1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]

    Sơ lược về kinh lạc và huyệt vị
    Kinh lạc (gồm 2 bộ phận chính là kinh mạch và lạc mạch) là con đường vân hành chủ yếu của khí, huyết ,tân, dịch. Trong kinh mạch lại được chia ra làm chính kinh và kỳ kinh,chính kinh có 12 kinh, tả hữu đối xứng gọi là thủ túc âm tam dương kinh, tương thông trực tiếp với tạng phủ, thuộc ở tạng thì gọi là âm kinh, thuộc ở phủ thì gọi là dương kinh, mười hai kinh bao gồm: thủ thái âm phế kinh, thủ thái dương đại trường kinh, túc dương minh vị kinh, túc thái âm tỳ kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, thủ thiếu âm tiểu trường kinh, túc thái dương bàng quang kinh, túc thiếu âm thận kinh, thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh, túc thiếu dương đảm kinh, túc thiếu âm can kinh. Trong đó thủ tam tiêu kinh từ ngực đến tay, giao với thủ tam dương kinh; thủ tam âm kinh từ tay đến đầu, giao với túc tam dương kinh, từ đầu đến chân giao với túc tam âm kinh; túc tam âm kinh giao từ chân đến ngực giao với thủ tam âm kinh; kinh lạc bên trong thì thông với tạng phủ, bên ngoài thì thông với tứ chi thất khiếu, kết cấu liên hợp tuần hoàn, thông âm dương dẫn khí huyết, dưỡng tạng phủ. kinh lạc hoạt động bình thường thì âm dương cân bằng, khí huyết thông sướng, thân thể khoẻ mạnh, ngược lại thì trăm bệnh sẽ phát sinh.
    * Về kì kinh có tám mạch hợp xưng là"kỳ kinh bát mạch" gồm đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đới mạch,âm nghiêu mạch, dương nghiêu mạch, âm duy mạch, dương duy mạch.
    Kì kinh bát mạch có tương quan trực tiếp tới tạng phủ.
    * Khí huyết vận hành theo mỗi kinh lạc qua một hệ thống các điểm mẫn cảm mà thông tới các bộ phận. Điểm mẫn cảm ấy gọi là huyệt vị. Những huyệt này nếu bị tác động xẽ gây ra cản giác đau đớn, tê liệt, sung sướng...
    Huyệt vị không rời kinh lạc, kinh lạc quyết định huyệt vị...
    * Mối quan hệ giữa thời khắc với sự vận hành của khí huyết qua 12 kinh mạch như sau:
    - Giờ tí (23h-1h)khí huyết vận hành ở kinh đảm.
    - Giờ sửu (1h-3h) khí huyết vận hành ở kinh can.
    - Giờ dần (3h-5h)khí huyết vận hành ở kinh phế.
    - Giờ mão (5h-7h)khí huyết vận hành ở kinh đại trường.
    - Giờ thìn (7h-9h)khí huyết vận hành ở kinh vị.
    - Giờ tị (9h-11h)khí huyết vận hành ở kinh tỳ.
    - Giờ ngọ (11h- 13h)khí huyết vận hành ở kinh tâm.
    - Giờ mùi (13h-15h)khí huyết vận hành ở kinh tửu trường.
    - Giờ thân (15h-17h)khí huyết vận hành ở kinh bàng quang.
    - Giờ dậu (17h- 19h)khí huyết vận hành ở kinh thận.
    - Giờ tuất (19h-21h)khí huyết vận hành ở kinh tâm bào.
    - Giờ hợi (21h-23h)khí huyết vận hành ở kinh tam tiêu.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Khí công dưỡng sinh (Phần 1)
    I. Khí công là gì?
    "Khí" người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật Bản, "Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ, tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.
    "Công" do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian.
    Do đó, "khí công" có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí" (oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.
    Trong võ thuật cổ truyền phương Đông, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.
    II. Lược sử khí công:
    Trong ý nghĩa quân bình hơi thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diện loài người trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền phương Đông, khí công đã được áp dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn học: Y học, Đạo học, và Võ học.
    Theo như Hoàng Đế Nội Kinh (2697 - 2597 B.C. trước CN), và sách Kinh dịch (2400 B.C. trước CN), nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.
    Vào thời nhà Thương (1783 - 1122 B.C trước CN), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.
    Vào thế kỷ thứ 6 trước CN, trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề cập đến vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 - 221 B.C. trước CN). Sau đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước CN đến 220 A.C. sau CN), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vị y sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.
    Vào thế kỷ thứ ba sau CN, nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và Chim.
    Vào năm 520 - 529 sau CN, ***** Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam,đã soạn ra Dịch Cân Kinh,dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng sức mạnh trong việc luyện võ.
    Về sau, dựa vào nguyên lý khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...
    Về sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ, ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền,Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục Hợp Bát Pháp Quyền...
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Khí công dưỡng sinh -Phần 2
    III. Triết lý khí công
    A. Vũ trụ quan
    Theo quan niệm của người phương Đông, khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận. Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào nhau, để sinh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:
    "- Khí tụ lại thành hình, khí tán đi hình loại, muôn vật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh, Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "-Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.
    Hai tính chất căn bản là Âm và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.
    Thiên Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió thổi, mưa rơi, bão tố, sấm sét...xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.
    "Địa Khí đến từ quả đất, cũng như từ sự thấm nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên động đất, chính là làn nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất cân bằng âm dương tính trong địa khí.
    "Nhân Khí" là sinh lực con người,con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.
    B. Nhân Sinh Quan
    Con người khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sẵn có trong hài nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận: tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch , nước uống và thực phẩm (động vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: tim, phổi, dạ dày, lá mía, ruột già, ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)
    Với tuổi thọ tăng dần, các đường ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.
    Để tái tạo sức khỏe bình thường, việc khai thông hệ thống kinh mạch , cũng như, quân bình Ân Dương tính trong nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Ở điểm này, Đông Y đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốc hóa học ở các lá, thân và rễ cây), châm cứu, bấm huyệt (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và thể dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...
