1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

THIỀN - Và các công án

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi chungdobe80, 05/03/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. trietgia2006

    trietgia2006 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2006
    Bài viết:
    1.052
    Đã được thích:
    0
    Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
    Chánh Trí
    ---o0o---


    I. TIỂU SỬ SƯ BỒ ÐỀ ÐẠT MA
    Tổ thứ 28 Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma) là người nước Quốc Hương, thuộc Nam Thiên Trúc (Dekhan), tức Ấn Ðộ, con thứ ba của vua Chí Vương, dòng Sát đế lỵ, tên tục là Bồ Ðề Ða La (Bodhitara). Nhân đến Quốc Hương thọ lễ cúng dường của nhà vua, Tổ thứ 27, Bát Nhã Ða La (Prajnâtara) gặp Bồ Ðề Ða La, nhận thức ở vị hoàng tử này nhiều nét đặc biệt, mới thử bảo cùng hai anh biện luận về chữ Tâm. Thấy Bồ Ðề Ða La phát minh được yếu điểm của tâm, Tổ mới kêu đến và nói: "Hoàng tử đối với chư pháp đã được thông lượng, mà Ðạt Ma có nghĩa là thông đạt rộng lớn, vậy hoàng tử nên lấy tên là Bồ Ðề Ðạt Ma". Hoàng tử nhận và bái tổ thứ 27 làm thầy.

    Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
    Tranh lụa của Hoạ Sĩ Phượng Hồng

