1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thất Chân nhân quả truyện

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi battambattu, 23/05/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Điều thứ nhất: Trước ăn chay phải nhớ hồng nguyện mà giữ qui-củ làm theo, trên dạy phải vâng. Thường ngày quì hương, tụng kinh, phàm-tâm thâu buộc; xét lời đạo-đức, sửa lỗi ngày xưa, thầm nghĩ một mình mà sợ trong nhà kín có Thần, người không thấy chớ Thánh Thần soi thấu thì tự nhiên tội hết tai tiêu.
    Điều thứ nhì: Hoặc có khi thầy thấy việc quấy, rầy la nói hiếp, cũng không nên đối đáp trả lời; hoặc ông bà cha mẹ nói điều chi không vừa, chẳng nên trái ý. Ai ai cũng đồng chẳng nên khinh dễ nặng lời; dầu lỡ nói phạm, thì cải hối ăn-năn. Đừng làm cho cha mẹ buồn rầu mà tổn khuyết công tu luyện.
    Điều thứ ba: Hoặc anh em, chị em có khi trái phải gây việc hơn thua, thì đêm hôm tăm tối sửa dạy cùng nhau, em quấy chị rầy, chị hư em gián, tuân theo điều luật lấy lễ nghĩa mà phân, không nên tranh đấu om-sòm mất chỗ bản dạng, người ngoài dòm ngó mà thối chí không tu, người trong đạo buồn lòng ngã theo Tài Sắc, khiến kẻ sau không dám nương theo. Như vậy thì tại mình làm hạnh xấu mà ngăn lấp mối lành, tội ấy phải bị đọa địa ngục.
    Điều thứ tư: Hễ các người trong đạo ta phải làm theo lời ta, trên thì dạy dưới. Như việc ăn mặc, tùy duyên an phận, quần vải áo bô, che ấm qua ngày mà nương theo thời-thế, chớ không nên nhởn-nha đua sánh mà lãng phí của trời. Kẻ trước sai một phân thì người sau sai một tấc mà hư mối đạo của ta. Ta không lẽ khoe mình, nhắc đến việc của ta thì không phương phân xiết.
    Hai người nghe bà nói liền đứng dậy thưa rằng:
    - Thưa bà có việc chi xin bà cho chúng tôi biết?
    Tôn-Bất-Nhị thấy hai người hỏi hoài, nên bà thuật đầu đuôi việc của bà cho hai người nghe v.v... Hai người nghe bà nói các việc tâm phúc cả hai đều sa nước mắt, liền lạy tạ ơn. Rồi bà bảo hai người đứng dậy nói rằng: này Lý-Tứ và Trương-Tam, vì ta biết hai người có lòng lo tu, chắc là muốn nối giềng mối của ta phải chăng? Hai người nói:
    - Thưa bà phải, anh em tôi muốn giữ giềng mối cho bà và lập bản dạng cho anh em tôi đặng ngày sau khỏi tái sinh đường ái dục. Tôn-Bất-Nhị nói:
    - Vì ta biết sức ta tuy tuổi nhỏ, mà chắc sống không đặng mấy năm. Vậy các người y lời ta dặn dò ở chỗ này: Anh em rán tu cho trọn thỉ trọn chung, ngày sau tu lâu có đức cảm đặng lòng người. Như cô khôn đạo phát tâm, ta còn mạnh thì ta coi, chẳng may ta mãn rồi thì anh em chị em cứ lấy qui-củ mà sửa mình. Nam nữ phải tỵ hiềm riêng, trai gái giữ lòng, đừng để phóng tâm. Một chút ham vui mà đọa lạc nhơ danh ngàn thuở. Thôi công việc ta phân sớm giờ, hai người phải ghi tâm tạc dạ, dẫu mà còn một tấm tranh cũng ở đây đến chết mà thôi. Hoặc anh em có cay đắng thế nào, cũng nhẫn với nhau mà ở, đừng có phân tâm chấp trách, kẻ Bắc người Nam thì bỏ lòng ta mà mang chữ bất trung bất hiếu.
    Hai người nghe bà phân dứt lời liền như chiêm bao mới tỉnh, nói thầm trong lòng rằng:
    - Theo như mấy lời bà phân đây thì nghĩ mình tự nhỏ đến lớn, tội lỗi biết chỗ đâu mà chất cho hết. Liền đứng dậy lạy bà, xin bà lập thế bày cho anh em tôi làm ăn mà tu qua buổi sống.
    Tôn-Bất-Nhị nghe phân như vậy, biết họ thiệt tự hối thế nào cũng ở chỗ này, bèn nói:
    - Như hai người biết ăn-năn sửa mình thì phải chịu cực mới đặng. Bây giờ phải vô rừng cắt tranh cất một cái chòi, đặng có chỗ ở riêng, chuyên nghề cắt bàng đổi gạo sống qua ngày, hai người chịu không?
    Hai người đứng dậy thưa rằng:
    - Anh em tôi vâng lời bà. Hai người nói rồi vào rừng cắt tranh và lợp một cái chòi rồi cũng chuyên nghề ấy làm ăn, đặng hơn một năm có hơi tấn phát. Ban ngày cắt bàng đổi gạo, tối về sám hối quì hương.
    Bữa nọ trở về chỗ cũ, gặp anh em hồi trước biện nói công việc ấy cho anh em nghe, thì mấy người bạn cũ tiền căn có sẵn, chịu theo 50 người, còn mấy mươi không chịu. Chừng ấy Lý-Tứ dắt về chòi tranh, ở hơn mười ngày, tương dưa khổ hạnh mà mấy người đều vui như hồi còn rượu thịt.
    Qua bữa sau, Lý-Tứ dắt mấy người vào lò gạch thưa cho bà hay. Tôn-Bất-Nhị hỏi:
    - Mấy người ở đâu? Lý-Tứ đứng dậy thưa rằng:
    - Thưa bà, mấy người hồi trước đón đường ăn cướp với tôi một chỗ. Đến chừng tôi đi thì mấy người không hay là đi đâu. Cách hơn mười ngày nay, tôi có trở về gặp mấy ảnh thuật chuyện đạo-đức, luân-hồi quả báo, tội phước cho mấy anh nghe, bảo mấy ảnh cải dữ theo lành, thời may Trời Đất xui khiến 50 người đều ưng chịu ăn chay, xin tôi dẫn về đây thưa bà hay, xin bà thâu dạy.
    Tôn-Bất-Nhị nghe Lý-Tứ nói mấy người đặng tự tỉnh, nói rằng:
    - Lành thay! Lành thay! Biển lớn không bờ, trở đầu tới mé. Vậy mấy người rán giữ lòng ăn chay, còn chuyện đạo ngày sau bàn tới. Lý-Tứ nghe bà nói, trong lòng nghĩ rằng:
    - Vì thầy là đàn bà, tới lui thường cũng ngại, nay đã sẵn có mấy người mới vô ăn chay mà chưa nghe được việc đạo, sợ e lâu ngày nản lòng mà ngã, hoặc nghỉ ăn chay, hoặc ra có vợ, thì cũng uổng. Để gắng xin bà giảng ít điều cho mấy người nghe, liền thưa rằng: Thưa bà từ-bi miễn chấp, vì tôi cùng mấy anh mới ăn chay chưa thấu việc đạo, xin bà dạy ít điều đặng anh em tôi noi dấu. Bà hỏi:
    - Ngươi muốn hỏi điều chi? Lý-Tứ thưa:
    - Tôi thấy cũng ngán, chẳng hay từ xưa đến nay tại duyên cớ chi mà người tu trong đại-đạo, có người ăn chay đã lâu năm mà cũng ngã? Xin bà chỉ dạy.
    Đáp rằng: Người ăn chay lâu năm mà ngã cũng có duyên cớ mật nhiệm, ngươi khá hiểu mà giữ mình.
    Bởi người ăn chay thì ý nhất quyết thoát đường ái dục, cho khỏi kết oan-trái ngày sau đặng tìm ngõ Thiên-Đường mà thoát tam-đồ khổ là: trấn nước, đốt lửa, chặt bằm. Các việc ấy đã biết rồi, nhưng mà do nơi đây. Vì nhân duyên tiền kiếp sát hại oan oan tương báo, hồn oan còn chờ nơi âm-phủ đặng trả hờn ngày xưa. Đến nay may gặp Tam-Kỳ khai hội biết thức tỉnh hồi đầu, nguyện trường-trai giới sát, thì có thiên-thần hộ-pháp đều hay, tâu lên Thiên-Đình, nói tên ấy ăn-năn cải hối.
    Còn người nhập môn thì sớ dưng lên. Nên Ngọc-Đế chấp chưởng cho sắc U-Minh hay. U-Minh Giáo-Chủ tiếp đặng sắc của Ngọc-Đế, liền kêu phán-quan giở bộ coi mấy tên đó có hay không. Phán-quan coi thấy rõ ràng, bèn gạt sổ bỏ tên. U-Minh Giáo-Chủ phất ba-tiêu kêu các oan hồn tựu đến rằng: Tên Xoài từ khi chuyển biến nhiều kiếp, sát hại các ngươi, có kẻ tới số, người chưa tới số oan ức rất nhiều. Đến nay ta đặng sắc Ngọc-Đế nói tên ấy đầu nhập Phật-môn, nên ta cho các ngươi hay. Nó ở thế gian nguyện trường-trai giới sát, theo về dân Phật, vậy các người ai còn oan ức, kết cừu với nó thì ta cho đi, chớ từ nay đến sau nó không còn trở lại đây nữa. Như ai muốn rửa hờn thì đi, bằng không đi ngày khác trả không đặng chẳng nên trách ta dung dị.
    Các oan hồn nghe U-Minh Giáo-Chủ phân đều đứng dậy thưa rằng: Vậy Ngài cho anh em tôi lên trả oán cách nào? U-Minh Giáo-Chủ nói: Ta cho phép tự do, muốn trả thế nào tự ý. Ngày trước nó làm nhiều việc oan ức mà các người không thế chống đương thì bây giờ trả cho vừa ý. Chớ ta không dung ép hai đàng, nếu như dung kẻ này chế kẻ kia thì mất chỗ công bình của ta hay sao? Các oan hồn chịu đi hết. U-Minh Giáo-Chủ nói rằng: Các ngươi nghe ta dặn: mỗi người phải lãnh một tờ này, giữ cho kỹ chẳng khá để mất. Rồi trở lên thế gian khảo nó chừng nào nó ngã thì hai đàng ngày khác làm sao tự ý. Bằng như khảo không đặng đến ngày nó xuất Tính về Trời thì các ngươi trở lại trả tờ cho ta, ta cho qua Đông Nhạc đầu thai hết thảy. Đó rồi các oan hồn lãnh tờ cả thảy đều đi lên thế gian, nhập khiến người ăn chay tung hoành sửa Tính, khiến cho kẻ ăn mặn, người thì muốn sắc; hoặc tham danh lợi, hỉ nộ sân si, hoặc khi dể ông bà cha mẹ, cô bác, chị em; ỷ chúng hiếp cô, ép người lấy của; hoặc khiến tham điều ân-ái phá vợ con người; hoặc ý niệm âm thầm, tuy không lộ ra, mà tình ý đã niệm trước; hoặc khiến trai thì rượu trà hút xách, kẻ ép người khuyên, say sưa nhiều lẽ. Chừng ấy khi đã say rồi thì mặn lạt nào hay, kể chi là mặn chay... xấu hổ. Lại khiến gái thì son điểm phấn dồi, quần này áo nọ, kẻ thì sửa dạng thuyền-quyên; người lại soi gương đánh phấn. Xấu lại làm cho đẹp, thiếu ăn lại thể người giàu.
    Vì vậy mà lâu ngày phàm-tâm xui dẫn mới bỏ ăn chay. Nên người tu phải cho tỉnh, phàm việc chi trái lý đạo, tức là oan ma khiến dắt làm cho mình buồn giận, trách phiền mà bỏ đạo, ấy cũng tại nó muốn trả hờn ngày trước, vậy mà có ai biết chăng?
    Lý-Tứ nghe bà phân dứt, thấu đặng, thưa rằng:
    - Các việc anh em tôi vâng nghe, cầu bà từ-bi cho tôi hỏi thêm đặng học. Chẳng hay có người biết chỗ tu hành tuyệt dục là đứng ban đầu, quí hơn muôn việc. Cũng có nghe: Trai tiên không vợ, gái ngọc không chồng, sánh đặng bực Tiên Thánh thì phải rồi. Vì sao giữ đặng mấy năm cũng ngã?
    Bà đáp: nhân việc này thiệt khó tỏ hết đặng. Vì cái Đạo là chí quí chí trọng sinh Trời sinh Đất, sinh người sinh thú, thảo mộc các loài. Bởi ai cũng biết chỗ ái tình dâm-dục là một việc tồi bại, hổ thẹn với đời, mà sao người người đều muốn vào chỗ đó? nhân nguyên-căn của dâm-dục đã lâu, từ ông bà mà truyền sinh cha mẹ, cha mẹ mà gieo xuống đến mình, giống trước thì phải gây ra giống trước. Tỷ như cây đắng thì sinh trái đắng, có chi lạ. Đến nay mình đặng gặp kỳ hạ-nguơn mở hội tiếp dẫn nguyên-nhân, may mà biết thức tỉnh hồi đầu, cùng nghe việc luân hồi quả báo, các việc chân giả mới đổi Tính ăn-năn. Dám đến trước Phật tiền lập hồng thệ đại nguyện, trường-trai giới sát, lãnh qui giới tinh nghiêm tự thỉ chí chung chẳng dám đổi lòng.
    Từ đó đến sau thì ông bà ở suối vàng có chỗ an nghỉ, hoặc được siêu thăng Thiên-Đường, như vậy cũng là một việc quí báu cho người tu. Bằng như ngày sau khai trai phá giới thì chịu thân này vĩnh đọa địa ngục.
    Bởi chẳng qua tình ý niệm sai, Tính càng ngày càng đổi, bỏ công phu quì hương, lo điều tài sắc, đạo-đức không ham. Do đó mà lần lần dời Tính: hoặc trai lụy chỗ sắc, gái lụy chỗ tài, hễ trai thấy gái phải lòng thì liếc trừng trêu giỡn, bày chuyện nguyệt hoa. Còn gái thấy trai vừa ý thì sửa dạng sửa hình, qua lại đẩy đưa, không giữ nết na trau mình, đạo tâm chẳng cố. Đến chừng phóng ý ra rồi không ai can dứt cho đặng. Chừng ấy Thánh Thần chẳng hộ, thiên hạ đều chê, dưới chín suối cửu-huyền thất tổ trở lại địa ngục mà chịu khổ như xưa.
    Than ôi! nhân việc ấy mà từ xưa đến nay, hư trong đạo biết bao! Thẹn cho người lành biết mấy! Ta lại thấy nhiều người thân ở trong đạo mà lòng ra ngoài đời, bỏ chỗ công mà lo chỗ tư, làm cho mối đạo bại hoại, mất chỗ bản dạng biết mấy! Hoặc làm việc tư lý mà dẫn dụ kẻ sau, như vậy thì tội lỗi nào xiết kể! Ấy cũng tại người làm đầu mà hư hỏng trong bản dạng, không tỉnh lấy mình. Lại nói: Ai làm quấy có phần, chớ theo phép có câu: ?oTội hữu sở khuy, tội qui vu trưởng?, nghĩa là: Người lớn trong đạo không giữ mình, làm điều chẳng phải cho người nhỏ noi gương theo, thì tội đổ về người lớn. Vì lớn chẳng chánh, chẳng thể đường ngay, không giữ qui trình của Phật, lại làm gương xấu cho kẻ hậu học hư luôn. Như vậy mà nói độ người, độ mình, thay mặt cho Trời, thế lời cho Phật, chẳng phải thẹn với vô hình lắm sao? Nên người tu hành nguyện vào cửa Phật thì cũng như gởi thân cho Phật, sống thác tự Trời. Dẫu ngàn cay muôn đắng, khảo trở thế nào cũng cam, lại còn sợ có tội ngày trước, thì càng vui lắm vậy! Tỷ như mình có bệnh mà rán uống thuốc đắng mới hết bệnh.
    Vì vậy người tu phải hay chịu nhịn, chịu ép các việc nặng nề, oan ức, mà lập chí cho kẻ sau bắt chước thì mới đáng người thay mặt cho Phật. Chớ như nói tu mà làm gương xấu thì lẽ nào trốn cho khỏi luật Thiên-Tào. Hiện nay trái ý thầy nghịch ý người, còn dưới u-minh thì ông bà thẹn thầm nơi chín suối làm sao gọi là người tu? Cũng có người nói: Như lớn không làm quấy, mà nhỏ có ngã đó rồi người lớn cũng tội hay sao? Không, nghĩa là buộc người lớn cho chánh, đặng làm bản dạng, còn kẻ nhỏ nó làm quấy thì nó chịu, ai có tội nấy bị hành, không ai chịu thế đặng.
    Còn mấy lời ta nói đây, như người xuất gia phải hết lòng trung với đạo. Chí tử bất biến, thủ tử thiện đạo. Nghĩa là khảo chết chẳng đổi lòng, đạo lành không xao lãng. Người tại gia cũng vậy, lúc chưa tu thì vợ chồng, còn buổi vào cửa Phật, thì lòng ai nấy giữ, đạo ai nấy lo, thế nào cũng thành đặng. Tôn-Bất-Nhị phân dứt rồi khen rằng:
    - Lành thay! Lành thay! Lý-Tứ là người tiên căn đạo cốt, nên biết chỗ hỏi mà để mấy lời thức tỉnh cho hậu học giữ mình, chắc từ đây đến sau mối đạo vững đặng. Chư hiền coi thấy chỗ này khá quyết thoát luân-hồi, việc trường-trai giới sát thế nào cũng rán giữ cho trọn thỉ trọn chung thì mới không phụ công ơn của Lý-Tứ biết hỏi. Có câu rằng: ?oĐắc ngôn nhất ngữ, thắng thiên kim?. Nghĩa là: Đặng một lời nói hay thức tỉnh cho đời, tuy đặng ngàn vàng chớ khó mua lời quí báu.