    Trong phép dưỡng sinh, người ta cần phải biết sống hòa hợp với qui luật thiên nhiên, để khai thác tối đa lợi thế của Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ cân bằng âm dương tính cho Nhân Khí của con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ các mầm mống bệnh tật có thể xảy ra cho con người.
    Ngoài ra, việc tập luyện khí công rất có lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể, cũng như, hòa hợp với Thiên Khí và Địa Khí từ bên ngoài.
    IV.Phương pháp thực hành
    Trong khí công gồm có hai loại thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một trong ba tư thế chính yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong mổi tư thế này còn được chia ra kàm nhiều tư thế phụ như sau:
    Với tư thế đứng còn có thế đứng tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân dang rộng ra hai ben trái phải).
    Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ gối.
    Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng người với lưng tựa phía dưới.
    Trong các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi của tư thế đứng:
    - Tư thế đứng rất thuận tiện, khi tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....
    - Tư thế đứng còn giúp cho máu lưu thông dễ dàng trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể.
    - Ngoài ra, tư thế đứng tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.
    V. Hiệu Quả Của Khí Công
    Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động của nhiều triệu mao quản bị đình trệ, và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể.
    Trong phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép kiêng cử, cơ thể tái tạo sức khỏe bình thường cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu, bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh nhức đầu, bệnh nhứ mỏi khớp xương và bắp thịt...
    Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm hồn thanh tịnh, và bình tĩnh để có một đời sống tình cảm an hòa, khắc phục được những trở ngại bất thường trong đời sống loạn hàng ngày. Để đạt được thành quả trong lúc tập luyện khí công, tùy theo hoàn cảnh, học viên nên tuân thủ nghiêm chỉnh theo một thời khóa biểu tập luyện đều đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi, từng bước một, tuần tự tiến hành. Nếu vội vã, đốt giai đoạn tập luyện, sức khỏe của học viên dễ bị tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn thận tránh những khuyết điểm. Việc tập luyện sai phép có thể tạo nên những biến chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc tập luyện.
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Khí công dưỡng sinh-Phần 3
    HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG
    Ý NIỆM VỀ KHÍ:
    Đối với người phương Tây, "Khí" được hiểu bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy, Life Force, Bio-Force, Electromagnetism... Cũng như "Animal Magnetism" ở châu Úc do Mesmer, "Odic Force" ở Đức do Baronvon Reichenbach, "Orgone Energy" ở Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga do Inyushin.
    "Khí" (Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như :Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, năng lực tinh thần,...
    Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật hoạt động sinh ra khí. Cũng như, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng. Cơ năng quyết định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan sinh hoạt biến thành cơ năng. Nhà khoa học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = mc 2. năng lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và khối lượng vật chỉ là một, nhưng với hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra.
    Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu tố và điều kiện sống chung quanh (như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã hội...), nguồn năng lực (khí) trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong đời sống hàng ngày, nguồn năng lực (Khí) đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực (Khí) con người. Qua tiến trình hô hấp không khí, dưỡng khí (oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon dioxide), và nước, theo phương trình hoá học như sau:
    Food + Oxygen ® Energy + Carbon Dioxide + Water
    (Đồ ăn) + (Dưỡng khí) ® (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước)
    năng lượng (khí) được sinh ra từ phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ, và các bộ phận trong cơ thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí) sung mãn, trong đòi sống khỏe mạnh, ngoài hai yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí (Oxygen) (trong khí trong lành), và thức ăn tươi tốt (đầy đủ chất dinh dưỡng), người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác, không kém phần quan trọng như: nước uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí quân bình, và vận động thể dục...
    HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG:
    Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người.
    Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp (hít thở) không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể.
    Hơi thở của một người khỏe mạnh bình thường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hơi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh, với một linh hồn minh mẫn.
    Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi thở của học thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, để đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài. Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh bình thường.
    Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện khí công, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào) càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoan tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào) trong một phút.
    Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồi thiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài trong 30 phút. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (Đan điền).
    BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG:
    Đối với học viên mới nhập môn khí công, điều quan trong nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đế tiến trình hô hấp của con người như sau:
    1)Nhiệm vụ của phổi:
    Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miện, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong ***g ngực, và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy. Lá phổi bên trái có hai thùy.
    Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào).
    Bên trong mỗi lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí (Khí bào), chia thành nhiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co dãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi nhò khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải trừ thán khí (carbon dioxide) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxide).
    Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt.
    Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong ***g ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 10:04 ngày 05/02/2007
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Khí công dưỡng sinh - Phần cuối
    2)Vai trò hoành cách mô:
    Thân người được chia làm hai phần: phần trên là ***g ngực, phần dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một "Hoành Cách Mô" (một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co dãn của ***g ngực và hoành cách mô đã đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí.
    ***g ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phối bắt đầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn. Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho ***g ngực được căng phồng lên. Do đó, bên trong ***g ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dãn nở lớn tối đa của ***g ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi.
    Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan điền), khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, khiến cho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4cm. Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi, dãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự dãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxide) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi.
    Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho đôi dây tah kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh.
    Không khí được thổ ra là buớc sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với ***g ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên. Đồng thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài.
    Sự sống bao gồm hoạt động và nghỉ ngơi. Các xúc động tâm lý, những căng thẳng thần kinh sẽ gây sự cản trở hoạt động và nghỉ ngơi. Không phát huy được khả năng, thiếu bền bỉ dẻo dai, không sáng suốt nhận định đều do những căng thẳng, những xúc động gây ra. Hoạt động như vậy khó đạt được hiệu quả. Thân xác không hoạt động, trong lòng lại đầy những tính toán lo âu, là nghỉ ngơi không trọn vẹn, sinh lực chẳng được phục hồi. Hoạt động nghỉ ngơi như vậy, cuộc sống của ta khó có an vui hạnh phúc. Qua thực nghiệm, người xưa đã tìm ra và khoa học ngày nay đã công nhận: với sự luyện tập khí công, nhịp tim sẽ được điều hòa để bộ máy tâm sinh lý được cân bằng ổn định. Chỉ trong cân bằng ổn định, sự hoạt động nghỉ ngơi mới được trọn vẹn.