    Nhớ lời Tổ dặn phải xuất dương mới thành đạo nghiệp vĩ đại, Bồ Ðề Ðạt Ma vào độ gần tám mươi tuổi xuống thuyền ra khơi Nam Hải. Triều nhà Lương bên Trung Quốc, năm Phổ thông thứ 8, nhằm mồng một tháng mười năm Ðinh Mùi (520) sau T.C.), thuyền đến Quảng Châu, thứ sử tỉnh nầy lấy lễ nghinh tiếp và dâng biểu về triều báo tin. Lương Võ Ðế sai sứ đi thỉnh về thành đô là Kim Lăng. Ðế hỏi:
    - Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?
    Sư Ðạt Ma đáp:
    - Ðều không có công đức.
    - Tại sao không công đức.
    - Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.
    - Vậy công đức chân thật là gì?
    - Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.
    Vua lại hỏi:
    - Nghĩa tột của thánh đế là gì?
    - Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh.
    - Ai đang đối diện với trẫm đây?
    - Tôi không biết.
    Sau câu chuyện đối đáp này, Sư biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, vì vậy đến ngày 19 tháng 10 năm ấy, Sư về Giang Bắc, rồi tới 22 tháng 11 lại sang Lạc Dương. Ðến đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Dương, năm Thái Hòa thứ 10, Sư lên Tung Sơn vào chùa Thiếu Lâm, ngồi ngó vào vách, trọn ngày làm thinh. Người đời không hiểu gì cả, gọi Sư là "Bích quán Bà la môn", nghĩa là ông Bà la môn ngó vách. Lúc bấy giờ có một vị Tăng, tên là Thần Quang, học rộng hiểu nhiều. Nghe danh Sư, Thần Quang đến Thiếu Lâm tự và đứng ngoài sân chùa chờ dịp yết kiến. Nhằm tiết đông thiên (mồng 9 tháng chạp), đến đêm tuyết xuống như mưa, cao quá đầu gối, Thần Quang vẫn trì chí đứng yên một chỗ. Sư thương tình, kêu hỏi:
    - Ông đứng trong tuyết lâu như thế, ý muốn cầu gì?
    Thần Quang khóc, bạch:
    - Cúi xin Hòa thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ quần sanh.
    - Diệu đạo của chư Phật phải nhiều kiếp tinh tấn, cần mẫn làm cho được những việc khó làm, nhẫn cho được những điều khó nhẫn, hàng đức nhỏ, trí nông, lòng đầy khinh khi, kiêu ngạo, há chịu nổi nhọc nhằn khổ cực sao mà muốn học phép chân thừa.
    Thần Quang nghe Sư quở, bèn lấy dao bén, tự đọan cánh tay trái, để chứng minh lòng thành khẩn cầu đạo của mình. Sư biết gặp được "pháp khí" (nghĩa là một khí dụng tốt để truyền bá chánh pháp).
    Bèn nói:
    - Chư Phật, lúc phát tâm cầu đạo, dám vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tội, vậy ông muốn cầu gì?
    Nói xong Sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.
    Thần Quang bạch:
    - Có thể nghe pháp ấn của chư Phật chăng?
    - Pháp ấn của chư Phật, không phải tùng người mà được.
    - Nhưng tâm tôi chưa được an bình thì làm thế nào? Xin Sư cho tâm tôi được an bình.
    - Thì ông đưa tâm đây. Sư đáp, ta sẽ cho.
    - Tôi tìm tâm mãi mà chưa được.
    - Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi.
    Vua Hậu Ngụy Hiếu Minh nghe Sư có nhiều sự lạ lùng, sai sứ đến triệu trước sau ba lần, Sư đều từ không chịu xuống núi. Nhà vua càng đem lòng kính trọng và sai người đem đến ban cho Sư hai áo cà sa và một bình bát bằng vàng. Sư cũng từ ba phen, nhưng sau thấy nhà vua kiên tâm dâng cúng Sư mới nhận. Chín năm trôi qua, từ khi Sư đến Trung Quốc, Sư có ý muốn hồi hương, cho nên kêu các đệ tử nói: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
    Ðạo Phó bạch:
    - Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự.
    Sư đáp:
    - Ông được lớp da của tôi rồi.
    Tổng trì Ni nói:
    - Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa.
    Sư nói:
    - Bà được phần thịt của tôi rồi.
    Ðạo Dục, một đệ tử khác, bạch:
    - Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được.
    Sư đáp:
    - Ông được bộ xương của tôi rồi.
    Rốt hết, tới phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo:
    - Ông được lớp mỡ trong ống xương tôi rồi.
    Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp:
    - Xưa Như Lai trao "Chánh pháp nhãn tạng" cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết.
    Huệ Khả bạch:
    - Thỉnh Sư chỉ bảo cho.
    Sư nói:
    - Trong, truyền pháp ấn để khế chứng tâm; ngoài, trao cà sa để định tông chỉ. Ðời sau, trong cảnh cạnh tranh, nếu có người hỏi ngươi con cái nhà ai, bằng vào đâu mà nói đắc pháp, lấy gì chứng minh, thì ngươi đưa bài kệ của ta và áo cà sa ra làm bằng. Hai trăm năm sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại. Chừng ấy, đâu đâu người hiểu đạo và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo và thông lý rất ít, vậy ngươi nên cố xiển dương đạo pháp, đừng khinh nhờn những người chưa ngộ. Bây giờ hãy nghe bài kệ của ta:
    Ngô bổn lai tư thổ,
    Truyền pháp cứu mê tình.
    Nhất hoa khai ngũ diệp,
    Kết quả tự nhiên thành.

    Dịch:

    Ta đến đây với nguyện,
    Truyền pháp cứu người mê.
    Một hoa nở năm cánh,
    Nụ trái trổ ê hề.
    Sư lại nói thêm: "Ta có bộ kinh Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó là đường vào tâm giới, giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật. Ta từ Nam Ấn sang đến phương Ðông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao nhiêu cuộc gặp gỡ không làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi. Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại! Nói xong, Sư cùng đệ tử đến chùa Thiên Thánh lưu lại ba hôm.
    Có người tên là Thành Thái, tự Dương Huyễn, sớm mộ phương tu thành Phật, đến hỏi:
    - Nghe Sư bên Tây Thiên, thừa tiếp pháp ấn làm Tổ, vậy xin dạy cho con biết con đường đưa đến vị Tổ như thế nào?
    Sư đáp:
    - Sáng rõ Phật là tâm, nói làm cho phù hợp, đó gọi là Tổ.
    - Ngoài ra còn gì không?
    - Nên sáng tâm người, biết rành kim cổ, chẳng chán có không, đối pháp chẳng nắm, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Giải được như thế, đáng xưng là Tổ.
    Thành Thái lại hỏi:
    - Ðệ tử lấy tâm quy y Tam bảo đã mấy năm rồi, nhưng trí huệ còn mù mờ, chân lý chưa rõ. Nay nghe được một ít lời Sư, biết rằng đệ tử đã lầm lớn, cúi xin Sư từ bi khai mở đường tu cho.
    Sư biết lòng Thành Thái đã đúng mức, liền nói bài kệ như sau:
    Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
    Diệc bất quán thiện nhi cần thố.
    Diệc bất xả trí nhi cận ngu,
    Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ.
    Ðạt đại đạo hề quá lượng,
    Thông đạt tâm hề xuất độ,
    Bất dử thánh phàm đồng triền,
    Siêu nhiên danh chi viết Tổ.

