1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiên tài quân sự Quang Trung Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi langtudien, 02/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0

    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 21:04 ngày 12/05/2008
  2. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    - Anh An chỉ lập tất cả 70 đồn lương. 52 đồn ở Lưỡng Quảng và 18 đồn dải từ Nam Quan đến Thăng Long.
    - Đồn lương chỉ dùng để vận lương và trữ lương tạm thời chứ ko trữ lương lâu dài. Số lương thực vận chuyến đến Thăng Long sẽ chuyển vào kho lương của quân Thanh ở đây.
    - Thông thường trong 1 chiến dịch lượng lương thực chuẩn bị có thể đủ dùng cho toàn quân tối thiểu là 6 tháng tối đa là 1 năm.
    - Việc trữ lương thực là công việc có từ thời nguyên thủy rồi bác ạ => đến 1789 thì kỹ thuật chứ lương thực, kỹ thuật bảo quản chắc chắn là phải có chứ ko phải đơn gian giản như gạo đóng vào bao rồi quảng trên sàn đất đâu bác ạ.
    [/QUOTE]
    Ý của bác Đơn Côi là 70 đồn lương này dùng để tiếp tế cho nhiều vạn quân, chứ không phải là 2 - 3 vạn quân. Theo đó, quân Thanh phải lớn hơn rất nhiều nên mới lập đồn lương như vậy.
    Theo link: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/programmes/story/2006/01/milestoneweek05year2006.shtml
    Tôn Sif Nghị cufng la? một vị tướng gio?i cu?a nha? Thanh, đặc biệt vê? ha?nh chính, tô? chức. Chiến thuật cu?a ông ta la? xây dựng các căn cứ ơ? miê?n Bắc, rô?i tiến dâ?n va?o tận Huế đê? tiêu diệt nha? Tây Sơn.
    Ông Nguyêfn Duy Chính nói đó la? cách bao vây kéo da?i quân Thanh đaf áp dụng thắng lợi ơ? các chiến dịch tấn công Tân Cương, Tây Tạng trước đó.
    Bác nào biết các chiến dịch của nhà Thanh tấn công Tây Tạng, Tân Cương?
    Đã đánh lâu dài, chắc cũng phải làm đồn lương như 70 đồn khi tấn công Việt Nam vậy.
  3. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tóm tắt cuộc chiến xem:
    Nguyễn Huệ đến Tam Điệp chia quân 5 đường, dự tính trong 7 ngày sẽ đánh bại quân Thanh.
    - Đêm 30 tháng Chạp, tiến đánh đồn Gián Khẩu, diệt đồn Nhật Tảo, Nguyệt Quyết nhanh gọn, quân Thanh ở Thăng Long không hề biết.
    - Vây đồn Hà Hồi, quân Thanh ra hàng.
    - Mùng 4 tháng Giêng, áp sát đồn Ngọc Hồi, Tôn Sĩ Nghị tăng quân đến Ngọc Hồi.
    - Đêm mùng 4 tháng giêng, đô đốc Long bất ngờ đánh đồn Khương Thượng, Nam Đồng, ruổi dài đến thành Thăng Long.
    - Sáng mùng 5 tháng Giêng, tấn công đồn Ngọc Hồi, đánh bại quân Thanh ở đây, kéo vào Thăng Long.
    - Quân Vân Quý ở Sơn Tây nghe tin thua trận rút về nước.
    - Tôn Sĩ Nghị bỏ Thăng Long chạy qua sông Nhị tháo thạy về nước.
    Toàn bộ diễn biến có thể chia làm 3 giai đoạn chính:
    - Chiếm các đồn tiền tiêu Nhật Tảo, Nguyệt Quyết, Hà Hồi, Gián Khẩu.
    - Áp sáp Ngọc Hồi, tấn công Khương Thượng, Nam Đồng, đánh đồn Ngọc Hồi.
    - Tôn Sĩ Nghị tháo chạy về Bắc và bị mai phục, phải vứt cả ấn tín chạy về nước.
