1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thấy gì qua từ chỉ giống và giới tính trong tiếng Việt ?

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Lissette, 18/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Lissette

    Lissette Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/04/2001
    Bài viết:
    2.619
    Đã được thích:
    0
    Thấy gì qua từ chỉ giống và giới tính trong tiếng Việt ?

    Một anh bạn nước ngoài vào chợ Hôm mua thực phẩm đã nói với người bán hàng rằng : ?oBà bán cho tôi một cái gà đực?. Thế là mấy người bán hàng cạnh đó cười rũ ra. Bà bán gà liền chỉnh lại : ?oKhông phải là ?ocái gà đực? mà là ?ocon gà sống? chứ?. Anh bạn nước ngoài ngẩn ra một lúc rồi lại nói : ?oTôi muốn mua gà chết chứ không mua gà sống?. Bà bán hàng lại bảo : ?oThế thì phải gọi là ?ogà mổ sẵn? chứ không phải là ?ogà chết? ? Câu chuyện mua gà của anh bạn nước ngoài nọ kết thúc ở đấy. Bởi vì, cuối cùng anh vẫn mua được ?ogà đực? ( tức gà sống ) và là ?ogà chết? ( tức ?ogà mổ sẵn? ).

    Chứng kiến tận mắt câu chuyện xảy ra ở trên, mặc dù cũng hiểu rằng việc dùng từ chỉ giống trong tiếng Việt vốn thật là phức tạp, tôi vẫn không khỏi băn khoăn. Rõ ràng là giống đực mà không ai nói ?ogà đực?, trong khi lại gọi là ?ovịt đực?, ?otrâu đực?, ?obò đực?, ?ochó đực? ? Rõ ràng là giống cái mà không ai nói ?ogà cái?, trong khi lại gọi là ?ovịt cái?, ?otrâu cái?, ?obò cái?, ?ochó cái? ? Riêng gà, chim thì thay vì dùng ?ođực, cái? người ta gọi là ?osống? ( hay ?otrống? ) và ?omái?. Còn lợn là động vật có vú như trâu, bò, chó ? lại có thêm một cách gọi nữa là ?ogiống (đực) và ?onái? (cái). Đặc biệt hơn, nếu con ?onái? đã đẻ quá nhiều hoặc chỉ được nuôi để sinh sản thì người ta gọi là ?osề? ( hay ?onái sề? ). Cũng có trường hợp dùng ?onái? với trâu cái, nhưng rất hiếm ; chẳng hạn trong tục ngữ có câu ?oRuộng sâu trâu nái, con gái đầu lòng?. Việc sử dụng từ chỉ giống ( hay giới tính ) đối với danh từ chỉ người trong tiếng Việt lại càng phức tạp.

    Trong khi giảng dạy về phạm trù giống ( ngữ pháp ) của các ngôn ngữ trên thế giới, chúng tôi nhận thấy người học thường có sự nhầm lẫn giữa giống ?" là một loại phạm trù ngữ pháp, với giống - thực chất là giới tính của người và động vật. Giống ngữ pháp gắn liền với hình thức của từ và thường được phân biệt thành bộ đôi là ?ođực? và ?ocái? hoặc thành bộ ba là ?ođực, cái và trung?. Danh từ trong tiếng Pháp có 2 giống, danh từ trong tiếng Nga có 3 giống. Đối với các ngôn ngữ có phạm trù giống, tất cả các danh từ đều phải thuộc về một giống nhất định, bất kể danh từ đó là danh từ chỉ động vật hay bất động vật. Chính vì vậy, có những trường hợp : cùng là danh từ chỉ bất động vật nhưng danh từ này lại là giống cái, danh từ kia lại là giống đực ; hoặc có trường hợp : một danh từ chỉ động vật có giống ngữ pháp đối lập với giống của động vật trong thực tế.

