1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiện thư 善书

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi Tinhnguyen08, 25/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
    太上感应篇

    1. MINH NGHĨA

    Thái Thượng nói:
    Họa phúc không có lối mà do người tự triệu.
    Báo ứng thiện ác như bóng theo hình.

    2. GIÁM SÁT
    Cho nên, trời đất có thần ghi tội, xét người lỗi nặng nhẹ mà giảm Toán (100 ngày tuổi thọ).
    Toán giảm thì nghèo khổ mất mát, hay gặp hoạn nạn, mọi người ghét bỏ, hình họa theo sau, tốt lành lánh xa, ác tinh gieo họa. Hết Toán thì chết. Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân ở trên đầu, ghi chép tội ác,để trừ Kỷ (12 năm tuổi thọ), Toán.
    Lại có Thần Tam Thi ở trong thân người, tới ngày Canh Thân,lên thẳng Thiên Tào,báo cáo tội lỗi. Đến ngày cuối tháng,Táo Thần cũng vậy. Phàm nhân có tội,lớn thì giảm Kỷ, nhỏ thì giảm Toán.Tội lỗi lớn nhỏ phải đến vài trăm,muốn cầu trường sinh, trước tiên nên tránh (tội) .

    3. TÍCH THIỆN

    Hợp đạo thì tiến, trái đạo thì thoái. Không theo tà đạo. Không khinh nhà tối. Tích lũy công đức. Từ tâm với vật. Trung, hiếu, hữu, đễ. Sửa mình dạy người. Thương giúp cô quả. Kính già yêu trẻ. Côn trùng cây cỏ, cũng không đả thương. Thương người gặp nạn. Mừng người gặp thiện. Cứu tế người gặp nguy cấp. Thấy người được như mình được.
    Thấy người mất như mình mất.
    Không nêu điều người kém, không khoe điều mình giỏi. Ngăn ác khen thiện. Cho nhiều giữ ít. Chịu nhục không oán. Được sủng ái nên lo. Thi ân chẳng cầu báo. Cho rồi không hối tiếc.

    4. THIỆN BÁO

    Nếu là người thiện, mọi người kính trọng, thiên đạo giúp đỡ, phúc lộc theo sau, tà ác tránh xa, thần linh hộ vệ, cứ làm là thành, có thể thành thần tiên. Muốn cầu thiên tiên,
    cần làm một nghìn ba trăm thiện. Muốn cầu địa tiên, cần làm ba trăm thiện.

    5. CHƯ ÁC (THƯỢNG)

    Ví như làm điều phi nghĩa, đi ngược đạo lý, hay làm điều ác, nhẫn tâm tàn hại, ngầm hại lương thiện, khi quân bất hiếu, khinh khi thầy dạy,
    phản bội tổ chức, lừa người không biết,
    chê bai bạn học, dối trá lật lọng công kích tộc họ, cương cường bất nhân,
    hung ác tàn nhẫn, bất phân phải trái,
    tráo trở ngược xuôi, ngược đãi cướp công kẻ dưới, nịnh bợ đón ý bề trên, chịu ơn không nhớ, oán hận chẳng quên, khinh trời miệt dân, gây rối phép nước, thưởng kẻ phi nghĩa,
    phạt người vô tội, giết người cướp của, hại người chiếm quyền, giết kẻ đầu hàng, phế người ngay, bỏ người hiền, ức hiếp cô quả, ăn hối lộ phạm pháp, cong thành thẳng, thẳng thành cong, tội nhẹ thành nặng, thấy chết giận thêm, biết lỗi không sửa, biết thiện không làm, tội mình hại người, cản trở tài năng, báng bổ thánh hiền, phá hỏng đạo đức, săn chim bắt thú,phá ổ rung cây, lấp hang lật tổ,phá thai hại trứng, mong người thất bại,huỷ người thành công, hại người để cầu an, thiệt người lợi ta, lấy xấu thay tốt, vì việc riêng bỏ việc công, trộm tài của người, che lấp việc thiện, phô chỗ xấu, bới móc việc người khác, làm người hao tài, chia rẽ cốt nhục, chiếm thứ người yêu thích, giúp người làm càn, khoái chí tác oai, hạ nhục người để cầu thắng, làm hỏng giống má, phá hoại hôn nhân, chớm giàu sinh kiêu, chạy chọt vô sỉ, nhận ân chối tội, gieo hoạ gán tiếng ác, mua bán hư danh, tâm địa hiểm độc, phá sở trường của người, bảo vệ sở đoản của mình, cậy quyền bức hiếp, dung túng ác sát, vô cớ chặt bỏ, tự nhiên giết mổ, phung phí ngũ cốc, lao nhiễu chúng sinh, phá gia đình người chiếm đoạt tài bảo, khơi thuỷ phóng hoả làm hại dân cư, làm loạn phép tắc huỷ công người khác, phá hỏng đồ vật để bức dụng người,thấy người vinh quý mong bị vùi dập,thấy người giàu có mong người phá sản,thấy người mỹ lệ thì sinh tà tâm, thiếu nợ người ta mong cho họ chết, mong cầu không được thì sinh oán chửi, thấy người mắc lỗi còn nói móc thêm, thấy người hình tướng bất toàn thì cười chê, thấy người tài năng nên khen ngợi lại chèn ép ..

    6. CHƯ ÁC (HẠ)

    Chôn bùa hại người, dùng thuốc giết cây,
    oán giận sư phụ, xung đột cha anh, tham lấy tham cầu, thích chiếm thích đoạt, cướp mà giàu có, xảo trá thăng quan, thưởng phạt bất công, dục lạc quá mức, ngược đãi thuộc hạ,
    đe dọa hống hách, oán trời hận người, mắng gió chửi mưa, tranh đấu kiện tụng, kết bè làm càn, nghe lời thê thiếp trái lời cha mẹ,
    có mới nới cũ, nghĩ không nói có,
    thấy lợi làm liều, dối lừa bề trên,
    nói lời độc ác, gièm siểm người khác,
    chửi thần, hại người mà xưng chính, trực,
    bỏ thuận theo nghịch, bỏ người thân theo người dưng, chỉ thiên địa chứng lòng xấu xa, gọi thần linh giám điều bỉ ổi, cho rồi hối tiếc, vay mượn không trả, cầu quá phận mình,
    ra sức tính toán, dâm dục quá độ,
    khẩu phật tâm xà, đồ thiu cho người, tả đạo dụ người, thước ngắn đo thiếu, đấu nhỏ cân điêu, lẫn lộn thật giả,
    thu lợi gian trá, bóc lột lương thiện, khinh gạt người ngu, tham lam vô tận, nguyền rủa (lời) cương trực, ham rượu quậy phá, cốt nhục tranh giành, nam không trung lương, bỏ bê nhà cửa, nữ không nhu thuận, bất kính chồng mình, chỉ thích khoe khoang, thường hay đố kỵ,
    vô hạnh với vợ con, thất lễ với nhà chồng,
    khinh mạn tổ tiên, làm trái thượng lệnh,
    làm điều vô ích, thầm sinh lòng khác,
    rủa mình rủa người, yêu ghét thiên lệch, bước qua giếng, bếp lò, nhảy qua người, đồ ăn,
    phá thai hại con, làm điều mờ ám, cuối năm ca múa, đầu năm giận hờn, sỉ, nhổ, tiểu tiện về hướng bắc, rên, hờ, khóc lóc hướng ông Táo, lại lấy bếp lửa đốt hương, củi bẩn nấu ăn,đêm xuống lõa lồ, ngày lành hành hình,mắng sao băng, chê cầu vồng, thường chê tam quang ( Trời), nhìn lâu nhật nguyệt, mùa xuân đốt rừng săn bắn, hướng bắc rủa độc, vô cớ đánh rắn giết rùa.