    Dịch:

    Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê,
    Cũng đừng thấy lành mà ái mộ.
    Cững đừng bỏ trí mà gần ngu,
    Cũng đừng buông mê mà cầu ngộ.
    Ðược vậy thì:
    Ðến đại đạo rộng vô lượng,
    Thông Phật tâm muôn cứu độ.
    Chẳng ước thánh phàm sánh vai,
    Vượt trên đối đải gọi là Tổ.
    Thành Thái nghe kệ nửa vui nửa xót, bạch:
    - Xin Sư ở lâu thế gian để hóa đạo quần chúng hữu tình.
    - Ta sắp đi đây, không thể ở lâu; người đời căn tánh muôn sai, ta đã gặp nhiều hoạn nạn rồi.
    - Ai làm hại Sư, xin cho biết, đệ tử nguyện trừ.
    - Ai đã đem bí mật của Phật ra truyền để lợi ích quần mê, nay hại người để mình an, làm sao có lý ấy đặng?!
    - Sư chẳng nói, lấy gì tiêu biểu cho sức thông biết khắp cùng của Sư?
    Sư không đáp, đọc một bài kệ sau đây có tính cách như một bài sấm:
    Giang tra phân ngọc lãng,
    Quản cự khai kim tỏa.
    Ngũ khẩu tương cộng hành,
    Cửu thập vô bỉ ngã.

    Dịch:

    Thuyền lướt, chia sóng ngọc,
    Ðuốc nêu, mở khóa vàng.
    Năm miệng đồng cùng khứ
    Chín, mười hết ta, chàng.
    Thành Thái không hiểu gì cả, chỉ gắng ghi vào lòng rồi từ tạ lui gót.
    Bài sấm của Sư, đương thời không ai độ được, nhưng về sau đã phù nghiệm, như chúng ta sẽ thấy.
    Dưới thời nhà Ngụy, kẻ anh tài chống lại với Thiền môn rất nhiều, nào Quang Thống luật sư, nào Lưu Chi Tam Tạng... đều là bậc loan phụng trong hàng Tăng chúng. Thấy Sư luôn luôn lấy tâm làm trọng, các vị đã cùng Sư luận nghị mấy phen, nhiệt liệt ồn ào như ong vỡ tổ. Trong khi ấy, xa gần Sư đều cho nổi lên một ngọn huyền phong và đổ xuống một trận mưa pháp, chan rải khắp nơi, kết quả không sao lường được. Sự thành công vẽ vang này càng kích thích kẻ ác gia tâm dùng thuốc độc hại Sư.
    Trên thực tế, Sư đã bị thuốc năm lần. Ðến lần thứ sáu, thấy sứ mệnh hoằng pháp đã hoàn thành, công việc truyền pháp đã tìm ra người, Sư không tự cứu nữa, ngồi an nhiên tịch diệt. Lúc ấy là năm Thái Hòa thứ 19 đời Hiếu Minh Hậu Ngụy, nhằm ngày mồng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, tức năm Ðại Thông thứ 2 triều nhà Lương. Ðến ngày 18 tháng chạp cùng năm, nhục thể của Sư được nhập tháp tại chùa Ðịnh Lâm, núi Hùng Nhĩ. Thật là đúng như lời sấm của Sư, câu "ngũ khẩu tương cộng hành" có nghĩa là "ngô tương hành", vì ghép chử NGŨ trên chữ KHẨU thì thành chữ NGÔ, và câu này có nghĩa là "Ta sẽ đi". Còn câu chót "cửu thập vô bỉ ngã" quả là Sư đã nói trước ngày viên tịch: mồng chín (cửu) tháng mười (thập).