    Khí công gồm hai phần: Tĩnh luyện và động luyện.
    Khí Công Tĩnh Luyện có thể tập ở hai tư thế: Ngồi hoặc nằm.
    Trong tư thế ngồi, ta xếp bằng hoặc cài chéo hai chân vào nhau, hai bàn tay úp xuống đùi, cánh tay ép vào lườn, xương sống thẳng để khí huyết dễ luân lưu, mắt nhắm chủ tâm vào tam tinh là vùng giữa hai chân mày, đối chiếu với não, đó là vùng suy nghĩ của não bộ. Chủ tâm vào vùng này khi luyện khí, lâu ngày ta sẽ làm chủ đươc tư tưởng của mình và có khả năng tập trung tư tưởng cao.
    Trong tư thế nằm, ta nằm ngửa, hai tay để xuôi theo thân, bàn tay úp, mắt nhắm, chú tâm vào vùng rốn. Chú tâm vào vùng này khi nằm luyện khí, huyết sẽ dồn xuống bụng làm thần kinh bớt căng thẳng. Nhờ vậy ta dễ đi vào giấc ngủ và có giấc ngủ êm sâu.
    Tập khí ở hai tư thế này, mắt phải nhắm lại, môi khép kín, lưỡi co lên hàm trên để kích thích sự hoạt động của tuyến nước miếng là phương dược trong cơ thể con người giúp chận bớt các chứng sưng gan, tim lớn và ngăn chận được các chứng loét bao tử, thực quản.
    Khí Công Động Luyện: Nhu khí công quyền.
    Như tên gọi đây là bài tập kết hợp hơi thở với các động tác co duỗi của tay, di động của chân với sự làm mềm tối đa các cơ bắp khi vận động. Nếu dày công tập luyện sẽ có khả năng làm chủ tâm ý, biết giảm bớt căng thẳng từ đó sẽ có sự sáng suốt, bền bỉ dẻo dai khi hoạt động, khi làm việc tay chân hoặc trí óc. Lúc luyện tập các bài nhu khí, phải chú tâm vào các động tác để cảm nhận được sự co duỗi của các cơ bắp, môi khép, lưỡi để tự nhiên, hít thở bằng mũi, hơi thở ăn nhịp với động tác, chú ý làm mềm các cơ vùng mặt và cơ bàn tay để có; sự nhẹ nhàng thư thái trong tâm khí vận động.
    Tập khí công là tập thở bằng bụng: Hít vào phình bụng lên, thở ra thóp bụng lại.
    Hít thở bằng mũi. Hơi dài ngắn tùy sức, nhưng phải êm nhẹ, thời gian vào ra của hơi thở bằng nhau. Đây là phương pháp khí công tu dưỡng nên ngoài các cơ bắp giúp vùng bụng phình lên, hóp lại giúp tay chân chuyển động các cơ bắp khác, nhất là các cơ bắp vùng mặt và cơ bản tay phải làm mềm tối đa.
    Để đáp ứng nhu cầu hoạt động nghỉ ngơi của con người, như đã trình bày, khí công gồm hai phần: động luyện và tĩnh luyện. Dù động hay tĩnh đều có thể cương hoặc nhu luyện. Khí công cương luyện là hít thở kết hợp sự căng cứng toàn bộ hay từng phần cơ bắp. Và sự tập trung cao độ của thần kinh vào vùng cơ bắp căng cứng. Đó là dùng lực để vận khí và phương pháp này tạo sức mạnh về thần chất cho người tập luyện. Khí công nhu luyện là hít thở đi đôi với sự làm mềm các cơ bắp, tạo êm dịu cho hệ thần kinh. Các cơ bắp khi ở trạng thái mềm tối đa, cơ thể con người được nghỉ ngơi trọn vẹn và sinh lực được mau chóng phục hồi. Khí công nhu luyện giúp người tập có một nhịp tim điều hòa, một hệ thần kinh ổn định, sự điềm tĩnh nhu hoà sẽ đến. Đó là sức mạnh tinh thần.
    Khi luyện khí phải biết kết hợp cả động lẫn tĩnh, cả cương lẫn nhu. Tuy nhiên nếp sống ngày nay đã khiến mọi người đã quá hoạt động, gây ra quá nhiều sự căng thẳng về thần kinh nên cách tập thích hợp nhất cho mọi người là dù động hay tĩnh nên nhu luyện nhiều hơn để tái luyện cân bằng.
    Có người nhờ luyện khí đã có những khả năng phi thường. Đó là trường hợp ít có. Những người này ngoài căn cốt đặc biệt còn phải trải qua một thời gian dài dồn toàn bộ tâm sức để luyện tập với các phương pháp vượt khỏi sức chịu đựng của mọi người. Cũng có những khả năng phi thường tự nhiên xuất hiện ở một số người. Khả năng siêu nhiên chính là tiềm năng của con người, có thể do tập luyện, cũng có thể do tự nhiên xuất hiện. Đây không phải là hiện tượng phổ biến.
    Có nhiều lối luyện khí:
    Hai thì: Nạp (hít vào), Xả (thở ra)
    Ba thì: Nạp, Vận (nín thở lúc khí đầy phổi, đẩy khí đi toàn châu thân), Xả
    Bốn thì: Nạp, Vận, Xả, Bề (ngưng thở lúc đã thở hết khí trời ra).
    Các lối thở này, với sự điều chỉnh hơi thở ra vô, êm nhẹ, từ từ, dài lâu, giúp người tập có khả năng điều chỉnh được nhịp tim, chịu đựng được các tình trạng thiếu oxy hoặc tăng nồng độ carbonic trong máu, từ đó bắt buộc hệ thần kinh điều chỉnh cho thích nghi, tạo sức đề kháng để cơ thể có thể chống lại mọi thay đổi đột ngột của môi trường.
