1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiên tài quân sự Quang Trung Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi langtudien, 02/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. OldBuff

    OldBuff Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    20
    Dù sao phải đối đầu với lượng dân binh 29 vạn trong tay Nghị và vài nghìn quân chống đối đi theo Thống mà bác Huệ chỉ cần diệt vài vạn chủ lực tinh nhuệ nhà Thanh đã phá tan đám ấy. Đấy quả thực là kỳ tài dụng binh! Biết đánh hiểm để diệt cường địch mới là bậc tướng tài! Biết dụng kế để đánh tan từ trong trứng nước ý định nhà Càn báo thù với 50 vạn quân mới là bậc vua sáng!!
  2. dnn0601

    dnn0601 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/10/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Tổng hợp về vấn đề tranh cãi giữa mọi người về chiến dịch quân Tây Sơn đánh quân Thanh.
    Phe thứ 1 :
    - Quan điểm : quân Thanh có rất ít chỉ khoảng 3 vạn
    Phe thứ 2 :
    - Quan điểm : quân Thanh có khoảng 13 vạn.
    Các điểm mấu chốt cần giải quyết :
    - Vấn đề cung cấp lương thực bao gồm 2 vấn đề nhỏ : khả năng cung cấp lương thực của 4 tỉnh Vân - Qúy, Lưỡng Quảng, phương thức cung cấp lương thực.
    - Vấn đề bố trí quân đội của quân Thanh khi vào Thăng Long có thực sự hợp lý so với quân số đem theo ko.
    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    Tôi xin trình bày quan điểm của mình về các vấn đề trên :
    Vấn đề cung cấp lương thực :
    T1 : Khả năng cung cấp lương thực của 4 tỉnh Vân - Qúy, Lưỡng Quảng.
    Khả năng cung cấp lương thực của 4 tỉnh Vân - Qúy, Lưỡng Quảng phụ thuộc vào các vần đề sau :
    - Diện tích canh tác đất của 4 tỉnh trên.
    - Tình hình kinh tế xã hội của 4 tỉnh trên.
    Về diện tích canh tác đất của 4 tỉnh trên :
    Tôi có 1 dẫn chứng như thế này :
    Sông Châu Giang được tạo thành từ hợp lưu của ba con sông là Tây Giang, Bắc Giang và Đông Giang. Con sông này chảy qua các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, một phần các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây, tạo thành lưu vực Châu Giang có diện tích 409.480 km².
    Từ thông tin địa lý này chúng ta có thể nhận ra rằng lưu vực Châu Giang có thể là khu vực canh tác của 4 tỉnh Vân-Qúy, Lưỡng Quảng. Thêm nữa tổng diện tích của 4 tỉnh này là 984.800 km2. Từ đó có thể nhận định khu vực có khả năng canh tác của 4 tỉnh Vân - Quý, Lưỡng Quảng sau khi giảm thiểu đi ~ 200.000km2. Đây là một diện tích rất lớn => Chúng ta có thể nhận định Vân-Qúy, Lưỡng Quảng có thừa khả năng cung cấp lương thực cho 3 vạn quân Thanh hoặc thâm chí cả 13 vạn quân Thanh vẫn hoàn toàn được.
    Về tình hình kinh tế xã hội của 4 tỉnh trên thì tôi có mấy nhận định thế này :
    1 - Nhà Thanh lúc đó vào thời cực thịnh cũng được gần 100 năm nếu tính cả từ thời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long cộng lại.
    2 - 4 tỉnh Vân - Qúy, Lưỡng Quảng trong 1 time dài chưa phải động binh => tình hình kinh tế xã hội cũng tốt.
    Sau khi phân tích 2 vấn đề diện tích đất canh tác và tình hình kinh tế xã hội tôi nhận định : 4 tỉnh Vân - Qúy, Lưỡng Quảng hoàn toàn có khả năng cung cấp lương thực cho 1 đạo quân lớn > 10 vạn đi xâm lược Việt Nam.
    T2 : Khả năng vận lương của quân Thanh cho Tôn Sỹ Nghị.
    Về vấn đề này có mấy điểm chú ý sau đây.
    1 - Việc vận lương cho anh Nghị có được Càn Long coi trọng ko ? Câu trả lời là có vì bác Long cử anh An, coi rơi và cũng là thân cận của bác ấy đi vận lương cho anh Nghị => ko thể nói bác Long ko coi trọng việc vận lương cho đội quân này được.
    2 - Việc vận lương có được lo chu đáo, cẩn thận ko ? Về vấn đề này tôi xin trích dẫn 1 ý Theo sách Thánh vũ ký, phần "Càn Long chinh phủ An Nam ký" của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.. Từ dẫn chứng này có thể nhận thấy công việc vận lương cho anh Nghị được anh An lo rất chu đáo và cẩn thận.
    3 - Việc vận lương có trở ngại gì ko ?
    Những điều kiện có thể gây trở ngại cho việc vận lương là :
    - Đường sá xa xôi, hiểm trở.
    - Thời tiết ko thuận lợi.
    - Bị địch quân tập hậu.
    + Về đường sá vận lương thì khoảng cách từ ải Nam Quan đến Thăng Long ~ 150km => ko thể gọi là xa được.
    + Về độ hiểm trở của đường sá thì thời vẫn toàn là đường đất nhưng so với thời nhà Minh ( 1427 ) tức là cách đó 362 năm => chắc tốt hơn rất nhiều.