    Ba năm sau, Tống Vân quan nhà Ngụy, đi sứ Tây Vực về, gặp Sư Ðạt Ma tại ngọn Thông Lãnh. Thấy Sư tay cầm một chiếc dép, một mình đi mau như bay, Tống Vân hỏi:
    - Sư đi đâu đó?
    Sư đáp:
    - Ta về Tây phương.
    Rồi Sư lại nói thêm: "Chủ của Ông đã chán đời rồi".
    Ngẩn ngơ, Tống Vân từ giả Sư và hấp tấp về phục mạng, thì ra vua Minh Ðế đã thăng hà. Tống Vân tâu việc gặp Sư lên vua Hiếu Trang mới tức vị. Vua ra lệnh quật mồ. Trong quan tài không có gì cả, ngoài một chiếc dép da. Các quan lãnh lịnh khám nghiệm hết sức kinh ngạc và thán phục. Vua sắc đưa chiếc dép của Sư lưu lại về chùa Thiếu Lâm thờ. Ðến đời Khai Nguyên năm thứ 15 nhà Ðường, nhằm năm Ðinh Mão hàng thiện tín lại dời báu vật về chùa Hoa Nghiêm, đến nay không biết còn mất và ở đâu.
    Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma được nhà vua phong là Viên Giác Thiền Sư, còn ngọn tháp của Tổ gọi là Không Quán. Thiền tông Trung Hoa tôn Tổ làm Sơ Tổ.
    CHÁNH TRÍ
    (Viết theo sách Truyền Ðăng Lục)
  2. hoadao_vnn

    hoadao_vnn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    Là chiếc xe máy bạn đang đi hàng ngày bị mất. Bạn sẽ làm gì? Đi mua cái khác, phải không? Hãy sống trong hiện tại, khi đó bạn sẽ thấy là tất cả đến rồi đi, nhưng bạn thì lúc nào cũng an lạc.
    Hoadao gần đây có đọc cuốn "Tinh Yếu Lâm Tế Lục bình giảng" của Sư Ông Làng Mai trêng mạng langmai.org. Sư Ông có nói rằng mỗi một công án chỉ có tác dụng đối với người được hướng tới trong hoàn cảnh cụ thể của công án mà thôi. Các bạn đọc qua, hiểu thì hiểu, không hiểu thì thôi, bỏ qua luôn, đó là "Xả bỏ". Còn nếu cứ đi theo ngẫm nghĩ thì bạn đã bị dính mắc rồi đó, và điều đó sẽ cản trở cơ hội của một công án thực sự đến với bạn.
    Thân mến,
  3. trietgia2006

    trietgia2006 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2006
    Bài viết:
    1.052
    Đã được thích:
    0
    II. CĂN BẢN PHÁP của THIỀN ÐAT MA