    Danh từ trong tiếng Việt không có giống ngữ pháp. Vì thế, vấn đề ?ogiống? ở tiếng Việt chỉ còn là chuyện giới tính của người và động vật mà thôi. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn chính là việc cấu tạo giống ở danh từ chỉ người và danh từ chỉ động vật lại không giống nhau.

    Đối với danh từ chỉ động vật, giống được thể hiện qua một kiểu kết cấu duy nhất là : Danh từ chỉ loài + yếu tố chỉ giống (đực, cái )
    VD : Gà trống ( sống ) ?" gà mái
    Trâu đực ?" trâu cái ( nái )
    Lợn giống ?" lợn nái ?
    Các danh từ chỉ người trong quan hệ thân tộc phần lớn đã gắn với giới tính. Điều đó có nghĩa là : yếu tố giới tính nằm ngay trong nghĩa từ vựng của danh từ chỉ người.
    VD : Ông, cha, thầy, tía, chú, cậu, anh ? là các từ có ý nghĩa giới tính nam
    Bà, mẹ, u, má, cô, dì, thím, chị ? là các từ có ý nghĩa giới tính nữ.
    Khi sử dụng chúng, người ta không cần phải kèm yếu tố chỉ giới tính nữa.

    Trường hợp ?oanh trai? và ?ochị gái? là một ngoại lệ. Ngoài ý nghĩa giới tính, chúng còn có ý nghĩa chỉ quan hệ ruột thịt. Người ta gọi anh ruột là anh trai, chị ruột là chị gái chứ không gọi anh họ, chị họ bằng cách đó.

    Các danh từ : cụ, bác, cháu, con, em ? không mang ý nghĩa giới tính xác định, vì thế lại có khả năng tham gia kết hợp để mang giới tính nam hoặc nữ. Để cấu tạo giới tính cho các danh từ này không khó khăn gì. Người ta chỉ cần đặt các cặp từ ?oông ?" bà? hoặc ?otrai ?" gái? vào ngay sau chúng :
    Cụ ông - cụ bà
    Bác trai ?" bác gái
    Cháu trai ?" cháu gái
    Con trai ?" con gái
    Em trai - em gái
    Ngoại lệ, từ ?obác? có thể kết hợp cả ?otrai ?" gái? và cả với ?oông ?" bà? để tạo ra hai biến thể :
    Bác trai ?" bác gái
    Và bác ông ?" bác bà ( xuất hiện ở phương ngữ miền Trung ).

    Có điều đáng chú ý là : khi cấu tạo giới tính cho một số danh từ chỉ người trong tiếng Việt, ta lại dùng những cặp từ vốn có giới tính như cặp ?oông - bà?, ?onam - nữ?, ?otrai ?" gái? để kết hợp. Như vậy, những cặp từ này là ?ođa chức năng? chứ không phải là những danh từ chỉ người thuần túy.

    Các danh từ chỉ người trong quan hệ xã hội hoặc các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, chức danh của tiếng Việt vì không có ý nghĩa giới tính tự thân, nên việc cấu tạo giới tính cũng chỉ đơn giản bằng cách duy nhất là kết hợp từ chỉ giới tính với chính những danh từ trên.

    Tuy nhiên, nhìn chung, việc lựa chọn ?oông ?" bà?, ?onam - nữ? hay ?otrai ?" gái? để kết hợp với một từ cụ thể nào lại không hoàn toàn giống nhau.
    Có những danh từ chỉ kết hợp với một trong các cặp nêu trên.
    Chẳng hạn danh từ giám đốc có thể dùng với cặp ?onam - nữ? chứ không dùng với cặp ?otrai ?" gái?. Người ta dùng :
    Giám đốc nam ?" giám đốc nữ
    chứ không dùng :
    Giám đốc trai ?" giám đốc gái
    Nhưng lại có những danh từ vừa kết hợp được với cặp ?onam - nữ? ( theo trật tự Hán - Việt ) kiểu :
    Nam dân quân - nữ dân quân
    Nam sinh viên - nữ sinh viên
    vừa kết hợp được với cặp ?otrai ?" gái? ( theo trật tự thuần Việt ) kiểu :
    Dân quân trai ?" dân quân gái
    Sinh viên trai ?" sinh viên gái

