người cũng không không
    Nào hiểu y học Đạo tình trạng
    12 năm công thành viên mãn
    Xuất dương thần trên đảnh hiện quang
    Trên đời những mấy kẻ tu hành
    Ai mà hiểu đặng làm bản dạng.
  6. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Ông tu xuất đặng dương thần biến hóa, đặt pháp danh là Trùng-Dương Tổ-Sư. Đêm nọ ông nằm tại thơ phòng, đương công phu, một niệm chẳng sinh, vạn duyên đều tuyệt. Vẳng nghe trên hư không kêu rằng: Vương-Trùng-Dương mau lên đây tiếp triệu! Trùng-Dương lật đật bước lên hư không, thấy Thái-Bạch Kim-Tinh đứng trên mây nói:
    - Ngọc-Chỉ đến! Trùng-Dương lại gần nghe đọc triệu rằng:
    - ?oTa niệm người Trùng-Dương có công khổ chỉ tu 12 năm không sai thất lòng, lo độ người tu chân. Nay đạo quả đủ đầy phong làm Khai-Hóa chân-nhân, mau qua tỉnh Sơn-Đông mở đạo, như sớm độ đặng Thất-chân thành công sau gia tăng thêm nữa, ắt phải vâng lời.?
    Thái-Bạch đọc triệu vừa dứt, Trùng-Dương quì lạy tạ ơn, rồi Thái-Bạch bảo rằng:
    - chân-nhân mau qua Sơn-Đông, đừng sợ khó nhọc mà phụ lòng Thượng-Đế, để ngày sau lên hội Bàn Đào đặng gặp. Kim-Tinh nói dứt, đằng vân trở về Thiên-Cung, còn Trùng-Dương cũng trở về tịnh phòng công phu.
    Bữa sớm mai nọ, Ngọc-Khuê đem nước rửa mặt, xô cửa không mở, lật đật thưa cho Châu-Thị hay, bà cùng hai đứa tớ kêu hoài không đặng, thầm chắc ông chết rồi, cạy cửa vô coi không thấy ai hết, lấy làm lo sợ liền sai đi bốn phía tìm kiếm, không nghe tin tức bèn khóc lớn kinh động trong xóm người người đều chạy đến hỏi thăm. Ngọc-Khuê thuật việc cho mọi người nghe. Mấy người nói:
    - Việc thiệt cũng lạ! Cửa còn đóng chặt mà người đi mất, hay là trổ trên nhà hoặc cạy vách mà ra chăng? Mấy người vô coi không có dấu gỡ cạy chỗ nào. Có một người nói rằng:
    - Thôi mấy người đừng kiếm nữa, tôi coi ông Hiếu-Liêm thể dạng chắc thành Thần Tiên rồi. Hỏi rằng:
    - Sao anh biết đặng?
    Đáp: Lúc ở phòng ngồi tịnh 12 năm, không động một bước, bỏ hết việc trần, lại giả làm bệnh trúng phong, tôi coi thiệt ông muốn tuyệt dứt cuộc thế. Hình dung tươi tốt mắt có thần quang, như vậy chẳng phải Thần Tiên sao? Nghe nói ai nấy bán tín bán nghi nói rằng: Như vậy chắc ông thành Tiên đằng vân đi rồi.
    Bà nghe mấy người bàn luận mới bớt lòng sầu, rồi mấy người về hết.
  7. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Lại nói về Trùng-Dương bữa đó ở trong tịnh phòng độn thổ ra khỏi Đại-Ngụy-Thôn đi Sơn-Đông hết mấy ngàn dặm mới tới, không thấy bảy vị thất chân, chỉ thấy có hai hạng người: một vì danh, hai vì lợi mà thôi, chớ không có ai mộ Đạo! Trùng-Dương thấy vậy chắc không có người độ đặng bèn trở về Xiểm-Tây, đi đến núi Chung-Nam, thấy một núi đất dài hơn trăm dặm vắng vẻ thanh tịnh, trong lòng tưởng rằng:
    - Thôi ở lại đây vô trong núi này tìm chỗ hang sâu mà tịnh dưỡng, đợi chừng nào trong thế gian có người tu, sẽ ra đi độ. Liền niệm chú ?oTá-Thổ-Độn? ước chừng một khắc thấu tột hang sâu, gặp cái hang động lớn ông vô ẩn mình phục khí điều dưỡng mà tu Tính mạng.
    Có bài kệ rằng:
    Rộng lớn kiền khôn có dị nhân,
    Một danh một lợi tính thua hơn,
    Thất-chân chưa biết về đâu độ?
    Vào đất ẩn mình đợi Thất-chân.