    7. ÁC BÁO

    Những tội như vậy, Chủ Mệnh tùy theo nặng nhẹ, đoạt lấy kỷ toán. Toán hết thì chết. Chết chưa hết tội, tai ương đến đời con cháu. Lại còn cướp tiền của người, thì vợ con gia đình phải chịu lây, dần cho đến chết, nếu mà không chết, ắt có thuỷ hoả đạo tặc, rơi đồ mất vật, bệnh tật, điều tiếng miệng lưỡi, là cái giá cho sự cướp giật. Còn giết oan người khác, đổi lại binh đao cũng bị giết lại. Giữ của phi nghĩa, ví như thịt thối cứu đói, rượu độc giải khát, đã chẳng tạm no, cận kề cái chết.

    8. CHỈ VI

    Hễ tâm khởi thiện, thiện tuy chưa làm,
    thiện thần đã theo.
    Hoặc tâm khởi ác, ác tuy chưa làm,
    ác thần đã theo.

    9. HỐI QUÁ

    Đã từng làm điều ác, sau tự hối cải,
    mọi ác không làm, hành mọi điều thiện,
    lâu lâu ắt có điều lành, gọi là chuyển họa thành phúc vậy.

    10. LUẬT ĐỊNH

    Cho nên, người tốt nói thiện, thấy thiện, làm thiện, mỗi ngày có ba thiện, ba năm ắt trời ban phúc.
    Người xấu nói ác, thấy ác, làm ác, mỗi ngày có ba ác, ba năm ắt trời giáng họa.
    Sao không cố gắng đi?

    《太上感应篇》原文
    太上曰:祸福无门,惟人自召;善恶之报,如影随形。

      是以天地有司过之神,依人所犯轻重,以夺人算。算减则贫耗,多逢忧患,人皆恶之,刑祸随之,吉庆避之,恶星灾之,算尽则死。

      又有三台北斗神君,在人头上,录人罪恶,夺其纪算。又有三尸神,在人身中,每到庚申日,辄上诣天曹,言人罪过。月晦之日,灶神亦然。

      凡人有过,大则夺纪,小则夺算。其过大小,有数百事,欲求长生者,先须避之。

      是道则进,非道则退;不履邪径,不欺暗室;积德累功,慈心于物;忠孝友悌,正己化人;矜孤恤寡,敬老怀幼;昆虫草木,犹不可伤。宜悯人之凶,乐人之善,济人之急,救人之危。见人之得,如己之得;见人之失,如己之失。不彰人短,不炫己长,遏恶扬善,推多取少。受辱不怨,受宠若惊,施恩不求报,与人不追悔。

      所谓善人,人皆敬之,天道佑之,福禄随之,众邪远之,神灵卫之,所作必成,神仙可冀。欲求天仙者,当立一千三百善。欲求地仙者,当立三百善。

      苟或非义而动,背理而行;以恶为能,忍作残害;阴贼良善,暗侮君亲;慢其先生,叛其所事;诳诸无识,谤诸同学;虚诬诈伪,攻讦宗亲;刚强不仁,狠戾自用。

      是非不当,向背乖宜;虐下取功,谄上希旨;受恩不感,念怨不休;轻蔑天民,扰乱国政;赏及非义,刑及无辜;杀人取财,倾人取位;诛降戮服,贬正排贤;凌孤逼寡,弃法受赂;以直为曲,以曲为直;入轻为重,见杀加怒;知过不改,知善不为;自罪引他,壅塞方术;讪谤圣贤,侵凌道德。

      射飞逐走,发蛰惊栖;填穴覆巢,伤胎破卵;愿人有失,毁人成功;危人自安,减人自益;以恶易好,以私废公;窃人之能,蔽人之善;形人之丑,讦人之私;耗人货财,离人骨肉;侵人所爱,助人为非;逞志作威,辱人求胜;败人苗稼,破人婚姻。

      苟富而骄,苟免无耻;认恩推过,嫁祸卖恶;沽买虚誉,包贮险心;挫人所长,护己所短;乘威迫胁,纵暴杀伤;无故剪裁,非礼烹宰;散弃五谷,劳扰众生;破人之家,取其财宝;决水放火,以害民居;紊乱规模,以败人功;损人器物,以穷人用。

      见他荣贵,愿他流贬;见他富有,愿他破散;见他色美,起心私之;负他货财,愿他身死;干求不遂,便生咒恨;见他失便,便说他过;见他体相不具而笑之,见他才能可称而抑之。

      埋蛊厌人,用药杀树;恚怒师傅,抵触父兄;强取强求,好侵好夺;掳掠致富,巧诈求迁;赏罚不平,逸乐过节;苛虐其下,恐吓于他,

      怨天尤人,呵风骂雨;斗合争讼,妄逐朋党;用妻妾语,违父母训;得新忘故,口是心非;贪冒于财,欺罔其上;造作恶语,谗毁平人;毁人称直,骂神称正;弃顺效逆,背亲向疏;指天地以证鄙怀,引神明而鉴猥事。

      施与后悔,假借不还;分外营求,力上施设;淫欲过度,心毒貌慈;秽食喂人,左道惑众;短尺狭度,轻秤小升;以伪杂真,采取奸利;压良为贱,谩蓦愚人;贪婪无厌,咒诅求直。

      嗜酒悖乱,骨肉忿争;男不忠良,女不柔顺;不和其室,不敬其夫;每好矜夸,常行妒忌;无行于妻子,失礼于舅姑;轻慢先灵,违逆上命;作为无益,怀挟外心;自咒咒他,偏憎偏爱。

      越井越灶,跳食跳人;损子堕胎,行多隐僻;晦腊歌舞,朔旦号怒;对北涕唾及溺,对灶吟咏及哭;又以灶火烧香,秽柴作食;夜起裸露,八节行刑;唾流星,指虹霓;辄指三光,久视日月;春月燎猎,对北恶骂;无故杀龟打蛇。

      如是等罪,司命随其轻重,夺其纪算,算尽则死。死有余辜,乃殃及子孙。又诸横取人财者,乃计其妻子家口以当之,渐至死丧。若不死丧,则有水火盗贼、遗亡器物、疾病口舌诸事,以当妄取之值。又枉杀人者,是易刀兵而相杀也。取非义之财者,譬如漏脯救饥、鸩酒止渴,非不暂饱,死亦及之。

      夫心起于善,善虽未为,而吉神已随之。或心起于恶,恶虽未为,而凶神已随之。其有曾行恶事,后自改悔,诸恶莫作,众善奉行,久久必获吉庆,所谓转祸为福也。

      故吉人语善、视善、行善,一日有三善,三年天必降之福。凶人语恶、视恶、行恶,一日有三恶,三年天必降之祸。胡不勉而行之?
  2. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Văn Xương Đế Quân dạy về Âm Chất


    [CT 01]

    Ta đã mười bảy kiếp hóa thân làm sĩ đại phu, chưa hề ngược đãi dân chúng và nha lại; ta giúp người lúc khốn khó, cứu người khi khẩn cấp, khoan dung lầm lỗi của người, thi hành âm chất khắp nơi, nên được đặc cách lên cõi trời. Ai biết giữ lòng gìn tâm như ta, Trời sẽ ban phúc cho.