    Phật Quả Viên Ngộ bình xướng
    CỬ [1]:
    Lương Võ Ðế hỏi đại sư Ðạt Ma: "Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?" [2]
    Ðạt Ma đáp: "Quách nhiên vô thánh". [3]
    Ðế nói: "Ðối mặt trẫm là ai?"
    Ma đáp: "Không biết".
    Võ Ðế không khế hợp được. Ma bèn băng sông qua đất Ngụy.
    Sau Võ Ðế đem câu chuyện ấy hỏi lại Hòa thượng Chí Công. Công nói: "Bây giờ bệ hạ biết người ấy là ai chưa?" Ðế đáp: "Không biết".
    Công nói: "Ðó là đại sĩ Quán Âm truyền tâm ấn Phật".
    Ðế ăn năn, sai sứ đi thỉnh, nhưng Ma không trở lại.
    *
    Ðạt Ma xa trông xứ này có chân khí đại thừa bèn phăng phăng cỡi sóng sang đây truyền riêng tâm ấn, vạch rõ bùn mê, mở pháp "Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật". Nếu bằng vào cái thấy ấy được thì mặc thích tự do, chẳng buông theo ngữ ngôn chuyển, vỡ tung ra mà hiện thành, có thể tùy tiện cùng Võ Ðế, đối đàm ngang vai với nhị Tổ (Huệ Khả) xử phép an tâm; đó là cái thấy tự nhiên, chẳng tính toán so đo, tình trần một đao đứt tuyệt, thanh thoát lâng lâng, hà tất phân phải phân trái, luận mất luận còn. Ðành là như vậy, nhưng dễ có mấy ai?
    Võ Ðế từng đắp cà sa, tự giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã, cảm đến hoa trời ngổn ngang rơi xuống đất hóa vàng, biện đạo nêu Phật, dạy bảo thiên hạ, cất chùa độ tăng, dựa theo giáo nghĩa [4]tu hành, người người tôn là vị thiên tử có tâm Phật.
    Thoạt tiên gặp Ðạt Ma, Võ Ðế hỏi: "Trẫm cất chùa độ tăng, có công đức gì?" Ma đáp: "Không công đức". ...
    Võ Ðế cùng với pháp sư Lâu Ước, đại sĩ Ðạo Phó và thái tử Chiêu Minh trì luận chân tục hai đế, căn cứ theo giáo nghĩa thì chân đế biện minh cái chẳng phải có (phi hữu), tục đế biện minh cái chẳng phải không (phi vô), chân tục chẳng phải hai, tức thánh đế đệ nhất nghĩa. Ðó là chỗ cực diệu cùng huyền của hàng giáo gia. Võ Ðế bèn đem điểm cực tắc ấy hỏi Ðạt Ma: "Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?" Ma đáp: "Quách nhiên vô thánh". Hàng nạp tăng trong thiên hạ chạy đâu cho khỏi. Ðạt Ma vì ai một đao dứt tuyệt hết rồi!
    Ngũ Tổ tiên sư (Hoằng Nhẫn) nói: chỉ mấy chữ quách nhiên vô thánh ấy, ai thấu suốt được về nhà ngồi yên. Ðó là chỗ kỳ đặc của Ðạt Ma một mực đánh thẳng vào khối cát đằng [5], chẳng ngại vì người đập nát thùng sơn [6]. Nên nói: tham suốt được một câu thì ngàn câu vạn câu đồng thời suốt, ngồi đâu yên đó, nắm gì vững nấy. Người xưa nói:
    Thịt nát xương tan chữa đền xong,
    Một câu siêu thoát ngàn ức kiếp.
    Võ Ðế không tỉnh, lại đem kiến giải nhân ngã hỏi: "Ðối mặt trẫm là ai?". Ðạt Ma rải lòng từ bi lân mẫn xoay qua nói: "Không biết". Ðến đây thì hữu sự vô sự không nêu lên được nữa.
    Ðoạn hòa thượng có lời tụng vầy:
    Nhất tiễn tầm thường lạc nhất điêu,
    Cánh gia nhất tiễn dĩ tương thiêu.
    Trực qui Thiếu Thất phong tiền tọa,
    Lương chúa hư ngôn cánh khứ chiêu.
    Tầm thường một mũi lạc chim điêu,
    Mũi nữa bồi thêm đốt cháy tiêu.
    Thiếu Thất thẳng lên ngồi vách đá,
    Vua Lương thôi chớ thỉnh cùng kêu.
    Lại nói: Sao muốn gọi về? Ðế chẳng khế hợp, lão hán thầm lặng qua sông sang Ngụy, chẳng lộ mặt, đi thẳng lên Thiếu Thất, chín năm diện bích, tiếp độ được Huệ Khả... Sau độ đến người thứ sáu, hóa duyên đã xong, truyền pháp đã có người, Sư không tự cứu nữa, đoạn ngồi nghiêm hóa êm, nhục thân táng tại chùa Ðịnh Lâm núi Hùng Nhĩ. Võ Ðế hồi tưởng, tự soạn bia văn như sau:
    Hỡi ôi!
    Thấy như chẳng thấy
    Gặp như chẳng gặp
    Ðối mặt như chẳng đối mặt.
    Xưa đâu nay đâu
    Oán bấy hận bấy.
    Lại tán rằng:
    Tâm có chăng?
    Khoáng kiếp uổng trệ phàm phu.
    Tâm không chăng?
    Sát na sớm lên diệu giác.
    BÍCH NHAM LỤC
    (Quyển I, tắc 1)
  4. hoadao_vnn