  2. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Bà giảng hết mấy điều liền kêu mấy người hỏi rằng:
    - Vậy các người nghe qua mấy lời của Lý-Tứ hỏi đó có thức tỉnh hay chăng? Mấy người thưa rằng:
    - Anh em tôi nghe các lời của sư huynh nên biết ăn-năn cải-hối theo về đến đây. Nay Trời khiến nên đặng nghe mấy lời bà diễn giải quí hơn vàng ngọc, anh em tôi đồng nguyện sống thác một lòng xin bà thâu dạy.
    Tôn-Bất-Nhị thấy mấy người đồng tâm, liền sai Lý-Tứ lên chợ mua ít lễ mọn, còn bà ở nhà lo việc sớ sách, qua ngày sau thiết lập trai-đàn tại lò gạch, cầu đạo cho mỗi người, truyền ban khẩu quyết rồi giao công việc cho Lý-Tứ dẫn về chòi tranh, anh em cũng đồng tâm mua đổi, độ nhật qua ngày, tuy lao lực tương rau chớ đạo ai nấy giữ. Bữa nọ có một người vạm vỡ hỏi bà rằng:
    - Như tôi ăn chay thì cũng đặng; nghề nào cũng là nghề làm ăn, xin bà cho tôi trở ra theo nghề cũ, thế có đặng chăng? Tôn-Bất-Nhị nghe nói biết tên ấy chưa thấu cơ đạo mà còn háo thắng bèn nói rằng:
    - Người nói như vậy, thôi để ta hỏi ngươi: Vả chăng ngươi là một người anh hùng, ai ai cũng kiêng sợ. Tỷ như ngươi ở trên núi, nghe có cọp dữ trong rừng, không ai dám đánh thì ngươi làm sao?
    Người ấy Tính hay háo thắng lên tay nói rằng:
    - Thưa bà, tôi nghe thì liền lấy dao đến trừ loài độc, chớ để nó làm chi mà hại thiên hạ. Bà nói:
    - Như vậy cũng phải rồi! Còn như ngươi nghe có một vị Phật trong hang rồi ngươi làm sao?
    Thưa rằng: Hễ tôi nghe có Phật, thì tôi mau mau sắm lễ đi thỉnh đem về thờ.
    Bà cười nói: Như vậy thì ngươi cũng không nên làm nghề cũ nữa!
    Hỏi rằng: Tại sao không nên làm?
    Bà đáp: Ngươi đã biết cọp dữ mau mau đem dao trừ giết chẳng muốn để nó sống làm hại người ta. Còn ngươi muốn trở làm nghề cũ đi trộm cướp lấy của người ta. Như vậy thì có ai dung tha ngươi đâu? Còn như ngươi nghe có Phật trong hang, ngươi mau sắm lễ thỉnh về thờ. Vậy thì ngươi hãy thể như ông Phật là tốt hơn! Người ấy nghe mấy lời dường như say mới tỉnh, lạy mà chịu lỗi, tự hối ăn-năn, nói:
    - Tôi từ đây sắp sau lo tu bĩ theo việc đạo đức, không dám vọng lòng quấy nữa.
    Kế đó có một người tuy hung mà Tính tình chân chất, có nhiều chứng bệnh ngầm, y sợ tu không đặng nên thưa thiệt cùng bà rằng:
    - Thưa bà, vì con cũng có lòng muốn tu hành, mà sao có Tính hay xao lãng, xin cầu bà chỉ dạy.
    Tôn-Bất-Nhị hỏi: Vậy chớ trò có Tính xao lãng mà xao lãng việc chi? Nói cho ta biết ta sẽ chỉ dạy.
    Thưa rằng: Thứ nhất, ý con hay niệm tưởng các điều quấy chẳng sót việc nào mà không niệm. Có lúc ghét thầy, khi đạo, muốn việc ái-ân; hoặc thấy ai bóng sắc ý còn tư-tưởng; hoặc khiến tham lam tiền bạc. Cũng có khi không muốn quì hương công phu, hoặc tranh việc hơn thua, ai chê chẳng chịu. Có khi cha mẹ nói chẳng vừa ý, muốn sân si, ai can chẳng kể, hoặc có khi muốn trở về trần. Hoặc có việc oan-ức, ý không dằn đặng muốn làm sao trả hờn mà thôi. Vậy cầu bà có thế chi cứu giùm tôi, tôi đội ơn bà ngàn thuở.
    Tôn-Bất-Nhị cười rằng:
    - Việc ấy tại ngươi, mà thành bại siêu đọa cũng tại ngươi! Vậy ngươi nghe ta nói: Các bệnh của con người, vì ban sơ cũng muốn tu cho thành đạo, chẳng mến cuộc trần. Lần lần lâu ngày ở trong chùa không đặng thong thả, hoặc ăn mặc thua người, tiền bạc có ít không đủ trang điểm tiêu xài, hoặc có việc hơn thua với người, không đặng tranh đua phải quấy. Rồi từ đó mới sinh nhiều tạp niệm. Trai thì sinh điếm đàng cờ bạc, gái thì trang điểm phấn son, hễ các việc nhiễm rồi thì không phương thoát khỏi. Nay ngươi biết tỉnh ăn-năn sớm như vầy cũng là có chí lớn. Vậy ngươi muốn trừ bệnh ấy, thì làm như vầy: Trước mình phải hỏi lòng mình: ?oTa đã muốn tu mà trả ơn cửu-huyền, tránh đường luân chuyển; ngày trước ta không đủ trí, khờ dại, nhiễm theo điều quấy vì trong chỗ ái-ân mà chịu khổ muôn kiếp đời đời, không phương nhắc kể! Đến nay ta muốn lánh các điều khổ, thì mầy theo ý tao mới phải, sao mầy lại xúi giục tao vào chỗ quấy thì tao đâu chịu việc thẹn nhơ, dầu mầy ép thế nào tao cũng nguyện: Sống thì tu, thác thì về, các việc ấy tao không hề nhiễm đến?. Rồi đó ngươi tự lấy ý mà cự; hoặc muốn sắc thì cự sắc. Suy nghĩ như vầy: Việc ấy chẳng qua là đường thầm nẻo tối, dơ không xiết kể, sống thì tốt tươi, chết không ai dám cận! Có chỗ nào mà vui tưởng việc sắc đặng? Hoặc muốn tài thì lấy tài mà cự. Tỷ rằng: Vì ngươi mà ta phải anh em xa biệt, máu thịt rã rời, vì ngươi mà khiến giục cho ta phải dầm sương phản mại, đêm tính ngày lo. Đến nay ta đặng tỉnh rồi, thì ta coi ngươi là một đứa bạc-bẽo vô tình biết mấy! Nay ở người này, mai sang người khác, vậy ta cũng chẳng hề tùng theo ngươi đâu.
    Việc nào muốn nhiễm vào lòng ngươi, ngươi biết việc ấy là hại mà cự không lại, thì vô bàn Phật cầu nguyện; hoặc nhịn đói mà trừ việc ấy; hoặc quì hương phạt mình, đặng việc nào cự đặng thì ép, miễn cho mình làm chủ thì thôi. ít lâu như vậy thấu cảm không trung, cho âm-thần bảo hộ. Còn các oan trái biết mình minh chánh, chí đáng trượng phu nó trở lại hộ mình, thì tự nhiên các bệnh ấy đều dứt hết. Kêu là: ?oTrì kỳ chí, vô bạo kỳ khí?. Nghĩa là: Ta sợ giữ không đặng cái chí của ta, chớ như ta làm chủ cho ta, thì khó ai lấn đặng. Chớ cái khí là việc giận hờn cũng có thể ép đặng.
    Tên ấy còn tham tài, nghe dứt liền hỏi: Thưa bà, không biết làm sao mà cầu đặng phước?
    Tôn-Bất-Nhị nói:
    - Phước đâu mà cầu? Mình làm phải thì đặng phước gặp phước, chớ không nên cầu phước. Nếu nói như ngươi ai muốn cầu cũng đặng, chắc là cả thảy cũng đặng giàu sang! Có câu: ?oLàm lành đặng phước, làm dữ mắc họa?. Đó là lẽ tự nhiên của Trời Đất định rồi. Họa phước tự mình làm, cũng như: ?oHọc thì nên, không học thì dốt?. Sách không học, mà biết chữ sao đặng? Ta nói nhón ít điều chắc lẽ ngươi cũng thấu.
    Tên ấy nghe nói, quì lạy tự tỉnh, từ ấy đến sau anh em ở đó tu luyện đặng hơn mười năm, kẻ trước người sau qui lần, đều đặng siêu thăng hết thảy. Sau người coi tới chỗ đó có làm thi rằng:
    chân nhân ở đó học huyền-công,
    Độ đặng côn-đồ chí rất thông,
    Bởi tại ép mình trừ độc dữ,
    Nhờ ơn Hộ-Pháp với Thiên-Công.
    * * * * *
  3. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Việc bà Tôn-Bất-Nhị còn dài, đây nói qua Trùng-Dương tiên sinh ở tại nhà ông Mã-Đơn-Dương hơn một năm, trong xóm có người bàn luận rằng:
    - Mã-viên-ngoại chẳng biết hưởng phước, khi không mà đem gia tài cho người ta, làm cho bà buồn rầu phải điên, không biết chạy xứ nào. Có một người chừng hơn 50 tuổi tên là Đoàn-An-nhân nói rằng:
    - Tôi lúc trước có đến thăm viên-ngoại không thấy người đàn bà nào ở đó, chỉ có đàn ông mà thôi. Tôi hỏi ông viên-ngoại đi đâu? Mấy người nói:
    - ?oở sau mao-am nghe thầy giảng đạo?. Tôi liền đi thẳng vào, thấy Trùng-Dương cùng viên-ngoại ngồi nói chuyện. Viên ngoại thấy tôi tiếp hỏi dẫn ra nhà trước, tôi hỏi thăm bà đâu? Viên-ngoại nói: Bà có việc tu của bà, tôi có việc đạo của tôi, đâu biết đặng. Rồi tôi hỏi mấy người tớ gái sao không có ở thì viên-ngoại nói: Trai cho cưới vợ, gái cho cưới chồng, đều riêng tư phận. Tôi hỏi: Cất mấy cái mao-am làm chi? Viên-ngoại nói: Để cho mấy người tu hành đến ở. Tôi hỏi: Trùng-Dương tiên-sinh sao không thấy ra ngoài? Viên-ngoại nói: Thầy tôi lo tịnh dưỡng chẳng chịu nói việc tục.
    Rồi tôi chào ra về lại gặp Mã-Hưng mời tôi lại nhà chơi.
    Tôi hỏi: Nhà này khi trước vui lắm, nay sao vắng vẻ, giống in cái chùa? Mã-Hưng nói:
    - Chú không biết, nhà này bây giờ có ông Trùng-Dương tiên-sinh là người Thần Tiên sống, chẳng ham việc vui chơi, muốn điều thanh tịnh. Từ khi bà viên-ngoại đi rồi mấy người tớ gái đều cho về hết, để bạn tôi ở đây coi giữ, nên vắng vẻ. Tôi lại hỏi:
    - Làm sao mà biết Trùng-Dương tiên-sinh là Thần Tiên sống? Mã-Hưng đáp:
    - Phàm việc chi trong ngoài không ai cho hay mà ông cũng biết hết. Còn việc chi chưa đến hoặc ngày nào nắng mưa ông cũng biết đặng. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sống hay sao?
    Đoàn-An-nhân đem mấy việc nói hết cho mấy người nghe, lại có người họ Phan nói:
    - Như y lời chú nói, là ông chắc biết việc quá khứ vị lai. Nay trong xóm mình bị hạn đã lâu không mưa, sao không ai hỏi ông chừng nào mưa? Mấy ông kia đều nói:
    - Phải, như lời ông lão nói thì chắc đặng; vậy anh em mình đến nhà viên-ngoại đặng tỏ việc ấy cho ông hay. Nói rồi mấy người đi đến nhà viên-ngoại. Viên-ngoại dẫn ra mao-am, cầu Trùng-Dương tiên-sinh. Thưa rằng:
    - Vì xóm tôi bị hạn đã lâu, nhân dân đều khổ, làm ăn không đặng. Nay nghe tiên-sinh tu hành có đức, biết việc quá-khứ vị-lai, xin Ngài từ-bi nói dùm chừng nào mưa cho anh em tôi mừng, cám ơn Ngài ngàn thuở.
    Trùng-Dương nói:
    - Việc này nhờ ơn trên, chớ tôi siển bạc lắm, không dám lãnh việc quá-khứ vị-lai, nhưng mà tôi biết đâu chỉ đó. Dứt lời Trùng-Dương ngồi mật niệm hồi lâu rồi nói:
    - Như mấy ông muốn biết thì qua xóm bên Đông, có một cái miễu Thổ-Địa, trên vách có định ngày mưa, đến đó thì biết. Mấy ông nghe nói lấy làm vui-vẻ, rồi tạ ơn trở ra thẳng qua phía Đông, tới miễu Thổ-Địa, quả thấy trên vách có mấy hàng chữ, Phan lão liền đọc cho mấy người nghe:
    nhân vương diện tiền nhất đối qua,
    nhất lản trâu châu chiếu Vương gia,
    Nhị thập tam, thiên hạ đại võ,
    Hòa thượng khấu, lý thổ nê ba.
    Ở sau có 1 câu chữ nhỏ ra thai, Phan lão coi rồi cười rằng: Mấy câu này học trò con nít nó biên 4 câu thai chơi, có kỳ mưa gì đâu? Mấy người kia hỏi: Nó viết chữ gì mà ông không bàn đặng? Phan lão nói: Trên chữ nhân, dưới chữ Vương, thêm 2 chấm là Kim. ?" Chữ Vương thêm 1 điểm là chữ Ngọc. ?" Nhị thập tam hạ võ, kết lại là chữ Mãng. ?" Hòa Thượng, bỏ chữ Hòa để chữ Thượng; Nê Ba là Đất, Đất là Thổ, chữ Thượng thêm chữ Thổ là chữ Đường. Rõ ràng 4 chữ ?oKim, Ngọc, Mãng, Đường? nào có chỗ kỳ mưa?
    Đoàn-An-nhân chạy lại chỉ câu: ?oNhị thập tam, thiên hạ đại võ? đây nói rõ ràng kỳ ngày 23 mưa lớn! Ông già cười nói không có. Đoàn-An-nhân lại nói: Tuy mấy câu lời bàn chớ trong đó cũng có chỗ bí nghiệm, ông nói không chắc thì thôi hôm nay là 19, cách 23 không mấy bữa, để coi ngày 23 có mưa hay không? Chừng đó biết ông linh cùng không linh. Mấy người kia nói:
    - Anh nói phải, để đến chừng đó sẽ biết! Nói dứt lời đều trở về hết.
    Đến ngày 23, mây đen đầy trời, mưa dầm dề, từ mơi đến chiều không dứt. Trong xóm người người đều tin Trùng-Dương tiên-sinh là Thần Tiên, chừng ấy tiếng đồn khắp nơi.
    Kế có người ở phía Bắc, mất một con trâu kiếm không đặng, đến cầu ông chỉ giùm. Tiên-sinh nói: Trâu của ngươi ở xóm bên Nam, nằm trong ổ quạ tại trên cây lớn, muốn kiếm trở về trèo lên cây thì gặp.
    Người ấy nghe nói tức cười hỏi rằng: Con trâu lớn mà sao lên đặng trên ổ quạ? Tiên-sinh nói:
    - Lại đó kiếm thì chắc đặng! Chẳng khá nói nhiều.
    Người ấy nghe trở về qua phía Nam thấy có cây lớn, ngó trên ngọn thấy có ổ quạ, lật đật trèo lên coi, thấy có ổ không, giận lấy liệng xuống. Chẳng may nhánh cây khô rớt trên mặt liền gục đầu ngó xuống thấy trong xóm có cái nhà trống buộc con trâu, nhìn thiệt quả trâu mình, bốn phía cỏ che, thầm tưởng rằng:
    - May quá! Phải không trèo lên cây cao ngó xuống làm sao thấy đặng.
    Liền lật đật trèo xuống vô xóm đó. Lại nhớ xóm này có người ăn trộm trâu, phải không nhờ tiên-sinh chỉ nói đêm nay có dắt đi xa, làm sao tầm đặng. Rồi đi thẳng vô nhà trống dắt trâu về.
    Qua bữa sau, xóm bên Tây có mấy người lại hỏi tiên-sinh công việc nhà, có một đứa 14 tuổi hỏi rằng:
    - Anh tôi đi buôn bán xa, mấy tháng nay không về. Xin ông làm ơn mách giùm chừng nào anh tôi về?
    Tiên-sinh đáp:
    - Về hỏi tay của mẹ ngươi thì biết. Thằng nhỏ nghe qua tức cười nói:
    - Anh tôi đi buôn bán đã lâu, chẳng biết đi gần xa, nên mẹ tôi bảo đến đây cầu ông chỉ giùm, mà ông lại bảo về hỏi tay mẹ tôi, làm sao biết đặng? Tiên-sinh nói:
    - Ngươi cứ nghe lời ta, đừng nói nhiều chuyện.
    Thằng nhỏ nghe rầy không dám hỏi nữa, liền xá ra về.
    Khi về đến nhà, thấy mẹ nó cầm cái thơ trong tay nói:
    - Anh mầy ở Lai-Châu buôn bán, có gởi thơ về tao mới đặng đây, vậy mầy đọc cho tao nghe. Thằng nhỏ lấy thơ đọc rằng:
    ?o Con kính lời thăm mẹ đặng mạnh giỏi. Từ khi cha quá vãng rồi, nhờ mẹ dạy nuôi đến đặng nên người. Nay con theo chí của cha khi trước, buôn bán cũng đặng thạnh lợi. Vì có bán chịu thâu chưa đủ nên trễ, xin mẹ an lòng. Đợi chừng mùa Thu con mới về đặng. Vậy em ở nhà phụng dưỡng mẫu thân.?
    Thằng nhỏ coi rồi cười rằng:
    - Thiệt rất linh nghiệm! Mẹ nó muốn hỏi việc chi linh nghiệm, bỗng thấy trước cửa có mấy người đến.