    Thế nên ta dạy người đời rằng: Ngày xưa có Vu công [hiền từ] giữ ngục, về sau con [là Vu Định Quốc] nên thừa tướng; [02] [đời Tống có Tống Giao] [03] cứu bầy kiến khỏi chết đuối mà đỗ Trạng Nguyên; người họ Đậu [tức Đậu Yên Sơn] do cứu người mà sau thành văn quan cao tột; [04] có kẻ chôn xác rắn mà sau nên tể tướng vẻ vang.[05]

    Muốn rộng mở ruộng phước phải cậy trông tấm lòng của mình, luôn thi hành những tiện ích cho đời, tạo muôn việc âm đức, lợi cho muôn vật và con người, làm thiện làm phước.[06]

    Hãy ngay thẳng thay Trời hành đạo và giáo hóa dân, thương xót bao dung vì nước cứu dân.

    Trung với vua, hiếu với cha mẹ, kính trọng anh, tin cậy bạn bè, hoặc thờ phụng tiên gia và triều kiến sao Bắc Đẩu, hoặc lạy Phật niệm kinh, báo đáp bốn ân, [07] thi hành rộng khắp giáo lý của Tam giáo là Nho-Thích-Đạo.

    Giúp kẻ nguy cấp như thể [giúp] con cá nằm trong vết xe khô cạn nước, cứu kẻ lâm nguy như thể [giúp] con chim sẻ đang vướng lưới dầy. [08]

    Thương xót cô nhi và quả phụ, kính trọng người già, thương người nghèo khó, xếp đặt y phục và lương thực để chu cấp kẻ lỡ đường đói lạnh, bố thí quan tài để tránh cho kẻ chết khỏi bị phơi bày thi thể.

    Nhà giàu thì cùng chia sớt với người thân thích, năm đói kém phải cứu giúp hàng xóm và bạn bè, cái đấu cây cân phải cho công bằng, không thể cân đo cho người thì nhẹ mà cân đo cho mình thì nặng, đối đãi tôi tớ khoan dung, sao lại phải trách móc và đòi hỏi khe khắt nơi họ?

    In ấn kinh sách, sáng lập và tu bổ chùa chiền, đem tiền bạc và thuốc men cứu vớt kẻ khổ đau bệnh tật, bố thí nước trà giúp người giải cơn khát.

    Hoặc là mua loài vật để phóng sinh, hoặc ăn chay để tròn giới cấm sát sanh, bước chân đi thường xem kỹ kẻo đạp nhầm con sâu cái kiến.

    Cấm lấy lửa đốt núi rừng; hãy đốt đèn soi đường cho người đi đêm tối, làm tàu thuyền trợ giúp người vượt sông, chớ lên núi giăng lưới bắt chim chóc, chớ xuống nước dùng thuốc độc bắt cá tôm, chớ giết trâu cày.

    Chớ vất bỏ giấy có chữ, [09] chớ mưu chiếm tài sản của người, chớ ganh tỵ tài năng của người khác, chớ gian dâm với vợ và con gái của người, chớ xúi dục người khác tranh chấp và kiện tụng, chớ phá hoại thanh danh và quyền lợi người khác, chớ phá hoại hôn nhân của người, chớ vì tư thù mà làm cho anh em người khác bất hoà, chớ vì mối lợi vặt mà làm cha con người khác nghịch nhau, chớ cậy quyền thế mà làm nhục người lương thiện, chớ cậy mình là phú hào mà khi rẻ kẻ khốn cùng.[10]

    Hãy thân cận người hiền đức, họ sẽ trợ giúp thêm đức hạnh cho ta; hãy lánh xa kẻ ác, nhờ đó ta tránh được tai ương trước mắt; hãy luôn tuyên dương điều thiện và ngăn trừ điều ác của người [11]; chớ có bằng mặt mà chẳng bằng lòng.[12]

    Chặt bớt cây cối gai góc cản trở đường đi [13], dẹp bỏ gạch ngói nằm giữa đường, tu sửa đường gập ghềnh khúc khuỷu [14] mấy trăm năm, xây cầu kiều cho muôn vạn người qua lại, [15] để lời khuyên nhủ nhằm sửa lầm lỗi của người, chịu hao tốn tài của để người khác được tốt đẹp , làm việc gì cũng noi theo lẽ trời, lời nói thì phải hợp lòng người.[16]

    Ngưỡng mộ các bậc hiền triết thuở xưa dường như các ngài luôn hiển hiện trước mắt [17], thận trọng khi ở một mình và không hổ thẹn với chính mình [18] ; chớ làm các điều ác, hãy làm mọi điều thiện [19], vĩnh viễn sao xấu không chiếu vào vận mệnh [của mình], các thiện thần thường ở bên cạnh và bảo vệ cho.

    Báo ứng gần thì nơi bản thân mình, báo ứng xa thì nơi con cháu, trăm phúc cùng đến, ngàn may mắn tụ về, đó chẳng phải là từ âm chất mà có được hay sao ? [20]

    ----------------


    CHÚ THÍCH :-

    [01] Bản Âm Chất Văn nầy được in trong quyển Văn Xương Đế Quân Đại Đỗng Chân Kinh 文昌帝君大洞真經, khắc in năm Hàm Phong 函豐, Đinh Tỵ, tức là năm 1857 dưới triều vua Văn Tông 文宗 nhà Thanh. Bản Âm Chất Văn này gồm ba trang không chú giải và không phân đoạn. Để tiện theo dõi, tôi chia riêng thành từng đoạn nhỏ.

    Tạo Âm Chất (= âm đức) có nghĩa là “Làm Phước”

    [02] Điển cố Tứ mã môn 駟馬門 hay Tứ mã chi môn 駟馬之門: Hán Thư chép truyện Vu Định Quốc: Cha của Vu Định Quốc 於定國 là Vu Công 於公 giữ ngục nhân từ. Ông nói: «Thiếu cao đại môn lư, lịnh dung tứ mã cao cái xa; ngã trị ngục đa âm đức, tử tôn tất hữu hưng giả.» 少 高 大 門 閭 , 令 容 駟 馬 高 蓋 車 ; 我 治 獄 多 陰 德 , 子 孫 必 有 興 者 (Thuở nhỏ công nhà cao rộng, xe bốn ngựa mui cao qua lọt; ta giữ ngục làm được nhiều âm đức, con cháu ắt có đứa nên danh phận lớn). Về sau con là Vu Định Quốc làm thừa tướng, còn cháu là Vĩnh 永 làm ngự sử đại phu. Xem Từ Hải, tr. 1506.