    Khi tập thở, hơi thở ra vô dài ngắn, tùy theo sức chịu đựng của mỗi người. Kiên nhẫn tập luyện, hơi thở sẽ trở nên êm nhẹ, lâu dài, thong thả, nhịp thở ra vô sẽ đều nhau, nhịp tim được điều hòa, hoạt động của bộ máy tâm sinh lý sẽ cân bằng ổn định. Sự cân bằng này được biểu lộ qua tác phong điềm tĩnh nhu hòa, vô cầu.
    Khi đã có sự cân bằng này rồi, nếu muốn, ta có thể luyện qua hơi thở ba thì, bốn thì.
    Chỉ trong hoạt động, ta mới phải nín thở lấy sức, còn bình thường, lối thở hai thì là lối thở tự nhiên của mọi người. Ai cũng hít thở nhưng nếu không luyện khí, sự hít thở sẽ không hoàn chỉnh. Sự hít thở gọi là hoàn chỉnh khi cả lúc động cũng như cả lúc tĩnh hơi thở ra vô lúc nào cũng nhẹ êm, sâu dài, thong thả. Luyện khí ở tư thế nhu tĩnh, ta dễ chuyên chú vào khí để hoàn thiện, dễ làm chủ hơi thở của chính mình. Nhờ tập nhu khí ở tư thế tĩnh, ta sẽ dễ phát huy được công năng của các bào nhu khí, cương khí đối với bản thân khi luyện tập. Đó là sự kết hợp giữa động và tĩnh trong luyện khí. Nếu chuyên luyện nhu khí, sự trẻ trung tươi mát, sự bền bỉ dẻo dai, sự hồn nhiên vô tư, sự hiền hòa từ tốn, sự bao dung độ lượng sẽ đến với ta. Đây chính là cái đẹp bên ngoài của tinh thần Nhân Võ Đạo.
    Vận động với nhịp độ nhanh, cường độ mạnh, cần tăng cường hô hấp nên đôi khi phải thở ra bằng miệng mới kịp. Tuy nhiên tốt nhất ta nên hít thở bằng mũi. Có những lý do sau đây:
    - Mũi là bộ máy điều hòa không khí của cơ thể. Với những nếp gấp ở hốc mũi, không khí hít vào được tẩy bụi, hấp nóng, có khi lại được tiếp hơi ấm để đủ điều kiện cần thiết trước khi vào phổi. Hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, mũi do hô hấp nóng không khí hít vào, nhiệt độ bị giảm dần, sẽ bị lạnh. Điều này có thể gây sổ mũi hoặc sưng cuống phổi. Nếu thở ra bằng mũi hơi thở sẽ hoàn lại chất nhiệt cho mũi và như thế lại giúp nó làm tròn vai trò điều hoà không khí hít vào.
    - Mũi có vai trò làm điều tiết lưu lượng không khí hít vào, thở ra và làm giảm tốc quá trình hô hấp. Hít vào bằng miệng, lẽ tất nhiên ta đưa nhanh chóng vào phổi một lượng lớn không khí và như thế dễ làm tổn thương nhiều phế nang tế nhị. Vả lại, nên hiểu rằng khi hít vào, phổi vừa hấp thụ không khí lẫn máu theo một tỷ lệ nhất định để giữ vững cân bằng cho môi trường bên trong. Thở bằng miệng thường làm thay đổi tỷ lệ đó và làm mất cân bằng cơ chế hô hấp vốn rất tinh tế. Thở bằng miệng chỉ áp dụng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể đòi hỏi.
    - Những nếp gấp trong mũi được phủ dầy đầy dây thần kinh có mắc nối với nhiều cơ quan và các trọng tâm thần kinh. Gặp người bị ngất, cho họ ngửi amoniac hoặc giấm chua, họ có thể tỉnh ngay. Cơ thể con người cũng cần được kích thích bởi luồng không khí qua mũi.
    Trong cơ thể con người, mạch là những ống dẫn huyết từ tim chạy ra khắp cơ thể và ngược lại. Theo Đông y, ngoài mạch máu ra, còn có hệ thống kinh lạc. Kinh là những đường dây nối liền các huyệt trong cơ thể theo một hàng dọc và lạc là những đường nối liền từ kinh nọ sang kinh kia, chạy theo hàng ngang. Có hai kinh chính là Nhâm Kinh và Đốc Kinh. Nhâm Kinh là đường kinh nối liền từ chỗ lõm ở môi dưới chạy thẳng xuống, qua lằn chỉ ở dịch hoàn đến hậu môn. Đốc kinh là đường kinh chạy từ đỉnh xương cùng lên đến đỉnh đầu trỏ ra trước mặt vượt qua rãnh dưới đầu mũi tới nuớu răng hàm trên. Khi luyện khí, hai môi nên khép lại cho Nhâm Kinh và Đốc Kinh được nối liền với nhau để khí dễ luân lưu. Ngoài ra, lưỡi co lên, chạm dốc giọng để kích thích sự hoạt động của các tuyến nước bọt. Theo y học thì nước miếng là phương thần dược trong cơ thể con người, có thể trị các chứng sưng gan: tim lớn, làm thần kinh mát dịu, nhất là những chứng lở loét bao tử thực quản. Chúng ta cũng thường thấy rằng một cái dằm hay xương cá chích vào chân răng, lưỡi miệng, chỉ trong hai, ba tiếng đồng hồ không nghe đau nhức nữa. Nếu da thịt bị như thế, ít nhất hai ba hôm mới hết, có khi lại lở thành mụn nữa.