    + Về thời tiết : anh Nghị xuất quân vào cuối tháng 10 âm lịch (28/10) vào khoảng trung tuần tháng 11/1788 đây là mùa khô nên khả năng có mưa lớn là rất ít.
    + Bị địch quân tập hậu : khi anh Nghị tiến quân đến Lang Sơn thì anh Đức đã xin hàng rồi lại thêm quân Tây Sơn rút hết về Tam Điệp chỉ có 1 anh Lân đem 1000 quân đi
    => ko có địch quân tập hậu
    Như vậy việc vận lương ko có trở ngại gì cả.
    Tóm gọn 2 cái T1 + T2 => Vấn đề cung cấp lương thực của quân Thanh giành cho 13 vạn quân đã được giải quyết.
    Vấn đề bố trí quân đội của quân Thanh khi vào Thăng Long có thực sự hợp lý so với quân số đem theo ko ?
    T1 : Cách bố phòng của quân Thanh :
    Quân Thanh chia đóng quân ở các khu đồn : thành Thăng Long, đồn Nam Đồng, đồn Khương Thượng, đồn Ngọc Hồi, đồn Hà Hồi, đồn Nhật Tảo, đồn Nguyệt Quyết, đồn Sơn Tây.
    [​IMG]
    Từ bản đồ mọi người có thể quân Thanh đóng trên một khu vực rất lớn với các điểm đầu mút là Sơn Tây - Thăng Long - Nguyệt Quyết.
    Cách bố trí quân của tôi : 13 vạn như sau :
    1 - Vị trí Sơn Tây.
    - Người nắm giữ : anh Ô Đại Kinh tổng đốc Vân Qúy ngang vai anh Nghị => chắc chắn toàn bộ quân Vân - Quý sẽ ở đây.
    - Từ Thăng Long => Sơn Tây vào khoảng 45km đây là 1 khoảng cách tương đối xa cho việc chi viện binh mã.
    Từ 2 nhận thức này => quân Thanh ở Tây Sơn là 1 lực lượng tác chiến độc lập có tầm quan trọng và có lực lượng chắc chắn ko thua kém nhiều so với quân của anh Nghị.
    - Số quân dự đoán : 50.000.
    2 - Vị trí Thăng Long.
    - Người nắm giữ : anh Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng.
    - Nhận định với vai trò của 1 tổng tốc nên quân của anh Nghị ở Thăng Long cũng là một lực lượng lớn.
    - Số quân dự đoán : 30.000
    3 - Vị trí Nam Đồng.
    - Vai trò : tạo thế ỷ giốc với Thăng Long.
    - Nhận định : số lượng quân ko cần lớn vì gần đó có đồn Khương Thượng.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    4 - Vị trí Khương Thượng.
    - Người nắm giữ : anh Sầm Nghi Đống thái thú Điền Châu => toàn bộ quân Điền Châu sẽ ở đây.
    - Nhận định : quân Điền Châu là 1 trong 3 cánh quân tiến vào Việt Nam nên ko thể là một lực lượng yếu được.
    - Số quân dự đoán : 15.000.
    5 - Vị trí Ngọc Hồi.
    - Người nắm giữ : anh Hanh, Long, Thăng.
    - Nhận định : đây là đội quân tiên phong của quân Thanh khi tiến vào Việt Nam => số lượng cũng rất khá.
    - Số quân dự đoán : 20.000.
    6 - Vị trí Hà Hồi.
    - Vai trò : tạo thế ỷ giốc với Ngọc Hồi.
    - Nhận định số quân ko lớn lắm nhưng cũng phải đủ sức để ứng cứu Ngọc Hồi.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    7 - Vị trí Nguyệt Quyết & Nhật Tảo
    - Vai trò : canh phòng từ xa có tác dụng hỗ trợ cho Gián Khẩu.
    - Nhận định lượng quân ko cần nhiều nhưng phải có đủ lực lượng để hỗ trợ cho Gián Khẩu và chiến đấu độc lập vì ở khá xa so với Thăng Long nên ko thể trông chờ vào cứu viện được.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    Tổng cộng quân lực : 125.000 quân.
    Cách bố trí quân của bác chauphihwangza : 3 vạn như sau :
    1 - Vị trí Sơn Tây.
    - Người nắm giữ : anh Ô Đại Kinh tổng đốc Vân Qúy ngang vai anh Nghị.
    - Từ Thăng Long => Sơn Tây vào khoảng 45km.
    - Số quân dự đoán : 2.000.
    2 - Vị trí Thăng Long.
    - Người nắm giữ : anh Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng.
    - Nhận định với vai trò của 1 tổng tốc nên quân của anh Nghị ở Thăng Long cũng là một lực lượng lớn.
    - Số quân dự đoán : 5.000
    3 - Vị trí Nam Đồng.
    - Vai trò : tạo thế ỷ giốc với Thăng Long.
    - Nhận định : số lượng quân ko cần lớn vì gần đó có đồn Khương Thượng.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    4 - Vị trí Khương Thượng.
    - Người nắm giữ : anh Sầm Nghi Đống thái thú Điền Châu => toàn bộ quân Điền Châu sẽ ở đây.
    - Nhận định : quân Điền Châu là 1 trong 3 cánh quân tiến vào Việt Nam nên ko thể là một lực lượng yếu được.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    5 - Vị trí Ngọc Hồi.
    - Người nắm giữ : anh Hanh, Long, Thăng.
    - Nhận định : đây là đội quân tiên phong của quân Thanh khi tiến vào Việt Nam => số lượng cũng rất khá.