    [03] Từ điển Từ Hải 辭海, Trung Hoa Thư Cục, 1948, tr. 1414.

    [04] Điển cố chiết quế: Theo Tấn Thư, truyện về Khích Sân 郤詵: «Sân thi đỗ, Vũ Đế hỏi Sân tự đánh giá bản thân ra rao. Sân trả lời tuy mình đỗ đầu nhưng cũng chỉ là cành quế trong rừng quế, là phiến ngọc ở Côn Sơn mà thôi (Do quế lâm chi nhất quế, côn sơn chi phiến ngọc 猶 桂 林 之 一 桂 , 昆 山 之 片 玉). Vua cười.» Từ đó có điển cố chiết quế là thi đỗ cao, các biến thể của điển này là: chiết quế chi 折桂枝, phàn quế 攀桂, quế chiết nhất chi 桂折一枝, quế lâm nhất chi 桂林一枝, tiên quế 仙桂, đắc quế 得桂, Khích chi 郤枝, Sân chi 詵枝, Khích Sân vinh 郤詵榮, Khích Sân lộ 郤詵路. Thường Dụng Điển Cố Từ Điển 常用典故詞典, Thượng Hải Từ Thư xbx, 1985, tr. 358, cho rằng đây là nguồn gốc của điển cố chiết quế, tức là có từ đời Tấn. Từ điển Từ Hải, tr. 564, bảo điển cố chiết quế thông dụng từ đời Đường cho đến nay. Nếu đúng như vậy, tôi nghĩ rằng tác phẩm Văn Xương Đế Quân (vì dùng điển cố này nên) không thể xuất hiện trước đời Đường (618-907).

    [05] Chôn xác rắn (mai xà) 埋蛇: Tôn Thúc Ngao 孫叔敖 thuở nhỏ đi chơi gặp hai xác rắn, bèn chôn cất tử tế. Sau ông làm quan lệnh doãn của nước Sở, được dân coi trọng là người nhân đức. Xem điển cố này trong Từ Hải, tr. 320.

    [06] trích dịch câu «Ư thị huấn ư nhân viết...» 於是訓於人曰. Phần điển cố thì bỏ qua.

    [07] Tứ ân: ân trời đất, ân vua, ân cha mẹ, và ân thầy dạy 天地君親師之恩典 (Thiên địa, quân, thân, sư chi ân điển.
    [08] Điển cố lấy trong Trang Tử Nam Hoa Chân Kinh 莊子南華真經, bài Phụ Ngư 鮒魚 (trong Ngoại Vật 外物). Trang Tử vay lúa Giám Hà Hầu 監河侯, Giám từ chối khéo. Trang giận nói mát: Trước khi đến vay nợ, Trang đã trông thấy một con cá nhỏ (tự xưng là thủy thần biển Đông) đang vùng vẫy trong vết bánh xe xin một ít nước để thoát chết. Trang hứa sau khi ông sang chơi với các vua Ngô Việt, rồi sẽ ngăn nước sông mà giúp con cá. Cá bảo đợi đến lúc đó Trang sẽ gặp nó ở hàng bán cá khô. Nguyên văn trong Nam Hoa Chân Kinh là: Xa triệt trung hữu phụ ngư 車轍中有鮒魚 (con cá nhỏ trong vết xe lún đất). Âm Chất Văn trích điển này, ý nói cứu người ngay lúc hoạn nạn mới là cứu giúp thiết thực.

    [09] Đức Văn Tuyên Thánh Sư dạy phải coi trọng giấy có chữ: «Chính Thánh Sư lãnh sứ mạng thiêng liêng khai hóa văn tự trên khắp nước trên địa cầu này. Bởi thế chẳng những Hán tự, chí những chữ nào trên mặt địa cầu này cũng là do Thánh Sư hóa kiếp để chỉ giáo mở mang dân trí. Bởi thế người biết tu hành cần phải trọng giấy chữ, bất cứ là chữ nước nào, không nên làm những điều ô uế trong chữ mà phạm tội, đến những kiếp sau khó mà thông minh trí huệ được.» Xem Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển I, Tòa Thánh Tiên Thiên Châu Minh xb, Saigon 1961, tr. 143.

    [10] Đỗ 杜: ngăn trở, đồng nghĩa với trở tắc 阻塞. Mi là lông mày, tiệp là lông mi. Mi tiệp thường được dùng tỉ dụ con mắt; ở đây chỉ sự kề cận trước mắt. Hàn Phi Tử 韓非子, chương Dụng Nhân 用人, nói: «Bất khử mi tiệp chi họa nhi mộ Bôn-Dục chi tử.» 不去眉睫之禍而慕賁育之死 (Không dẹp trừ cái họa trước mắt mà lại đi hâm mộ cái chết của những kẻ dũng sĩ như Mạnh Bôn và Hạ Dục).

    [11] Có hai nhóm từ hay dùng lẫn trong các thiện thư như Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn: Ẩn ác dương thiện 隱惡揚善 (che giấu điều ác, phô bày điều thiện; như người đời hay nói: Tốt khoe xấu che) và Át ác dương thiện 遏惡揚善 (ngăn trở điều ác, tuyên dương điều thiện). Chủ trương của tôi là nên chọn nhóm từ sau, ý nói việc ác phải bị ngăn trừ chứ không nên che giấu. Tôi cũng chú giải điểm này trong Cảm Ứng Thiên y như vậy.

    [12] «Khẩu thị tâm phi» 口是心非 cũng có thể dịch: 「Miệng thì nói điều hay điều phải, mà lòng thì toan tính điều sái quấy.」

    [13] Kinh trăn: phiếm chỉ bụi cây gai rậm rạp.

    [14] Kỳ (khi) khu: đường núi mấp mô khó đi.

    [15] Ý «Làm cầu kiều cho người qua lại» này được trích dẫn vào văn bia ở chùa Cầu (Hội An), bài bi văn: Trùng Tu Lai Viễn Kiều được khắc năm Gia Long 16 (tức 1817). Tác giả là Khê Đình Bá Đinh Tường (Đốc học dinh Trực Lệ, Quảng Nam).

    [16] Luận Ngữ 論語 (Nhan Uyên 顏淵, câu 16): «Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.» 君 子 成 人 之 美 , 不 成 人 之 惡 . 小 人 反 是 (Bậc quân tử thành tựu những điều tốt đẹp cho người chứ không gieo điều ác cho người. Kẻ tiểu nhân thì ngược lại).