    Toàn bộ diễn biến quá nhanh, khiến tôi nghĩ quân Thanh không đến nỗi là hàng chục vạn, mà là ít hơn rất nhiều, đến nỗi các đồn như Nhật Tảo, Hà Hồi, Nguyệt Quyết bị diệt gọn.
    Thời điểm quan trọng là ngày mùng 4, mùng 5, là xảy ra các trận chiến quyết định như Khương Thượng, Nam Đồng, Ngọc Hồi, thế mà trong 2 ngày quân Thanh đã bị tiêu diệt. Chẳng phải là rất nhanh, lạ lùng xưa nay không có sao?
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 15:12 ngày 11/05/2008
  4. dnn0601

    dnn0601 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/10/2006
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    To bác chauphihwangza
    Tôi xin trích dẫn một số tài liệu của các giáo sĩ Tây phương lưu trữ tại văn khố Hội truyền giáo Pháp do Bà Ðặng Phương Nghi dịch ra tiếng Việt in trong sách Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của một nhóm học giả.
    T1 : Ngày 17, một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với vua Chiêu Thống. Ngày 19 sứ giả hoàng đế Trung Hoa là đại tướng chỉ huy quân đội thiên hoàng, tên gọi là Tổng Ðốc (Tôn Sĩ Nghị) đã nhiệm mệnh và tuyên bố Chiêu Thống làm vua Bắc Kỳ [thực ra nên dịch là Ðàng Ngoài; sử quan Nguyễn thì gọi là "nước An-Nam"]. Viện
    binh Trung Hoa gồm độ 280,000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông... (trang 198)
    T2 : La Mothe đã thốt lên rằng:"Thật là hiếm những người đáng sợ và quỷ quyệt như ông ta! Ông ta [Quang Trung] đã cho đem về Phú Xuân và về tân Kinh Ðô của ông bằng đường bộ chứ không phải bằng đường thủy (vì ông sợ tàu bè chất nặng quá có thể chìm xuống đáy biển hoặc gặp bão giữa đường) hai, ba nghìn cỗ đại bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với số tiền bạc và (đại khái) tất cả những vật liệu quý giá bắt được của quân Tầu. Ðó, kết quả của cuộc chinh phạt ấy là như vậy, nó đem đến đau đớn và nhục nhã cho quân Trung Hoa và lợi lộc cùng vẻ vang cho quân Tây Sơn... "(trang 210)
    T3 : Tiếm Vương dũng cảm và tàn bạo, chúa tể Nam Kỳ Thượng [Bắc Ðàng Trong] và Bắc Kỳ [Ðàng Ngoài] không mấy lo sợ quân đội gồm người Ấn Ðộ, Xiêm, Trung Hoa và Bồ Ðào Nha... Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ vì nể Tân Attila này vì ngài vừa mới phong ông làm vua Bắc Kỳ [Ðàng Ngoài] qua trung gian một vị đại sứ,
    quên cả việc 50,000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm Vương năm ngoái chỉ trong một trận giao chiến thôi. Trận đó quân Trung Hoa được trang bị đầy đủ khí giới, từ súng cho tới gươm và đông gấp 10 quân Tiếm Vương... Tiếm Vương không thèm tới [Ðàng Ngoài] để nhận sắc phong tại thủ đô chúng tôi (Hà Nội) và chỉ chịu phái một vị
    quan thường nhân danh ông. Ông nầy mặc áo của chúa ông (Quang Trung) làm vị đại sứ Trung Hoa phải kính nể... (trang 211)
    Trên đây là những trích dẫn từ tài liệu của các giáo sĩ Tây phương lưu trữ tại văn khố Hội truyền giáo Pháp. Những nhận định này có thể nói là sẽ có khách quan hơn so với Cao Tông thực lục. Tôi xin nhận xét về 3 trích dẫn trên như thế này :
    - Về trích dẫn T1 & T2 là về số quân Thanh nhập Việt Nam và số quân chết có thể ko được chính xác hẳn nhưng chúng ta vẫn phải công nhận rằng đây là những nhận xét khách quan được ra bởi các giáo sỹ nước ngoài sống ở Việt Nam thời đó.