    - Số quân dự đoán : 5.000.
    6 - Vị trí Hà Hồi.
    - Vai trò : tạo thế ỷ giốc với Ngọc Hồi.
    - Nhận định số quân ko lớn lắm nhưng cũng phải đủ sức để ứng cứu Ngọc Hồi.
    - Số quân dự đoán : 2.000.
    7 - Vị trí Nguyệt Quyết & Nhật Tảo
    - Vai trò : canh phòng từ xa có tác dụng hỗ trợ cho Gián Khẩu.
    - Nhận định lượng quân ko cần nhiều nhưng phải có đủ lực lượng để hỗ trợ cho Gián Khẩu và chiến đấu độc lập vì ở khá xa so với Thăng Long nên ko thể trông chờ vào cứu viện được.
    - Số quân dự đoán : 4.000.
    Tổng cộng quân lực : 30.000 quân.
    Nhận xét :
    - Số quân 30.000 của bác chauphihwangza trải dài từ Sơn Tây - Thăng Long - Nguyệt Quyết với khoảng cách Sơn Tây - Thăng Long = 45 km, Thăng Long - Nguyệt Quyết ~ 40km tức là lực lượng bị phân phán cực mỏng. Đây là 1 sai lầm nghiêm trọng trong chiến thuật quân sự. Các bác lưu ý đây là năm 1789 vũ khí của Thanh và Tây Sơn ngang nhau. Còn về đại bác thì ko thể nào so sánh với pháo binh của Napoleon được => một lượng quân nhỏ 2.000 hay 5.000 sẽ ko có tác dụng khi phải đối đầu với 1 lượng quân lớn hơn mình vài lần được.
    - Việc phân tán 30.000 quân trên 1 dải 85 km từ Sơn Tây - Thăng Long - Nguyệt Quyết là 1 việc làm ngu ngốc. Thông thường khi ra trận với 1 lượng quân 3 vạn thì sẽ chỉ co cụm ở 1 cụm cứ điểm thôi chứ ko trải dài như vậy. Bác chauphihwangza nên lưu ý vào năm 1954 mặc dù quân Pháp có ưu thế hơn quân ta về vũ khí và với số quân lên tới 15.000 + 4.000 culi mà vẫn chỉ dám trọn Điện Biên 1 khu vực nhỏ hẹp để làm cứ điểm thôi.
    - Anh Kinh là tổng đốc Vân - Qúy theo lẽ thường của nhà binh thì lượng quân ở Sơn Tây sẽ là toàn bộ số quân Vân Qúy mà bác lại cho anh Kinh chỉ có 2.000 quân. Từ đó nẩy sinh các vấn đề sau :
    + Quân Vân - Quý tham gia chiến dịch chỉ có 2.000 quân. Đây là điều hoang tưởng vì quân Vân - Qúy là 1 in 3 cánh quân vào Đại Việt nên ko thể ít thế được. Trong lịch sử chống giặc phương Bắc tôi chưa bao giờ thấy một cánh quân vào Việt Nam mà chỉ có 2.000 người cả. Hơn nữa, Vân - Qúy cũng ngang ngửa Lưỡng Quảng chứ ko thua gì.
    + 2.000 quân ko xứng đáng với vai trò tổng đốc của anh Kinh.
    - Anh Sầm Nghi Đống thái thú Điền Châu => toàn bộ quân Điền Châu sẽ ở đồn Khương Thượng. Cũng với lập luận như với quân Sơn Tây của anh Kinh tôi thấy bác chỉ cho anh Đống có 5.000 quân là rất ko hợp lý.
    Từ đó có thể nhận thấy rằng : Số quân 30.000 của bác chauphihwangza là ko hợp lý một tý nào.
  3. cubidaihiep

    cubidaihiep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/09/2006
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    246
    Khà khà!!! Các bác chưa hiểu hết bụng dạ mấy anh ba tàu rồi, đặc biệt là nhà Thanh.
    Các bác cứ tưởng là nó yêu quý lắm mới cử đi óanh nhau hả? Coi Thủy Hử chưa, hoặc coi Warlord (lý Liên Kiệt đóng vai chính cùng Lưu Đức Hòa và Kim Thành Vũ đó). Cử đi đánh trận một là muợn tay địch giết hai là để cho nó thua về luận tội cũng giết . Dĩ nhiên những đội quân này thường ít và kém chất lượng, sao cho không thắng được đối phương. Kế này thường áp dụng để luân chuyển cán bộ, đặc biệt là mấy anh ở vùng sâu vùng xa có ý chuyên quyền, cát cứ đấy. Tôn Sỹ Nghị chưa chắc đã phải được Càn Long yêu quý hay tài giỏi gì đâu. Biết đâu bác Càn Long lại chả muốn cho ông con rơi mình thế chỗ vào đấy chẳng hạn.
    Bình lọan tí cho vui để phản biện lại bác nào cứ đem cái lý là đạo quân này phải đông, thiện chiến và được vua tâm huyết lắm mới để Phúc Khang An theo giám sát, hỗ trợ lương thực và làm đốc quân ở phía sau.
    Trở lại với việc luyện quân. Quân đội nào có được sự rèn luyện thuần thục, đội hình đội ngũ vững vàng sẽ là người chiến thắng và chiến thắng với thương vong ít nhất. Những đạo quân chỉ dùng ba chỉa hay dao phóng lợn thì sẽ chỉ làm bia thịt cho người ta mà thôi. Nếu các bác nói là quân tây Sơn không được tập luyện gì thì càng củng cố thêm cho lập luận rằng quân Thanh vào Việt Nam chỉ có một nhúm thằng thôi đấy.