    [17] Canh tường 羹牆: Hậu Hán Thư chép truyện về Lý Cố 李固: «Tích Nghiêu tồ chi hậu, Thuấn ngưỡng mộ tam niên, tọa tắc kiến Nghiêu ư tường, thực tắc đổ Nghiêu ư canh.» 昔 堯 殂 之 後 , 舜 仰 慕 三 年 , 坐 則 見 堯 於 牆 , 食 則 睹 堯 於 羹 (Xưa, suốt ba năm sau khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn luôn ngưỡng mộ ngài; khi ngồi thì thấy hình ảnh ngài trên tường vách; khi ăn cơm thì thấy hình ảnh ngài trong tô canh). Ý câu này trong Âm Chất Văn: Ta cần thật lòng ngưỡng mộ các vị thánh hiền thuở xưa như luôn thấy hình ảnh các ngài trước mắt. Xem Từ Hải, tr. 1073.

    [18] Khâm ảnh: Tống sử chép truyện về Thái Nguyên Định 蔡元定: «Độc hành bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm.» 獨 行 不 愧 影 , 獨 寢 不 愧 衾 (Đi một mình không thẹn với cái bóng của mình, ngủ một mình không thẹn với cái chăn của mình). Xem Từ Hải, tr. 1211.

    [19] Câu «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» này trích dẫn từ Cảm Ứng Thiên.

    [20] Được Lý Cương trích dẫn trong: Lý Cương 李剛 Đạo Giáo Sinh Mệnh Lý Luận 道教生命理論, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1994.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Văn Xương Đế Quân dạy về Âm Chất


    [CT 01]

    Ta đã mười bảy kiếp hóa thân làm sĩ đại phu, chưa hề ngược đãi dân chúng và nha lại; ta giúp người lúc khốn khó, cứu người khi khẩn cấp, khoan dung lầm lỗi của người, thi hành âm chất khắp nơi, nên được đặc cách lên cõi trời. Ai biết giữ lòng gìn tâm như ta, Trời sẽ ban phúc cho.

    Thế nên ta dạy người đời rằng: Ngày xưa có Vu công [hiền từ] giữ ngục, về sau con [là Vu Định Quốc] nên thừa tướng; [02] [đời Tống có Tống Giao] [03] cứu bầy kiến khỏi chết đuối mà đỗ Trạng Nguyên; người họ Đậu [tức Đậu Yên Sơn] do cứu người mà sau thành văn quan cao tột; [04] có kẻ chôn xác rắn mà sau nên tể tướng vẻ vang.[05]

    Muốn rộng mở ruộng phước phải cậy trông tấm lòng của mình, luôn thi hành những tiện ích cho đời, tạo muôn việc âm đức, lợi cho muôn vật và con người, làm thiện làm phước.[06]

    Hãy ngay thẳng thay Trời hành đạo và giáo hóa dân, thương xót bao dung vì nước cứu dân.

    Trung với vua, hiếu với cha mẹ, kính trọng anh, tin cậy bạn bè, hoặc thờ phụng tiên gia và triều kiến sao Bắc Đẩu, hoặc lạy Phật niệm kinh, báo đáp bốn ân, [07] thi hành rộng khắp giáo lý của Tam giáo là Nho-Thích-Đạo.

    Giúp kẻ nguy cấp như thể [giúp] con cá nằm trong vết xe khô cạn nước, cứu kẻ lâm nguy như thể [giúp] con chim sẻ đang vướng lưới dầy. [08]

    Thương xót cô nhi và quả phụ, kính trọng người già, thương người nghèo khó, xếp đặt y phục và lương thực để chu cấp kẻ lỡ đường đói lạnh, bố thí quan tài để tránh cho kẻ chết khỏi bị phơi bày thi thể.

    Nhà giàu thì cùng chia sớt với người thân thích, năm đói kém phải cứu giúp hàng xóm và bạn bè, cái đấu cây cân phải cho công bằng, không thể cân đo cho người thì nhẹ mà cân đo cho mình thì nặng, đối đãi tôi tớ khoan dung, sao lại phải trách móc và đòi hỏi khe khắt nơi họ?

    In ấn kinh sách, sáng lập và tu bổ chùa chiền, đem tiền bạc và thuốc men cứu vớt kẻ khổ đau bệnh tật, bố thí nước trà giúp người giải cơn khát.

    Hoặc là mua loài vật để phóng sinh, hoặc ăn chay để tròn giới cấm sát sanh, bước chân đi thường xem kỹ kẻo đạp nhầm con sâu cái kiến.

    Cấm lấy lửa đốt núi rừng; hãy đốt đèn soi đường cho người đi đêm tối, làm tàu thuyền trợ giúp người vượt sông, chớ lên núi giăng lưới bắt chim chóc, chớ xuống nước dùng thuốc độc bắt cá tôm, chớ giết trâu cày.

    Chớ vất bỏ giấy có chữ, [09] chớ mưu chiếm tài sản của người, chớ ganh tỵ tài năng của người khác, chớ gian dâm với vợ và con gái của người, chớ xúi dục người khác tranh chấp và kiện tụng, chớ phá hoại thanh danh và quyền lợi người khác, chớ phá hoại hôn nhân của người, chớ vì tư thù mà làm cho anh em người khác bất hoà, chớ vì mối lợi vặt mà làm cha con người khác nghịch nhau, chớ cậy quyền thế mà làm nhục người lương thiện, chớ cậy mình là phú hào mà khi rẻ kẻ khốn cùng.[10]

    Hãy thân cận người hiền đức, họ sẽ trợ giúp thêm đức hạnh cho ta; hãy lánh xa kẻ ác, nhờ đó ta tránh được tai ương trước mắt; hãy luôn tuyên dương điều thiện và ngăn trừ điều ác của người [11]; chớ có bằng mặt mà chẳng bằng lòng.[12]

    Chặt bớt cây cối gai góc cản trở đường đi [13], dẹp bỏ gạch ngói nằm giữa đường, tu sửa đường gập ghềnh khúc khuỷu [14] mấy trăm năm, xây cầu kiều cho muôn vạn người qua lại, [15] để lời khuyên nhủ nhằm sửa lầm lỗi của người, chịu hao tốn tài của để người khác được tốt đẹp , làm việc gì cũng noi theo lẽ trời, lời nói thì phải hợp lòng người.[16]

    Ngưỡng mộ các bậc hiền triết thuở xưa dường như các ngài luôn hiển hiện trước mắt [17], thận trọng khi ở một mình và không hổ thẹn với chính mình [18] ; chớ làm các điều ác, hãy làm mọi điều thiện [19], vĩnh viễn sao xấu không chiếu vào vận mệnh [của mình], các thiện thần thường ở bên cạnh và bảo vệ cho.

    Báo ứng gần thì nơi bản thân mình, báo ứng xa thì nơi con cháu, trăm phúc cùng đến, ngàn may mắn tụ về, đó chẳng phải là từ âm chất mà có được hay sao ? [20]

    ----------------


    CHÚ THÍCH :-

    [01] Bản Âm Chất Văn nầy được in trong quyển Văn Xương Đế Quân Đại Đỗng Chân Kinh 文昌帝君大洞真經, khắc in năm Hàm Phong 函豐, Đinh Tỵ, tức là năm 1857 dưới triều vua Văn Tông 文宗 nhà Thanh. Bản Âm Chất Văn này gồm ba trang không chú giải và không phân đoạn. Để tiện theo dõi, tôi chia riêng thành từng đoạn nhỏ.