    Tập khí công là tập thở bằng bụng dưới hít vào, phình bụng, thở ra, hóp bụng, để kích thích vùng Đan điền. Đông Y quan niệm đó là nơi tích tụ sinh lực của con người và khoa học ngày nay coi đó là vùng trọng tâm của thân thể. Khi kích thích đúng mức, sinh lực sẽ được phát huy. Nói cách khác, khi trọng tâm con người, do tập luyện trở về vị trí Đan điền, tâm sinh lý được cân bằng. Trong trạng thái cân bằng, sinh lực sẽ được phát huy toàn vẹn. Nếu đã nắm vững hệ thống kinh mạch, ta có thể dùng tư tưởng để dẫn khí. Tuy nhiên, dùng ý dẫn khí sẽ sinh tâm lý nóng vội vì muốn mau chóng thành công, như vậy dễ đi đến tình trạng thái quá, dễ gây căng thẳng cho hệ thần kinh, hệ tim mạch bị loạn nhịp. Sinh lý bị xáo trộn do luyện khí, người xưa gọi là "tẩu hỏa nhập ma". Cách tập an toàn nhất cho tất cả mỗi người là tập với lòng thanh thản vô cầu, không dùng ý dẫn khí, chỉ thư giãn tối đa, tùy cơ thể tập; chú tâm vào từng vùng nào đó. Thí dụ: tập khí ở tư thế tĩnh tọa, chú tâm vào vùng giữa hai chân mày, ở tư thế nằm, chú tâm vào vùng rốn. Khi thở đúng mức, khai thông được hai kinh Nhâm, Đốc, luồng khí sẽ chu lưu khắp cơ thể theo hệ thống kinh lạc. Khi hít thở, dưỡng khí qua phế nang được máu hấp thụ, theo động mạch đi đến các cơ quan. Khi di chuyển theo đường kinh lạc là một thứ khí khác, người xưa gọi là: chân khí, tiên thiên khí, khí thái hư... Hấp thụ được luồng khí này, con người sẽ phát triển được các phẩm tính thanh cao, hướng thượng. Người tập có khả năng điều khí tốt khai thông được Nhâm Đốc Kinh, thì các bài nhu khí, cương khí sẽ giúp thúc đẩy, dẫn khí ra tứ chi. Khai thông kinh lạc là bước đầu của lĩnh vực khí công.
    Hết
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Khí công và cuộc sống
    Từ ngàn xưa, con người đã sớm biết tầm quan trọng của việc hô hấp, gắn liền với vấn đề giữ gìn và tăng cường sức khỏe, giúp con người có khả năng tồn tại giữa thiên nhiên bao la, khắc nghiệt... Nhiều bậc y sư, danh võ, đạo sỹ thuộc những ngành y học, võ học, và đạo học đã sáng tạo nên biết bao phương pháp, bài tập rèn luyện sự hô hấp, chỉ nhằm vào mục đích: "Máu huyết lưu thông, tay chân linh lợi. tinh thần thảnh thơi". Những bài tập hô hấp đó còn được gọi một tên khác là khí công, bao hàm ý nghĩa: công phu rèn luyện hơi thở một cách tốt nhất.
    Ngày nay, tiến bộ của khoa học đã cho người ta biết rằng cơ thể con người, đặc biệt là ở các cơ bắp, rất cần khí Oxy (còn gọi là dưỡng khí khi hoạt động và loại trừ khí CO2 (còn gọi là thán khí). Khí Oxy vốn có trong không khí, được con người hít vào phổi, rồi thẩm thấu, hòa tan vào máu (huyết), để được tản đi khắp cơ thể nuôi dưỡng các tế bào. Song song đó, máu cũng tải về phổi lượng khi CO2 do các tế bào tiết ra, để được thải ra ngoài, lúc con người thở ra.
    Như vậy, khí và huyết là hai yếu tố gắn bó mật thiết với nhau, và theo đó, quá trình vận khí và vận huyết cũng gắn chặt với nhau. Tạo được sự lưu thông khí huyết là điều kiện cờ bản trong việc bảo vệ sức khỏe và rèn luyện thề lực con người. Các lãnh vực y học, võ học và đạo học đều có những bài tập khí công mang những sắc thái tưởng chừng như khác nhau, nhưng có thể nói chung qui lại bằng có hai cách luyện khí công chính:
    1) Lúc con người vận động nhiều thi cần thờ sâu và nhanh nhằm cung cấp nhiều oxy cũng như khử nhanh khí CO2
    2) Lúc con người vận động ít và không vận động thi cần thờ nhẹ, dài, sâu, rất chậm, để cho toàn thể con người yên tĩnh điều hòa. Nếu có thể, thì nhắm đôi mắt lại để tập trung tư tưởng vào nhịp thở.
    Khi thực hành khí công, con người có thể ở trong tư thế nào cũng được: đừng, nằm,ngồi, hoặc kết hợp thở với động tác chân tay, thân thể như các bài tập khí công của võ thuật. Điểm quan trọng là nhịp thờ và động tác tay chân, thân thể phối hợp nhịp nhàng phủ hợp với sinh lý vận động. Quá trình rèn luyện khí công, ngoài việc tạo được sức khỏe, nâng cao thể lực, con người còn từng bước được trang bị những đức tính cần thiết cho con nhà võ, ví dụ như: lòng tự tin, tính can đảm, sự kiên nhẫn, đức vị tha...
    Hiệu năng của việc rèn luyện khi không chỉ đơn giản như vừa trình bày ở phần trên. Tuy nhiên, khí công cũng không tránh khỏi những hạn chế là có khả năng gây hại cho bản thân người tập nếu mắc phải những sai phạm đi ngược lại nguyên tắc của sinh lý vận động. Trạng thái nguy hại do khí công mang lại, giới võ thuật gọi là tình trạng tẩu hỏa, nhập ma cụ thể như: rối loạn tim mạch, rối loạn tri thức, mất tri nhớ, té liệt đau thắt vùng trước ngực, thân nhiệt tăng cao, ********* ngoài ý muốn, loét bao từ, bể hồng huyết cầu hàng loạt... và nguy hiểm nhất là có thể dẫn đến chết người ! Một cao thủ trong làng võ ở Sài Gòn trước đây là Thích Phước Điện đã từng bị "tẩu hỏa nhập ma" khi tập sai một động tác Dịch Cân Kinh (loại khi công thượng thừa của võ phái Thiếu Lâm) là: ngay trong thức thứ 1 đã rút tay lên quá eo lưng". Tình trạng tẩu hỏa nhập ma" của mình đã được Thích Phước Điện mô tả như sau: "... giã từ Đông y, tôi tìm đến Tây y.... nhưng đâu vẫn còn đấy: chu kỳ nóng đến cao độ, rồi ********* sau đó liên tục nóng trở lại và ********* vẫn đến với tôi hàng tuần... Tôi ốm yếu quá mặt mày vàng vọt xanh xao, sụt đến 12 kg. Người tôi đôi khi đi không vững. Tôi chán cho chính tôi! Tôi biết bệnh của tôi chỉ có người rành về tu luyện, phải giỏi nội công, khí công hoặc có thừa kinh nghiệm võ công may ra mới cứu tôi ra khỏi đoạn trường Dịch Cân Kinh này mà thôi! Cuối cùng, nhờ những tài liệu : Dịch Cân Kinh (bản ở Nhật), sách thuốc trị các bệnh do huyết mạch, khí công tàn phá, Huyền nghĩa Dịch Cân Kinh (bản ờ Anh). Khí công y dược trị liệu toàn thư của bằng hữu gởi về từ Nhật Bản. Anh quốc. Macao Thích Phước Điện mới tìm được phương cách điều tri bệnh tẩu hoả,nhập ma" của mình, phục hồi công lực.