    Ngày xưa khi vào Nam chiến đấu, rất nhiều bộ đội ta chỉ được huấn luyện ngay trên đường hành quân. Rất nhiều người trong số họ đã hy sinh ngay khi chưa bắn được viên đạn nào hoặc cắm đầu xuống đất khi nghe đạn pháo. Cái này gọi là duy ý chí đấy. Quân đội chính quy phải khác với mấy thằng du côn cầm dao chọc tiết lợn chứ. Không thể nói là cứ bắt lính xong cầm dao đưa là biết chém đâu. Nếu trong mình có chút võ nghệ, trang bị kha khá, nhìn đội ngũ chiến đấu chỉnh tề, và có ít bài chính trị trong đầu thì người lính sẽ tự tin hơn hẳn, dũng cảm trong chiến đấu, vững vàng trong các điều kiện bất lợi nhất. Hãy nhìn 5000 quân của nữ tướng Bùi Thị Xuân trong trận đánh lũy Trấn Ninh sẽ biết. trong khi cả đám quân bắt lính Bắc Hà của Cảnh Thịnh tháo chạy tán lọan thì những người lính tinh nhuệ này của Bùi Thị Xuân vẫn theo chủ tướng tấn công chúa Nguyễn tới cùng, làm cho Nguyễn vương tí nữa lại phải tháo dép ra chạy.
    Nói chung quân lính phải có luyện tập chứ không bắt khơi khơi được đâu. Các bác mà làm tướng hay chỉ huy thì họa cho lính lắm đấy.
  4. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Ô Đại Kinh - tổng đốc Vân Quý, theo đường Tuyên Quang kéo xuống Sơn Tây, chứ làm gì đến Sơn Nam? Nghe nói đội quân này chưa giao chiến đã chạy về. Có thể nói, các đội quân Thanh nhập Việt đóng trại ở phía tây cho đến phía nam của Thăng Long, đều phải trông chờ vào lương thảo mang đi theo và lương thảo tiếp tế từ Vân Nam, Quảng Tây qua 70 đồn lương. Có thể như bác nói, việc mang theo có thể dùng được 6 tháng, chưa kể tiếp tế.
    Vấn đề về lương thảo, tôi nghĩ là vấn đề thời gian và số lượng lương thảo có đủ cho thời gian đóng quân trên đất Việt. Quân Tống, Nguyên cũng vậy. Nhờ bác tính hộ thời gian từ lúc xuất quân và lúc rút (vì cạn lương thảo) của đội quân này cái? Việc bổ sung lương thảo trên đất Việt lúc đóng quân là rất hạn chế vì phải trưng thu ở nông dân nước ngoài là rất khó, ví như quân Nguyên trước đó phải cho quân đến các làng xã cướp bóc cũng chẳng được bao nhiêu lại bị dân chống đối...
    Nghị đóng đồn ở nam Thăng Long, ví như đồn Ngọc Hồi rất kiên cố, có địa lôi, hầm chông ở ngoài là có ý phòng ngự hơn bình thường rồi. Là cửa ngõ phía nam để bảo vệ Thăng Long, có thể nói như là một chiến lũy Như Nguyệt ở phía nam vậy. Từ đồn này có thể làm bàn đạp xuống phía nam là Biện Sơn, Thanh Nghệ, sang phía đông là trấn Sơn Nam...
    Việc lập đồn lương hay không lập đồn lương thể hiện chiến lược chiến thuật của các đội quân Tống, Nguyên thời trước và thời Thanh nhập Việt có khác, qua đó thể hiện chiến lược ngắn hạn và dài hạn rồi còn gì?
    - Ngắn hạn là muốn đánh nhanh thắng nhanh, nên quân phải đông, lương thảo mang theo phải nhiều vì không lập đồn lương để tiếp tế.
    - Dài hạn là tiến quân chắc chắc, đóng giữ lâu dài, quân cốt ở cơ động, không cần nhiều, đồn lũy phải kiên cố, lập đồn lương để tiếp tế.
    Họ Trịnh đều lấy danh nghĩa vua Lê, nên không dám cướp ngôi, lòng người Bắc Hà hướng về nhà Lê, nên khi quân Trịnh bị đánh bại nên họ hướng về nhà Lê. Bác xem, Nguyễn Huệ còn phải "phù Lê" nữa là, chính vì vậy tuy bị đánh thua tơi tả nhưng Lê Chiêu Thống vẫn bôn ba từ trấn Kinh Bắc, Sơn Nam nên vẫn được quân nghĩa dũng đi theo đấy thôi. Thử hỏi quân Trịnh bây giờ còn đâu nữa?
    Về các đồn quân Thanh phía nam, xin bác lưu ý tôi chỉ nói một số đồn quan trọng chứ không phải là cho đó là tất cả quân Thanh có.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 01:42 ngày 11/05/2008
  5. OldBuff

    OldBuff Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    20
    Ờ thế quân bành trướng đánh mình hồi 79 chuyện lương thảo cho 50 vạn quân thế nào nhỉ? Lính tàu được trang bị một cái ruột tượng đựng ngô rang và vài bánh lương khô để ăn khi truy kích, bị truy kích lại hoặc mưa gió.