  4. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 12​
    Chỉ tọa công, phân minh diệu lý,
    Học chân đạo, hỉ phùng minh sư
    Nghĩa là:
    Chỉ ngồi công-phu, bày tỏ chỗ diệu lý,
    Học đạo chân, mừng gặp thầy minh-sư.​
    Có bài kệ rằng:
    Ân ái buộc ràng giải chẳng khai,
    Ngày kia thân bỏ khổ bao nài,
    Nay đã buông tay không trở nệ,
    Thẳng đến Diêu-Trì Bạch-Ngọc giai.
    Lại nói thằng nhỏ đương muốn nói thầy bảo về hỏi cái tay của mẹ cho mẹ nó nghe, liền thấy mấy người đi đến hỏi thăm nhà họ Mã, thằng nhỏ hỏi: Mấy ông hỏi thăm nhà họ Mã đặng tầm ông Tiên sống phải chăng? Mấy người nói:
    - Phải.
    Thằng nhỏ liền dắt đi, hồi lâu tới nhà họ Mã, may gặp Mã Đơn-Dương ở trước nhà, thấy mấy người đến, mời vô hỏi mấy anh đến có việc chi? Mấy người nói:
    - Tôi đến cầu học Đạo.
    Mã-Đơn-Dương nghe nói, liền dẫn ra mắt thầy. Có một người họ Đàm tên Xử-Đoan, hiệu Trường-chân-Tử, năm trước có bệnh trầm kha. Trùng-Dương tiên-sinh lúc mới đến Sơn Đông xin ăn, có dạy việc trừ bệnh cho y, chừng bệnh mạnh rồi vui lòng ham Đạo, tìm hỏi thầy mà không biết ở đâu. Nay nghe người nói tại nhà họ Mã có một vị Thần Tiên sống tên là Trùng Dương, nên mới biết thầy ở đây; và có dẫn một người cũng ham học đạo, họ Xích tên Thái-Thông, hiệu là Thái-Cổ, cũng ở chung một phủ. Còn mấy người kia cũng ham học Đạo, nói chẳng hết tên họ. Khi đó, Đàm-Trường-chân lạy thầy tạ ơn ngày trước trừ hết bệnh rồi nay hỏi cầu học Đạo. Trùng-Dương nói:
    - Pháp môn mở rộng cửa, ai có tới thì tới, có đi thì đi, ta cũng không dám cầm.
    Liền bảo Mã-Đơn-Dương dẫn mấy người ra mao-am thứ nhì ở đó. Cách ít ngày, cũng có ít người đến học Đạo, tên Lưu-Xử Huyền, hiệu Trường-sinh-Tử; người khác tên Vương-Xứ-Nhất, hiệu Ngọc-Dương-Tử, cũng người Sơn-Đông. Mã-Đơn-Dương tiếp hỏi, cũng nói cầu học Đạo. Liền dẫn hai người ra mắt thầy, rồi Trùng-Dương tiên-sinh bảo đem ở mao-am thứ ba.
    Bỗng đâu thấy bên Đông tới một người, bên Tây một người, chừng một tháng tới hơn mấy mươi. Trùng-Dương thấy vậy bảo Mã-Đơn-Dương chỉ đạo, dạy mỗi người công phu, phân việc đâu đó thứ tự. Các việc xong xuôi rồi tiên-sinh định ngày đem việc đạo giảng dạy chỗ tu hành công-phu cho mấy người nghe, rồi sắp đệ tử đứng hai bên cung thân nghe giảng. Tiên sinh nói:
    - Thân người lấy Khí làm bản, lấy Tâm làm căn, lấy Tính làm mạng mới phát ra đặng. Còn Trời Đất cách nhau tám muôn bốn ngàn dặm, người thì cái tâm thận cách nhau tám tấc bốn phân. Thận ở trong dưới rún một tấc ba phân, kết liền một mạch mà thông hơi thở trên dưới. Mối thông trăm mạch hễ thở, thở vô trăm mạch đều bế. Trời Đất tạo-hóa xây vần cũng không khỏi hai mối hô-hấp. Hễ người hô-hấp trong tâm thận thì khí huyết đều thuận nguơn-khí đặng vững, thất tình chẳng động, trăm bệnh chẳng trị mà tiêu.
    Còn phép ngồi công-phu mỗi ngày: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu bốn giờ ở trong tịnh thất, ngồi niệm cho dày, ngồi kiết dà, hồi quang phản chiếu đơn-điền, lấy bông nhét lỗ tai, dứt việc lo tưởng, ý tùy hô-hấp, vật-vọng vật-trợ, miệng mũi đều không thở. Ngồi chừng một giờ đồng hồ rồi nằm nghỉ, chẳng khá lao nhọc, đừng cho phiền giận mà tổn công-phu thì hại cái chân-Khí (Ai muốn biết tìm thầy chỉ thì rõ).
    Có bài kệ rằng:
    Ngồi nghỉ công-phu chẳng dụng đa,
    Trọn nhờ luyện khí với trừ ma,
    Phải đem chướng ngại đều bỏ hết,
    Chớ để tâm đầu có võng la.
    Chướng ngại không tu phiền não tụ,
    Võng la không giải khổ ta-bà,
    Rõ ràng chí-lý trao truyền đủ,
    Đừng để một hồi lại bỏ qua.
    Tiên-sinh giảng nói việc công-phu, rồi xuống phòng an nghỉ, các đệ tử ai về phòng nấy.
    Lại nói tỉnh Sơn-Đông có một người họ Khưu, tên Xử-Cơ, hiệu Khải-Phát, anh em ba người, cha mẹ đều mãn sớm, Khải Phát nhờ anh chị thương cho học biết làm thi phú, mà không muốn việc công danh, ham tịnh dưỡng, có khi không muốn nói chuyện, dường như trong lòng có chỗ vui mà không ai biết. Nhiều khi anh chị khuyên lập công danh, Khải-Phát thưa rằng:
    - Tôi nguyện học cùng cứu chỗ thân tâm, không muốn việc công danh. Anh chị khuyên cưới vợ thì Khải-Phát từ rằng:
    - Em chí chưa được lập thành, há dám ràng buộc sự nhọc; để cho em thong thả. Lại thường hay cùng anh chị giảng nói:
    - Người sinh ở đời chẳng tìm đường giải thoát khó khỏi việc buồn, trọn ngày tranh danh đoạt lợi tham luyến vợ con. Có khi vô-thường đến bắt thì muôn việc đều không; người gọi cuộc đời là chân, chớ như tôi thấy dường như mây nổi sương bay, tỉ như giấc chiêm bao, bọt nước!
    Có một lúc nọ anh em trong nhà không đặng hòa thuận, hai anh muốn tách ra đi. Khải-Phát nhiều khi can gián không đặng, liền mời hai anh ngồi thưa rằng:
    - Xin hai anh an tâm, vì cha mẹ có ba anh em, chẳng may cha mẹ khuất sớm, lòng em hằng mộ đi tu, vậy hai anh ở chung với nhau mới phải, để sinh ý không hòa, chẳng sợ cha mẹ phiền muộn sao? Xin hai anh nghe nhắc sự tích:
    Có một ông nọ sinh năm người con, ba trai hai gái, nuôi đặng nên người, cưới gã đều đủ, lại để gia tài chừng 2000 lượng bạc, chưa lập tương phân. Chẳng may hai ông bà bất hạnh sớm. Anh em đồng tâm mai táng, công việc xong rồi bốn người em đòi tương phân gia tài đặng ở riêng. Người anh cũng nghe lời bốn em chia gia tài sự sản, kêu em nói rằng: này mấy em, vì cha mẹ sinh có năm anh em, cha mẹ khuất sớm có để lại một chút ít, đến nay mấy em muốn chia, thì anh cũng y lời các em chia xong rồi. Nay anh muốn tỏ bày cùng mấy em như vầy, có em nào vui lòng không?
    Bốn em thưa rằng: Xin anh có việc chi cứ phân tỏ.
    Người anh nói: Ruột đất tiền bạc thì chia cũng phải, còn chuyện ở riêng, anh xin bốn em ở chung cho vui. Vì cha mẹ mới mãn mà anh em tư phân thì thiên hạ chê cười. Nói vừa dứt lời hai người gái và một người trai nói rằng: Không, bề nào cũng nhà ai nấy ở dễ hơn. Người anh nghe nói rất buồn, phân dứt mấy lần không đặng tủi thân sa nước mắt, bèn vào bàn thờ cha mẹ quì lạy than thở một hồi rồi kêu mấy em nói: này mấy em, cha mẹ sinh mình lúc còn nhỏ thường ngày chơi vui giỡn, có cái chi tốt, ngon cũng ăn chung. Đến nay cha mẹ khuất rồi, anh em cũng ở như vậy mới phải là tình cốt nhục thuận hòa, dẫu cha mẹ ở chốn suối vàng cũng đặng ngậm cười, còn mình ở tại thế thì đặng danh thơm mỹ mục. Sao mấy em không chịu ở chung? Vậy xin mấy em nghĩ coi: Hang kiến kia bao lớn mà cả hơn ngàn muôn con lên xuống tranh đấu, hễ con trước đi đâu, con sau theo đó. Con này kiếm đặng gạo, con kia kiếm đặng cơm, thảy không ăn riêng, đều đem về hang mà ăn chung với nhau. Nghĩ lại: nó là một con vật nhỏ nhít, tuy không biết nói mà còn có Tính thương nhau. Anh kiếm nuôi em nhỏ dại còn đặng, huống chi anh em mình linh hơn muôn vật, lẽ đâu kẻ Nam người Bắc, góc biển chân trời, há chẳng thẹn cùng vật nhỏ?
    Bốn em nghe anh thức tỉnh đều lạy anh xin lỗi, rồi cũng ở chung như thường, lo việc làm ăn, em quấy anh rầy, anh sai em nhắc, đêm hôm tăm tối giảng nhau. ở hơn bốn đời khỏi tranh một lời xử đoán. Hỡi ôi! Gương ấy tu cùng không tu cũng rán coi mà bắt chước. Lớn thì phải thương nhỏ, lấy lời khuyên nhủ trẻ em, hoặc thầy, hoặc cha, hoặc anh, đều nên thương kẻ dưới tay. Minh-Thánh Kinh nói: ?oBất sức văn thần quá, bất diệu võ tướng công. Kỷ lục văn hoa điện, cử hạch kiến chương cung?. Nghĩa là: Chẳng khá ép kẻ văn thần có lỗi, không nên dung võ tướng có công; vì kẻ có lỗi trong chỗ lỗi cũng có công, còn người có công trong chỗ công cũng có lỗi. Nên làm lớn phải châm chế, như có thưởng phạt thì đem hiện trước huê điện mà thưởng phạt, cho hai đàng thấy minh bạch công bình. Hễ em nhỏ phải nhượng kính bề trên, chịu trên sai khiến, hoặc trên lỗi phải chiều lòng giảng dứt, chẳng nên nặng lời mà tổn đức bình sinh. Hoặc trên xử dạy dưới thì lấy chỗ lễ nghi mà răn trị, không đặng ép quyền vì có câu: ?oThượng huấn hạ dĩ lễ, hạ gián thượng dĩ quí?. Nghĩa là: Trên dạy dưới lấy lễ mà dạy, dưới gián trên lấy qui trình mà can, thì khỏi chỗ hư hại nhân-đạo cùng thiên-đạo.
    Khải-Phát nhắc mấy lời cho hai anh nghe, từ đó đến sau y nhiên ở chung mấy đời, không tranh lời hơn thua. Khi đó Khải-Phát nghe nhà họ Mã ở huyện Ninh-Hải có ông Trùng-Dương tiên-sinh đạo-đức tu hành, lại có người học Đạo ở đó. Khải-Phát bình sinh ham việc đạo-đức, nghe nói ý muốn thưa anh chị hay, mà sợ không cho đi, nên sửa soạn tiền bạc, đem theo quần áo lén ra khỏi nhà, đi đến huyện Ninh-Hải. Tới nhà họ Mã, gặp ngay Đơn-Dương hỏi rành việc Đạo, cùng nói tên họ đem vô sổ. Lại có mấy ông: Đàm, Lưu, Vương, Xích, thấy Khải-Phát cũng vui mừng nói rằng:
    - Tuổi còn nhỏ mà phát tâm học Đạo, thiệt cũng ít người có, liền dắt ra mắt thầy, rồi Đơn-Dương thuật công việc cho thầy hay. Trùng-Dương nghe nói ngó Khải-Phát một hồi nói rằng:
    - Thằng này học Đạo không đặng! Vì nó lanh lợi thái quá, tâm ý tạp niệm rất nhiều, khó đặng thành đạo, mau sớm trở về. Khải-Phát quỳ lạy thưa rằng:
    - Con tuy nhỏ, chớ quyết một lòng học Đạo, không có hai ý, xin thầy cho con ở lại học. Đơn Dương cũng xin dùm mà thầy chẳng chịu, nói rằng: Chẳng phải ta bỏ nó, vì nó khổ căn lớn nạn, sợ ma nạn chịu không nổi mà sinh thối chí. Chẳng bằng không thâu hay hơn!
    Khải-Phát muốn thưa cầu nữa, vừa cúi đầu lạy thì Trùng Dương tiên-sinh bỏ đi ra ngoài. Đơn-Dương cùng mấy ông thấy vậy không biết làm sao, bèn dẫn Khải-Phát đến nhà trước chỉ làm công việc. Qua bữa sau, Khải-Phát lạy thầy xin nữa, tiên-sinh hỏi rằng: Sức ngươi nhỏ mà muốn gánh đồ nặng, thế ngươi chịu nổi không? Khải-Phát thưa rằng:
    - Thầy dạy ý chi tôi không rõ? Tiên-sinh nói:
    - Ta nói ngươi sức nhỏ mà gánh nặng không nổi là nói: Đạo lớn như Trời Đất, còn sức ngươi phước ít chí hẹp nên sợ tu không đặng, nửa chừng trở ra mà hư trong mối Đạo, ngươi cũng mang tội trong Phật-môn, nên ý ta chẳng cho. Khải-Phát nghe mấy lời thầy nói trong lòng thấu đặng, thưa rằng:
    - Tuy tôi sức nhỏ khó gánh nặng vật lớn, nhưng mà lòng muốn thì tôi lấy ý-chí liệu dùng cũng có khi làm nổi.
    Tiên-sinh nghe nói biết là người có chí quyết tu, nên nói: Như trò muốn tu, việc còn lâu ngày. Nói vừa dứt lời, trở vô phòng đóng cửa. Còn Khải-Phát cứ làm công chuyện như thường. Qua ngày sau, Khải-Phát lạy Đơn-Dương thưa rằng: Vì tiên-sinh không chịu thâu tôi, vậy xin lạy ông làm thầy. Đơn-Dương nói:
    - Không đặng! Cầu, phải cầu người đại nhân; học thầy, phải tìm minh-sư. Tôi chẳng qua hiểu chút ít đạo lý, chưa được thấu hết! Trò phải an lòng ở đây lập công, tôi cũng lần dắt cho trọn toàn.
    Khải-Phát nghe nói rất mừng, ngày làm đêm học, cúng nước quỳ hương không sót, sám kinh giờ khắc không rời, công việc lẹ làng chẳng mỏi, ai nấy cũng đều khen. Bữa nọ đi theo mấy sư hữu đến chỗ am thầy, thấy Trùng-Dương tiên-sinh ngồi giữa, đệ tử sắp đứng hai bên. Tiên-sinh nói:
    - Ta từ ngày đến đây, hết lòng độ người, dạy người không mỏi, muốn cho cả thảy đặng giác tỉnh đừng mê, khỏi vòng biển ái. Vì ta bình sinh ham Đạo, lúc nhỏ ngây dại, lớn lên cách ra vui việc thần thông. Người đều nói ta là dị-nhân, mà ta nào phải dị-nhân! Chẳng qua là như dại, như khờ, như ngu vậy thôi. Ta sao gọi là ngu? Vì ta chẳng ham, tưởng, muốn. Như đứa khờ, không có trí lo biết điều khéo vụng, chẳng theo đường tục, muốn việc an thân. Vì người đời không hay, lại nói ta khờ ngu, ngây dại, ta khá thương cho người rất lầm mê chẳng hiểu, mà không biết sửa mình.
    Nay ta lấy chỗ đạo ngu-xuẩn, dại-dột của ta mà tỉnh cho thiên hạ. Ai nấy chẳng biết cái lòng mình ở đâu, cũng không biết cái thân mình ở đâu. Khi cha mẹ chưa giao cảm, thì chưa biết mình ở đâu. Khi có cái thân rồi mới biết sự khôn dại, xấu tốt, tham muốn, giận hờn. Đến buổi tam thốn khí đoạn, thây nằm tại đó thì cũng không hiểu sự khôn dại lúc sống là đi đâu! Như vậy làm sao biết đặng đạo-tâm? Ta rất thương cho người đời khôn lanh chót lưỡi, thương cho người tu hành học đạo lầm sai trong giây phút mà mất nẻo Thiên-Đường, lạc vào chỗ tối. Vậy các người phải nghe vì các người đều có Đạo, trước phải luyện cái Tâm. Khi chưa phát, qui tại nơi đương phát hoặc thương muốn, ái-dục tạp niệm, mà mình tự nhiên đừng động, thì mới đặng giữ lòng. Còn định ý khi nó đương động, phải thâu cho mau giữ cho bền, định cho lâu, thì Tâm tự nhiên phải chủ một, đừng để động rồi mà thâu, thì không có ích chi hết. Đó là cửa Đạo của ta chỗ phép luyện Tâm.