    Khi đó Trùng-Dương độn trong núi ẩn mình chẳng biết tháng ngày. Cách hơn nửa năm vẳng nghe một tiếng vang cũng như lở trời sụp đất, thấu đến trong hang, nứt ra một đường hào quang chiếu xuống. Trùng-Dương biết có thầy đến, trong lòng kinh sợ, lật đật nhảy ra, liền thấy thiệt Chung, Lã, hai ông ngồi trên, Trùng-Dương đến trước quì lạy chẳng dám ngó lên. Lã-Tổ cười trách rằng:
    - Người ta tu hành lên Thiên-Đường, còn ngươi tu hành vào địa ngục. Coi công của ngươi khác hơn người ta, trên trái lòng Trời, dưới bỏ ý Thầy, nào có phải Tiên bao giờ?
    Trùng-Dương nghe thầy quở cúi đầu xin tội rằng:
    - Chẳng phải đệ tử dám trái mạng Trời, nghịch ý Thầy, vâng lịnh Thầy qua Sơn-Đông độ Thất-chân, mà kiếm cùng cũng không gặp, duy có hai hạng người lo việc danh lợi mà thôi. Nên đệ tử tạm vào đây ẩn mình đợi chừng nào có người tu hành sẽ ra đi độ. Lã-Tổ nói:
    - Người tu xứ nào không có, tại ngươi chẳng chịu khó nhọc nên độ không đặng. Thí như ngươi hồi ban đầu nào có lòng học Đạo, ta cùng ***** mấy lần đi đến điều độ mới đặng. Nếu không thì ngươi trọn đời chỉ một chức Hiếu-Liêm mà thôi, nào có thành bực Đại-La Kim-Tiên? Nay ngươi ham thong thả chẳng chịu tinh tấn độ người, lại nói trong thiên hạ không có người tu, thiệt là sai lầm. Ngươi lấy cái lòng như hồi ta đi độ ngươi, mưa gió không nài cũng đến, nằm sương ngủ cỏ nào than, đặng mà ra độ người, thì trong thiên hạ chỗ nào mà độ không đặng?
    Khi xưa ta có ba lần giả say ở núi Nhạc-Dương người chẳng biết, rồi ta kinh thân bay qua Động-Đình-Hồ, trong ý cũng gọi là đời không người độ, rồi trở về bên Bắc, qua tới Liêu-Dương thấy Kim-Quốc Thừa-Tướng bỏ chức về núi tu thành, thấu đặng huyền cơ, hiệu là Hải-Thiềm, rồi bắt chước ta đi Nam du độ đặng Trương-Tử-Lương. Trương-Tử-Lương độ Thạch-Hạnh-Lâm. Thạch-Hạnh-Lâm độ Tịch-Đạo-Quang. Tịch-Đạo-Quang độ Trần-Chí-Hư. Trần-Chí-Hư độ Bạch-Tử-Thanh. Bạch-Tử-Thanh độ Lưu-Vĩnh-Niên và Bành-Hạt-Linh. Bảy người ấy sau đặng chứng quả, đó là ?oNam-Thất-chân?. Khi đó ta cũng tưởng không người độ đặng, ai dè y độ đặng mấy người. Trong thiên hạ bốn biển rộng lớn, diệu lý khôn cùng người chí chân chẳng ít, lẽ nào không người ra tu?
    Nay có ?oBắc-Thất-chân? là Khưu, Lưu, Đàm, Mã, Xích, Vương, Tôn, bảy người trước có căn, nên mấy lần dặn dò bảo ngươi, ngươi chẳng chịu đi. Sức ngươi chẳng bằng Lưu-Hải Thiềm sao? Vì ngươi sợ khó nên chẳng bằng người ta đó thôi!
  8. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Lã-Tổ nói rồi Trùng-Dương mở thông huệ Tính, giựt mình sợ sai hồng-thệ, mồ hôi ướt mình, cúi đầu xin tội. Chung-Tổ thấy vậy kêu Trùng-Dương lại một bên dạy rằng:
    - Chẳng phải thầy trách ngươi, nhân vì hội Bàn-Đào gần đến, kiếp nạn lâm đầu, rán điều độ trong thiên hạ, người tu hành chân-Tiên, đều đặng phó hội Bàn-Đào, thế Thiên hành hóa, đại Phật Tiên ngôn trọn ổ thâu duyên, đặng về nơi thanh tịnh. (Vì đào tiên sinh tại núi Côn-Lôn, 1000 năm mới nở bông, 1000 năm kết trái, 1000 năm mới chín. Cộng là 3000 năm mới hội một kỳ.) Bởi 96 ức Phật tử xuống trần đã lâu mà về chưa hết. Thượng Ngươn độ 2 ức, Trung-Ngươn độ 2 ức. Cộng là 4 ức. Nay còn lại 92 ức mê trần! Vì hội gần đến, đào chín rồi, Phật-Mẫu trông con về ăn cho đủ. Nếu đến kỳ hội mà về không hết thì Phật-Mẫu rất buồn! Nên mình phải rán lo điều độ đặng đến kỳ hội thâu duyên, Phật-Mẫu thưởng đào, ăn một trái sống đặng ngàn năm.