    Tạo Âm Chất (= âm đức) có nghĩa là “Làm Phước”

    [02] Điển cố Tứ mã môn 駟馬門 hay Tứ mã chi môn 駟馬之門: Hán Thư chép truyện Vu Định Quốc: Cha của Vu Định Quốc 於定國 là Vu Công 於公 giữ ngục nhân từ. Ông nói: «Thiếu cao đại môn lư, lịnh dung tứ mã cao cái xa; ngã trị ngục đa âm đức, tử tôn tất hữu hưng giả.» 少 高 大 門 閭 , 令 容 駟 馬 高 蓋 車 ; 我 治 獄 多 陰 德 , 子 孫 必 有 興 者 (Thuở nhỏ công nhà cao rộng, xe bốn ngựa mui cao qua lọt; ta giữ ngục làm được nhiều âm đức, con cháu ắt có đứa nên danh phận lớn). Về sau con là Vu Định Quốc làm thừa tướng, còn cháu là Vĩnh 永 làm ngự sử đại phu. Xem Từ Hải, tr. 1506.

    [03] Từ điển Từ Hải 辭海, Trung Hoa Thư Cục, 1948, tr. 1414.

    [04] Điển cố chiết quế: Theo Tấn Thư, truyện về Khích Sân 郤詵: «Sân thi đỗ, Vũ Đế hỏi Sân tự đánh giá bản thân ra rao. Sân trả lời tuy mình đỗ đầu nhưng cũng chỉ là cành quế trong rừng quế, là phiến ngọc ở Côn Sơn mà thôi (Do quế lâm chi nhất quế, côn sơn chi phiến ngọc 猶 桂 林 之 一 桂 , 昆 山 之 片 玉). Vua cười.» Từ đó có điển cố chiết quế là thi đỗ cao, các biến thể của điển này là: chiết quế chi 折桂枝, phàn quế 攀桂, quế chiết nhất chi 桂折一枝, quế lâm nhất chi 桂林一枝, tiên quế 仙桂, đắc quế 得桂, Khích chi 郤枝, Sân chi 詵枝, Khích Sân vinh 郤詵榮, Khích Sân lộ 郤詵路. Thường Dụng Điển Cố Từ Điển 常用典故詞典, Thượng Hải Từ Thư xbx, 1985, tr. 358, cho rằng đây là nguồn gốc của điển cố chiết quế, tức là có từ đời Tấn. Từ điển Từ Hải, tr. 564, bảo điển cố chiết quế thông dụng từ đời Đường cho đến nay. Nếu đúng như vậy, tôi nghĩ rằng tác phẩm Văn Xương Đế Quân (vì dùng điển cố này nên) không thể xuất hiện trước đời Đường (618-907).

    [05] Chôn xác rắn (mai xà) 埋蛇: Tôn Thúc Ngao 孫叔敖 thuở nhỏ đi chơi gặp hai xác rắn, bèn chôn cất tử tế. Sau ông làm quan lệnh doãn của nước Sở, được dân coi trọng là người nhân đức. Xem điển cố này trong Từ Hải, tr. 320.

    [06] trích dịch câu «Ư thị huấn ư nhân viết...» 於是訓於人曰. Phần điển cố thì bỏ qua.

    [07] Tứ ân: ân trời đất, ân vua, ân cha mẹ, và ân thầy dạy 天地君親師之恩典 (Thiên địa, quân, thân, sư chi ân điển.
    [08] Điển cố lấy trong Trang Tử Nam Hoa Chân Kinh 莊子南華真經, bài Phụ Ngư 鮒魚 (trong Ngoại Vật 外物). Trang Tử vay lúa Giám Hà Hầu 監河侯, Giám từ chối khéo. Trang giận nói mát: Trước khi đến vay nợ, Trang đã trông thấy một con cá nhỏ (tự xưng là thủy thần biển Đông) đang vùng vẫy trong vết bánh xe xin một ít nước để thoát chết. Trang hứa sau khi ông sang chơi với các vua Ngô Việt, rồi sẽ ngăn nước sông mà giúp con cá. Cá bảo đợi đến lúc đó Trang sẽ gặp nó ở hàng bán cá khô. Nguyên văn trong Nam Hoa Chân Kinh là: Xa triệt trung hữu phụ ngư 車轍中有鮒魚 (con cá nhỏ trong vết xe lún đất). Âm Chất Văn trích điển này, ý nói cứu người ngay lúc hoạn nạn mới là cứu giúp thiết thực.

    [09] Đức Văn Tuyên Thánh Sư dạy phải coi trọng giấy có chữ: «Chính Thánh Sư lãnh sứ mạng thiêng liêng khai hóa văn tự trên khắp nước trên địa cầu này. Bởi thế chẳng những Hán tự, chí những chữ nào trên mặt địa cầu này cũng là do Thánh Sư hóa kiếp để chỉ giáo mở mang dân trí. Bởi thế người biết tu hành cần phải trọng giấy chữ, bất cứ là chữ nước nào, không nên làm những điều ô uế trong chữ mà phạm tội, đến những kiếp sau khó mà thông minh trí huệ được.» Xem Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển I, Tòa Thánh Tiên Thiên Châu Minh xb, Saigon 1961, tr. 143.

    [10] Đỗ 杜: ngăn trở, đồng nghĩa với trở tắc 阻塞. Mi là lông mày, tiệp là lông mi. Mi tiệp thường được dùng tỉ dụ con mắt; ở đây chỉ sự kề cận trước mắt. Hàn Phi Tử 韓非子, chương Dụng Nhân 用人, nói: «Bất khử mi tiệp chi họa nhi mộ Bôn-Dục chi tử.» 不去眉睫之禍而慕賁育之死 (Không dẹp trừ cái họa trước mắt mà lại đi hâm mộ cái chết của những kẻ dũng sĩ như Mạnh Bôn và Hạ Dục).

    [11] Có hai nhóm từ hay dùng lẫn trong các thiện thư như Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn: Ẩn ác dương thiện 隱惡揚善 (che giấu điều ác, phô bày điều thiện; như người đời hay nói: Tốt khoe xấu che) và Át ác dương thiện 遏惡揚善 (ngăn trở điều ác, tuyên dương điều thiện). Chủ trương của tôi là nên chọn nhóm từ sau, ý nói việc ác phải bị ngăn trừ chứ không nên che giấu. Tôi cũng chú giải điểm này trong Cảm Ứng Thiên y như vậy.

    [12] «Khẩu thị tâm phi» 口是心非 cũng có thể dịch: 「Miệng thì nói điều hay điều phải, mà lòng thì toan tính điều sái quấy.」

    [13] Kinh trăn: phiếm chỉ bụi cây gai rậm rạp.

    [14] Kỳ (khi) khu: đường núi mấp mô khó đi.