    Nên người tu phải khiến cái Tâm không không. nhân cái Tâm là khí thiên-nhiên, chân-dương kết thành (vì Tâm thuộc Hỏa, chẳng phải thuần dương mà không âm). Trong cái dương có chân âm, cái hình chữ Tâm, trên có 3 điểm ( ), dưới có yến nguyệt ( ) trở lên. Nên mới biết dương không âm chẳng lớn, âm không dương chẳng sinh. chân-âm tùng chân-dương, nên gọi là Tâm. Hễ động một niệm thì trong Tâm bớt một phần chân-khí. Có việc nhập vô Tâm thì thêm một móng ma-chướng. Nếu các việc xen vô thì chẳng phải là tên Tâm, thiệt là tên Niệm. Bởi hình chữ Niệm là ?onhân? có ?oNhị Tâm? như người có hai lòng, chẳng được chuyên một việc. Vì Đạo là giữ một, nên Tâm phải giữ một mới phù hạp âm dương. Còn người tu tính trăm việc thì sao cho đặng thành Đạo? Đó là nói: Trước phải giữ cái Tâm, còn việc Đạo lại xa nữa!
    Trùng-Dương tiên-sinh nói:
    - Tâm là chủ cái Thân, có một việc không hai, bằng khởi nhị Tâm, gọi là Niệm, thì không biết bao nhiêu việc hư quấy. Chừng đó Tâm chẳng được làm chủ, khiến thân mình chìm đắm, trầm nịch vào biển khổ, thì thấy đọa trước mắt. Than ôi! như vậy cứu độ sao đặng! Như người tu có đáng tìm chỗ phóng tâm đó hay không? Thầy đương nói giảng thoát nghe Khưu-Khải-Phát la lớn rằng:
    - ?oHay lắm! Hay lắm!?. Vì Khải-Phát nghe lời diệu mầu nên la như vậy.
    Tiên-sinh nghe Khải-Phát la lớn không nói nữa vì hờn Khải Phát Tính không dè-dặt, miệng chẳng kín, tâm buông khơi, không sợ thiên hạ hồ nghi, nên làm thinh không nói nữa. Mấy ông thấy vậy trách Khải-Phát rằng: Bị trò nên thầy không giảng nữa. Khải-Phát nghe nói giả như không biết không hay, miễn nghe được lời thầy thì thôi, ai quở trách mặc lòng, không hờn không giận. Thầm tưởng rằng: Lời thầy nói việc luyện Tâm chắc là có chỗ khuyết luyện Đạo trong đó. Việc luyện Đạo nếu trước chẳng đem luyện cái Tâm cho hết chỗ niệm, đến chừng mình có Đạo cũng luyện không đặng. Vậy nay mình muốn học Đạo mà chưa nghe đặng Đạo, thôi để mình luyện cái Tâm trước, ngày đêm ta thường giữ lòng ta không cho tưởng quấy, không nhớ đến quấy. Ta phải trừ giữ con mắt, không nhìn sắc gái, tai chẳng nghe lời dâm, miệng chẳng nói tiếng tục, mủi chẳng ngửi mùi quấy, thân chẳng ngồi chỗ quấy, ý chẳng tư niệm quấy. Ta thường hỏi ý ta hay làm việc quấy, tư tưởng vọng niệm đều quấy vậy có hiểu biết đó là quấy hay không? Như biết quấy thì mau mau trừ bỏ. Khải-Phát nhờ tư-tưởng trong chỗ tối mà sửa mình nên có không trung ủng hộ. Bữa nọ thấy mấy mươi anh em đạo hữu chẳng có trước nhà chắc là ra am của thầy nghe Đạo. Khải-Phát liền chạy theo.
    Trong thiên hạ thiệt không việc khó,
    Chỉ sợ trên đời người có Tâm.
  5. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 13​
    Tán đạo trường, học nhân qui gia khứ,
    Hoán đạo trạng, sư đồ vãng Nam lai
    Nghĩa là:
    Tán đạo tràng, người học về nhà hết,
    Thầy trò đổi áo đạo, qua tới phía Nam.​
    Có bài kệ rằng:
    Than tiếc người phàm chẳng tỉnh cùng,
    Mê hoa ham tửu sính anh hùng,
    Đêm xuân tổn khí lao thần lệ,
    Năm tháng lâu dài chết chẳng dung.
    Lộng xảo thường như mèo bắt chuột,
    Ngày giờ mau tợ tiễn ly cung,
    Đêm hay khiến hết tinh thần sạch,
    Chôn bỏ thân mình tại đất Trung.
    Nói về Khưu-Khải-Phát, thấy trong đạo không có ai ở nhà trước, chắc ra mao-am nghe giảng Đạo; lật đật chạy đến mao am, thấy thầy ngồi giảng Đạo, đạo hữu đứng hai bên. Khải-Phát không dám vô trong, núp ở ngoài cửa lóng nghe thầy nói:
    - Việc tu hành chỗ niệm, phải đừng có một vọng tư, trong lòng không có chút cặn. Như có một chút lòng dục thì trong lòng thêm việc ma chướng, như mà tư dục khởi ra ắt Tiên-thiên phải mất. Nên người tu phải khử trừ việc niệm tưởng thì Tiên-thiên mới còn. Vì Tiên-thiên là một khí Vô-Cực, hễ tư dục muốn ra thì hỏa phát động rồi khí tán nào có Tiên-thiên, làm sao xét đặng hỏa hầu?
    Còn hễ tưởng nhiều thì khí hư, nào đặng phục chỗ linh cơ? Lòng dục nhiều thì khí khô, làm sao có huyền diệu? Nghĩ cơ quan như vậy, việc tư dục đáng trừ hay không trừ? Việc vọng tưởng đáng bỏ hay không bỏ? Như người có lòng tu niệm mà quyết thoát chỗ biển mê, thì nghe lời ta trước đó mau phải giới trừ, ý vọng tưởng phải tuyệt, dưỡng cho đặng lặng lẽ không động. Rồi sau cái niệm mới dứt. Hễ niệm dứt thì việc tư dục tiêu hết, tư dục tiêu hết thì các mối đều sạch, khí dương đặng thuần, khí dương thuần thì khí âm phải tiêu. Nên từ xưa đến nay, các vị Tiên Phật lớn cũng đều do nơi đó mà thành. Nay các ngươi muốn theo bực Tiên Phật, thì phải gìn giữ chỗ niệm tưởng làm đầu, siêu đọa tại chỗ con mắt, lỗ tai, cái ý, chẳng khá coi việc đó là thường. Trùng-Dương giảng nói tới chỗ diệu mầu, Khải-Phát núp ngoài cửa nghe mấy lời hay của thầy dường như quên hết việc nhà, việc quở, la lớn rằng:
    - ?oHay lắm! Hay lắm!? Tiên-sinh ngó mấy người đệ tử nói rằng: Trong nhà thuyết pháp, ngoài cửa người nghe, hỏi thử mấy người vậy có ai là người tri âm ở ngoài chăng? Thầy nói dứt lời, Mã-Đơn-Dương ra ngoài thấy Khải Phát liền kêu vô trong. Trùng-Dương thấy trách Đơn-Dương rằng:
    - Ta đã dặn, bảo nó đi về, sao còn để ở đây? Ông nói vừa rồi, có Lưu-Trường-sinh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương, Đàm-Trường-chân thưa rằng: Xin thầy từ bi, vì Khải-Phát tuổi nhỏ mà không mến việc trần. Nhiều khi nói về đạo đức có chỗ hậu nghĩa, hoặc anh em quở trách cũng không giận, thầy đuổi nhiều lúc cũng không buồn. Vậy cũng là một việc nhẫn. Nay anh em tôi xin thầy cho y cầu Đạo, lo việc Phật-môn, có bọn tôi dìu dắt. Tiên-sinh nói:
    - Không phải ta ghét nó, vì sợ nó còn nhỏ Tính chưa được chân thật, gặp lúc ma khảo, chịu không nổi trở lòng thối chí, chừng đó Đạo cũng chẳng thành, lại bị tội lỗi. Để nó lập công đắp nền cho chắc, sau sẽ cầu không muộn.
    Mấy ông nghe nói than thiết ai cầu, còn Khải-Phát lạy hoài không dậy. Trùng-Dương nói:
    - Mấy người nhiều lần tiến dẫn, nào ta chẳng an tâm. Theo phép thì lấy luật công bình! Thôi vậy, Khưu-Khải-Phát quỳ nghe ta dạy: Bởi người từ ngày đến đây tới nay, ăn chay đã lâu mà Tính chưa thuần hậu, ta lại thấy tướng người có nhiều chỗ xấu, ta sợ ngày sau chịu khảo không đặng mà bỏ Đạo. Nay ta thấy ý ngươi có chỗ cần quyết tu, vậy ngươi muốn tu thành Tiên hay là muốn tu đặng sau làm người giàu có?
    Khải-Phát thưa:
    - Tôi muốn tu thành Tiên.
    Tiên-sinh nghe nói biết người có căn sâu, lại hỏi rằng:
    - Hễ ngươi muốn thành Tiên thì chẳng sợ đau sợ chết. Chớ ta coi tướng ngươi chắc phải gặp các việc ấy. Vậy bây giờ ngươi chịu đau đặng không? Khải-Phát thưa:
    - Miễn cho thành Tiên thì thôi, đau thế nào tôi cũng chịu đặng. Trùng-Dương liền lấy cây nhang lớn trên bàn châm vào mặt Khải-Phát ba lần, tự nhiên không nhúc nhích. Khải-Phát đứng dậy làm lễ thầy thưa rằng:
    - Bấy lâu tôi theo Đạo mà không hiểu việc Đạo, nay nhờ thầy thiệt công hơn sinh thành!
    Tiên-sinh nghe Khải-Phát nói như vậy, hỏi rằng:
    - Thế trong ý ngươi giận ta châm lửa vào mặt ngươi nên ngươi nói ta công hơn sinh thành?
    Khải-Phát thưa:
    - Tôi không dám hờn giận thầy, vì tôi muốn học Tiên mà thầy lấy chỗ tiên chỉ tôi, cho nên tôi không giận vì là thầy thương tôi.
    Trùng-Dương nghe Khải-Phát nói biết ý ngộ đặng phép mầu, vỗ tay cười ngất. Rồi đó Khải-Phát cầu thầy cho đạo danh. Trùng-Dương nói:
    - Để ta đặt pháp danh ngươi là Khưu-Trường-Xuân. Khải-Phát thưa:
    - Thưa thầy, đặt tên tôi là Trường-Xuân xin thầy tỏ nghĩa hai chữ cho tôi hiểu. Trùng-Dương nói:
    - Chữ Trường là ?oTrường-Cửu?, chẳng sinh chẳng diệt. Còn Xuân là ?oXuân bất lão?, nghĩa là cái Đạo ta sống hoài không chết. Khải-Phát nghe rồi đành lòng như nguyện, liền lạy thầy rồi mời mấy ông tiếp dẫn tạ ơn, thầy trò đều an nghỉ.
    Cách hơn một tháng, Trùng-Dương kêu hết trong đạo đến Giảng-Kinh-Sở (nhà giảng Kinh) nghe thuyết pháp. Mấy người đồng đến thỉnh thầy lên đàn thuyết pháp, các đệ tử bày bàn ngay thẳng. Trùng-Dương nói: Đạo ta dạy lấy việc Tịnh làm chủ. Chữ Tịnh, trên khá lấy xét tỏ việc sinh hóa dưỡng dục, dưới cũng khá lấy bao hàm vạn vật. Nay ta đem việc Tịnh giảng nói cho các trò nghe. Chẳng luận là người tu hành biết Đạo mới khá dùng mà thôi, hoặc cho tề gia trị quốc cũng chẳng bỏ đặng. Bởi việc Tịnh nghĩa lý mầu diệu vô cùng, có khi người nói Tịnh thì nhiều, còn biết Tịnh thì ít. Hoặc muốn Tịnh mà Tịnh không đặng, vì chưa tìm đặng nguyên căn, nên chẳng rõ nguồn gốc tại đâu mà Tịnh.
    Vậy ta chỉ chỗ căn Tịnh, trước phải coi thấu việc đời muôn việc đều Không. Trong việc Tịnh phải tùng chỗ chẳng Tịnh mà lập chí, hoặc ở tại chỗ sắc, tài, lợi, ân-ái, thì mình biết chỗ ấy là chỗ hại cho thân, dắt dẫn vào đường tối mà chôn mất Tính linh của ta. Phải coi các việc ấy như thù nghịch thì sao lại dứt mối ấy không đặng? Người tu phải coi chỗ động như không không. Chừng lúc Tịnh phải giữ chỗ phép; hễ niệm muốn khởi liền phải dứt tuyệt, hoặc dứt đó, sinh đó, mình đừng cho nó sinh, thì cái sinh ấy dứt liền. Thí như một ông giám-sát kia, muốn giết kẻ tội ác, thì chém không kịp nháy mắt, như vậy mình giết cái tâm phàm mới đặng. Chừng ấy, làm đặng rồi, không Tịnh cũng như Tịnh, tự nhiên như nhiên. Tuy không nói Tịnh, nhưng mà ở trong có Tịnh, đến chừng Tịnh thấu chỗ chí thiện, dẫu núi Thái Sơn rã trước mặt cũng không sợ. Thiệt chẳng phải không sợ, nhưng mà nó rã trước mắt ta cũng coi như không có. Còn Nữ Sắc đứng gần bên ta mà chẳng động. Thiệt chẳng phải chẳng động, song nó đứng gần ta mà ta coi như không có vậy. Đến khi đi đứng mà động, thì ta cũng lấy giới luật của ta mà trừ. Ấy là người tu phải có oai-khí hết sức giận dữ, như vậy mới gọi đại hùng đại lực (nên người tu phải giận phải ghét, phải có hỉ nộ là nghĩa đó).
    Còn nói mỗi việc chi làm ra, thường giữ cho Tịnh thì Ý tự nhiên, tuy làm mà chẳng cố, hoặc cha mẹ thấy vậy nói ngu chẳng chịu, đặng cảm bề trên; anh em có dứt cũng hòa thuận, mà dạy dưới; vợ con chẳng chịu cũng xuôi, đặng mà sửa trị ở trong. Bạn hữu chê bai cũng vui, mà dạy ở ngoài. Người tục chê khờ cũng đành; người Nho bày biếm phải giấu đặng giữ mình, đạo thường làm, chí thường giữ, chẳng nói Tịnh mà Tịnh, không động mà động, dẫu động, Tịnh gì cũng Tịnh, thì Đạo mới thành. Đó là bảo giờ nào cũng Tịnh. Nên Phật nói: ?oMinh Tâm kiến Tính?. Chẳng Tịnh thì chẳng được minh kiến, sáng tỏ. Nho nói: ?oCùng lý tận Tính?. Chẳng Tịnh thì không đặng cùng tận thấu hết. Đạo nói: ?oTu chân dưỡng Tính?. Chẳng Tịnh thì không đặng tu dưỡng (trau sửa bề trong).
    Vì việc Tịnh là mối của Tam-Giáo, chẳng phải bao nhiêu mà thôi. Tỷ coi trong một ngày kia, hễ ban ngày động thì ban đêm phải Tịnh. Còn mùa Đông Tịnh thì mùa Xuân mới phát sinh. Nên gốc Tịnh của Đạo là lẽ tự nhiên như vậy. Nếu người tu bỏ việc Tịnh, thì tùng đâu mà vào cửa?Trùng-Dương tiên-sinh giảng nói việc Tịnh, thiệt là trong Tam-Giáo chẳng lìa chỗ công phu. Đến người Sĩ, Nông, Công, Thương, Vương-hầu khanh-tướng phải do chỗ Tịnh làm trước, sau mới đặng an bài. Đặng an bài thì phải lo xét, lo xét mới đặng việc. Cha mẹ hay Tịnh con mới đặng hiếu; Vua hay Tịnh tôi mới biết trung; anh em hay Tịnh việc đặng hòa mục; bạn hữu hay Tịnh mới đặng tin thiệt; vợ chồng hay Tịnh thì được thuận hòa.
    Thầy đem việc Tịnh nói cho đệ tử nghe. Duy có Khưu, Lưu, Vương, Đàm, Mã, Xích biết lời thầy nói chỗ Đạo huyền diệu, còn mấy người kia, ban đầu cần, sau làm biếng, hữu thỉ vô chung, chẳng quyết chí tu hành. Từ đó đến sau lại tính việc danh lợi, người thì tật đố sân si, tham lam trộm cướp. Ông cũng biết mấy người ấy chẳng được bền lòng, mà việc Đạo phải nói, nên đem các điều Tịnh bày tỏ cho mấy người nghe, muốn cho người người đặng chỗ công-phu, tiêu bớt việc tráo trở, ai quyết chí thi hành, tuy không đặng siêu phàm nhập thánh, cũng lấy chỗ tu thấu tề gia, chẳng mất căn lành, không uổng người đến đây học Đạo.
    Khi đó Khưu-Trường-Xuân nghe thầy giảng việc Tịnh, hiểu thấu vui mừng, ngồi đứng chẳng yên, thường hay vỗ tay dậm chân, bị thầy thấy, kêu nói rằng: Ngươi là người nghe Đạo chẳng thấu, biết lý chẳng tỉnh, gọi mình thông minh, bày lộ cái danh lợi, không biết ẩn mình lấy xảo làm tệ, chẳng phải người học Đạo. Ta mấy lần thuyết pháp cũng bị ngươi mà phạm trong điều luật. Ta phải xa ngươi lánh ngươi trốn qua Đông-Nam, đặng khỏi ngươi khuấy loạn. Nói dứt lời liền kêu Mã-Đơn-Dương nói rằng: Ngày mai ta qua Giang-Nam giảng đạo. Lưu-Trường-sinh, Đàm-Trường-chân, Xích-Thái-Cổ và Vương-Ngọc-Dương bốn người theo ta. Khưu-Trường-Xuân thì ở lại coi sóc nhà cửa. Còn mấy người kia muốn về hay ở tự ý, ta đi kỳ này mau cũng một năm.
    Tiên-sinh nói, làm náo động mấy người giả tu, rồi người thì nhớ nhà, kẻ muốn về thăm cha mẹ, có người nhớ con cháu nhà cửa, lại có người tính buôn bán làm ăn. Đêm ấy soạn quần áo vật kiện, đợi sáng nói cùng Đơn-Dương đặng về. Đơn-Dương thấy vậy cũng muốn đưa đi cho rồi. Lúc nọ mấy mươi người cung tay từ biệt, coi bộ hân hoan. Còn Mã-Đơn Dương trở về mao-am lấy ra năm cái áo bào, năm cái bồ đoàn và tiền bạc thảo hài, bầu cơm các việc đều đủ.