    Quân Thanh nhập Việt, phu phen, tạp dịch và quân Hán mười mấy vạn ăn gạo, quan cán Mãn Châu ăn lúa mạch, lũ ngựa, nghẽo, la lừa xơi cám bã, cỏ khô. Cứ cho là gạo miền nam TQ có sẵn, thế vận lúa mạch từ đâu đến mấy thầy??
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Việc điều động quân đội đi chinh phạt ở xa, ngoài nơi cửa ải, là có thể lường trước thất bại sẽ gây ảnh hưởng thế nào rồi. Điều động quân đội song song với điều động dân phu đi phục dịch, tiêu tốn tiền của, hao tổn quốc khố, tiêu hao tiềm lực của đất nước. Binh pháp Tôn Tử đã tổng kết 1 ý rất kinh điển là: Chiến tranh là việc hệ trọng của đất nước.
    Thực tế có nhiều nước vì chiến tranh chinh phạt nhiều mà làm đất nước suy yếu. Ở nước ta: thời Trần sau khi chống Nguyên Mông, lại chinh phạt Lão Qua, Chiêm Thành, liên miên khiến đất nước đã bị suy yếu sau mấy lần quân Nguyên vào đánh phá lại càng suy yếu hơn, khiến cho Chiêm Thành mấy lần đánh ra, có lần vua Trần phải bỏ cả Thăng Long mà chạy, Hồ Quý Ly tiếm quyền. Họ Trịnh đem quân vào đánh Nguyễn, chiếm Phú Xuân, tiềm lực vì thế càng suy yếu thêm, khiến cho Nguyễn Huệ chỉ một trận khiến cho họ Trịnh tan rã...
    Trung Quốc lại càng nhiều ví dụ: Tần Thuỷ Hoàng vừa thống nhất 7 nước, đem quân đánh người Hung Nô, Tây Khương, chinh phạt Triều Tiên, đánh Bách Việt. Nam phải đi lính, nữ phải vận chuyển, các quận phải cung cấp ngựa xe, được 10 năm thiên hạ nổi lên chống. Tuỳ Dạng Đế chinh phạt Cao Câu Ly, lấy quân hàng chục vạn (30 vạn) làm miền Sơn Đông mỏi mệt, nhà Tuỳ cũng sụp đổ không lâu sau đó.
    Ở vào trường hợp nhà Thanh, đang ở thời cực thịnh, đúng hơn là Càn Long đã già, trong nước đã xuất hiện mầm mống bất ổn, trên thì Hoà Thân tham nhũng, kéo bè cánh, dưới thì dân chúng sao đã yên, nhà Thanh bắt đầu suy yếu (đã đến cực thịnh rồi lại suy yếu như là một chân lý thời phong kiến). Bác nghĩ Càn Long có ngu ngốc đến nỗi, điều động quân đội chính quy cả nước mà chinh phạt Việt Nam, một xứ ở xa, mà gương các đời Tống, Nguyên, Minh trước đó ra sao. Lại còn bài học 4 lần thua ở Miến Điện nữa? Bài học của Tần Thuỷ Hoàng, Tuỳ Dạng Đế?
    Về lương thảo, hậu cần, những thứ dự trữ, ngân sách, nhà Thanh điều động nhân lực và của cải ở 4 tỉnh Lưỡng Quảng, Vân, Quý. 4 tỉnh này chắc chắn sản lượng lương thực (nói lúa gạo là chính) không thể bằng vùng đồng bằng trung và hạ lưu sông Dương Tử, Hoàng Hà được. Lúa gạo phía nam trông chờ ở đồng bằng Tây Giang, Hữu Giang, lúa gạo vùng này đủ chi dùng và dự trữ cho 10 vạn quân thường trực ở đây. Còn vùng Vân Nam, Quý Châu vốn là vùng đồi núi, cao nguyên, không giàu lương thảo, cùng lắm là đủ chi dùng cho mấy vạn quân ở đó, làm gì mà có dư thừa nhiều như Lưỡng Quảng?
    Dân chúng phần lớn là nông dân, cày cấy làm ăn, ruộng đất kô thể cày cấy được hết, lại trình độ kỹ thuật thời ấy thấp, sản lượng cũng không như bây giờ được. Dư thừa có thể nạp thế không thể nhiều được. Lại còn nạp thuế để nuôi các quan lại nữa.
    Về Việt Nam 2 miền tôi không thấy giàu có ở đâu? Bắc Hà trông chờ vào đồng bằng sông Hồng. Miền Thanh Nghệ đến Phú Xuân lại nghèo hơn. Vùng Quảng Nam đến Ninh Thuận cũng đất cằn sỏi đá. Vùng Nam Bộ là đất mới khai phá, là đất của chúa Nguyễn, không liên quan nhiều đến Bắc Hà, bởi vì đường xá quá xa. Hơn nữa từ khi quân Trịnh kéo vào Phú Xuân, Tây Sơn nổi dậy, nam chinh bắc chiến khiến cho tình hình ngày càng tồi tệ, nên không giàu có, luơng thảo đầy đủ được. Quân Tây Sơn muốn hoạt động được cũng phải có nhiều lương thực, cũng phải tuyển thêm binh lính. Cách hành sự của Tây Sơn là cưỡng chiếm, bắt bớ khi đi đến đâu để lấy lương thực, quân lính. Khác với chúa Trịnh, Nguyễn đã có sổ đinh mà trưng thu lương thực, tuyển lính khi cần. Đó là chưa kể sự bòn rút, lãng phí của những kẻ coi kho, quan lại địa phương cũng phải tính đến.