    [15] Ý «Làm cầu kiều cho người qua lại» này được trích dẫn vào văn bia ở chùa Cầu (Hội An), bài bi văn: Trùng Tu Lai Viễn Kiều được khắc năm Gia Long 16 (tức 1817). Tác giả là Khê Đình Bá Đinh Tường (Đốc học dinh Trực Lệ, Quảng Nam).

    [16] Luận Ngữ 論語 (Nhan Uyên 顏淵, câu 16): «Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.» 君 子 成 人 之 美 , 不 成 人 之 惡 . 小 人 反 是 (Bậc quân tử thành tựu những điều tốt đẹp cho người chứ không gieo điều ác cho người. Kẻ tiểu nhân thì ngược lại).

    [17] Canh tường 羹牆: Hậu Hán Thư chép truyện về Lý Cố 李固: «Tích Nghiêu tồ chi hậu, Thuấn ngưỡng mộ tam niên, tọa tắc kiến Nghiêu ư tường, thực tắc đổ Nghiêu ư canh.» 昔 堯 殂 之 後 , 舜 仰 慕 三 年 , 坐 則 見 堯 於 牆 , 食 則 睹 堯 於 羹 (Xưa, suốt ba năm sau khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn luôn ngưỡng mộ ngài; khi ngồi thì thấy hình ảnh ngài trên tường vách; khi ăn cơm thì thấy hình ảnh ngài trong tô canh). Ý câu này trong Âm Chất Văn: Ta cần thật lòng ngưỡng mộ các vị thánh hiền thuở xưa như luôn thấy hình ảnh các ngài trước mắt. Xem Từ Hải, tr. 1073.

    [18] Khâm ảnh: Tống sử chép truyện về Thái Nguyên Định 蔡元定: «Độc hành bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm.» 獨 行 不 愧 影 , 獨 寢 不 愧 衾 (Đi một mình không thẹn với cái bóng của mình, ngủ một mình không thẹn với cái chăn của mình). Xem Từ Hải, tr. 1211.

    [19] Câu «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» này trích dẫn từ Cảm Ứng Thiên.

    [20] Được Lý Cương trích dẫn trong: Lý Cương 李剛 Đạo Giáo Sinh Mệnh Lý Luận 道教生命理論, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1994.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    [FONT=黑体]文 昌 帝 君 阴 骘 文[/FONT]


     帝君曰,吾一十七世为士大夫身,未尝虐民酷吏。救人之难,济人之急。悯人之孤,容
      人之过。广行阴骘,上格苍穹。人能如我存心,天必赐汝以福。於是训於人曰:时于公治狱,大兴驷马之门。窦氏济人,高折五枝之桂。救蚁中状元之选,埋蛇享宰相之荣。欲广种福田,须凭心地。行时时之方便,作种种之阴功。利物利人,修善修福。正直代天行化,慈祥为国救民,忠主孝亲,敬兄信友。或奉真朝斗,或拜佛诵经。报答四恩。广行三教。济急如济涸辙之鱼,救危如救密罗之雀。矜孤恤寡,敬老怜贫。措衣食周道路之饥寒,施棺椁免尸骸之暴露。家富提携亲戚,岁饥赈济邻朋。斗称须要公平,不可轻出重入。奴婢待之宽恕,岂宜倍责苛求。印造经文,创修寺院。舍药材以拯疾苦,施茶水以解渴烦。或买物而放生,或持斋而戒杀。举步常看虫蚁,禁火莫烧山林。点夜灯以照人行,造河船以济人渡。勿登山而网禽鸟,勿临水而毒鱼虾。勿宰耕牛,勿弃字纸。勿谋人之财产,勿妒人之技能,勿淫人之妻女,勿唆人之争讼。勿坏人之名利,勿破人之婚姻。勿因私仇,使人兄弟不和。勿因小利,使人父子不睦。勿倚权势而辱善良,勿恃富豪而欺穷困。善人则亲近之,助德行於身心。恶人则远避之,杜灾殃於眉睫。常须隐恶扬善,不可口是心非。剪碍道之荆榛,除当途之瓦石。修数百年崎岖之路,造千万人来往之桥。垂训以格人非,捐资以成人美。作事须循天理,出言要顺人心。见先哲於羹墙,慎独知於衾影,诸恶莫作,众善奉行,永无恶曜加临,常有吉神拥护。近报则在自己,远报则在儿孙。百福骈臻,千祥云集。岂不从阴骘中得来者哉!
  3. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    TỔNG TỰA


    ĐỆ TỬ QUY. THÁNH NHÂN HUẤN. THỦ HIẾU ĐẠO. THỨ CẨN TÍN.
    Đệ tử quy. Thánh nhân dạy. Trước hiếu thuận. Sau cẩn tín.


    PHIẾM ÁI CHÚNG, NHI THÂN NHÂN. HỮU DƯ LỰC, TẮC HỌC VĂN.
    Thương chúng sanh, học đạo đức. Có dư thời, siêng học tập.


    NHẬP TẮC HIẾU


    Chương thứ nhất


    (Ở nhà hiếu thuận với cha mẹ)


    PHỤ MẪU HÔ, ỨNG VẬT HOÃN. PHỤ MẪU MẠNG, HÀNH VẬT LÃN.
    Cha mẹ gọi, lập tức vâng. Cha mẹ sai, phải làm ngay.


    PHỤ MẪU GIÁO, TU KÍNH THÍNH. PHỤ MẪU TRÁCH, TU THUẬN THỪA.
    Cha mẹ dạy, cung kính nghe. Cha mẹ trách, phải thừa nhận.


    ĐÔNG TẮC ÔN, HẠ TẮC SẢNH. THẦN TẮC TỈNH, HÔN TẮC ĐỊNH.

    Lạnh làm ấm, nóng làm mát. Sáng quan tâm, tối an lòng.
    [FONT=宋体]弟子规[/FONT]
    [FONT=宋体]总 叙[/FONT]
    [FONT=宋体]弟子规 圣人训 首孝弟 次谨信[/FONT]
    [FONT=宋体]泛爱众 而亲仁 有余力 则学文[/FONT]
    [FONT=宋体]入 则 孝[/FONT]
    [FONT=宋体]父母呼 应勿缓 父母命 行勿懒[/FONT]
    [FONT=宋体]父母教 须敬听 父母责 须顺承[/FONT]
    [FONT=宋体]冬则温 夏则凊 晨则省 昏则定[/FONT]

  4. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    XUẤT TẤT CÁO, PHẢN TẤT DIỆN. CƯ HỮU THƯỜNG, NGHIỆP VÔ BIẾN.

    Đi cho hay, về cho biết. Ở cố định, không đổi nghề.





    SỰ TUY TIỂU, VẬT THIỆN VI. CẨU THIỆN VI, TỬ ĐẠO KHUY.

    Việc không hợp, chẳng nên làm. Nếu đã làm, thì bất hiếu.




    VẬT TUY TIỂU, VẬT TƯ TÀNG. CẨU TƯ TÀNG, THÂN TÂM THƯƠNG.

    Vật tuy nhỏ, không tự cất. Nếu tự cất, cha mẹ buồn.




    THÂN SỞ HIẾU, LỰC VI CỤ. THÂN SỞ Ố, CẨN VI KHỨ.