    hoadao_vnn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0

    Được hoadao_vnn sửa chữa / chuyển vào 22:06 ngày 23/04/2007
  5. LHX_NDD

    LHX_NDD Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    2.991
    Đã được thích:
    0
    Công án:
    CHẲNG CÓ CÔNG ÁN CÁI QUÁCH GÌ CẢ!!!

    Được LHX_NDD sửa chữa / chuyển vào 15:31 ngày 24/04/2007
  6. chungdobe80

    chungdobe80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Công án buồn cười thật đấy anh LHX ạ. Nếu lao vào nó với 1 cách nhìn rằng mình đang giải công án thì tạo nên mâu thuẫn. Công việc là o có công án nào nhưng toàn bộ việc làm thì là công án. Loay hoay tốn thời gian và có tạc dụng pụ là giải trí. Nó chưa làm chết tâm trí, vẫn còn có thể loay hoay, vòng vèo dc. Không những thế em còn nhìn thấy 1 hướng khác nó sẽ dc hiểu như thế này; ?oMột người nhặt dc 1 bọc giấy trên dg. Khi cầm lên thì nhìn thầy hướng dẫn ?ođây là rác, hãy vứt nó đi?. Và người đó vứt đi.?; Hiểu như vậy thì là xả bỏ. Chắc anh LHX định nghĩa ?oxả bỏ? ? Ngắn gọn thế này chỉ có bạn than của anh sẽ hiểu. Từ ?oQUÁCH? làm em buồn cười quá, còn toàn bộ thì em khó hiểu. Ông bạn của anh , anh Trần Thiện Nhân nói rằng nên chọn cái đúng, và ngắm nhìn những bông hoa đẹp trên dg, ko biết bao nhiêu tuổi nhưng chắc cũng vơ vét dc nhiều hoa và cái đúng vậy mà chẳng thấy định nghĩa từ ?oxả bỏ?
  7. chungdobe80

    chungdobe80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Còn theo mình Xả Bỏ là ,vứt bỏ, o níu bàm vào vật gì hay đối tượng gí đó nữa, . Nhưng điều quan trọng là cần thông minh, cần nhận rõ đối tượng xả bỏ. Sống trong hiện tại cũng có ý nghĩa xả bỏ vì o còn dính tới tương lai, quá khứ, ko còn thơi gian dính vào đối tượng gì.
    Ý kiến của tôi là 1 cái nụ . Tôi gửi thêm 1 bông hoa nữa cho đẹp
    Vậy toàn bộ đoạn này là 2 bông hoa, 1 cái nụ , 1 câu hỏi cùng 1 câu cảm ơn

    Hình như tôi hay lí luận quá?
    Cám ơn HOADAO đã nhắc nhở
  8. chungdobe80

    chungdobe80 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Từ ngày 9 - 30 tháng 5 năm 2007
    Tại chùa Nguyên Thuỷ: 33A, đường 10 khu phố 1, phường Cát Lại, quận 2 thầnh phố Hồ Chí Minh, đt:08. 5390723
    sẽ có hai khoá tu theo pháp môn Goenka, do thầy người Srilanka hướng dẫn.
    (Mỗi khóa tu 10 ngày). Có phiên dịch.
  9. vomosu