    - Về trích dẫn T3 : Theo tôi trích dẫn T3 rất có giá trị. Trong trích dẫn này ông La Mothe có đưa ra các thông tin về chiến lợi phẩm mà quân Tây Sơn thu được của quân Thanh là b]2000-3000 cỗ đại bác và súng thần công, rất nhiều súng dài. Cứ cho là con số của La Mothe đã bị phóng đại nhiều lần thì con số đại bác và súng thần công mà quân Tây Sơn thu được sau khi giảm thiểu cũng được vào khoảng ~ 500. Dù sao con số 500 cỗ đại bác và súng thần công cũng là 1 con số cực kỳ ấn tượng đúng ko các bác. Tôi ko rõ thời xưa cứ bao nhiêu lính Thanh thì sẽ có 1 đại bác or súng thần công. Nhưng theo tôi từ con số 500 cỗ đại bác và súng thần công nói trên => số lính Thanh vào Việt Nam là rất lớn.
    Link trích dẫn : http://members.fortunecity.com/tbn2170/q2-gopy.htm
    Mời các bác phân tích tiếp[/b]
  5. tuaasn

    tuaasn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
  6. OldBuff

    OldBuff Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    20
    Ta thì có:
    - La sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn
    - Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 tới 1802 - Tạ Chí Đại Trường
    - Tìm về cội nguồn - Phan Huy Lê
    - Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập - Triều Nguyễn
    - Lê sử toản yếu
    - Việt sử thông giám cương mục
    - Đại Nam thực lục
    - Lê Quý kỷ sự
    - Tây Sơn thuật lược
    - Hoàng Lê nhất thống chí
    - Nguyễn thị Tây Sơn ký
    - Hàn các anh hoa - Ngô gia văn phái
    - Đề cương lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
    Tàu thì có:
    - Việt Thanh chiến sử
    - An Nam chi phục thuộc
    - Thanh đại thông sử
    - Đại Thanh thực lục
    - An Nam ký sự
    - Càn Long chinh vũ An Nam ký
    Tây thì có:
    - Hồi ký của De la Bissachère bản công bố của C.Maybon và Felix Renouard de Sainte Croix
    - Ký sự của J. Barrow
    - Nhật ký hội truyền giáo Bắc kỳ
    Và nhiều nguồn internet khác.
    Lưu ý: Các tài liệu nêu trên là thứ cấp và cần được đối chiếu nguyên bản.
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Bính Ngọ, năm thứ 47 (1786). (Thanh, năm Càn Long thứ 51).
    Tháng 3. Dân bị nạn đói.
    Tháng này, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau. Trịnh Khải hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp của sẽ trao cho quan chức, nhưng không ai hưởng ứng. Bèn dùng sắc lệnh bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn.
    ...
    Đêm 17 tháng này, giọt nước đồng hồ xuống đến trống canh ba, Văn Nhạc, Văn Huệ sai người vào từ biệt với nhà vua, rồi bí mật ban phát ám hiệu, ngay đêm hôm ấy quân thủy, quân bộ nhất luật rút đi, của cải trong kho tàng đều bị vơ vét nhẵn.
    ...
    Sau khi quân giặc đã rút đi, nhà vua lập tức triệu bầy tôi trong triều bàn luận rằng: "Giặc để lại cho ta một nước trống rỗng, nếu có sự nguy cấp, thì chống đỡ bằng cách nào?". Bèn viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân vào bảo vệ hoàng thành. Vì thế, hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa "bảo vệ". Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn.
    Đinh Mùi, Lê Mẫn Đế, năm Chiêu Thống thứ nhất (1787). (Thanh, năm Càn Long thứ 52).
    Kho tàng rỗng tuếch, không đủ tiếp tế đều đều mọi sự cần dùng cho việc quân. Các mỏ đồng ờ thượng du lại bị thổ ty cản trở, thành thử không thu nộp được như trước. Hữu Chỉnh tâu xin thu vét hết tượng đồng ở đền chùa các lộ đem về kinh đô để đúc tiền "Chiêu Thống thông bảo".