    Trùng-Dương tiên-sinh cùng bốn người thay mặc áo đạo, đợi trời sáng đi ra khỏi nhà. Đơn-Dương đưa thầy đi rồi lại bỗng thấy Khưu-Trường-Xuân bèn hỏi đi đâu thì Trường-Xuân nói:
    - Tôi đi theo thầy. Đơn-Dương nói:
    - Thầy đã không chịu ông mới lánh mà đi, bằng ông đi theo chắc bị khảo nữa. Khưu-Trường-Xuân nói:
    - Thầy đâu có giận tôi, vì thầy nguyện cho tôi học phải, mới chỉ chỗ Thần Tiên cho tôi; như tôi không theo thầy, chẳng là bỏ thầy. Sư huynh để tôi đi, dẫu thầy có khảo trừng thế nào cũng như cha dạy con thì phải đánh. Nói rồi liền chạy theo, Đơn-Dương kéo bảo trở lại cho tôi dặn.
    Thảy người nhớ nhà đều về hết,
    Trường-Xuân thương thầy chạy theo sau.
  6. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 14​
    Thi phàm tâm lũ thi xất trách,
    Thuận sư ý thường bỉnh quy y
    Nghĩa là:
    Thử cái phàm tâm thường hay rắn trách,
    Thuận theo ý thầy thường chịu quy y.​
    Có bài kệ rằng:
    Trừ dữ cũng như gỡ mối tơ,
    Dằn lòng chắc đặng gỡ không ngơ,
    Bằng đem dụng sái nơi ý lực,
    Muôn kiếp ngàn sinh khó hết giờ.
    Nói về Mã-Đơn-Dương kêu Khưu-Trường-Xuân trở lại nói rằng:
    - Thầy cùng mấy sư huynh đều cải đổi áo mão theo đạo mới đi đặng xa, trò mặc áo theo như người tục làm sao đi đặng? Tôi có áo nạp y mão đạo, cho trò lấy mặc đội đi theo mới đặng.
    Trường-Xuân nghe nói mừng rỡ, trở lại lấy áo mão mặc vào. Rồi Mã-Đơn-Dương đem bồ-đoàn và bầu vào đưa cho. Trường Xuân chạy theo thầy một hồi xa thấy mấy người đi trước với thầy. Trường-Xuân thấy mấy người trong xóm người ta ăn cơm mai, trong lòng tưởng rằng: mình đi sớm chưa ăn cơm, thôi để đi xin cơm chay đem lại cúng dường cho thầy ăn, ngặt xưa nay chưa có ra xin, nên không biết làm sao xin. Nghĩ một hồi rồi cũng đi đến nhà nọ, tay cầm bầu đứng trước cửa ngõ. Chó chạy ra sủa, người nhà ra thấy ông Khưu, rồi trở vô xúc một chén cơm nguội đem ra đổ trong bầu. Ông Khưu mừng lắm, rồi xin thêm hai nhà nữa cho đầy bầu, hai tay bưng chạy theo thầy. Lại nói về Trùng-Dương tiên-sinh đi một hồi đến một gốc cây lớn ngồi nghỉ, hỏi Lưu, Xích:
    - Mấy ông có đem tiền sở phí theo không? Lưu-Trường-sinh thưa:
    - Vì thầy đi quá gấp, anh em tôi lật đật chưa kịp hỏi Mã sư-huynh xin tiền. Thầy nói:
    - Như không có tiền mấy người phải đi xin. Trùng-Dương tiên-sinh ngồi một mình dưới gốc cây thấy Khưu-Trường-Xuân đem một bầu cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sinh trách rằng:
    - Ai bảo ngươi theo phá ta, ta chẳng chịu đồ của người cúng dường. Ông Khưu mời thỉnh đôi ba lần, thầy chẳng thèm nói tới. Một lát mấy ông Lưu, Xích, xin cơm đem về thỉnh thầy ăn. Tiên-sinh lấy cơm của Lưu Trường-sinh mà ăn, còn dư lại mấy người ăn hết. Ăn xong thầy trò ra đi hơn mười mấy dặm, trời tối thấy bên đường có một cái miểu, bèn vào miểu quét sạch, trải bồ-đoàn nghỉ một đêm. Bữa sau thầy trò năm người đi trước, Khưu-Trường-Xuân ở sau xin cơm, gặp một nhà hiền lành bảo ông ăn cơm. Trường-Xuân nói: Có thầy tôi đi trước chưa ăn, tôi không dám ăn trước. Vị thiện-nhân nói:
    - Việc đó không sao, ông ăn đi, tôi có để một bầu cơm sạch sẽ, rồi ông đem cúng thầy ăn không muộn. Trường-Xuân thấy ông nói cũng phải, liền ngồi ăn, rồi tạ ơn, kế thấy một bầu cơm chay đựng riêng, hai tay bưng chạy theo thấy thầy đi cách chẳng xa, liền kêu thầy đợi tôi đem cơm lại ăn, Trùng-Dương tiên-sinh giả không nghe, đi hoài. Trường-Xuân chạy theo kịp đem cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sinh ngó mà nói rằng:
    - Cơm đó của một nhà, ta không công nào dám ăn. Há chẳng nghe sách có câu: ?onhất biến thiên gia phạn, cô thân vạn lý du?. Nghĩa là: Một bầu cơm ngàn nhà cho một mình ăn chơi muôn dặm.
    Trường-Xuân nghe quở không dám trả lời; thầy nói rồi đi liền. Trường-Xuân trong lòng sợ muốn đem cơm trả lại cho chủ, ngặt trở lại thì xa, muốn ăn hết mà đã no rồi, không biết làm sao, hai tay bưng bầu cơm mỏi rụng, mồ hôi hột ướt mình, đi tới thấy thầy cùng mấy anh ngồi trên đá ăn cơm. Vì bữa đó xin ít nên ăn hết cơm của ông Khưu. Đêm đó cũng ngủ tại cổ miếu. Trường-Xuân Tính thương thầy, trong lòng thầm tưởng: Thầy mình là người Xiểm-Tây, ít chịu ăn cơm, thích ăn bánh mạch (lúa mì), để mai mình xin bánh mạch về cúng dường cho thầy.
    Bữa sau đi xin đặng mấy cái bánh mạch đem dưng cho thầy. Trùng-Dương tiên-sinh giận nói: Ta đã nói không ăn đồ của người xin, sao cứ theo phá ta hoài vậy? Nói rồi giựt cái bầu quăng dưới đất, bánh rớt xuống mương. Trường-Xuân lật đật lấy lên lượm bánh bỏ trong bầu, thấy thầy đi xa liền chạy theo khóc hoài. (Đọc-giả biết tại sao mà Trùng-Dương tiên-sinh làm nhục Trường-Xuân lắm vậy chăng? Là vì ông Khưu tuổi còn nhỏ, đi ra học Đạo chẳng phải như mấy người kia, Tính chất chịu rồi, nếu chẳng gia khảo trở dồi mài như thế, thời làm sao đặng món đồ tốt? Nên phải trau dồi cái Tính. Còn Trường-Xuân căn sâu dày lắm, thường bị răn trách mà không biết buồn phiền, thiệt người có căn sâu.) Lại nói mấy thầy trò Trùng-Dương tiên-sinh đi hơn hai tháng đến xứ Giang-Nam, có cái chợ lớn, sau chợ có cái miễu kêu là ?oHựu-Thánh-Quan?. Thầy trò sáu người vào ở nhờ trong miễu. Miễu ấy không có đạo-sĩ hay thầy chùa, chỉ có một người già làm từ ở đốt nhang mà thôi. Người ấy cũng là thông thái, cho thầy trò ở đó. Qua ngày sau, Trùng-Dương tiên-sinh nói: Ta muốn ăn thịt. Rồi mấy người liền đi mua một cân thịt đem về, tiên-sinh thấy thịt nói: Ta nay chẳng muốn ăn. Trường Xuân nghe thầy nói liền đem treo trên vách rồi cùng mấy ông vào xóm xin cơm.
    Tiên-sinh thấy mấy người đi hết, mới lấy cân thịt đưa cho ông từ, rồi kêu Bạch-Hạc-Tiên ở núi Bồng-Lai ngậm đem một miếng cỏ Linh-chi giống như thịt, tiên-sinh tiếp lấy thổi một hơi hóa ra thịt heo, đem treo trên vách. Một lát mấy người về thầy bảo đem thịt nấu ăn, Trường-Xuân lấy thịt xuống, hơi hôi khó chịu, thưa cùng thầy rằng: Thịt hôi rồi, ăn không đặng, thôi để tôi mua thịt khác cho thầy ăn. Tiên-sinh giận nói:
    - Bọn bây là đồ tạo nghiệt, đem của thập phương về hủy hoại vậy sao? Đã mua thịt sao chẳng nấu ăn, để cho thúi hôi rồi lại bỏ? Ta nay cũng không phạt trách, song bọn ngươi phải ăn sống cho hết. Thầy nói dứt lời, Lưu-Trường-sinh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương và Đàm-Trường-chân bốn người đều thất sắc. Khưu-Trường-Xuân thầm nghĩ mấy sư huynh là người văn chất làm sao ăn đặng thịt sống? Thà mình ăn hết, dẫu có hôi thúi khỏi ai oán hận đến thầy. Chủ ý định rồi liền lấy miếng thịt kê bên mũi thiệt hôi khó chịu, nín hơi cắn một miếng nhai thử mà không nghe mùi thịt lại giống mùi củ cải sống, bùi ngọt, không hỏi liền ăn hết thịt ấy, nghe trong mình dường như thêm tinh thần khỏe mạnh.
    (Vì Khưu-Trường-Xuân sau có nạn nhịn đói mấy chục lần, thầy sợ ổng thành bệnh lao, nên hóa ra miếng thịt đó cho ổng ăn, ngày sau không sinh bệnh, đặng thành Kim-Tiên cũng nhờ sức miếng thịt đó.)
    Lại nói Lưu, Xích mấy ông thấy Trường-Xuân ăn hết thịt rồi trong lòng mới mừng. Lúc đó nhằm mùa lạnh, mấy ông vào xóm xin đặng ít bó củi khô. Đêm đó mưa tuyết lạnh lùng, mấy ông lấy củi khô đốt hơ. Tiên-sinh thấy vậy không bằng lòng, lấy củi quăng hết vô lửa phát cháy, khói bay mù mịt, rồi lấy vá thiếc đập tắt, mấy người nghẹt hơi không chỗ trốn. Trong miễu chật hẹp, phần gió ngoài bay vô, ông nào cũng chảy nước mắt, đều chạy ra hết.
    Thầy thấy mấy ông chạy ra, liền đóng cửa lại, rồi lấy bồ đoàn ngồi tại cửa ngăn đó. Mấy ông đứng ngoài đợi một hồi hết khói mới vô tránh lạnh. Chừng lại xô cửa không đặng mà không dám kêu, phải ngồi ngoài mà chịu. Chẳng may gặp trận gió tuyết bay lại, mấy ông đều lạnh run. Lưu-Trường-sinh nói:
    - Thầy có truyền ?oHỏa-Hậu?, anh em mình luyện thử coi bớt lạnh chăng? Khưu-Trường-Xuân cùng mấy ông ngồi lại công-phu điều hơi vận khí, luyện một hồi chẳng những hết lạnh, lại thêm hơi nực. Hồi lâu hừng sáng, thấy cửa chùa mở ra, mấy ông bước vào thấy thầy ngồi trên bồ-đoàn, nói rằng: Các ngươi ghét lạnh sợ nực, tham sinh phạ tử, bỏ chân cầu giả, ham dùng lửa giả chẳng chịu vận lửa chân, biếng-nhác chẳng chịu công phu. Như vậy làm sao tu cho thành Đạo? Nếu không phạt đánh, ắt ngày khác trước cần sau lại dãi-đải. Thầy nói rồi liền bảo Vương Ngọc-Dương đem thước bảng phạt đánh mỗi người hai chục đặng ngày sau đừng có vậy nữa. Lưu, Xích mấy ông nghe nói chẳng dám trả lời. Khưu Trường-Xuân quì trước mặt thầy thưa rằng: Việc đó lỗi tại tôi chẳng can mấy anh, để một mình tôi chịu phạt, tha hết mấy anh.
    Thầy nghe nói hỏi rằng:
    - Ngươi thiệt dám chịu cho mấy người hết sao? Trường-Xuân thưa:
    - Xin chịu hết. Thầy nói:
    - Như ngươi dám chịu hết, mỗi người phạt đánh 20 bảng, năm người cộng lại là 100 bảng.
    Lưu, Xích mấy ông nghe nói đều lại cầu xin. Tiên-sinh nói:
    - Mấy người đều cầu xin không lẽ ta không tha, như vậy sau đừng làm biếng nữa mà lầm lỗi việc tu. Thầy nói rồi quăng thước bảng nói cùng Lưu-Trường-sinh:
    - Ta khi đó muốn Nam du, nay hết muốn đi nữa, muốn trở về bên Bắc, phải tính đi liền chẳng trễ nải.
    Thầy nói rồi ra đi. Khưu, Lưu mấy ông lật đật thâu cuốn bồ-đoàn và lấy bầu rồi tạ ơn ông từ, liền đi theo thầy, cũng do đường cũ trở về Sơn-Đông. Đi mấy bữa về đến nhà Mã-viên-ngoại. Trường-Xuân đi trước báo cho viên ngoại hay, viên-ngoại lật đật ra tiếp rước thầy vô, mời đến mao am tu dưỡng không có việc chi, thiệt là thanh tịnh. Cách chừng một tháng mấy người đệ tử nghe nói thầy về đều tới học đạo nữa, cũng đặng đông đảo như trước. Thầy thấy vậy lập ra một kế hay, muốn dời mấy người giả tu đó tan hết.
    Chẳng đem giả ý dời ra hết,
    Sao đặng chân tâm ngộ đạo lai.
  7. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 15​
    Thi vỏ hóa, tiên-sinh qui ẩn,
    Tống linh cửu, môn nhân phục lao
    Nghĩa là:
    Giả nói mãn phần, thầy qui ẩn,
    Đưa linh cửu học trò chịu nhọc. (thử môn nhân)​
    Có bài kệ rằng:
    Gió phan thổi động chẳng phải chân,
    bản Tính sáng tròn thiệt pháp thân,
    Giải đặng cầm bông hơi cười ý,
    Xưa nay không có dính bụi trần.
    Lại nói Trùng-Dương tiên-sinh thấy mấy người học Đạo tựu lại, xét ra trong mấy người không có tưởng Đạo, chẳng qua là giả danh học Đạo, lấy Đạo làm cớ, muốn cho người biết mình tu hành, chớ không một chút tưởng Đạo. Như chẳng dời đi chắc sau nó lấy giả làm chân, khiến cho trong pháp môn chẳng được thanh tịnh. Thầy tưởng rồi thầm nói: Phải làm như vầy, như vầy... Liền la lên một tiếng lớn rằng:
    - ?oChẳng khá, chẳng khá?. Mấy người kinh hải xúm lại hỏi thăm. Thầy nói: Ta chẳng nên đi du phương vì ta đi đường cảm hơi thấp khí, bệnh ta kiết-uất, trên mình nổi ghẻ.
    Liền cởi áo cho mấy người coi. Quả thiệt nổi mục cùng mình. Mã-Đơn-Dương cùng mấy ông lật đật rước thầy kiếm thuốc, tầm hết danh-y uống đủ mà không hết. Cách hai ngày mấy mục đều lở, máu chảy dầm dề, hôi hám khó chịu. Mấy người đến học Đạo bàn luận nói lén:
    - Thầy chắc người không có Đạo, nên bệnh hoạn như vậy. Thân mình bảo toàn không đặng làm sao độ người? bệnh mình trừ không đặng làm sao đặng thành Thần Tiên? Mình phải tính trở về kẻo để lầm việc.
    Nói rồi nay một người, mai một người, ít bữa đều về hết, còn lại Khưu, Lưu, Xích, Mã và Vương, sáu người ngày đêm phục sự. Thầy thấy mấy người về hết liền kêu sáu người lại trước dạy rằng: Ngày mai, giờ Ngọ, ta chắc qui Tây, vì ta đến đây lấy tiền bạc của Mã-Ngọc châu-tế cho người nghèo khổ, giúp cho người chôn táng cưới gã tổn phí rất nhiều, lại cấp dưỡng cho người học Đạo mấy năm nay, tiền bạc xài hết. Nay trong rương kho đều không, ta có qui Tây, sắm sửa việc tang ắt phải cầm ruộng bán đất. Mấy người phải y lời ta dặn, đừng có xài phí bạc tiền, đừng có thương khóc, cũng đừng cúng tế để tang. Lấy bốn miếng bảng mỏng khép cho kín thân mà thôi. Khưu, Lưu, Vương, Đàm và Xích, năm người thay phiên nhau khiêng về đến tỉnh Xiểm Tây, dưới chân núi Chung-Nam, hễ khiêng đến chỗ nào đứt dây rớt xuống, đó là chỗ chôn ta, chẳng được sai lời. Như trái ý ta thì ta không an, các ngươi phải nhớ.
    Khưu, Lưu mấy ông nghe thầy dạy thảy đều than khóc. Trùng-Dương tiên-sinh nói:
    - Đừng bắt chước theo trẻ nhỏ. Mấy ông nghe thầy quở trong lòng cảm thương chảy nước mắt, chớ không dám lộ sắc buồn.