    Cha mẹ thích, tận lực làm. Cha mẹ ghét, phải trừ bỏ.




    THÂN HỮU THƯƠNG, DI THÂN ƯU. ĐỨC HỮU THƯƠNG, DI THÂN TU.

    Thân bị thương, cha mẹ lo. Đức hạnh kém, cha mẹ tủi.




    THÂN ÁI NGÃ, HIẾU HÀ NAN. THÂN TĂNG NGÃ, HIẾU PHƯƠNG HIỀN.

    Cha mẹ thương, dễ hiếu thuận. Cha mẹ ghét, vẫn hiếu kính.




    THÂN HỮU QUÁ, GIÁN SỬ CANH. DI NGÔ SẮC, NHU NGÔ THANH.

    Cha mẹ lỗi, phải cố khuyên. Tỏ ra vui, lời nhu hòa.




    GIÁN BẤT NHẬP, DUYỆT PHỤC GIÁN. HIỆU KHẤP TÙY, THÁT VÔ OÁN.

    Khuyên không được, vẫn phải khuyên. Thì nên khóc, đánh không giận.




    THÂN HỮU TẬT, DƯỢC TIÊN THƯỜNG. TRÚ DẠ THỊ, BẤT LY SÀNG.

    Cha mẹ bịnh, nếm thuốc trước. Thường chăm sóc, không lìa khỏi.




    TÁNG TAM NIÊN, THƯỜNG BI YẾT. CƯ XỨ BIẾN, TỬU NHỤC TUYỆT.

    Tang ba năm, nhớ ơn mãi. Không vui chơi, tiệc ăn uống.



    TÁNG TẬN LỄ, TẾ TẬN THÀNH. SỰ TỬ GIẢ, NHƯ SỰ SANH.
    Trọng tang lễ, lòng thành kính. Đối người mất, như sanh tiền.
  5. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    [FONT=宋体]入 则 孝[/FONT]
    [FONT=宋体]父母呼 应勿缓 父母命 行勿懒[/FONT]
    [FONT=宋体]父母教 须敬听 父母责 须顺承[/FONT]
    [FONT=宋体]冬则温 夏则凊 晨则省 昏则定[/FONT]
    [FONT=宋体]出必告 反必面 居有常 业无变[/FONT]
    [FONT=宋体]事虽小 勿擅为 苟擅为 子道亏[/FONT]
    [FONT=宋体]物虽小 勿私藏 苟私藏 亲心伤[/FONT]
    [FONT=宋体]亲所好 力为具 亲所恶 谨为去[/FONT]
    [FONT=宋体]身有伤 贻亲忧 德有伤 贻亲羞[/FONT]
    [FONT=宋体]亲爱我 孝何难 亲憎我 孝方贤[/FONT]
    [FONT=宋体]亲有过 谏使更 怡吾色 柔吾声[/FONT]
    [FONT=宋体]谏不入 悦复谏 号泣随 挞无怨[/FONT]
    [FONT=宋体]亲有疾 药先尝 昼夜侍 不离床[/FONT]
    [FONT=宋体]丧三年 常悲咽 居处变 酒肉绝[/FONT]
    [FONT=宋体]丧尽礼 祭尽诚 事死者 如事生[/FONT]

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------


    XUẤT TẮC ĐỆ
    Chương thứ hai
    ( Nguyên tắc tiêu chuẩn của người làm em lúc ra ngoài )
    HUYNH ĐẠO HỮU, ĐỆ ĐẠO CUNG. HUYNH ĐỆ MỤC, HIẾU TẠI TRUNG.
    Anh thương em, em biết kính. Anh em hòa, là hiếu kính.




    TÀI VẬT KHINH, OÁN HÀ SANH. NGÔN NGỮ NHẪN, PHẨN TỰ MẪN.

    Coi nhẹ tiền, thì không oán. Lời nhịn nhường, diệt oán hận.

    HOẶC ẨM THỰC, HOẶC TỌA TẨU. TRƯỞNG GIẢ TRÊN, ẤU GIẢ HẬU.

    Lúc ăn uống, ngồi hay đi. Nhường người lớn, ta theo sau.

    TRƯỞNG HÔ NHÂN, TỨC ĐẠI KHIẾU. NHÂN BẤT TẠI, KỶ TỨC ĐÁO.

    Người lớn gọi, giúp gọi dùm. Nếu không có, liền cho hay.

    XƯNG TÔN TRƯỞNG, VẬT HÔ DANH. ĐỐI TÔN TRƯỞNG, VẬT KIẾN NĂNG.

    Kính người lớn, không gọi tên. Trước người lớn, không khoe tài.


    LỘ NGỘ TRƯỞNG, TẬT XU ẤP. TRƯỞNG VÔ NGÔN, THOÁI CUNG LẬP.

    Gặp người lớn, phải kính chào. Người chưa nói, đứng cung kính.

    KỴ HẠ MÃ, THỪA HẠ XA. QUÁ DO ĐÃI, BÁ BỘ DƯ.

    Liền xuống ngựa, phải xuống xe. Đến thăm hỏi, rồi mới đi.

    TRƯỞNG GIẢ LẬP, ẤU VẬT TỌA. TRƯỞNG GIẢ TỌA, MẠNG NÃI TỌA.

    Người lớn đứng, ta không ngồi. Người lớn ngồi, ta mới ngồi.

    TÔN TRƯỞNG TIỀN, THANH YẾU ĐÊ. ĐÊ BẤT VĂN, KHƯỚC PHI NGHI.

    Khi nói chuyện, tiếng nhỏ nhẹ. Nếu quá nhỏ, thì không rõ.

    TIẾN TẤT XU, THOÁI TẤT TRÌ. VẤN KHỞI ĐỐI, THỊ VẬT DI.

    Khi gặp mặt, lúc rời khỏi. Đang trả lời, phải nhìn thẳng.

    SỰ CHƯ PHỤ, NHƯ SỰ PHỤ. SỰ CHƯ HUYNH, NHƯ SỰ HUYNH.

    Kính chú bác, như cha mẹ. Anh em họ, như ruột thịt.
  6. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    [font=宋体]出 则 弟[/font]
    [font=宋体]兄道友 弟道恭 兄弟睦 孝在中[/font]
    [font=宋体]财物轻 怨何生 言语忍 忿自泯[/font]
    [font=宋体]或饮食 或坐走 长者先 幼者后[/font]
    [font=宋体]长呼人 即代叫 人不在 己即到[/font]
    [font=宋体]称尊长 勿呼名 对尊长 勿见能[/font]
    [font=宋体]路遇长 疾趋揖 长无言 退恭立[/font]
    [font=宋体]骑下马 乘下车 过犹待 百步余[/font]
    [font=宋体]长者立 幼勿坐 长者坐 命乃坐[/font]
    [font=宋体]尊长前 声要低 低不闻 却非宜[/font]
    [font=宋体]进必趋 退必迟 问起对 视勿移[/font]
    [font=宋体]事诸父 如事父 事诸兄 如事兄[/font]

Chia sẻ trang này