    ...
    Lúc chiều tà, giặc vào chiếm cứ thành (Thăng Long), tung quân cướp bóc thả cửa: thành thị phố xá hết sạch sành sanh.
    ...
    "Bấy giờ luôn năm mất mùa, đói kém, nhất là năm này lại càng quá lắm. Quân lính nhà Thanh đóng ở kinh thành rông rỡ cướp bóc; dân chúng lại càng chán nghét. Triều đình đốc thúc lương quân, các châu và huyện đều không cung ứng. Nhà vua bèn sai các quan chia nhau làm việc này. Dân chúng có người đến nỗi phải khóc lóc mà dâng nộp. Đường tiếp tế lương thực cho quân Thanh thì xa, nên bao nhiêu lương và tiền mà triều đình thu được của dân đều đem cung đốn cho họ hết sạch. Còn vài vạn người vừa nghĩa binh các đạo vừa ưu binh Thanh Nghệ thì đều lòng không dạ trống đi theo việc binh nhung. Lòng người do đấy lại càng chia rẽ tan tác".
    Trên đây là mốt số dẫn chứng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giam Cương Mục về tình hình kho lương của nhà nhà nước Bắc Hà (Lê - Trịnh) trong thời gian từ năm 1786 đến năm 1788 (trong vòng 2- 3 năm này

    Link: http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu/kdvstgcm/kdvstgcm51.html
    http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu/kdvstgcm/kdvstgcm52.html
    Về những nhận xét của các giáo sĩ phương Tây về sự giàu có của cả 2 miền. Tôi e rằng đó là ở các vùng đô thị mà họ đi qua. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả.
    Trong thời gian trước khi quân Tây Sơn ra bắc đánh họ Trịnh. Tình hình bắc hà vẫn là lo việc đối nội, không tiến hành nhiều cuộc chiến tranh ngoài xa, có chăng là các cuộc chiến đàn áp khởi nghĩa nông dân.
    Việc thu thuế ở nông dân ở Bắc Hà vẫn không có gì là hiện đại. Đó là ở các làng xã, nộp thuế cho quan quân ở địa phương như xã, huyện, trấn, rồi từ đó chuyển về kho lương của nhà nước ở triều đình, hoặc ở những vùng thuộc trung ương. Quân đội của nhà nước tập trung ở kinh đô, thường trực 3 - 4 vạn người. Còn lại là ở các địa phương (trấn). Ở các địa phương lấy thuế vừa nuôi quân ở trấn, một phần phải chuyển về kinh đô để nuôi quân triều đình. Nạp thuế là nghĩa vụ của thương nhân, thợ thủ công, nông dân... Nền kinh tế Bắc Hà chủ yếu là nông nghiệp, là ngành rất bấp bênh, phụ thuộc và nhiều yếu tố (thời tiết, kỹ thuật...), nên thu ngân nguỹ từ ngành này cũng bấp bênh theo. Sản phẩm của nông nghiệp 90 % là lúa gạo. Việc nộp thuế của nông dân cũng lấy từ lúa gạo. Do đó ngân quỹ, kho lương cũng khó mà đầy đủ được. Lúa gạo là thứ phải cho dùng thường xuyên, ăn nhiều hơn là sản xuất thừa. Đó điều tất yếu. Ở thời này thường xảy ra đói kém là vì sản xuất nông nghiệp đấy: mất mùa, lũ lụt...