    Bữa sau giờ Ngọ, thầy mặc áo bào ngồi kiết-dà trên bồ đoàn. Kêu sáu người lại một bên giảng nói dặn dò cặn kẽ rằng: Phép Tính mạng song tu, thảy trong ngoài đều có đủ. Như không lập công ngoài thời đức hạnh chẳng toàn. Còn khuyết công trong thời bản-nguyên cũng chẳng thành. Việc công ngoài là bình sinh lòng mình, đừng cho khiếm khuyết, một lời giữ trọn không nói quấy, là lời nói đó có công. Còn việc hạnh phải gìn giữ các việc vuông tròn là việc hạnh có công đó! Mỗi việc thảy đều kiên cố: chẳng phải công có chứa sẵn, tại nơi mình lập. Thường phải giác tỉnh chớ cho hôn muội, phòng cái ý cũng như giữ cái thành, không cho một vật dính đặng. Còn giữ cái lòng, lại phải hơn giữ cái thân. Đó là Trời người đồng hạng, Tiên phàm cách có một bực như hội giao-chiến; hễ đặng thì thành Tiên, không đặng thì thành quỉ rõ ràng. (Tại sao vậy? Hễ cái tâm thần đặng thanh tịnh, ân-ái tạp niệm các việc đều không tức là thành Tiên hiện rồi, còn mình để cái tâm nó dục động tạp niệm, nó tật đố tham lam ái-ân không dứt, tài sắc không quên, chẳng có một chỗ tịnh, thì tức là ma quỉ đó rồi, cho nên phải tìm chỗ thân tâm thì đặng thành, ai muốn phải tầm mới đặng.)
    Ta nay đem nội-công dạy thêm cho mấy trò nghe, vì việc nội-công chẳng khá lấy chỗ sắc kiến, chẳng khá lấy chỗ tướng mà cầu, chẳng khá làm kiêu hãnh, cũng không đặng làm biếng, quét trừ một mảy sắc tướng chẳng còn, một mảy khí nộ chẳng sinh, quét trừ sắc tướng không rồi thời số dương không sinh. Như đem mấy việc đó trừ hết thời ắt thể đặng thuần dương.
    Có người học Đạo trong lòng cũng quyết mà vì tại muốn cho mau thành, công-phu chưa đến lại muốn chứng quả. Còn có người tập theo đạo của ta cũng quyết việc tu luyện, lại muốn an nhàn, ngày ngày dật dựa ham ngủ. Ma-âm khí thạnh giờ giờ buồn bực chẳng vui. Ma-dương khí suy, tinh thần chẳng phát, khó nổi công phu. Đó là tại ham an-nhàn, thong-thả, nên tu hành không đặng.
    Phàm việc chi cũng phải dùng hết tâm-chí mới làm đặng việc; huống chi là học làm Thần Tiên, không lo tập luyện dồi mài học theo qui luật; cứ lo danh lợi đua chen ham điều vui ngủ, mà thành Đạo bao giờ?
    Trùng-Dương tiên-sinh nói rồi lại lấy cuốn sách tên là ?oThao-Quan-Tập? của thầy làm ra, trong đó có giảng Đạo, sự tích phép ẩn dật mầu diệu rất hay, đưa cho Mã-Đơn-Dương dặn rằng: Ngươi cùng 5 người phải coi xét cho chí lý, thấu rồi chẳng phải khó; như làm đó có khó phải rán sức làm theo, mới không phụ lòng ta. Tôn đạo-hữu của ngươi, đạo quả gần đủ, đừng có nhớ tưởng; duy có Khưu-Trường-Xuân công quả còn ít, ngươi phải chỉ dạy thêm cho y. Còn Lưu-Trường-sinh sắc tướng trừ chưa hết, phải có một lần tai nạn sóng gió nữa.
    Từ ấy Xích-Thái-Cổ đông qua tây lại công-phu đắc ý thấy chỗ vừa lòng là chỗ liễu đạo. Đàm-Trường-chân gặp đặng máy thông huyền. Vương-Ngọc-Dương đặng thấy nghe huyền diệu. Khưu-Trường-Xuân bên thạch bàn khê đặng biết khổ căn, trên cửa rồng bay đại đơn đã thành. Thầy Trùng-Dương nói dứt lời cười một tiếng rồi thành đạo. Khưu, Lưu mấy ông nghe theo lời thầy dạy chẳng dám lên tiếng, y phép nhập liệm, lấy dây buộc quan tài, cây đòn sắm sẵn đợi đến sáng ngày Khưu, Vương, Đàm, Xích bốn ông khiêng linh cữu ra đi. Lưu-Trường-sinh gánh đồ theo sau. Mã-Đơn-Dương đưa cách 20 dặm lấy ra một gói bạc ước 40 lượng giao cho Lưu Trường-sinh nói rằng:
    - Tiền bạc trong nhà thầy châu-tế việc lành xài hết, nay còn có bao nhiêu đem làm sở phí, rán tiện tặn cho đủ xài, chôn rồi trở về anh em đồng nhau lo việc tu hành. Nói rồi đưa cho Lưu-Trường-sinh tiếp giữ, rồi anh em tạ ơn, lu biệt. Đi đặng mấy dặm đường, thấy có người đem nhang đèn cúng tế, Lưu-Trường-sinh thấy mấy người lạy cúng cũng là đệ tử của thầy.
    Những kẻ giả tu học đạo khi trước thấy Lưu-Trường-sinh thảy đều xưng tạ. Vì Trùng-Dương khi bình sinh chẳng chịu những người giả tu, ngày nay qui Tây chân linh chẳng quên, nên trong quan tài xì hơi ra thúi người người đều chịu không nổi, bụm miệng nín mũi muốn mửa, đứng gần không đặng, lật đật cúi đầu lạy ít lạy đều chạy về hết. Mấy người đi rồi, hơi thúi liền dứt. Trường-Xuân cùng mấy ông khiêng linh-cữu qua Xiểm-Tây chừng hơn 10 dặm, có người đem cơm cho ăn, ai nấy tưởng là người quen với thầy, nay nghe thầy qui thiên nên đem cho ăn, nghĩ là nhân tình lẽ thường nên cứ việc ăn. Khi ăn rồi tạ ơn kế khiêng đi nữa.
    Chừng vừa tối, thấy bên đường có cái miễu thời khiêng không nổi nữa, liền đem linh-cữu để trong miễu nghỉ chân. Sáng ngày khiêng đi, đến bữa mơi cũng có người đón đường dưng cơm, bữa trưa cũng vậy. Chừng vừa tối cũng có cổ-miếu an nghỉ. Đi hơn một tháng trường cũng vậy hoài. Gần đến đất Xiểm-Tây, Khưu-Trường-Xuân tưởng thầm:
    - Thiệt việc rất lạ, trong trời đất nào có ai mà đặng việc may hoài như vậy?
    ở chỗ gần thì nói rằng quen với thầy mình, nay nghe thầy mãn phần đem linh-cữu về xứ nên niệm tình làm nghĩa cho ăn, cũng có lẽ được. Nay đi đã xa mà cũng còn người cho ăn, thiệt lấy làm lạ, để mình hỏi thăm người đem cơm coi duyên cớ sao vậy? Đến trưa có người đem cơm cho ăn. Lưu, Xích mấy ông cám ơn, rồi lấy chén ăn cơm. Trường-Xuân kêu người đem cơm hỏi rằng:
    - Sao anh biết anh em tôi đến đây mà đem cơm cho ăn?
    Đáp rằng: Sớm mơi có một ông thầy mặc áo vàng đến xóm tôi xin, nói có năm người đệ-tử ở Sơn-Đông đưa linh-cữu lên đây xin một bữa cơm. Ông chủ tôi làm việc lành, nghe nói nên bảo tôi đem cơm đến đây. Trường-Xuân nghe nói sinh nghi. Ngày sau đến bữa cơm sớm, giả nói đau bụng muốn vô trong xóm xin nước nóng uống, cầu Lưu-Trường-sinh khiêng thế, Trường-sinh chịu khiêng, đưa gánh đồ giao cho ông Khưu rồi đi khiêng. Ông Khưu gánh đồ đi trước mấy dặm, quả thấy có một ông thầy mặc áo vàng giống in thầy mình. Khưu-Trường Xuân chạy theo tới nắm áo quì xuống thưa rằng:
    - Có đệ tử lại hầu. Trùng-Dương tiên-sinh ngó lại thấy Trường-Xuân giận trách rằng: Ngươi thiệt là tạo nghiệt, chẳng biết việc trời đất dinh hư tiêu trưởng, chỗ đạo cần giấu, hay làm hơi lanh giỏi, tiết lậu Thiên-cơ, như vậy ngày sau phải bị 3 năm ma khảo, việc đó thiệt tại mình làm tội. Nói rồi hóa trận thanh-phong biến mất.
    Trường-Xuân lấy làm hối ngộ, rồi thấy linh-cữu khiêng tới lật đật lại khiêng, giao gánh đồ cho Lưu-Trường-sinh. Từ đó đến sau không ai đem cơm cho ăn nữa. May nhờ có Mã-Đơn-Dương cho tiền sở phí, không thôi phải chịu đói. Rồi đi thêm nửa tháng mới tới Trường-An, tại núi Chung-Nam, khi không dây đứt, linh-cữu rớt xuống đất. Khưu Trường-Xuân thấy xóm trước có một ông già đứng ngó, lật đật chạy lại bái lễ, chưa kịp mở miệng, ông già liền hỏi rằng: Mấy người phải ở Sơn-Đông khiêng linh-cữu đến đây chăng? Trường-Xuân đáp:
    - Phải, sao ông biết? Ông già rằng:
    - Hồi hôm tôi nằm chiêm-bao thấy Vương-Hiếu Liêm nói ông chết rồi, có năm người học trò đưa linh-cữu ở Sơn Đông đem về đây, nói với tôi xin một chỗ huyệt mã đặng chôn ông. Tôi nhớ tình anh em khi xưa giao kết tại tỉnh thành thi cử thương nhau; nghe ông nói xin tôi chịu cho, hỏi chừng nào chôn, ông nói ngày mai, giờ Ngọ. Tôi tỉnh dậy mới biết chiêm bao, nửa tin nửa nghi, ra coi mấy lần thấy mấy ông khiêng linh cữu rớt xuống đất tôi.
    Trường-Xuân đem việc thầy dặn khiêng đến chỗ nào dây đứt là chỗ chôn thầy, thuật hết cho ông nghe. Ông già nghe nói rất mừng, liền vô kêu mấy người trong nhà đem cuốc xuổng đến trước linh-cữu, khiêng dời quan tài để một bên đào huyệt tại chỗ đó an-táng, đắp lên thành cái mộ lớn. Khưu-Trường-Xuân mấy ông lạy tạ ông chủ cùng mấy người chôn. Ông già thỉnh mấy ông về ăn cơm chay. Khưu, Lưu mấy ông đi ăn rồi đến tạ ơn chủ nhà, lại hỏi thăm đường đi Đại-Ngụy Thôn. Mấy người đều làm lễ ra đi.
    Đưa Thầy về Tây là việc phải,
    Tầm Đạo qua Đông đặng thành chân.
  8. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 16​
    Đại-Ngụy-Thôn, Tam-lão đàm vãng sự,
    Tấn-Thành kiều, nhất ngôn chi mê đồ
    Nghĩa là:
    Đại-Ngụy-Thôn có ông Tam-lão nói việc trước,
    Cầu Tấn-Thành, một lời chỉ đường mê.​
    Có bài kệ rằng:
    Muôn chuyển thân như chẳng động châu,
    Gió đưa sóng dập khó nên thâu,
    Nước trôi cầm chặt chèo cùng bánh,
    Đường thẳng nhẹ buồm đến ngạn đầu.
    Lại nói Khưu-Trường-Xuân cùng mấy anh em tới chỗ Hàm Dương Đại-Ngụy-Thôn, thấy nhà cửa tan hoang, có ông Vương Tam-Lão ngồi trước cửa miễu. Trường-Xuân bước lại làm lễ, hỏi thăm nhà ông Vương-Hiếu-Liêm. Ông đáp rằng:
    - Mấy người hỏi nhà Hiếu-Liêm bộ cũng có bà con cùng ông chăng? Trường-Xuân nói:
    - Có, ông là thầy của anh em tôi ở tại Sơn Đông dạy Đạo. Nay thầy tôi qui Tây, anh em tôi đưa linh-cữu về đây xin đất chôn tại nơi chân núi Chung-Nam. Nay muốn trở về Sơn-Đông, nên lại đây hỏi thăm nhà thầy tôi và bà con mạnh giỏi. Ông già nghe nói than một tiếng:
    - Hỡi ôi! Anh Hiếu-Liêm là anh bà con của tôi. Tôi thứ ba, nên người kêu tôi là Vương-Tam Lão. Từ ảnh đi tu đến nay, vợ là Châu-Thị bị lo mà thành bệnh nên mãn phần rồi. Con ảnh tên Thu-Lan đi theo bên chồng chừng một năm mới về một lần. Nhà ảnh bây giờ không có ai. Trường-Xuân lại hỏi:
    - Trong xóm này sao mà coi hư tệ dữ vậy? Vương-Tam-Lão than rằng:
    - Từ anh tôi đi rồi thì trong thôn không ai làm đầu, nhà ai nấy lo, có việc không người ra làm đầu tính liệu, nên phận ai nấy giữ, bỏ lâu phải hư. Sau lại nghe Hiếu Liêm thành Tiên rồi, người người đều nói phong thủy đường long bị ảnh lấy đi, đem các việc tội đổ về cho ảnh. Khưu-Trường-Xuân hỏi:
    - Sao biết ổng thành Tiên? Vương-Tam-Lão chỉ cái miếu nói rằng:
    - Miễu đó Nam Bắc hai thôn người ta làm cho ảnh. Mấy ông vô coi thì biết. Nói rồi mấy ông đi vào miễu, quả thấy trên bàn để ngồi cốt tượng của thầy y như người sống, đều đến trước làm lễ. Thấy trên khuôn biển biên bốn chữ: ?oĐinh hồ nhân hào?, hai bên có treo đôi liễn đề:
    Hiển đạo thuật ư Hàm-Dương, phúng tửu diệt hỏa,
    Thi ân quan du cố lý, thi phù khu ôn.
    Khưu, Lưu mấy ông coi rồi chẳng biết duyên cớ làm sao liền hỏi Vương-Tam-Lão
    - ?odiệt hỏa khu ôn? không biết ý chi? Vương-Tam-Lão nói:
    - Năm đó tại đây bị ôn dịch truyền nhiễm nhiều người, may có ông đạo mặc áo vàng vẽ bùa son thí cho trong xóm không lấy tiền. Ai đặng bùa linh dán trước cửa thì khỏi bị ôn dịch.
    Sau nghe người nói chợ Hàm-Dương bị lửa cháy dữ không tắt, rồi thấy có một người đạo-sĩ mặc áo vàng ở trong tiệm rượu đi ra, tay bưng chén rượu hớp trong miệng, phun trên lửa tắt liền. Người trong chợ cảm ông có ơn cứu lửa khỏi tai nạn, đều lại hỏi ông tên họ chi? Ông nói:
    - 3 ngang một sổ là họ, 3 sĩ có khẩu là tên. Nói rồi liền đi mất.
    Sau lại có mấy người bàn ra hai chữ đó, 3 ngang 1 sổ là chữ Vương, 3 sĩ có khẩu là chữ Hỷ, chắc là Vương-Hỷ. Nói rồi truyền ra trong xóm, tôi mới biết là ông thành Thần Tiên rồi.
    Trong họ tôi, có chị Vương-Má-Má, hồi mãn phần có nói rằng:
    - Chú Hiếu-Liêm mặc áo vàng đến rước tôi đi.
    Nên Nam Bắc hai thôn cám ơn ông cứu hộ, chung tiền làm một cái miễu đặng trả đức cho ông. Trên vách có treo tấm bảng nói việc đó, mấy ông coi thì biết. Khưu, Lưu mấy người lại coi, thấy đề rằng: ?oTỏ nghe việc người có công nơi Nhà nước cùng có đức với dân nên phải thờ đó.
    Xóm tôi có ông Vương-Công tên Hỷ thiệt người dị nhân, tuổi còn nhỏ đọc thơ, lớn lên tập võ thi đậu làm chức Hiếu-Liêm sau giả bệnh phong điên chẳng nói, người chưa hiểu việc động tịnh của ông, dưỡng bệnh 12 năm không ra khỏi cửa. Bữa nọ ẩn mất chẳng biết là đi đâu, bốn phía kiếm tầm không rõ tông tích. Rồi sau trong thôn khởi bệnh ôn-dịch, ông thí bùa cứu hết bảo toàn Tính mạng cho thiên hạ rất nhiều. Trong xóm người người đều nhờ ân huệ. Còn chợ Hàm-Dương lửa cháy phun rượu tắt liền, giấu tiếng để tên, độ chị dâu lên trời, hộ hương nhân nhờ phước. Ông vì không quên xóm làng mà người trong xóm làng nào dám quên ơn ông; lẽ nào lại không cúng tế, nên anh em tôi hội nghị làm cái miễu lên cốt tượng thờ ông, thường năm chiêm ngưỡng đặng trả ơn huệ ấy của ông.?
    Khưu, Lưu mấy người xem rồi than rằng:
    - Thầy thiệt là thần cơ khó hiểu, biến hóa vô cùng, bạn ta không biết đặng.
    Rồi thấy Vương-Tam-Lão kêu một người nhỏ nói chi không biết, người nhỏ gật đầu, kế một hồi thấy có một người xách cái giỏ đem đồ ăn lại, mời quí thầy đạo hữu dùng cơm. Vương-Tam-Lão nói:
    - Nhờ quí thầy đưa linh-cữu anh tôi về xứ, lại tới thăm nhà nữa, không có chi trọng đãi, xin vui lòng đa thiểu.
    Mấy người thấy vậy liền ngồi lại ăn. Bữa đó ngủ tại trong miễu, nhiều người tới hỏi thăm. Bữa sau trời gần sáng có bảy tám người đem cơm cho mấy ông ăn, mà ăn sao cho hết! Rồi mỗi nhà đem lại dùng một chút lấy thảo. Lưu-Trường-sinh nói cùng anh em rằng:
    - Nay tiền sở phí của Mã sư-huynh cho còn dư lại mười mấy lượng giao cho Vương-Lão đặng bồi sửa miễu thầy. Mấy anh em đều vui lòng giao cho ông, xin ông ở đó bồi sửa giùm. Khưu, Lưu mấy ông giao rồi thưa đi, hồi lâu khỏi Đại Ngụy thôn hơn mười mấy dặm, tới gốc cây lớn ngồi nghỉ. Đàm-Trường-chân nói: -
    - Bạn mình đưa thầy về Tây việc lớn đã rồi, bằng trở lại Sơn-Đông nữa cũng ăn xài tiền bạc của Mã sư huynh không nên. Lời tục thường nói: ?oNào có tiệc rượu tựu rồi không tan. Đạo chẳng luyến tình, luyến tình chẳng phải Đạo?. ở lâu chắc thiên hạ sinh nghi, chẳng bằng một người đi một xứ, đặng vui riêng tự toại. Vương, Xích mấy ông cười nói rằng:
    - Sư huynh luận phải. Nói rồi Lưu-Trường-sinh đi phía Đông-Nam, Vương-Ngọc Dương đi phía Tây-Nam, Đàm-Trường-chân qua phía Bắc, Xích-Thái-Cổ qua phía Đông.