    Xin được nói thêm về một nghệ thuật truyền thống luôn gắn với ?ogiới tính nam? ?" đó là nghề thày giáo. Đối với nghề nghiệp này, người Việt chúng ta đã phải dùng một từ đối lập về giới tính - từ ?ocô? để chỉ người dạy học là nữ - ?ocô giáo?. Các từ Hán Việt khác đồng nghĩa với ?ocô giáo? hoặc ?othày giáo? vẫn được cấu tạo giới tính bằng quy tắc kết hợp từ chỉ giới tính ?onữ hoặc nam? với chúng :
    Nữ giáo viên ?" nam giáo viên
    Nữ giảng viên ?" nam giảng viên

    Với một cách nhìn khái quát, ta có thể nhận thấy : giống và giới tính của danh từ chỉ người và động vật trong tiếng Việt là một vấn đề không đơn giản. Một trong những lý do của hiện tượng này là vì có những danh từ tự thân mang ý nghĩa giới tính, còn một số danh từ khác lại không. Hơn nữa, riêng với các danh từ chỉ người không tự thân mang nghĩa giới tính thì việc cấu tạo giới tính cũng không thuần nhất mà linh hoạt và còn được giải thích bằng ngữ nghĩa của chúng nữa.

    ( sưu tầm )


    NEVER LEAVE ME
  2. homoerectus

    homoerectus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Bài trên của bé Lissette sưu tầm hay nhưng mà có chỗ này tầm bậy quá :
  3. n/a

    n/a Guest

    hờ hờ, em cũng công nhận chả ai nói thế, nghe cứ thế nào ý...nhưng ở đây chắc tác giả có ý nói về trật tự ghép trước-sau.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Cụm từ "dân quân gái" là có đấy! Chỉ hiềm là nó đã bị lạc hậu nên không còn được dùng nữa.
    Trường hợp rõ nhất là thư của Hồ Chủ tịch gửi "các cháu dân quân gái". Ngoài ra người còn có nhiều trường hợp mà bây giờ là sai chính tả như Zân chủ - Dân chủ, Kách mệnh - Cách mạng...
    Tóm lại, trong quá trình tiến hoá, ngôn ngữ vẫn bị biến đổi theo thời gian và địa phương.
    Bài sưu tầm của Lissette chỉ giới hạn ở khu vực xung quanh HN chứ chưa vào tới miền Nam. Nói vui, có 1 vật dụng mà người miền Nam có thể diễn giải bằng 3 giống: Cái rựa, con rựa, và ....đực rựa
  5. traucau