    Bình thường để dự trữ là để sử dụng dần, rồi lại bổ sung bằng cách trưng thu lương thực (hoặc là mua), để trong kho ngoài sử dụng cho quân đội ra còn có sự dụng cho tất cả mọi người liên quan. Từ tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác, việc trưng thu không phải lúc nào cũng thuận lợi vì còn tuỳ thuộc nhiều vào nông dân cày cấy thu hoạch có được mùa hay không nữa. Khi đói kém lại phải cấp ra cứu đói nữa chứ. Chắc chắn các kho lương để ở nơi phủ quan lại, nơi có đường xá thuận lợi, ở đó có quân đội bảo vệ, lại còn có các phương tiện để vận chuyển, cất giữ, bảo vệ nữa.
    Lập 70 đồn lương, nếu lập cứ cách khoảng 5 -10 km lại có một đồn chứa lương e rằng là hơi thiếu thực tế. Để phân tán như vậy không bằng tập trung 1 chỗ để cùng bảo vệ. Theo tôi phần lớn 70 đồn đó là chỗ trung chuyển là đúng hơn. Ở mỗi đồn còn phải để bao nhiêu nhân lực vừa canh giữ bảo vện, vừa làm nhiệm vụ vận chuyển nữa chứ. Nói chung là tất cả những viên liên quan đến vận chuyển, bảo vệ kho lương, vận chuyển lương thảo.
    Về quân sự bác bàn có lý đấy. Nhưng xin hỏi nhé. Các đồn quân Thanh lập ra bảo vệ rất kiên cố, quân đội cũng được trang bị súng, đại bác rất đầy đủ. Hoả lực cũng rất mạnh, làm đồn bốt, công sự để bảo vệ, tập trung ở mặt trước để chống chiến thuật đánh biển người. Nguyễn Huệ công đồng cũng phải tập trung hoả lực ở mặt trước mà đánh. Nguyễn Huệ nếu không hơn hẳn quân số, hoả lực, cộng với bất ngờ liệu có công đồn thắng nhanh chóng như vậy không? Ở đây đang nói đến đồn Ngọc Hồi, một đồn quan trọng bậc nhất nhì ở nam Thăng Long, đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy công đồn?
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 14:53 ngày 12/05/2008
  7. embupbehong

    embupbehong Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/11/2006
    Bài viết:
    745
    Đã được thích:
    0
    Bác nào nói cũng đúng. Anh em phải tích cực offline chứ nhỉ, mod đâu đứng ra lãnh đạo phong trào offline giao lưu đê
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Quân Thanh đóng quân ở các đồn quan trọng là Ngọc Hồi, Khương Thượng, chưa kể các đồn nhỏ khác. Trung bình mỗi đồn lớn ấy là 7500 quân, đó là quân tinh nhuệ sử dụng thành thạo súng, đại bác, có cả kỵ binh nữa. Ngoài ra, ở trong đồn còn có một số lượng dân phu ở trong đồn làm công việc hậu cần nữa. Đồn trại của quân Thanh lại đóng kiên cố, dùng để cố thủ, ngoài còn chôn địa lôi, hầm chông, hào luỹ nữa. 7500 quân tinh nhuệ sao không đủ chứ? Lại được nhàn rỗi, canh phòng, ăn no hơn là quân Tây Sơn phải đi từ xa đến còn phải sắp xếp đội ngũ thế nào đó mới công đồn được? Khoảng cách từ mỗi đồn là khoảng 10 - 15 km là có thể cứu viện. Đường xá ở nam Thăng Long tương đối bằng phẳng, kỵ binh chưa đến một buổi là có thể đi đến dễ dàng.
    Nói về đồn Hạ Hồi quân rất ít hơn, đồn này bị diệt gọn mà không tốn mũi tên hòn đạn, theo tôi quân không đến 5000 nghìn, nếu mà 5 nghìn vẫn có thể tổ chức phòng thủ, dựa vào hoả lực mà chống đỡ. Có thể giải thích là đồn này bị diệt nhanh là vì ít quân tầm cỡ 1000 - 2000 quân chủ lực là cùng, nên khi Nguyễn Huệ bắc loa kêu gọi đã kinh sợ xin hàng.
    Tổng cộng 2 đồn Ngọc Hồi, Hạ Hồi là cỡ 1 vạn quân tinh nhuệ, với dân phu nữa là 2 - 3 vạn người. Ngày mồng 4 tháng Giêng ÂL, Nguyễn Huệ áp sát Ngọc Hồi, Tôn Sĩ Nghị đã tăng quân đến cứu viện rồi, mà chểnh mảng ở Khương Thượng. Sau khi tăng viện ở Ngọc Hồi, có thể quân số tăng lên đến 15000 đến 20000 quân ở Ngọc Hồi. Sáng mồng 5 tháng Giêng (1 ngày sau khi áp sáp đồn Ngọc Hồi) Nguyễn Huệ mới công đồn. Trận đánh xảy ra quyết liệt lúc đầu. Ở đồn Ngọc Hồi này, quân Tây Sơn không còn lợi thế bất ngờ nữa, mà quân Thanh đã xắp xếp đội ngũ, chuẩn bị ứng chiến, cố thủ đồn này. Nếu quân Thanh lớn áp đảo, hoả lực lớn hơn áp đảo sẽ không thua nhanh như vậy. Nếu quân Thanh đông đảo hơn, có thể sẽ quyết chiến tại Ngọc Hồi và xung quanh đó chứ không đến nỗi phải bỏ chạy đến Yên Duyên bị phục kích ở Đại Áng. Bởi vì ngay sau màn đấu hoả lực, quân Tây Sơn tràn vào giáp chiến lá cà, vai trò của hoả lực bây giờ chỉ là thứ yếu, mà trông chờ vào vũ khí ngắn, 2 bên hỗn chiến, quân Thanh chống không nổi mới bỏ chạy. Nếu quân lực đông áp đảo Tây Sơn liệu đánh hỗn chiễn như vậy là bỏ chạy nhanh như vậy không?