    vomosu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/02/2007
    Bài viết:
    124
    Đã được thích:
    0
    Lâu lâu về thăm mọi người trong diễn đàn, em thấy thật là vui vì tình hình diễn đàn đã đổi khác, không khí thật là vui và có nhiều gia vị, hương vị mới...
    Dạo này mọi người có vẻ bỏ quên cái món thiền này rồi,nên em phải up cái tóp này lên để các bác tập trung nghiên cứu chuyên môn này mới được.
    3 câu hỏi em đưa ra ở trên, thời gian vừa rồi em lục tung cả mạng internet lên, cuối cùng cũng tìm ra được tư liệu liên quan, tiện lần lượt trình bày nhằm hầu hạ các bác, hi vọng các bác không thấy phí thời gian đọc.
    1. Các bác có bao giờ nghe nói đến chuyện "Tiếng vỗ của một bàn tay" không ạ? Thế nào gọi là "Tiếng vỗ của một bàn tay"?
    Em kiếm được câu chuyện liên quan:
    Ngày xửa ngày xưa, có một đại sư phụ đã đạt tới trình độ ngang với "tu thành chính quả", người đời gọi là Vô Vọng đại sư phụ(chắc là ngành thiền quá) có 2 đệ tử tâm đắc là Đồ Gàn và Hủ Nho. Thấy rằng trình độ tu tập của họ cũng đã khá cao, chỉ còn một chút nữa thôi là tích đủ "lượng" để có thể biến đổi "chất", hay nói hình tượng thì là "chép" đã nằm ở bờ thác, cần quẫy mạnh cái đuôi là vượt được "vũ môn", thầy Vô Vọng quyết định giao cho họ một chủ đề thật khó cho họ suy tưởng, tìm ra chân lý. Bèn gọi 2 tên đệ tử lại mà rằng:
    - Các con theo ta tu đã lâu, ta giao cho các con một nhiệm vụ. Các con hãy đi tìm hiểu cho ta, như thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay... Nếu thành công, đó có thể coi là bằng chứng của "Trí Huệ" vậy. Hẹn các con 3 năm kỳ hạn...
    Đồ Gàn cùng Hủ Nho vâng mệnh ra đi. Thời gian thấm thoắt trôi, đến ngày gặp lại, ai nấy tóc đều đã bạc (nếu có).
    Cả hai cùng quỳ trước mặt người thầy tôn kính. Thầy Vô Vọng đã già đi nhiều, ngồi nhắm mắt như pho tượng linh thiêng...
  10. vomosu

    vomosu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/02/2007
    Bài viết:
    124
    Đã được thích:
    0
    Hủ Nho tranh được trình bày trước:
    - Dạ, thưa thầy, con đã nghiên cứu rất kỹ, đọc cũng cỡ thiên kinh vạn quyển, sách vở thánh hiền đã chật bụng, từ điển tra ngược đọc xuôi ấy là chuyện thường làm. Con đã tìm ra được thế nào "tiếng vỗ của một bàn tay". Đó chính là người quân tử. Đạo Trung Dung của người quân tử, ở trên núi cao một mình cũng vui như ở giữa chợ đông người. Trong Kinh Dịch có hình tượng người quân tử là quẻ Thuỷ Thiên Nhu, mô tả lại là: Thuỷ là nước, Thiên là trời. Thuỷ Thiên là nước trời, muốn chỉ nước mưa. Người quân tử thấy trời mưa, lúc đầu cũng chạy vào hiên nhà trú mưa cùng mọi người, bất chợt nhận ra, làm như vậy chưa đúng với hình ảnh của một người quân tử, bèn quay lại từ đầu, hiên ngang đi dưới mưa một mình. Tiếng bước chân người quân tử đi một mình dưới mưa, đó chính là "tiếng vỗ của một bàn tay vậy".
    Hủ Nho nói xong, thấy mặt thày Vô vọng vẫn không một chút biến đổi, hai mắt vẫn nhắm nghiền như chưa nghe gì vậy, đành nhường cho sư huynh Đồ Gàn lên tiếng...
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này