    traucau Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/06/2002
    Bài viết:
    232
    Đã được thích:
    0
    Cụm từ "dân quân gái" là có đấy! Chỉ hiềm là nó đã bị lạc hậu nên không còn được dùng nữa.
    Trường hợp rõ nhất là thư của Hồ Chủ tịch gửi "các cháu dân quân gái".
    ___________________
    Ở đây tớ hiểu là xuất hiện cụm từ "cháu dân quân gái", từ "gái" ở đây bổ nghĩa cho "cháu dân quân". Vì gửi các "cháu" nên dùng từ "gái" ("cháu gái" nghe chuẩn hơn là "cháu nữ"). Nếu dùng từ "nữ" thì tớ đoán là cụ sẽ viết là : "các dân quân nữ" hoặc là "các bạn dân quân nữ"...
    Nếu hiểu là cụm từ "dân quân gái" thì thành ra ***** viết thừa một chữ "cháu", sửa thành "các dân quân gái".
    Mong được chỉ giáo thêm !
    Một vài người trong chúng ta có cái đầu nhỏ hơn cái dạ dày của chính mình !
    TrauCau
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tham Thì Thâm
    Hương Giang Tư Mã
    Thuở xưa có một gia đình nọ, cha mẹ chết để lại cho hai anh em một cơ sở khá vững vàng. Hai anh em vui sống trong cảnh hòa thuận và được sự mến thương của bà con láng giềng. Trong mái nhà ấm cúng, tình huynh đệ biểu lộ đậm đà với hương khói thờ phụng tổ tiên.
    Nhưng ít lâu sau thì người anh lấy vợ. Từ lúc chị dâu vào nhà thì mối tình giữa hai anh em cũng bắt đầu suy giảm. Một ngày nọ, do sự xúi giục của chị dâu, người anh bảo với người em :
    - Bây giờ em đã lớn rồi, phải tự lập cánh sinh và đã đến lúc anh em chúng ta chia của cải cho phân minh, để em có phương tiện lập thân, lập nghiệp trên đường đời mà xông pha với thiên hạ.
    Nghe chồng nói như thế, bà vợ bèn phụ họa với mấy câu ca dao :
    "Làm trai cho đáng nên trai :
    Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài yên".
    "Làm trai có chí lập thân
    Rồi ra gặp hội phong vân có ngày...".
    Nghe bà chị dâu rao lên hai câu ca dao nghe cũng vui tai, người em liền thưa :
    - Dạ, anh chị dạy thế nào, em xin vâng theo.
    Người anh dõng dạc tuyên bố như sau :
    - Của cải cha mẹ chúng ta để lại tựu trung gồm có ba giống : giống đực, giống cái và giống con. Mày bé nhỏ, nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc giống đực, còn những gì giống cái và giống con thì phần tao.
    Bà chị dâu phụ họa :
    - Chú em nghĩ thế nào ? Theo chị nghĩ thì chia ra âm dương như thế là công bằng nhất, vì thuận lẽ trời đất.
    Người em vốn hiền lành, chất phác, chưa kịp nghĩ gì cả, nhưng vì bị dồn vào thế bí của hai vợ chồng đã đồng lòng với nhau từ trước, bèn trả lời :
    - Xin vâng, anh chị đã có lòng thương em út, em út đâu dám chối cãi. Có nhiều hưởng nhiều, có ít hưởng ít, đâu có sao.