    Khưu-Trường-Xuân thấy mấy ông đi hết rồi nói thầm, thôi mình ở lại Xiểm-Tây xin ăn, vì mình phước mọn đức ít thì phải khổ tâm, khổ chí tu hành mới đặng việc.
    Lại nói qua Xích-Thái-Cổ đi tới đất Tấn, thấy một cái cầu đá, dưới chân cầu có tám chín cái động cũng là Trời sinh đá như vậy. Mỗi năm đến mùa Thu, Đông, nước dưới sông cạn, thường có mấy người nghèo tị nạn vào động mà ở. Xích-Thái-Cổ thấy dưới cầu sạch sẽ, khi đó nước cạn, ông vào dưới cầu ngồi tu, trước không ai biết, thiệt cũng thanh tịnh, sau lần lần có người biết mới gây ra việc khiên triền, cảm động mấy người ở gần, thấy ông thường thường ngồi hoài nên biết là người tu hành, họ hay đem cho đồ ăn. Ông ăn dư thường để lại trước mặt, bị chim cò tha đi rớt cùng đường, hoặc dưới nước. Trẻ nhỏ thấy lượm ăn rồi kiếm lần tới chân cầu đến trước chỗ Thái-Cổ ngồi mà giỡn hớt. Thấy ông ngồi hoài chẳng động cũng như cốt cây hình đất, chúng nó lại tưởng ông như một vị Bồ-Tát, muốn làm miễu thờ ông, mới lấy đá sắp hai bên làm tường, cây lá che kín thành cái miễu. Mỗi ngày chúng nó ăn cơm rồi tới miễu bái lạy chơi giỡn, bữa nào cũng vậy. Xích-Thái-Cổ là người tu đặng tịnh dưỡng cũng không nói động, để chúng nó mặc tình, thiệt là có ít người như vậy!
    Cách ít ngày, xóm trước làm chay, hội Quan-Âm, mấy đứa trẻ đi coi hội hết, thiệt là thanh tịnh. Rồi Xích-Thái-Cổ thấy một người ngồi dưới cầu lấy cục đá mài hoài; mài một hồi lâu lấy lên coi, hơn mấy chục lần tiêu hết miếng này tới miếng khác, mà không thấy làm việc chi. Mài ra như bùn rồi lại lấy miếng khác mài nữa. Ông thấy vậy sợ uổng phí công phu của y, ông muốn chỉ dạy việc lành nên kêu hỏi: Ông mài đá muốn làm việc chi?
    Đáp rằng: Muốn làm đồ. Xích-Thái-Cổ nói:
    - Như muốn làm cái chi trước phải định chắc, hoặc chỗ cao sửa bằng, chỗ tròn sửa vuông, phải có phép tắc mới là nên đồ tốt. Ông nay chẳng dụng cái qui-củ, cứ ngồi mài hoài như vậy sao cho đặng thành công?
    Người ấy đáp: Tôi muốn mài đá ấy cho sáng mà làm cái kiếng thường ngày soi mặt.
    Xích-Thái-Cổ cười rằng:
    - Đá là đồ đất, làm sao mà mài cho thành kiếng soi đặng? Há chẳng uổng phí công-phu?
    Người ấy cười lớn rằng:
    - Như lời ông nói tôi mài không thành kiếng, còn ông ngồi hoài như vậy đặng thành Tiên hay sao? Tưởng lại một việc ngồi hoài nào khác tôi mài đá mà thành kiếng!
    Xích-Thái-Cổ nghe nói giựt mình thức tỉnh, lật đật đến trước mặt người, ý muốn xin cầu dạy. Người đó liền đi, không hỏi chi đặng. Xích-Thái-Cổ biết là người dị nhân đến đây chỉ điểm cho mình, như mình ngồi khổ tọa thiệt không ích. Nghĩ rồi sửa soạn lấy đồ đi liền, đi khỏi cầu Tân-An qua xứ U-Yên.
    Có bài kệ rằng:
    Mài gạch làm gương phí công-phu,
    Ngồi thoàn khống tọa khí tiêu khô,
    Hai việc đều là không đặng sức,
    Một lời nói tỉnh phá mê đồ.
    Chẳng nói việc Xích-Thái-Cổ du Bắc, lại nói việc Đàm Trường-chân qua Nam, bữa đó đi tới đất Bắc-Tỳ-Châu, trời gần tối không có đình miễu chi hết, lại không có ngủ, thấy có một sở nhà lớn, ý muốn lại nghỉ nhờ đặng xin cơm ăn. Đi gần tới cửa thấy một người đi ra, chắc là chủ nhà, người đó họ Cổ, tự Trúc Thành, hiệu Dủ-Phong, khi trước cũng người ham Đạo, vì bị mấy người đạo chẳng lành giả hình tướng làm như người Thần Tiên, lường gạt tiền bạc của ông hết mấy lần, nên ông thấy mấy người đạo tới ông ghét lắm; vì bị kẻ trước làm quấy mà lụy đến người sau. Dủ-Phong thấy Đàm-Trường-chân đi lại liền la một tiếng lớn rằng:
    - Đạo-sĩ đừng tới xóm tôi nữa, tôi với người tăng đạo không có duyên. Đàm-Trường-chân nghe nói trong ý lại muốn độ ông.
    Ý muốn người ta tin phục mình,
    Phải đem việc mình mà phục người.
  9. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 17​
    Hí Hỷ-Hồng định kế thoát thân,
    Nạn Hồn-Nhiên đương chân bàn đạo
    Nghĩa là:
    Giỡn con Hỷ-Hồng phải định kế thoát thân,
    Nạn ông Hồn-Nhiên đem lời chân giảng Đạo.​
    Có bài kệ rằng:
    Cảnh lòng nguyên phải sáng tỏ mình,
    Chớ bị việc lầm mất chỗ tin,
    Ngày trước đã cho người giả gạt,
    Nay gặp người hiền lại hãi kinh.
    Lại nói Đàm-Trường-chân thấy Cổ-Dủ-Phong có mấy lần chí lành, ý muốn độ, ai dè chẳng đợi ông mở miệng, nói trước rằng:
    - Người đạo chẳng khá nói nhiều, ta đã nghe qua rồi, ngươi nay nói nữa ta cũng chẳng tin. Ta bị bạn ngươi gạt nhiều lần, có chỗ nào tu hành mà nói. Ta coi lại là người kiếm ăn, nói rồi bỏ vô không ra.
    Đàm-Trường-chân nghe nói mấy lời hủy báng trong đạo không chút nào yêu mến, trong lòng muốn ra mở mang cho đạo. Lúc ấy trời gần tối, ông lại trước cửa ngồi nghỉ. Mấy người tớ ra đuổi ông đi, lấy một thùng nước tạt ướt chỗ cửa rồi đi vô đóng lại. Đàm-Trường-chân thấy làm ác như vậy, liền ra ngoài đường. Đêm đó trời mưa tuyết lớn nước đặc hơn một thước. Đến sáng mấy người trong nhà ra coi, thấy Đàm-Trường-chân ngồi giữa trời, chung quanh tuyết đông đặc lên cao, lại gần một bên ông coi chẳng có chút nào, liền báo cho chủ hay. Dủ-Phong nghe nói ra coi thấy bên mình ông hơi lên cao nghi-ngút, biết là người có đạo, liền mời ông về nhà, đãi theo bực khách trọng. Nói rằng:
    - Chẳng phải tôi không tin đạo, vì trong đạo không có người chân, phải đặng như ông chí tu khổ hạnh như vầy ai mà chẳng tuân kỉnh, ai mà dám hủy báng trong đạo. Tôi nguyện nuôi ông trong nhà tôi năm ba năm, hoặc mấy mươi năm tôi cũng vui lòng. Thôi để chọn ngày tốt, nguyện cầu ông làm thầy, chẳng biết ông chịu chăng?
    Đàm-Trường-chân trong ý muốn khai hóa y, nay thấy y có lòng ăn-năn tự hối, tín tâm kỉnh phục, gật đầu chịu lãnh. Dủ Phong vui mừng liền sai gia tướng lại trước nhà quét dọn căn phòng sạch-sẽ thỉnh Đàm-Trường-chân vào đó tu hành. Hàng ngày cơm nước tinh tấn chẳng trễ, và có cho một đứa tớ gái tên Hỷ-Hồng lo việc phụng sự cho Đàm-Trường-chân trà nước thường hoài vì ông là người đạo đức tôn trọng, diệu lý vô cùng. Thoạt thấy ngày tháng lẹ mau, ở đó hơn nửa năm chẳng thấy Dủ-Phong hỏi thăm việc Đạo, xét coi y tâm ý ham Đạo, thiệt chẳng phải muốn học Đạo. Muốn cho người thọ lấy của y đặng y có lòng cúng dường, thế là y lập phước ý muốn mượn người tu hành giùm đặng sau hưởng phước huệ mà thôi. Đàm-Trường chân biết thấu lòng ý của y nên chẳng muốn ở nữa, cũng không chịu lãnh của tiền. Đôi lần muốn đi mà Dủ-Phong cầm hoài không cho đi, lại bảo mấy người trong nhà coi giữ, nên Đàm Trường-chân đi mấy lần bị người cản, đi không đặng. Rồi ông tưởng ra một kế phải làm như vầy... mới đặng ra khỏi nhà. Một lát con Hỷ-Hồng đem trà, Đàm-Trường-chân giả ý nắm tay Hỷ Hồng nói rằng:
    - Tay ngươi mềm như bột. Hỷ-Hồng mắc cở nói:
    - Như mực một thứ! Ông đừng cười tôi.
    Liền đi ra ngoài và thưa cho bà hay. Bà nghe nói trong ý bất bình kêu chồng nói rằng:
    - Đàm sư-phụ giỡn hớt con Hỷ-Hồng, sợ chẳng phải người tu chân đó ông! Thôi bảo ổng đi cho sớm. Dủ-Phong nghe nói không tin, e Hỷ-Hồng làm biếng chẳng chịu phục sự bày việc nói dối. Bà nghe ông nói như vậy trở nghi Hỷ Hồng có ý đó. Hỷ-Hồng nghe vậy chẳng dám nói nữa. Qua bữa sau, Dủ-Phong thấy Hỷ-Hồng đem trà, ông lén theo sau rình, quả thấy Đàm-Trường-chân nắm tay Hỷ-Hồng cười rằng:
    - Tay nàng như bông.
    Dủ-Phong nghe nói liền muốn bảo ông đi, lại nhớ mấy lần ông muốn đi tại mình cầm lại, nay mình đuổi ổng ra thời việc do nơi mình bất nhân, chẳng bằng viết ít lời dán trên vách, ổng thấy mắc cở tự nhiên phải đi, mình khỏi mang tiếng ác. Rồi bảo mấy người trong nhà thấy ổng đi đừng có cản. Dủ-Phong sắp đặt rồi bửa sau tới bữa cơm sớm, Đàm Trường-chân không thấy Hỷ-Hồng đem trà nước lại nữa, biết là kế đã thành liền ra ngoài coi thấy trên vách dán một cái thiệp viết bốn câu rằng:
    Gió tây đem thổi tuyết bông bay,
    Ngồi lạnh bồ-đoàn niệm ý sai,
    Chớ nói trẻ thơ tay tợ ngọc,
    Trách phận mình làm chớ tại ai!
    Đàm-Trường-chân cười, trở vô phòng lấy bút viết bốn câu dán kế bên đó, rồi sửa soạn gói đồ ra trước nhà, nói lớn hai tiếng ?oTạ ơn?. Không ai trả lời, rồi ra cửa qua phía Nam ở hai năm, sau trở lại phía Bắc.
    Nói về mấy đứa tớ nhà ông Dủ-Phong, vì nghe lời chủ dạy như Đàm-Trường-chân có đi đừng cản nữa, nên khi thấy ông ra đi, mấy đứa đều trốn hết để ông đi rồi mới thưa cho chủ hay. Dủ Phong nghe nói đến sau phòng thấy có biên thêm 4 câu rằng:
    Chớ lời tiết nguyệt với phong hoa,
    Tâm chánh nào lo tiếng vạy tà,
    Chẳng nói Hỷ-Hồng tay tợ ngọc,
    Thân này chắc bị tại trung-oa (hang ếch).
    Bởi Đàm-Trường-chân muốn độ người học đạo chớ không ham cúng dường. Còn Dủ-Phong là người giả đặng cầu danh mà thôi, nên ông không chịu, phải giả kế mà thoát thân, không ăn của vô đạo, nếu như ở đó cũng như ở trong hang ếch. Khi đó Cổ-Dủ-Phong thấy 4 câu kệ của ông, chống tay nghĩ thầm lời hiền có nói:
    - ?oNgười quân tử đi học đạo, thời muốn tầm người ham đạo, mến đạo mới vui?.
    Vì biết mình cầu danh mà hưởng phước nên ông lập kế biến việc như vậy, chớ không phải là người háo sắc. Lúc đó mới biết Đàm-Trường-chân nói giỡn với Hỷ-Hồng đặng cho có lý sự mà kiếm nẻo thoát thân. Chừng ấy than tiếc không cùng!
    Lại nói Vương-Ngọc-Dương từ khi ở Đại-Ngụy thôn, mấy người anh em đạo hữu phân ly nhau, ông đi đến đất Phong Châu. Chỗ Phong-Châu đường phía Bắc có một ông quan họ Diệu tự Sùng-Bao, làm quan tại phủ Tân-An. Vì coi thấy cuộc đời hết muốn việc quyền tước, xin nghỉ về làng để vui thú điền viên. bình sinh chỉ ham học đạo, thấy người tu hành như gặp bà con, thân quyến, không luận giàu nghèo, hay dở, cũng mời về nhà đàm luận việc tu. Gần bên ông có cái chùa hiệu là ?oNgộ Tiên Quang?, người chủ trì cũng người giữ đạo, thường hay có đạo-sĩ ở ngủ nhờ. Ông Diệu-Quang có dặn trước người giữ chùa, phàm có người học đạo tới nghỉ thì cho ông hay.
    Khi kia có đến một người không phải đạo-sĩ cũng không phải thầy chùa, hay nói việc tu hành, tự xưng mình có đạo, thường khoe nói:
    - Ta nay 96 tuổi, thường gặp Trương-Tam Phong cùng Lã-Động-Tân mấy lần, còn Đạt-Ma Tổ-Sư là thầy ta, Tế-Điên Hòa-Thượng là anh em bạn ta, ta ngồi công-phu một hai ngày chẳng mỏi. Lại khoe độ người không biết bao nhiêu mà kể. Người giữ chùa nghe nói liền hỏi:
    - Xin lỗi ông cho tôi biết danh Tính. Ông rằng:
    - Hiệu ta là Hồn-Nhiên-Tử.
    Người ấy liền dẫn ra mắt ông Diệu-Quang. Vừa tới nhà, ông ấy liền nói:
    - Hòa-thượng là quỉ đói, chỗ sắc tướng; còn đạo-sĩ ma vương chỗ khí; như vậy làm sao đặng thành Tiên Phật? Nào có đặng như tôi muôn việc coi thấu, chút trần chẳng nhiễm, mới gọi người chân-tu học đạo, phải học theo đạo tôi thì sống đặng trăm tuổi...
    Diệu-Quang Tính hay ham cao háo thắng, nghe nói trong lòng vui mừng, liền cầu cho ông thọ giáo làm thầy nuôi tại trong nhà. Ông ở đó ăn nói không chút vị ai, câu nào nói ra thời bỉ bạc thầy chùa, đạo sĩ. Khi đó ông đạo ở chùa ?oNgộ-Tiên-Quang? đứng một bên nghe ổng nói hủy báng tăng đạo, trong lòng chẳng phục, thầm tưởng ông này thiệt chẳng biết lễ nghi phải quấy, mình đã tử tế có ý đem tiến ổng đặng hưởng chỗ cúng dường, là vì mình thương người tu hành, ổng lại trở báng xáng đạo tăng, chẳng biết coi trước coi sau. Muốn giở ngói trên nhà phải coi chừng dưới đất thời mới gọi là người tu hành chính ý. Đã trước mặt mình mà không vị. ổng thấy Diệu-Quang kính trọng, ổng trở lại khinh tiện bạn mình, thiệt người không hậu. Tôi phải kiếm một người biết đạo tham-thiền công-phu cho hơn ổng đặng bỉ-bạc trả hờn tôi mới vừa ý. Tưởng rồi liền kiếu ra về. Cách ít bữa, may có Vương-Ngọc-Dương tới hỏi ở nhờ. Ông chủ chùa thấy Ngọc-Dương khí tượng hẳn hòi, chắc là người có đạo, thấy trọn ngày ngồi công-phu hoài, mà tinh thần thêm tráng kiện. Nghĩ thầm muốn phá ông già kia chắc phải cầu ông già này mới đặng.