    Có thể thấy Nguyễn Huệ tập trung ở Ngọc Hồi, thu hút quân cứu viện ở Khương Thượng đến. Rồi cánh quân khác mới bất ngờ đánh đồn Khương Thượng vào lúc nửa đêm, đồn bị hạ ngay sau đó, quân Tây Sơn nhân thế đánh luôn đồn Nam Đồng tiến vào Thăng Long. Sao mà nhanh thế? Mỗi đồn Khương Thượng, Nam Đồng đều có quân đóng giữ, cũng làm đồn, có hoả lực mà một lúc thua 1 cánh quân đã phải đánh 2 lần liên tục, phải mỏi mệt? Đó chẳng phải là bất ngờ nữa, bởi vì nếu đồn Khương Thượng bị diệt rồi, thì đồn Nam Đồng đã tự liệu được, hoặc là phòng thủ hoặc là bỏ chạy. Nếu phòng thủ, mà nếu như quân đến 1 - 2 vạn quân hoả lực đầy đủ thì không đến nỗi thua nhanh như thế.
  9. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Về hai ý của bác em có ý kiến như thế này:
    1) Vấn đề của đạo quân của Đô Đốc Long có thể nhanh chóng đánh tan đạo quân ở Thăng Long không phụ thuộc vào quân số mà vào chiến thuật.
    Hiện chưa cần biết số quân ở TL là bao nhiêu. Có điều về chiến thuật đạo quân ấy không có đất dụng võ.
    Sự xuất hiện của NH trên hướng chính (Hướng Nam) đã khiến chú Nghị buộc phải điều chủ lực ra hướng này=> khu vực cung Tây Long (ven hồ Tây) là sở chỉ huy của chú Nghị bị bỏ trống, khả năng chỉ còn thân binh của chú Nghị
    Đô đốc Long để lại một lực lượng bao vây Khương Thượng (em giả thiết là bộ binh và tượng binh)chỉ dẫn kỵ binh hình thành một mũi đột kích nhanh vào sườn của sở chỉ huy của chú Nghị.
    Trong tình thế này, chú Nghị không còn con đường nào khác là bỏ quân chạy trốn. Tất nhiên có thể lực lượng thân binh của chú Nghị không ít, có thể cầm cự thậm chí phản khích cánh quân của đô đốc Long nhưng em không cho là gan chú to đến thế. Cùng thời gian này NH đã đập tan xong cánh quân ở Ngọc Hồi.
    Xét về tình thế của cánh quân đóng ở Thăng Long, phía trước là loạn quân chạy về, phía sau đột nhiên thấy khói lửa ngút trời ở sở chỉ huy, một đạo quân mà phía trước phía sau đều có địch, lại thêm bại quân liên tục chạy về, quân tâm rối loạn, tiến lui đều không xong, đạo quân đó cơ bản không thành quân đội nữa. Chú ý chi tiết tin đồn "Nghị cắt đứt cầu phao rồi" được loan ra rất đúng lúc đúng chỗ, đánh một đòn quyết định làm tan rã ý chí của đội quân này, lúc đó chúng chỉ là một đám hỗn loạn tranh nhau chạy trốn qua sông. Đến thời điểm này thì 10000, 30000 hay 300000 quân cũng không còn ý nghĩa gì nữa Do đó dùng cái lý đô đốc Long chỉ có 15000 quân để quy kết Thăng Long có ít hơn 30000 là không có cơ sở lắm bác Châu Phi ạ!
    2) Em muốn góp thêm một ý, các bác tranh luận vẫn dựa theo phân bố đồn lũy, như thế tức là các bác công nhận quân Thanh đã đưa toàn bộ lực lượng sang bờ Nam sông Hồng.
    Em thì lại có ý khác, bố trí của quân Thanh là thế trận vừa công vừa thủ, nhưng cơ bản là thủ. Bố trí một loạt các đồn với quân số giảm dần từ Bắc vào Nam cơ bản là muốn đẩy quân Tây Sơn phải liên tục giao chiến trên một quãng đường dài, suy giảm sức lực và lực lượng để cuối cùng dùng ưu thế binh lực đánh một đòn quyết định, tận diệt quân TS.
    Trong trường hợp đó, nếu là chú Nghị, em nhất định sẽ không bỏ qua một chiến lũy lợi hại như sông Hồng, với ưu thế về quân số, nếu qua bờ Nam, em sẽ để lại bờ bắc ít ra từ 1/3 đến 1/2 lực lượng, lập công sự cố thủ, vừa bảo vệ đường rút, vừa là lực lượng dự bị. Lực lượng này nếu xảy ra quyết chiến có thể nhanh chóng cơ động qua sông tham chiến để đánh đòn quyết định, nếu bờ nam thất thủ thì có thể lùi sang dựa vào chiến lũy và lợi thế sông Hồng ngăn trở để phòng ngự, cầm cự lâu dài.
    Các bác thử nghiên cứu thêm về vấn đề này coi.