    Vì Tây-Vương-Mẫu chẳng lòng hưởng một mình, muốn cùng các chân linh đồng hưởng, nên thiết lập hội tên là ?oHuỳnh Tiên đại-hội?. Mỗi lần hội phải có thêm Thần Tiên mới thì trên hội mới vui, bằng chỉ có mấy vị Tiên cũ chắc là trong thiên hạ không có người tu hành, thì bà Vương-Mẫu ắt buồn. Thuở thượng-cổ mỗi kỳ hội, người tu thành Tiên về dư ngàn. Qua đời trung-cổ mỗi kỳ hội người Tiên mới hơn mấy trăm. Đến đời hạ-ngươn chắc có ít. Nên thầy ngươi dặn dò phải sớm độ Thất-chân đặng lập hội kỳ, ấy là giúp thêm oai nghi, vậy phải vui mừng. Vì bàn đào gần chín, nếu để trể ngày giờ qua hết một viên hội, phải đợi 3000 năm nữa mới đặng phó hội, há chẳng tiếc sao?
    Chung-Tổ giảng nói thấu lẽ, Trùng-Dương nghe đặng quì thưa rằng: Nay đệ tử nghe lời Tổ dạy thiệt như chiêm bao mới tỉnh, tôi nguyện đến Sơn-Đông khai hóa. Xin cầu Tổ-Sư chỉ dạy cách điều độ trước sau.
    Chung-Tổ nói rằng:
    - Ngươi đến chỗ đất Tịnh. Người hiền nhiều, mà hỗn tục theo đời, hiện thân giảng Đạo qui củ tinh nghiêm, hoặc tài lợi phân minh trước sau như một thì có người đến tìm ngươi. Việc trong đó mở dạy chắc đại công khá thành, hễ đi gặp Hải thì ở, gặp Mã thì hưng, gặp Khưu thì dứt. Chung Tổ nói rồi quạt một cái lên mây đi mất.
    Trùng-Dương quì lạy Thầy, rồi trở qua Sơn-Đông. Một bửa ông đi đến huyện Ninh-Hải, tại tỉnh Sơn-Đông, phủ Đăng-Châu ông nhớ lời Chung-Tổ dặn rằng gặp Hải thì ở, hay là tại đây chăng? Thôi, ở đây giả người đi xin, như khi trước hai ông độ mình, nay mình dụng cùng phương tiện độ người.
    Hỗn tục theo đời để đợi thời,
    Gặp duyên đạo quả đặng nên thành.
  9. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 4​
    Đàm chân không, Tôn-Thị hối phu chủ,
    Cầu Đại-Đạo, Mã-Dương tầm minh sư
    Nghĩa là:
    Nói việc chân không, bà Tôn-Thị khuyên chồng,
    Cầu học Đại-Đạo, Mã-Ngọc tầm minh sư.​
    Có bài kệ rằng:
    Trời cũng không, Đất lại cũng không,
    Người đời phái phái ở nơi không.
    Nhật cũng không, rồi Nguyệt cũng không,
    Đông lên Tây lặn chẳng cần công.
    Ruộng cũng không, hề đất cũng không,
    Đổi dời nhiều ít người chủ ông.
    Vàng cũng không, rồi bạc cũng không,
    Thác rồi nào đặng ở tay trong.
    Vợ cũng không, con lại cũng không,
    Huỳnh-Tuyền đường nọ chẳng tương phùng.
    Sớm qua Tây rồi tối qua Đông,
    Người đời tỷ thí tợ con ong.
    Thể đặng trăm bông nên mật đó,
    Đến đầu cực khổ cũng buông không.
    Khi đó Trùng-Dương đi đến tỉnh Sơn-Đông, huyện Ninh-Hải, giả người xin ăn, trong ý muốn tìm người tu hành. Huyện Ninh-Hải phía Tây có nhà họ Mã, làm chức viên ngoại, tên là Mã-Ngọc. Cha mẹ qua đời, lại không anh em, cưới người vợ họ Tôn tên là Huyên-Trinh, dung mạo đoan trang, tâm Tính thông thái. Bà là người có học thường coi Kinh sách thấu việc xưa nay, chẳng ham thêu dệt vá may. Tuy là nữ lưu mà khí chất trượng phu khó sánh. Hễ viên ngoại có việc chi tính chẳng được hỏi bà thì rõ thấu. Cho nên ông bà kỉnh nhau như thầy bạn, ngặt tuổi già mà lại không con nên có làm bài kệ rằng:
    Quang âm mau lẹ chẳng đợi chờ,
    Người người chỉnh thấy việc bơ thờ,
    Chẳng tin soi thử trên mái tóc,
    Khi trước mày xanh bạc trắng dờ.