    Rõ ràng, khí công là một mòn công phu khi rèn luyện sẽ có thể đạt được hoặc là những kết quả phi thường, dẫn đến "nội công được hàm dưỡng để thân tâm siêu phàm, nhập thánh", hoặc là chuốc lấy những tổn thất không lường trước được, như "bị tấu hỏa nhập ma, thân bại danh liệt. Hai đích đến đó chỉ cách nhau một đường tơ kẻ tóc !
    Nguyên nhân dẫn đến những tổn thất được tổng kết lại gồm: không thầy giỏi tận tình hướng dẫn; người tập khí công thiếu kinh nghiệm, chưa qua thời kỳ tập khí công cơ bản, chưa năm vững tâm pháp, không nghiên cứu kỹ các hệ thống kinh mạch mà luồng khí sẽ chạy qua, chưa đả thông các huyết mạch tự nó bế tắc từ thuở sơ sinh của kiếp người. chưa vận được khí và điều khiển được âm dương nhị khí... Ngoài ra, cũng có thể kể thêm một nguyên nhân nữa là các sách viết về khí công có trên thị trường chỉ trình bày một cách tổng quát về chiêu thức mà không giải thích tường tận các bí quyết uyên thâm: do đó, nếu luyện theo sách mà không có thầy hướng dẫn thì rất khó thành công, cũng dễ bị sai lạc, loạn khi dẫn đến tình trạng tẩu hỏa nhập ma" vô cùng nguy hại!
    Để có thể luyện thành công môn khí công, cách tốt nhất là phải nhờ một người thầy am tường về lĩnh vực này trực tiếp hướng dẫn, mới mong tránh được những tai biến thất thường.
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Chứng nghiệm khí công
    1. Tự chữa trị bệnh lao
    Năm 1900, thầy Yun đã 28 tuổi. Trong làng, bệnh ho lao đang hoành hành. Một thân nhân của ông đã chết vì bệnh này, và ông cũng bắt đầu ho. Vài tháng sau, thấy khạc ra máu, hoảng hồn - ông đi tham khảo ở các trưởng lão và lương y cổ truyền trong làng. Mọi người đều xác định phương thuốc bấy giờ là nghỉ ngơi nơi không khí trong lành và ánh nắng. Tuy nhiên, có người nhắc lại chương cuối quyển "Phương dược" cho rằng cách nghỉ ngơi tốt nhất là phép tĩnh tọa của Đạo gia. Do đó, ông học cách khai thông tiểu châu thiên, có tác dụng lớn lao trong việc kích thích sức đề kháng tự nhiên của cơ thể.
    Thầy Yun nhớ lại bản thân đã từng tập công phu này từ năm lên mười, nhưng không thường xuyên. Nay, thấy chết đến nơi, ông đọc lại kỹ và đi hỏi các trưởng lão về các chi tiết khó hiểu. Sau đó, ông đi tìm một cái chòi hẻo lánh, mỗi ngày hành bốn khóa, mỗi khóa hai giờ.
    Vào ngày thứ 95, ông nghe chuyển động ở vùng rốn. Một luồng nhiệt khí đi theo cột sống lên đầu. Sáu buổi chiều liên tiếp, lúc công phu, các cảm giác này tái hiện: rung chuyển ở rốn, nóng trong cột sống lên đến đầu. Một tuần sau, hình như ông có một cơ thể hoàn toàn mới mẻ. Mọi triệu chứng ho lao đã tan biến, ông cảm thấy nhẹ người và sảng khoái.
    Hai năm sau, ông lại thấy rung động trong vùng rốn liên tiếp ba buổi chiều. Một luồng nhiệt khí ồ ạt trong cột sống, va vào xương chẩm, làm rất đau. Buổi chiều kia, ông tưởng chừng như xương sọ vỡ ra, và hơi nóng xoáy trên đầu. Mỗi lần công phu, hiện tượng đó lại tái diễn. Sáu tháng trôi qua. Đến một buổi chiều luồng nhiệt khí xoay tròn trên đỉnh đầu rồi trở xuống mặt, ngực, và sau cùng về rốn. Kể từ ngày đó, khí luôn luôn chạy theo vòng tròn. Thầy Yun sống lại cuộc đời bình thường, và không bao giờ mắc bệnh nữa - ông qua đời năm 90 tuổi, trước đó vẫn còn nhanh nhẹn.
    2. Thầy Từ Bá Uy thoát chết nhờ khí công
    "Tự nhiên công" được tạo thành do sự dung hợp giữa "Chỉ gián pháp môn" của Phật gia và "Thông qua triển khiếu công" của Đạo gia. Đây là một thứ ngọa công, rất thích hợp cho người quá bận, quá mệt, cho người già yếu, hay tàn tật, cả cho người bệnh nặng phải nằm một chỗ nhiều năm.