    Thời bình, thu thuế có thể giảm. Thời chiến có thể quản lý chặt chẽ ngân quỹ, thu thêm nhiều lương. Nhưng phải có giới hạn nhất định, song hành với đó là xã hội sẽ bất ổn, dân dễ làm loạn như bác phân tích.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 15:17 ngày 13/05/2008
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Diện tích canh tác chỉ là một phần cần để cung cấp và để có lương thực thôi bác ợ. Theo như đoạn trích trên: đó là diện tích có thể canh tác trồng trọt (chủ yếu là lúa) nhưng không có nghĩa toàn bộ diện tích đó có được sử dụng trồng lúa. Hơn nữa, việc sử dụng đất để canh tác phụ thuộc vào dân cư (số lượng dân cư trên diện tích canh tác) và trình độ kỹ thuật. Và cả thời tiết nữa. Sức người có hạn, với trình độ kỹ thuật thời đó, cày bằng sức trâu bò, chỉ canh đủ sức canh tác trên một diện tích nhất định nào đó mà thôi.
    Như ở một bài viết trước. Tôi cho rằng dân số 2 tỉnh Quảng thời Càn Long là khoảng 10 triệu người, khoảng 7 - 8 triệu người là người Quảng, Hán. Họ cũng như người Việt ở Bắc Hà là sống chủ yếu là sản xuất lúa gạo. Dân số 2 tỉnh Quảng khoảng gấp đôi Bắc Hà (Bắc Hà khoảng 4 - 5 triệu người).
    7 - 8 triệu người trên diện tích canh tác ở đồng bằng Châu Giang hơn hẳn tỷ lệ so với 4 - 5 triệu người Bắc Hà trên diện tích canh tác là đồng bằng sông Hồng.
    4 - 5 triệu người Bắc Hà canh tác trên đồng bằng sông Hồng đủ để nuôi 4 - 5 vạn quân thường trực, chứ không thể hơn (quân thường trực là quân chỉ đóng giữ, canh phòng, chứ không sản xuất). So với Lưỡng Quảng 7 - 8 triệu người sản xuất lúa gạo đủ để nuôi 10 vạn quân thường trực ở đây. So với tỷ lệ giữa 2 nước Bắc Hà và Lưỡng Quảng là rất hợp.
    Nói tóm lại 7 - 8 triệu người Lưỡng Quảng cày cấy, trồng lúa. Số lương thảo thu hoạch, nộp vào kho lương là đủ nuôi 10 vạn quân thường trực. Còn lại là để nuôi 7 - 8 triệu người dân sống vào trồng lúa. Lại còn nuôi cả quan lại. Chưa kể lúc mất mùa đâu.
    Nhà Thanh có thừa sức huy động 20 vạn quân hoặc hơn. Số lượng lương thảo có được sẽ đủ dùng. Cứ cho nhà Thanh điều động nhân lực là 20 vạn người (kể cả lính và dân phu). Nhưng nhà Thanh chỉ lấy quân lính ở 4 tỉnh. Phải để quân ở lại 1 nửa. Một nửa kia sẽ bù bằng từng đó số dân phu. Số lương thảo trong kho mang đi có thể sử dụng trong 6 tháng - 1 năm. Hết rồi phải tiếp tế. Số lượng tiếp tế không thể nhanh mà có lại đủ cho đội quân dân 20 vạn người kia. Bởi vì mỗi năm có 2 vụ lúa, số lúa gạo dư thừa nộp vào kho, trong 1 năm lại không thể đủ cho 20 vạn người đang tiêu tốn từng ngày kia ở Bắc Hà, lại vừa cung cấp đủ dữ trữ ở kho lương ở Lưỡng Quảng được.
    Những điều kiện có thể gây trở ngại cho việc vận lương là :
    - Đường sá xa xôi, hiểm trở.
    - Thời tiết ko thuận lợi.
    => Có thể 6 tháng đó thuận lợi, sau 6 tháng thời tiết lại thay đổi, đường vận lương sẽ lại khó đi.
    - Bị địch quân tập hậu. => Khi đóng quân ở lâu, chưa biết thắng thua thế nào, khả năng bị quân địch tập hậu là có thể xảy ra.
    Đó là chưa kể thời gian lâu dài, người vận chuyển sẽ sinh ra chán nản, mệt mỏi.