  10. OldBuff

    OldBuff Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    20
    Đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh đem 8000 quân chủ lực tinh nhuệ nhập Việt tiến qua Cao Bằng, Tuyên Quang để chiếm khu vực phụ cận Sơn Tây, trong khi tổng đốc Vân Quý Phú Cương giữ gần 2 vạn quân Vân Quý và 4 vạn dân phu dự bị chiến lược bên kia biên giới. Số lương thực mà cánh quân Vân Quý lo được gần 3 vạn thạch. 6000 quân chủ lực của Kinh được 3 vạn dân công tiền tuyến nhà Thanh hỗ trợ hậu cần mang 2 vạn thạch nhập Việt qua ngả Tuyên Quang. Cánh quân thứ hai của Vân Quý có 2000 quân Nùng thiện chiến do thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống chỉ huy tràn qua Cao Bằng. Như vậy cánh quân Vân Quý tự túc khá tốt về lương thảo và ko kiếm chác được gì từ hai tuyến đồn lương Điền (Quảng Tây) và Việt (Quảng Đông) của đám Nghị. Cánh quân Vân Quý thực tế đã điều động tới 88000 binh phu, trong đó 28000 lính chủ lực, 60000 dân công, và 3 vạn thạch lương.
    Về cánh quân Lưỡng Quảng, Nghị xua binh tiến xuống qua ải Nam quan. Tiền quân của Nghị gồm 8000 quân chủ lực và 20000 phu phen do Hứa Thế Hanh chỉ huy và Trương Triều Long làm tả tiên phong, Lý Hoá Long làm hữu tiên phong nhập Việt trước mang theo 1 vạn thạch lương. Sau khi bức hàng tướng Đức của TS, tiền quân của Nghị trước du nạp khoảng 1 vạn Hoa kiều vũ trang nội ứng ở vùng Thái Nguyên, hơn 1 vạn nghĩa dũng nhà Lê ở Lạng Giang và 1 vạn Hoa kiều vũ trang làm nghề buôn bán từ Thăng Long tới Kinh Bắc. Với việc bổ sung quân số và hậu cần tại chỗ, đạo tiền quân của Hanh đã có khoảng 45000 lính chiến đấu, 20000 phu phen người Hán và cũng khoảng 20000 tạp dịch Việt gian và hàng đoàn trâu, bò, la, lừa xe cộ tải lương lập đồn. Thế hội quân và nội ứng tốt giúp tiền quân của Nghị tiến cái vèo xuống Bắc Nguyệt Cầu hạ trại. Vậy là 85000 quân binh+phu phen vũ trang nhé!
    Trung quân là phương diện quân Quảng Tây do Nghị chỉ huy, Thượng Duy Thăng và Khánh Thành tả hữu chư tướng dẫn đại đội binh mã gồm 40000 lính chiến đấu, 80000 phu phen vũ trang và 45000 thạch lương. Phương diện quân của Nghị ung dung kèn sáo tiến quân, đi đến đâu cho lập và củng cố đồn lương (lương thực, khí giới và vài trăm tới vài nghìn binh mã, đại bác chốt giữ mỗi đồn) theo vị trí đã được cánh quân của Hanh điều nghiên và chuẩn bị trước đó. Các đồn lương vừa là cứ điểm quân sự kiểm soát tuyến giao thông huyết mạch, vừa là căn cứ hậu cần cho các cánh quân khi chưa tự túc/cướp được lương thực tại chỗ. Khi gặp Thống ở Kinh Bắc, cánh quân của Nghị chỉ còn 20000 lính chiến đấu và 30000 phu phen vũ trang đi cùng. Tóm lại, Nghị mang vào 120000 lính+phu phen vũ trang.
    Hậu quân của Nghị là anh Tôn Vĩnh Thanh (ko biết có họ hàng với Nghị ko nhỉ?) quản 15000 lính chiến đấu Lưỡng Quảng, được giao huấn luyện chuyển loại 30000 thổ binh thành lính chính quy, duy trì 20000 phu phen vũ trang cùng 50000 lạng bạc để mua lương thảo, vật tư sẵn sàng đợi lệnh ngoài cõi. Như vậy, hậu quân của anh Nghị cũng có khoảng 35000 lính+phu vũ trang sẵn sàng và 30000 thổ binh dự trữ.
    Như vậy, các cánh quân do anh Nghị điều động có tổng đầu đinh chính thức nhập Việt trên dưới 30 vạn binh phu. ăn Tết Kỷ Dậu trong thế tiến quân dễ dàng, quan binh thì tổ tôm, mạt chược, cô đầu, dân phu thì tranh thủ vun vén cân đường hộp sữa về làm quà cho thằng cu con hĩm mẹ đĩ ở nhà. Đùng một cái nghe tiếng ngựa hý, voi thé, quân hò, pháo nổ, chiêng la, trống trận dậy đất, lửa cháy ngút trời thì sao chẳng loạn. TS muốn diệt đồn chỉ cần lùa đám phu phen chạy ngược vào đồn rồi theo sát công kích thì quân Thanh dù thiện chiến cũng sao đỡ nổi. Bác Huệ chế diện đánh điểm, giương đông kích tây, chỉ cần lùa đám tàn binh và loạn phu chạy từ đồn này sang đồn khác là chắc thắng. Chót nói 5 ngày quét sạch quân Bắc chứ Buff tôi như bác Huệ thì cứ để cho đám loạn quân trong các đồn ăn hết lương rồi rủng rỉnh vào bắt là thượng sách.

Chia sẻ trang này