    Tôi luyện "Tự nhiên công" trong lúc bệnh đã nguy kịch, và nhờ đó mà thoát chết. Chớ nên nghĩ rằng hiệu quả của ngọa công là hạn chế, tất cả những thu hoạch to lớn của tôi đều đạt được từ sự luyện công này.
    Năm 1953, tôi bị bệnh nặng, thuốc chữa đều vô hiệu, bất đắc dĩ tôi phải thực tâm luyện công cho tới nay đã thành thói quen. Mỗi ngày bất cứ ở vào hoàn cảnh nào, tôi cũng luyện công đều đặn. Hai năm sau, tôi đã chữa lành chứng loét dạ dày. Bảy năm sau đó, tôi đã chữa lành các chứng cao huyết áp, thần kinh suy nhược và đau lưng.
    Năm 1962, tôi dùng "Tự nhiên công" chữa lành bệnh thủy thủng do thiếu dinh dưỡng. Lúc mới bệnh, với kiến thức sơ sài về y học, tôi cho là mình thiếu những chất đãn bạch nào đó mới sinh bệnh. Nếu không bổ suy cho cơ thể các chất cần thiết đó, thì e rằng không chữa được phù thũng, nên tôi không dùng "Tự nhiên công", mà chỉ uống thuốc bổ, tăng lực.
    Kết quả là tôi bị sưng phù khắp thân thể, toàn thân láng bóng, hai mắt đỏ ngầu, khi nằm xuống thấy khó thở, đến nỗi phải nằm co rút mà thở hổn hển. Có một đêm bệnh tình xấu nhất, tôi nghe người chung quanh bàn nhau lo chuyện hậu sự cho tôi.
    Thấy cái chết trước mắt, tâm trạng tôi bỗng thay đổi hẳn. Tất cả các tạp niệm, vọng tưởng xưa nay vốn kéo níu tôi - dù đó là chuyện ân oán, xấu tốt, được mất, hy vọng, tính toán.. tôi đều không màng tới nữa. Mọi thứ như đám mây tan biến cả, chỉ còn lại hai việc, một là tìm cái sống trong cái chết bằng cách luyện "Tự nhiên công", hai là nếu vạn nhất có chết đi thì nguyện vãng sinh tịnh độ. Từ đó tôi vừa luyện công, vừa niệm Phật liên tiếp trong hai ngày. Lạ thay, bỗng nhiên tôi cảm thấy nội khí chuyển động, xông vỡ các mạch lạc, quan khiếu vốn tối tăm, lạnh lẽo, nặng nề do chứng phù thũng gây ra. Khí vận hành khắp châu thân. Rồi cứ cách khoảng vài giờ, tôi đi tiểu rất nhiều nước. Tôi hoàn toàn không uống thuốc, chích thuốc hay ăn uống chất dinh dưỡng nào cả. Trong tình trạng sinh hoạt tồi tệ nhất, chỉ có mười sáu ngày sau, chứng phù thũng của tôi đã dứt hẳn.
    Câu chuyện này đã làm các thầy thuốc ngạc nhiên. Riêng bản thân tôi có những nhận xét như sau. Khí công nhập tịnh là một phép tự chữa bệnh có tính chất toàn diện. Tác dụng chính của nó là "phù chính khử tà, bồi nguyên cố bản".
    Đứng trước cái chết, tôi đã vất bỏ tất cả các tạp niệm vọng tưởng mà chuyên tâm niệm Phật, lấy nhất niệm thay thế vạn niệm. Điều này không những làm cho võ não bớt đi sự tiêu hao năng lượng mà còn bị ức chế không ra lệnh lung tung nữa. Có người cho rằng luyện khí công có tác dụng dự trữ năng lượng, có lẽ do sự giảm tiêu hao năng lượng mà ra vậy.
    Trong trạng thái ức chế có tính chất bảo vệ vừa rộng vừa sâu của võ não làm cho các kích thích bên ngoài và bên trong cơ thể khó gây ra phản ứng dương tính, cắt đứt ảnh hưởng có hại cho người bệnh.
    Sự ức chế này còn xóa bỏ các quấy nhiễu của tình cảm như mừng, giận, lo, buồn, sợ hãi v.v... khiến võ não có thể phát huy tác dụng điều chỉnh lành mạnh ở bộ tư lệnh tối cao để khôi phục và duy trì sự cân bằng đối với các biến dộng do hoàn cảnh trong và ngoài cơ thể gây ra.
    Sự ức chế này còn làm cho trung khu dưới da được giải phóng công năng của thần kinh mang tính thực vật được khôi phục bình thường.
    Nhưng còn một vấn đề làm tôi băn khoăn là tại sao chứng phù thũng do thiếu dinh dưỡng lại đơn độc nhờ luyện công và niệm Phật mà chữa lành? Phải chăng do sự chuyên tâm trì chí, dốc hết tinh thần vào công việc mà "tinh thành sở chí kim thạch di khai" ? (lòng thành tới đâu, vàng đá vỡ tới đó). Đây không phải là phép thuật thần thông, mà chính là năng lực sinh lý tiềm tàng ai cũng có, được phát huy và bộc lộ ra. Trong nguy cấp, ta làm được những việc mà bình thường không sao làm nổi, đó là một điều mà ai cũng biết cả.
    Dùng tâm lý để tạo ảnh hưởng đến sinh lý không có gì là thần bí. Nó chính là tác dụng từ năng động chủ quan được con người ứng dụng vào tồn tại khách quan vậy. Bất cứ người bình thường nào khi đã trải qua một sự rèn luyện nhất định cũng làm được.
    Thể nghiệm của tôi là năng lực tiềm tàng của sinh lý trong cơ thể con người chỉ có thể phát huy, bộc lộ ra được trong trạng thái nhập tịnh của khí công và chuyên tâm quyết chí, dốc hết tinh thần vào đó. Mức độ phát huy của nó tỉ lệ thuận với mức độ nhập tịnh và chuyên chú.
    Từ đó về sau, tôi không uống thuốc hay chích thuốc nữa. Hai mươi năm trở lại đây, đối với các bệnh nặng hay nhẹ, tôi đều luyện công chữa trị, sức khỏe lại dồi dào. Trí nhớ, khả năng lý giải và năng lực vận dụng ngôn ngữ của tôi có phần phát triển.