    Để đi 150 km từ Lạng Sơn đến Thăng Long. Mỗi ngày đi được 10 km là cùng. Để 1 chuyến đi đó phải mất 15 ngày. 15 ngày đó, quân Thanh đóng ở Thăng Long đã tiêu tốn rất nhiều, chưa kể những những người vận lương cũng phải ăn nữa. Và chưa tính đường vận chuyển từ kho lương nội địa Lưỡng Quảng như Nam Ninh, Quảng Châu đến Lạng Sơn là bao nhiêu. Từ Nam Ninh đến Lạng Sơn: khoảng 50 - 100 km. Từ Quảng Châu đến Lạng Sơn là: 100 - 200 km. Lại phải tính đến cho phí vận chuyển, đường đi thế nào nữa?
    Có thể nói vận chuyển lương thảo, dù lập đồn lương nữa cũng rất khó khăn, tiêu tốn cũng khá nhiều thời gian.

  9. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi có mấy ý thế này.
    1. Đồn Sơn Tây do quân Vân Quý đến đóng. Theo tôi quân này phải ít hơn rất nhiều so với quân của Nghị. Đường hành quân lại hiểm trở hơn. Bởi vì Vân Quý dân ít và kinh tế nghèo hơn. Với lại tổng số quân Vân Quý là khoảng 60.000 người. Vân Quý cũng là đất giáp Miến Điện còn phải đề phòng Miến Điện nữa. Ô Đại Kinh làm gì mà dám đưa 50.000 quân đi xuống Việt chứ?
    2. Theo cách bố phòng, đóng đồn của quân Thanh có thể phân làm 2 loại đồn là:
    - Đồn lớn (là nơi tập trung quân đông, có hoả lực lớn) và do các tướng chủ chốt trấn giữ: Khương Thượng, Ngọc Hồi, Thăng Long, Sơn Tây, Nam Đồng. => Các đồn này có 3 tướng đi theo 3 đường là Tôn Sĩ Nghị theo đường Lạng Sơn, Sầm Nghi Đống theo đường Cao Bằng, Ô Đại Kinh theo đường Tuyên Quang. Ô Đại Kinh giữ đồn Sơn Tây là có khả năng độc lập, quân số có thể đông nhưng tôi không cho rằng là đến 50.000, mà khoảng 20.000 - 30.000 vạn là cùng. Đồn Khương Thượng do thái thú Điền Châu là Sâm Nghi Đống đóng giữ, cũng có khả năng độc lập, khoảng 15.000 cũng có thể chấp nhận được. Quân ở đồn Sơn Tây và đồn Khương Thượng là quân lấy từ Vân Quý. Cả thảy là không quá 40.000 người có thể được. Đồn Nam Đồng, Thăng Long, Ngọc Hồi là quân lấy từ Lưỡng Quảng, dưới quyền Tôn Sĩ Nghị và các phó tướng, có thể tổng 3 đồn này không quá 30.000 người là hợp lý hơn. Trung bình mỗi đồn khoảng 10.000 quân. 3 đồn này bị đô đốc Long một loạt diệt luôn 3 đồn. Đô đốc Long dẫn một đội quân có thể nói là khá tinh nhuệ, cũng tương tự như đội quân của Nguyễn Huệ đánh đồn Ngọc Hồi nên mới dễ dàng trong 1 đêm mà đánh bại 3 đồn, ruỗi thẳng vào Thăng Long như vậy. Quân đô đốc Long ít ra là 10.000 - 15.000. Nếu quân Thanh ở Thăng Long là 30.000 sao lại thua nhanh trước 10.000 - 15.000 quân Tây Sơn chứ. Đồn Khương Thượng cũng cỡ 15.000 người nữa. Chỉ một đêm mùng 4, sáng mùng 5 mà đồn này bị diệt, chủ tướng tự tử.