    Muốn nói việc tỏ rõ cho ông nghe mà sợ ổng không đi bèn sinh một kế, nói cùng Vương-Ngọc-Dương rằng:
    - Trong nhà của Diệu-Quang có tới một người tu hành giỏi, ngồi công-phu mười mấy ngày chẳng mỏi. Tôi nay muốn cùng đạo hữu qua đó thăm chơi, chẳng biết đạo hữu chịu chăng? Vương-Ngọc-Dương nghe nói cũng mừng, hai đàng liền sửa soạn qua đến nhà Diệu Quang, mấy người coi cửa vô báo cho Diệu-Quang hay, ông liền ra nghinh tiếp, đồng đến nhà khách trà nước chưa kịp hỏi thăm liền thấy một ông đầu bạc đi ra. Vương-Ngọc-Dương thấy người xanh, mày to, mắt nhỏ, mủi đảnh, trán vồ, môi chì, răng sún, miệng tròn, tai lớn, có ít sợi râu rìa, trên đầu có ít chòm tóc bạc, giống như bà già lại ngồi trên ghế giữa. Ông chủ chùa nói với Ngọc-Dương rằng: Ông đây là người đại tu hành, tôi tỏ cùng sư huynh hồi sớm đó.
    Ngọc-Dương nghe nói lật đật đứng dậy chắp tay chào sư huynh. Ông ấy ngồi nghe chẳng hề đáp lễ, ý gọi mình là cao rồi, nên coi Ngọc-Dương không ra gì, liền hỏi:
    - này đạo, ?oHoặc thị tài hoa hay là sáp liễu??
    Ngọc-Dương không biết ông nói việc chi, chưa kịp trả lời ông già lại hỏi: Mầy có vợ hay chưa?
    Ngọc-Dương tưởng ông hỏi theo việc tục, đáp rằng: Vợ tôi cũng có rồi, vì ra tu hành bỏ lại ở nhà.
    Hồn-Nhiên-Tử cười lớn rằng:
    - Uổng cho mày ra tu hành, hỏi có mấy câu cũng không biết. Ta hỏi mầy tài hoa, là hỏi phải thiếu niên xuất gia chăng? Còn sáp liễu là hỏi phải trung niên xuất gia chăng? Hỏi mầy có vợ chưa là hỏi đặng chân âm tiêu tức hay chưa? Mầy lại đem lời tục nói chuyện. Thiệt là người không biết đạo. Bằng đem việc hoài thai hỏi mầy nữa càng thêm không biết! (Thiệt Hồn-Nhiên-Tử chẳng biết một chút khiêm nhường, trước mặt mà chê tệ người ta.)
    Ngọc-Dương Tính dung người nên không trách, dòm thấy ông chủ chùa mặt biến sắc, trong ý y chắc là mình thua nên mặt biến sắc như vậy. Thôi phải biện nói ít câu đặng cứu cái thể diện của y. Liền cười nói rằng: Hồi nãy thầy hỏi việc ?ochân âm?, không biết cái chân âm đó là vật chi? Còn nói ?ohoài thai? mà cái thai đó tùng ở đâu mà kiết? Hoài là vật chi? Hồn-Nhiên-Tử không biết, nín một hồi lâu trả lời không đặng, vùng cười rằng: Huyền cơ chẳng khá tiết lậu, nào đặng nói cho mầy nghe.
    Người chủ chùa thấy ông ấy nói gượng, biết là ông không hiểu, liền thưa Ngọc-Dương rằng:
    - Vậy cầu sư huynh phân giải, chắc ổng không biết, xin đừng hỏi nữa.
  10. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hồi 18​
    Vương-Ngọc-Dương dĩ chân phục giả,
    Đàm-Trường-chân thuyết cổ đàm kim
    Nghĩa là:
    Vương-Ngọc-Dương lấy chân mà phục giả,
    Đàm-Trường-chân giảng xưa mà tỉnh nay.​

    Có bài kệ rằng:
    Nghe nói Tây-Phương chưởng kim liên,
    Bông khai mười trượng cử như thuyền,
    Linh đài bèn có kỳ viên thọ,
    bản địa phong quang thiệt Phật thiên.
    Lại nói Vương-Ngọc-Dương đem mấy câu thiết yếu hỏi, ông Hồn-Nhiên-Tử trả lời không đặng, đúng là:
    Nhiều lần khoe nói dối,
    Rồi hỏi, đáp không ra.
    Người chủ chùa vổ tay cười lớn rằng:
    - Đạo huynh nói đi, xin đừng vấn nạn, nhắm ông không hiểu đâu.
    Hồn-Nhiên-Tử nghe nói mình không biết liền nổi giận, hai đàng đấu khẩu. Ngọc-Dương lấy lời hòa giải nói rằng:
    - Lão tiên sinh chẳng phải không biết, vì không dám nói tiết lậu thiên cơ. Nay để tôi đem mấy lời phân luận cho quí thầy xét thử coi phải hay không. Vì chân-âm chân-dương là hai khí âm dương. Khí chân-dương hay ẩn tại can, khí chân-âm hay tụ tại phế. Cang thuộc mộc là chỗ tụ hồn. Phế thuộc kim là chỗ ẩn phách. Kim là đài núi, mộc là chấn nam. Mộc vượng nơi Đông, kim sinh tại Tây, nên gọi là ?oĐông gia lang, Tây xá nữ?.Như mà muốn kim mộc gặp nhau, thời phải hồn chẳng lìa phách, phách chẳng lìa hồn. Như chồng yêu vợ, vợ mến chồng, đó là cái nghĩa ?oâm dương? hội hiệp.
    Còn lão tiên-sinh hỏi tôi có gia thất chưa, là mượn ý Huỳnh Bà dẫn dắt, đặng cho kim mộc hai đàng không ly cách mới gọi như chồng vợ thương nhau khắng khít. Bởi cái ý thuộc ?oThổ? hay nhiều việc ?oTình?, sắc vàng mà ham vọng động, nên thí dụ là ?oHuỳnh-Bà?.
    Còn Đông Tây qua lại hơi thông hai nhà cũng như bà mai vậy. Còn nói việc hoài thai là nói cái chân khí ngưng kiết tại đơn điền, gọi hình có thai. chân-khí đầy đủ thì phát hiện làm ?oThần?, nên nói ?oThần? là con của khí, khí là mẹ của Thần. Bởi vậy hay nói ?oAnh-Nhi? giáng sinh, đến chừng đại đơn thành rồi khá sánh cùng trời đất đồng thể, cùng nhật nguyệt đồng sáng.
    Diệu-Quang nghe mấy lời vui mừng chẳng xiết, có ý hân hoan. Hồn-Nhiên-Tử thấy vậy sợ Ngọc-Dương dành chén cơm của y, liền nói lớn rằng: Người có đức chẳng cần nhiều lời, kẻ nhiều lời chẳng phải có đức. Mầy dám với tao ngồi công-phu hai ba ngày chẳng cần ăn uống, đặng vậy mới gọi là công-phu.
    Vương-Ngọc-Dương cười rằng:
    - Xin lỗi thầy, nhiều nữa tôi không dám, còn đôi ba ngày tôi xin chiều ý thầy.
    Nói rồi hai đàng liền ngồi tại khách đường công-phu. Hồn-Nhiên-Tử thường khi cũng ngồi đặng đôi ba ngày, nay vì muốn kình với Ngọc-Dương, ngặt trong lòng hơi giận nên ngồi không yên, sinh nhiều việc phiền não, rồi muốn tưởng uống trà, uống nước, một lát lại muốn đi đại, đi tiểu. Trọn ngày đi xuống hơn mấy chục lần. Qua đến bữa thứ nhì ngồi không đặng nữa, càng thêm ngủ trưa gục hoài, rồi đi xuống kiếm ăn, ngủ ngáy khò khò. Vương-Ngọc-Dương ngồi đến bữa thứ ba mới xuống. Trong mình lại có hơi tinh-thần thong thả. Diệu-Quang thấy vậy rất khen mừng:
    - Thiệt thầy công-phu lão tiên-sinh sánh chẳng kịp. Ngọc-Dương nói:
    - Chẳng phải lão tiên-sinh không bằng tôi, vì ổng già cả tuổi lớn, khí lực phải sau. Như tôi già bằng ổng ngồi nửa ngày cũng không đặng.
    Hồn-Nhiên-Tử nghe nói khiêm trong lòng cảm phục, lại nói chuyện với ông, lấy chỗ lễ nghi mà phân, chẳng dám tự cao tự đại nữa. Ngọc-Dương ở tại nhà Diệu-Quang mấy bữa, có dạy Hồn Nhiên ít đoạn công-phu, hai đàng thiệt cũng thương nhau. Bữa nọ Ngọc-Dương nói để qua chùa ?oNgộ-Tiên-Quang? lấy đồ. Đã mấy bữa chẳng thấy trở lại, Diệu-Quang sai gia tướng hỏi thăm ông chủ chùa, ông nói ổng về đây lấy đồ rồi đi liền. Chừng ấy nghe tin biết ông đi rồi, dậm chân than rằng:
    - Thiệt mình không có tiền duyên nên làm bạn với ông không đặng. Hồn-Nhiên-Tử nghe nói ông đi cũng có ý thương tiếc.
    Lại nói qua Lưu-Trường-sinh, từ cùng mấy người đạo hữu ly biệt đi qua Nam-du rồi trở lại Đông-Lỗ tại núi Thái-Sơn, buộc chí định tu ba năm đặng thành chính quả. Đêm nọ xuất Tính phi thăng lên cung Diêu-Trì, vô tham bái bà Vương-Mẫu. Thấy mấy Tiên-nữ đứng hai bên, ý tưởng trong thế gian ít người đặng vậy, khó vẽ, khó họa, khá thương, khá khen, rồi trong lòng niệm động, lén ngó mấy nàng Tiên-nữ. Vương-Mẫu ngó thấy trách rằng:
    - Sao ngươi lén nhìn Tiên-nữ? Ý muốn làm sao? Lưu-Trường-sinh nghe quở biết mình thất lễ, kinh sợ cúi đầu xin tội rằng:
    - Tôi thấy Tiên-nữ mặc áo bào, vô ý lén ngó, chớ thiệt không có ý chi lạ! Xin từ-ân dung thứ. Bà nói:
    - Chẳng phải ta không thương, vì trách ngươi việc nhân ngã còn sinh, điều sắc tướng chưa hết. Bằng như cho ngươi kim-đơn thành tựu cũng chẳng được siêu phàm nhập thánh. Nên phải trở lại thế gian, khổ tu khổ luyện cho dứt Tính phàm mới đặng chứng quả.
    Nói rồi liền sai Tiên-Quan đưa xuống cửa Nam Thiên, giựt mình thức dậy mới biết mình chiêm bao. Ngồi nghĩ thầm việc trên cung Diêu-Trì, thiệt là niệm sai một lỗi cũng khó thành! Lại nhớ thầy khi trước có nói, khen mình đơn đạo đặng tốt, mà bị bệnh sắc tướng chưa thông. Nay chiêm bao vào trong Diêu-Trì, Vương-Mẫu trách phạt, thầm nhớ mấy lời thầy nói trước không sai. Nay chẳng biết công-phu làm sao đặng trừ cho hết sắc tướng, ắt phải hạ san (xuống núi) đi tầm một người cao giỏi chỉ dạy. Nghĩ rồi hạ san đi hết mấy bữa, xảy đâu thấy Đàm Trường-chân hỏi thăm chuyện vãn việc trước một hồi. Lưu Trường-sinh nói:
    - Anh chẳng chịu lãnh của ông Dủ-Phong cúng dường việc ấy cũng phải. Còn tôi tại Diêu-Trì lầm ngó Tiên-nữ, việc ấy cũng đáng lỗi, là tại tôi không gìn giữ phép tắc nên mới động phàm tâm. Nay tôi muốn luyện cho hết sắc tướng, diệt cho dứt phàm tâm như như bất động, nhưng chưa biết tùng đâu mà luyện ra?
    Đàm-Trường-chân nói:
    - Tích xưa có Hứa-Tin-Vương (là Hứa-chân-Quân) khi còn nhỏ làm việc săn bắn. Bữa nọ đi trong núi, bắn nhằm con nai nhỏ, mang tên chạy trốn. Mấy người đi cùng ông kiếm tầm tột tới bên hố, thấy nai con bị tên nằm dưới đất, nai mẹ cắn cỏ nhổ cho con, lại liếm chỗ mũi tên mà sa nước mắt. Thấy người đi đến, nai mẹ vì thương con không đành bỏ chạy, thinh-không nhào xuống, mẹ con đều bị bắt hết. Bạn chủ đem về mổ ra thấy ruột nai mẹ đứt làm mấy đoạn. Nai con tuy bị thương mà ruột còn nguyên là vì còn khờ, còn nai mẹ vì thương con mà đứt ruột dường ấy!
    Hứa-Tin-Vương thấy vậy bất nhẫn, liền đem cung tên bỏ hết, vào núi tu, sau đặng thành chánh-quả.
    Nay mình ra tu biết cái nẻo ái-dục là mối chuyền hóa: người, thú, Tiên, Phật, cũng do đó mà thành. Vì 96 ức nguyên-nhân xuống trần, kẻ tu trước thành rồi thì về trước, người chưa tỉnh còn lại thì về sau.
    Đến nay mình ra tu, biết ăn miếng chay, lạy chung một bàn Phật thì coi cũng như Linh-Sơn cốt nhục! Cũng như cha mẹ một máu một thịt mà sinh, nào có chẳng thương nhau!
    Như nay sư huynh muốn trừ cái sắc tướng không không, tâm phàm đừng vọng thì tưởng như mẹ thương con mà đứt ruột liều mình. Còn anh thương em thể câu đồng bào thủ túc, có lẽ nào mà sinh biến các điều quấy đặng nữa?Nói về ông Hứa-Tin-Vương đặng thành chánh-quả rồi, ông muốn ra hóa độ thế gian. Ông lập ra một chỗ thuyết pháp, giảng Kinh dạy việc tu hành, thâu đặng hơn 100 đệ tử. Bữa nọ ông nói cùng đệ tử rằng: Mấy trò hơn 100 người chẳng phải ít, bỏ nhà theo đạo thiệt có lòng thành, hễ người tu hành trước phải trừ sắc tướng. Mấy trò như thấy nữ sắc có vọng trong lòng chăng?
    Mấy người thưa rằng: Như luận việc Tài, Khí cùng Tửu, hoặc ý đó chưa được sạch. Còn việc nữ sắc chắc bạn tôi đều bỏ hết, không ham.Hứa-Tin-Vương cười rằng: Mấy trò nói đặng trong sạch chớ ta e chưa được. Vì ta thấy bề ngoài các ngươi còn tư-vọng chưa có khắc cái ý cho tuyệt, nên ta sợ hậu nhật khó ngăn việc ấy.Các đệ tử rằng:
    - Bạn tôi không dám nói dối với thầy. Hứa-Tin-Vương nói:
    - Ta có phép thử biết giả chân, vậy mỗi người kiếm một cây than chừng 3 thước, để trên giường ngủ một đêm, sáng ngày phải đem giao cây than cho ta, rồi ta mới truyền cái công-phu huyền diệu.
    Mấy người nghe nói không biết ý chi, đều đi kiếm cây than để trên giường. Đêm ấy người người đều ngủ, tỉnh giấc ngồi dậy thấy một cô gái nằm dựa bên, dục ý khởi tâm, dằn giữ không đặng, chân dương tiết lậu. Kế nghe ngoài cửa kêu một tiếng lớn: Mau mau đem giao cây than, thầy đợi lâu rồi. Mấy người nghe kêu mà còn giựt mình ôm cây than, nghe ngoài kêu thúc mau mau. Ai nấy liền bận áo đem giao cây than.
    Ra ngoài thấy Hứa-Tin-Vương, người người đều thất sắc. Ngài bảo mấy trò đứng hai hàng, kêu từ người đem giao. Mấy người nghe nói chẳng dám trái lời. Người thứ nhất đem lại, Hứa Tin-Vương hỏi:
    - Ngươi đặng mấy mươi tuổi?
    Đáp: Thưa thầy, tôi 76 tuổi.
    Hứa-Tin-Vương nói: Ngươi nay tuổi đã lớn mà còn ham việc sắc dâm chẳng bỏ!
    Thưa rằng: Chẳng hay sao thầy biết tôi chẳng bỏ?
    Thầy rằng: Như ông nói không ham việc sắc mà cây than dường ấy? Ông nọ nghe nói dòm cây than nửa chừng biến sắc, coi bộ ngỡ-ngàng hổ thẹn! Nhớ lại hồi hôm tiết lậu chân dương mắc cở, gục đầu chẳng dám ngó lên nữa. Mấy người nghe thầy quở ông ấy, liền nhớ có giao hiệp với một nàng thiếu nữ ban đêm, đó là cây than biến ra như vậy! Mới biết là thầy thử mình, nên thảy đều ngậm miệng chẳng dám đem giao cây than. Kêu thúc mấy lần chẳng thấy một người dời bước, duy có một người mĩm cười đi lại giao cây than không có dấu chi hết.
    Hứa-Tin-Vương hỏi người ấy rằng: Việc sắc người nào cũng ham, sao trò không muốn?
    Đáp: Thưa thầy, tại vì đệ tử trong chỗ sắc mà sinh ra.
    Hứa-Tin-Vương lại hỏi: Trò lấy phép chi mà luyện?
    Thưa rằng: Phàm việc chi có lầm rồi mới có sợ. Ban đầu thấy sắc thì ham muốn cho đặng; chừng đặng rồi sớm vui chiều mừng. Lâu ngày thân suy khí yếu tật bệnh đều sinh mới biết lo Tính mạng, mới sợ mà lánh đó! Nay đối cảnh vong tình, mới tuyệt sự dục mà giữ mình. Vì tôi lúc còn nhỏ chơi-bời chẳng xét, trọn ngày nằm huê giỡn liễu, cả năm không về. Tưởng chỗ nhà điếm cũng như nhà mình, thường thấy nhiều người mỹ-mạo kiều tư nói chẳng xiết. Phong huê tiết nguyệt làm hại tinh thần, sợ muốn lánh mà lánh không đặng. Nay biết ăn-năn mới trốn lại đây mà học Đạo, đặng bảo toàn Tính mạng, chẳng chịu tham luyến về nữ sắc phấn son, tầm phương trừ ái-dục mới thoát nẻo luân hồi. Trước buộc chí tu hành, sau cửu-huyền siêu độ. Bởi biết nhiều thấy rộng chán trải thấu rồi, thường coi tích bà Vọng Phu mà giựt mình giác tỉnh, biết chắc lầm rồi.

Chia sẻ trang này