    Thế là cuộc chia của bắt đầu. Dựa vào quyền huynh thế phụ, người anh và bà chị dâu chọn đếm trước tiên. Những vật nào trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn, ngoài ruộng, đều là cái là con, khiến cho người anh đếm mãi từ sáng đến chiều, mỏi cả miệng : cái nhà của tao, cái giường của tao, cái tủ của tao, cái lu của tao, cái nồi của tao... con trâu của tao ; vân vân...
    Đếm như thế từ sáng đến chiều hôm, biết bao nhiêu là của chìm của nổi, cái nhớ cái không, mà tuyệt nhiên chưa thấy một vật nào thuộc về giống đực cả ! Mãi đến lúc trời tối, người em sốt ruột quá, vì của cải kê khai đã gần hết, bèn tỏ sự bực tức, đứng phắt dậy, chụp lấy cây dao rựa dựng nơi hè nhà, mà nói rằng :
    - Đây là đực rựa thuộc phần em.
    Nói xong, vác rựa ra đi giữa đêm tối, trong lúc người anh còn đang kiếm thêm đồ đạc để đếm, còn người vợ chạy ra ngoài sân nói với một câu ca dao :
    "Làm trai đã quyết thì hành
    Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây".
    *
    Từ ngày rời khỏi mái nhà của cha mẹ để lại, người em ngày ngày vác rựa vào rừng chặt củi làm kế sinh nhai. Vì không có nhà, nên phải ăn nhờ ở đậu, nay đây mai đó, nhưng vẫn cố gắng tự lập, sống với mồ hôi nước mắt, không muốn nhờ vả, ăn xin kẻ khác. Một hôm trăng non vừa mọc, anh đang ngủ say thì có tiếng quạ kêu, khiến anh thức dậy, nhìn bầu trời bao la trong sáng, tưởng như trời sắp sáng, bèn vớ lấy cây rựa đi miết lên rừng. Đến đầu rừng mới biết mình nhầm, trời vẫn còn khuya. Quả thật, đối với những kẻ màn trời chiếu đất, cầu sương điếm cỏ, thì dù là ban đêm họ vẫn thấy sáng và đó cũng là niềm an ủi duy nhất của họ.
    Người tiều phu bèn nằm duỗi chân dưới một gốc cổ thụ mà chờ sáng. Rồi ngủ quên lúc nào không biết, anh chàng không ngờ rằng nơi đây là chốn nô đùa của một bầy khỉ. Hôm ấy, như thường lệ, chúng kéo nhau đến đây, nhưng chợt thấy dưới gốc cây có một người lạ nằm thẳng đuỗn thì cho rằng đó là một thây người. Chúng bèn xúm nhau khiên đi chôn, để lấy chỗ nhẩy nhót. Đang được khiêng đi, chàng tiều phu bỗng tỉnh giấc, toan la lên, nhưng thấy chuyện hay hay, bèn cứ nằm im để xem bọn khỉ khiêng mình tới đâu. Hồi lâu, anh nghe bầy khỉ đứng lại nói với nhau :
    "Hà rầm hà rạc,
    Chôn vào hố bạc,
    Không chôn hố vàng".
    Nhưng trong bầy khỉ, có con khỉ đột đứng đầu, bảo chúng :
    "Hà rầm hà ràng,
    Chôn vào hố vàng,
    Không chôn hố bạc".
    Thế là bầy khỉ tiếp tục khiêng người tiều phu tới một chỗ khác xa hơn. Đến nơi, chúng đặt anh ta xuống đất, rồi kéo nhau về chỗ cũ, nơi gốc cổ thụ để nhảy múa. Anh chàng mở to mắt nhìn quanh mình, thấy vô số vàng cục sáng chói cả hố lớn, thì mừng lắm. Chờ cho bọn khỉ đi thật xa, anh ta mới lồm cồm đứng dậy nhặt đầy túi, mang về dấu một nơi. Rồi mới bắt đầu tạo nhà cửa, trâu bò, ruộng trưa. Ruộng thì thấp, trưa thì cao. Trưa để gieo giống thành mạ, ruộng để cầy và cấy lúc cho tới mùa gặt hái. Anh ta bèn nhớ tới mấy lời cha dậy ngày trước :
    "Con hư tại mạ,
    Má hư tại trưa".