    - Đồn nhỏ hơn, ở xa Thăng Long, vai trò như là đồn tiền tiêu: Nhật Tảo, Nguyệt Quyết, Hà Hồi, Gián Khẩu. => Những đồn này đều bị quân Tây Sơn hạ nhanh chóng, đến nỗi Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long không hay biết thì các đồn này rất ít quân thôi. Cứ cho mỗi đồn là 2.000 quân là cùng. Nếu mà có 5.000 quân mỗi đồn thì không đến nỗi thua nhanh gọn như vậy. Quân có thể tiêu diệt gọn mấy đồn này chỉ có thể là bao vây tứ phía, không một tên lính nào có thể chạy ra ngoài đồn. Quân Tây Sơn (cánh quân chủ lực do Nguyễn Huệ, Phan Văn Lân đích thân chỉ huy sẽ có quân số gấp 2, gấp 3 lần so với 5.000 quân rồi, cộng với yếu tố bất ngờ, quân Thanh đang lo nghỉ Tết ÂL mà bỏ bê việc quân). Nếu là 5.000 quân, thì vẫn có thể phá vỡ vòng vây ở một điểm nào đó rút chạy về Thăng Long, hoặc đồn Ngọc Hồi rồi. Đàng này lại không sót một tên chạy thoát, chẳng phải là khó hiểu sao? Nếu mỗi đồn là khoảng 2.000 thì quân Tây Sơn là 20.000 - 30.000 phải lớn hơn 5 - 6 lần là hoàn toàn áp đảo so với 2.000 quân, có thể diệt gọn đồn, bắt sống toàn bộ quân ở quân Thanh các đồn này.

    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 17:40 ngày 13/05/2008
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Bác nói rất có lý. Nhưng tôi chỉ tính trung bình cho mỗi đồn Khương Thượng, Nam Đồng, Ngọc Hồi, Thăng Long là mỗi đồn 5.000 người. Số lượng quân 4 đồn là 20.000 quân, có thể tuỳ vao vị trí trọng yếu của từng đồn mà có thể tăng quân ở đồn này trên 5.000, giảm quân của đồn kia dưới 5.000.
    Tôi thừa nhận quân ở Sơn Tây là 2.000 là quá ít. Như tôi đã từng viết ở bài trước đó, trang 20. Link: http://www10.ttvnol.com/Web/TopicPage/Topic.aspx?TOPIC_ID=630177&whichpage=20&
    Tôi đã dự tính khoảng 30.000 - 40.000, không kể quân Vân Quý ở đồn Sơn Tây của Ô Đại Kinh.
    Coi như không tính đồn Sơn Tây. Tôi có 30.000 quân để lập đồn. Tôi sẽ lập là:
    Đồn Hà Hồi, Gián Khẩu, Nhật Tảo, Nguyệt Quyết tôi dự tính mỗi đồn 2.000 quân.
    Các đồn Khương Thượng, Ngọc Hồi, Nam Đồng, Thăng Long còn lại là mỗi đồn 5.000 quân. Khoảng cách giữa mỗi đồn này là không quá 10 km, lại có sự cơ động của kỵ binh có thể ứng cứu lẫn nhau là có thể được. À mà mỗi đồn phải có dân phu phục vụ hậu cần nữa, nhân lực mỗi đồn này là khoảng 10.000 người. 5.000 quân chiến đấu bố phòng ở đồn, vừa có một lực lượng truyền tin là kỵ binh giữa các đồn. Chưa nửa ngày là có thể đến ứng cứu được.
    Còn so sánh với tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thời đó, quân Pháp lập đồn bốt ở lòng chảo Điện Biên, xây dựng hệ thống đồn bốt, hào lũy rất kiên cố, tập trung lại ở một diện tích bao nhiêu, bán kính từ trung tâm ra đến vùng rìa là bao nhiêu? Tôi không rõ lắm. Chỉ thấy là ********* bao vây tập đoàn cứ điểm này đánh nhau hơn 50 ngày, bộ binh 2 bên đánh nhau phải đào hào, không thể đánh nhanh được. 15.000 quân Pháp có thể theo hệ thống đồn bột hào luỹ có thể cơ độ trong phạm vi đó. Có điểm tương quan gì đến cách lập đồn của quân Thanh?
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 10:58 ngày 12/05/2008

Chia sẻ trang này