    Mấy câu kệ này ý nói: ?oMáy quang-âm lẹ như tên bắn, đưa người rất mau già, ngày tháng thắm thoát như thoi đưa, thúc trẻ nhỏ trở nên già rất lẹ?. Khi đó vợ chồng Mã viên ngoại tuổi đã gần 40 mà không con. Một hôm viên ngoại nói cùng vợ rằng:
    - Bạn mình mới nhỏ mà nay gần bốn chục rồi, chắc là vô hậu, vạn quán gia tài này chẳng biết về tay ai? Tôn-Huyên-Trinh rằng:
    Xưa Tam-Hoàng trị thế, sau Ngũ-Đế lập đại công.
    Vua Nghiêu, Thuấn sau tiếp nối, Võ-Vương mở chín sông.
    Thành-Thang rước Y-Doãn, Văn-Vương thỉnh Thái Công.
    Ngũ-Bá bày mưu chước, Thất-Hùng khiến bụng lòng.
    Vinh, Tần tranh sáu nước, Hớn, Sở lại tranh hùng.
    Ngô, Ngụy giành nhà Hớn, Lưu-Bị thỉnh Ngọa-Long.
    Đông Tấn cùng Tây Tấn, sự nghiệp cũng không tông.
    Nam Ngụy với Bắc Ngụy, giang san cũng long đong.
    Đường Tống lại đến đây, bao nhiêu phú quí ông.
    Hỏi thử người còn mất, đều thiệt cũng tay không !?.
  10. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Xin coi từ xưa đến nay biết mấy muôn năm, Đế Vương, quan, tướng, thành bại thạnh suy biết mấy ngàn người, vì danh lợi mà bỏ mình, việc đến đâu cũng tay không, nháy mắt đều tan hết. Nay bạn mình đem việc trước sau phú cho nơi không, như trong thiên hạ không gia sản này, cũng như cha mẹ chưa sinh bạn ta, thì có chi là vinh diệu. Viên ngoại nghe nói cười rằng:
    - Người ta tuy không còn có nhánh nhóc; bạn mình cái không này gốc rễ cũng dứt tuyệt.
    Tôn-Huyên-Trinh nghe rồi nói rằng:
    - Không nhánh không căn thiệt đại không.
    Có bài kệ rằng:
    Không đến tột rồi thiệt đại không,
    Không kim không cổ tợ hồng mông,
    Bằng người biết đặng hư không lý,
    Thẳng đến Linh-Sơn thấy đại hùng.
    Tôn-Huyên-Trinh nói:
    - Xét có con cũng như không con, ngẫm lại có con cũng không, mà không con cũng không. Như vua Văn-Vương có 100 người con, đến nay coi lại có mấy người? Họ Cơ con cháu muôn đời của ông, có người nào cúng tế mộ phần ông bao giờ? Còn ông Trương-Công-Nghệ sinh chín trai hai gái, Quách-Tử-Nghi bảy trai tám rễ, Đậu-Yên-Sơn năm trai đều đặng khoa, Lưu-Ngươn-Phổ sinh hai người con đều đậu cử-nhân. Mấy người đó nhiều điều sang trọng, con cháu hiển vinh, mà nay có thấy ai con cháu nào đâu? Coi lại cũng mưa lạnh gió sầu, nhà hoang mồ lở, cỏ mọc dẫy đầy. Há chẳng phải ?ocó? rồi cũng qui về nơi ?okhông? chăng? Cô phòng lạnh lẽo nào phải những người không con? Còn ruộng nhà đồ sộ thì người có con mới đặng, người không con không đặng hay sao? Tôi tưởng người sinh ở đời trong mấy mươi năm mau như nháy mắt dường như đá lửa chớp nhoáng, thấy đó rồi mất đó, tợ chiêm bao bọt nước, nào thiệt nào chân. Nhà lớn ngàn căn, chẳng qua đêm nằm tám thước. Ruộng nhiều muôn sở cũng ngày ăn ba bữa mà thôi. Bao nhiêu mùi ngon vật báu, uổng cho cuộc giàu sang như nháy mắt, quỉ vô thường theo đến thì muôn việc đều không. Dẫu bạc vàng đầy rương cũng khó chuộc đường sống thác. Hỡi ôi! Thiệt làm người ở đời mà chẳng tỉnh, thì cũng như một giấc chiêm bao!
    Kệ rằng:
    Kinh dinh thuở mấy uổng mang mang,
    Lầm nhận đường mê gỗi xóm làng,
    Nay lại xưa qua nào có ở,
    Dường như mượn chỗ tựu rồi tan.

Chia sẻ trang này