  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Lúc trở thành giàu sang, người tiều phu bèn nhớ thương cha mẹ ngày trước đã tảo tần nuôi dưỡng hai anh em nên vai nên vế. Anh thương tiếc cha mẹ như thầy Tử Lộ ngày xưa, lúc thành đạt hiển vinh thì cha mẹ chẳng còn để phụng dưỡng "
    "Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng,
    Con muốn phụng dưỡng cha mẹ ma cha mẹ chẳng còn".
    (Mộc dục tịnh nhi phong bất đình,
    Tử dục dưỡng nhi thân bất tại).
    Anh cũng không quên người anh và bà chị dâu, mặc dầu họ đối xử với anh rất tồi tệ, nhưng anh sẵn sàng tha thứ mà quên chuyện cũ. Từ ngày trở nên giàu có, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn dài, rồi cũng tới tai người anh bà chị. Họ bán tín bán nghi, vì họ nghĩ rằng : vỏn vẹn chỉ có một cái đực rựa thì làm nên trò trống gì ?
    Một ngày kia, nhân ngày giỗ cha, người em bèn tìm đến nhà người anh, mời anh về nhà ăn giỗ, vì anh ta nghĩ rằng dù sao cũng là một thịt, chắc anh mình bị ảnh hưởng của bà vợ, chứ đâu đến nỗi tệ như thế.... Được mời, người anh vội vã đi theo em, trước là để báo hiếu với cha mẹ và tỏ tình huynh đệ, sau là để dò xét sự trạng nhà cửa em mình ra sao. Khi đến nhà, người anh không ngờ em mình giàu đến thế : nhà cao cửa lớn, vườn ruộng cò bay thẳng cánh, kho đụn đầy mặp, vườn ruộng cò bay thẳng cánh, gia nhân kể cả mấy mươi.... Người anh bèn hỏi người em :
    - Từ dạo ấy đến giờ, chú em làm thế nào mà phát tài dữ vậy ?
    Người em, bẩm tính lương thiện và đại lượng, bèn kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện, từ khi được anh chị chia cho cây rựa nhựa, lên rừng đốn củi nuôi thân, gặp bầy khỉ, và từ hố bạc được chuyển sang hố vàng...
    Vừa nghe em kể xong câu chuyện, người anh quên cả cúng vái, bèn mượn em cái đực rựa, chạy một mạch lên rừng, tìm được gốc cổ thụ theo lời chỉ dẫn của em, rồi nằm duỗi cẳng ngắm trăng non và chờ bầy khỉ. Quả nhiên, một lát sau, có một bầy khỉ đến nhẩy nhót xung quanh gốc cây. Chúng thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui đùa, bèn xúm lại khiêng đi chôn, vì chúng tưởng đó là một thây người chết.
    Giữa đường đi chôn, bầy khỉ nói với nhau :
    "Hà rầm hà rạc,
    Chôn vào hố bạc,
    Không chôn hố vàng".
    Khi nghe bầy khỉ nói như vậy, người anh vội ngửng đầu lên cãi :
    - Chôn vào hố vàng chứ ! Chôn vào hố vàng chứ !
    Bầy khỉ không ngờ cái thây người vẫn còn sống, cuống cuồng quẳng hắn xuống đất rồi bỏ chạy. Hắn bị lăn xuống sườn núi, đầu va vào đá, vỡ sọ mà chết !
    Bài học của chuyện tích này là :
    - Tham thì thâm, dầm thì đen
    - Ác lai ác báo
    - Ở hiền gặp lành
    - Trời thương Trời ngó lại.
    Truyện tích này được truyền tụng khắp các dân tộc vùng Đông Nam A, từ Vân Nam cho tới xứ Nùng, xứ Chiêm với lũ khỉ mà họ gọi là "kra thơn" xứ Tày, đại khái cốt chuyện giống nhau, chỉ khác về chi tiết liên hệ thủy thổ và phong tục của các sắc dân trong vùng này.
    Từ sự tích đó về sau, người ta cho rằng người đàn ông đi đâu cũng mang rựa bên mình, cho nên người đàn bà, lúc nào giận hờn, cũng mắng người đàn ông là : "đồ đực rựa", "quân đực rựa" chỉ biết cỡi ngựa rong chơi...
    Ngoài ra, chúng ta cũng nên lưu ý tiếng "đực" không mấy khi dùng làm quán từ (article) như "cái" và "con". Tuy nhiên, từ Nghệ Tĩnh trở vào cũng có nơi dùng tiếng "đực" như một tính từ (adjective), để chỉ một vật gì to, khỏe, bậm bạp, ví dụ : một đực bò, một đực rận, một đực rựa...
    Trong Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, ấn hành năm 1896 tại Sài Gòn, chúng ta thấy ghi :
    Đực mẫm : giống đực to vóc, cả sức lực. Tiếng nói chơi người có vóc lớn mà dở.
    Sau hết, chúng ta thấy ghi trong "Dictionare Viêtnamien Chinois Francais" của linh mục Eugène Gouin, des Missions Etragères, ấn hành tại Sài Gòn năm 1957, những từ ngữ sau đây : bò đực taureau, con bạc đực un joueur, cau đực aréquier mâle, người đực femme stérile, tre đực bambou mâle, đực đột un étalon, un verrat, đực mặt nhìn nhau se regarder ahuris, đực rựa conteau à longue manche.

Chia sẻ trang này