    Đến nay, xương tôi vẫn thẳng, gân vẫn dẻo dai, lưng vẫn mềm, chân vẫn đi đứng tiện lợi, sắc mặt hồng hào, sức khỏe tốt hơn cả ba mươi năm trước.
    3. Tự chữa bệnh bằng khí công của y sĩ Mai Tự Cường
    Tôi mồ côi mẹ từ năm lên bốn. Cha tôi ở xa nên tôi phải sống nhờ bà ngoại. Bà rất nghèo, ngày hai bữa cơm cũng không đủ, nên cơ thể tôi phát triển không được tốt. Tôi gầy yếu như que cùi, lại bệnh hoạn luôn. Láng giềng cho rằng chắc chắn tôi sẽ chết yểu.
    May thay, vào năm 15 tuổi, tôi được chỉ dạy tập môn "Dưỡng sinh nội công" và đã tự lực tự cường luyện công không gián đoạn. Từ đó, tôi ăn thấy ngon, thể lực từ yếu chuyển thành mạnh, não bộ ngày càng phát đạt, tất cả được chuẩn bị tốt để vượt qua cuộc sống đầy gian khổ sau này.
    Vì tôi mồ côi, nhà nghèo nên chỉ học hết bậc sơ cấp tiểu học. Từ năm 11 tuổi, tôi phải đi học thí công nghề thuốc trung y. Vốn yếu đuối chậm chạp nên tôi thường bị sư mẫu ngược đãi. Trong thời gian học, tôi làm bếp, làm chuyện vặt vãnh, giữ em và luôn bị mắng chửi, đánh đập. Sọ đầu của tôi trở thành "chuông mõ" khi bị sư mẫu "tụng kinh". Lắm khi tôi bị đánh đến choáng váng, đầu óc mắt linh hoạt đến nỗi không đọc được truyện. Nhờ luyện công, tôi dần dần trở nên mạnh khỏe, bộ não phát triển.
    Đặc điểm của "Dưỡng sinh nội công" là giúp khí mạch được thông đạt tới chỗ "thân khí hữu dư". Thận khí có dư mới có thể "hoàn tinh bổ não", ích trí cường thân, dù tuổi già nhưng cơ năng vẫn tốt.
    Trong đợt chống hữu khuynh, tôi ở tù trong suốt 20 năm. Lúc đầu tôi tiêu ra máu, dần dần chuyển qua bệnh trĩ lậu, nung mủ và đau đớn dữ dội. Trong tù không cho phép luyện công, nên tôi chỉ còn cách âm thầm mặc khiếu, thủ khiếu. Bệnh kéo dài 4 năm, khi đời sống được thay đổi khá hơn thì tôi luyện công, kết quả bệnh lành mà không dùng thuốc.
    Bấy giờ tôi chỉ còn nặng có 35kg. Tôi lại bị nám phổi, viêm phổi. Cơn sốt cao kéo dài nhiều ngày. Tôi được đưa đi bệnh viện cách đó 15km, được tiêm 3 mũi thuốc vượng tim, lúc nguy kịch tôi vẫn mặc thủ huyền khiếu, và đã vượt qua cơn bệnh.
    Từ nám phổi sinh ra ho, tôi được tiêm thuốc trụ sinh, tai trái bị điếc. Ngoài 2 chân Bạch cập do gia đình gởi vào, tôi chỉ dựa vào luyện công mà chữa hết chứng điếc.
    Tôi còn bị đau thần kinh tọa, thấp khớp, phù thũng, đau dạ dày mạn tính, ngất xỉu và 2 lần bị trọng thương. Tất cả đều được chữa lành bằng luyện công. Điều này nói lên công pháp này lúc bình thường đã hữu dụng, lúc tai biến lại hữu dụng hơn.
    Đến nay 70 tuổi, tôi vẫn thừa sức khỏe, khí lực sung mãn. Tóc tuy bạc, nhưng vẫn ăn ngon, bước đi vững vàng, sắc mặt hồng hào, tinh thần phấn chấn.
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Y lý dưỡng sinh trị bệnh
    Nhiều huyền thoại về chùa Thiếu Lâm với những cao tăng phi phàm, đời sống thảnh thơi và thanh thoát. Trong một khung cảnh đầy kỳ hoa dị thảo, rêu xanh, lá biếc, muôn vẻ hữu tình như là một cảnh tiên tại thế.
    ***
    Nhàn du chưởng hưởng khí hạo nhiên
    Vách đá cheo leo suối dịu hiền
    Mặc khách ung dung tâm tự tại
    Sơn thanh thủy tú cảnh thần tiên.
    ***
    Thần tiên thanh cảnh an nhàn
    Suối mơ róch rách cá vàng nhởn nhơ
    Liên hoa trổ đóa thanh cao
    Xanh trong man mác mặt hồ lặng yên
    Hiu hiu gió thoảng dịu hiền
    Muôn hoa đua nở hồn nhiên khoe mầu
    Vàng xanh tím đỏ hồng đào
    Xa xa **** lượn bên cầu xinh tươi
    Mây trời lờ lững thảnh thơi
    Ao sen cá lội trăng rơi mặt hồ
    Trúc lâm cảnh đẹp như mơ
    Cao nhân hứng vịnh suối thơ dạt dào
    Kỳ hoa dị thảo thanh tao
    Chim kêu ríu rít anh đào trổ bông
    Siêu nhiên chưởng hưởng hồng mông
    Thanh thanh nhè nhẹ thoát vòng trần ai...
    ***
    Hòa trong siêu nhiên với một tâm hồn thanh thoát và một sức sống siêu phàm, các cao nhân đó đã để lại cho đời những tuyệt tác, những triết lý cao siêu mà ngày nay các nhà khoa học Tây Phương mới khám phá ra một nền siêu văn minh Á Đông đã có gần 5000 năm về trước. Như nguyên lý âm dương cấu tạo nên vật chất đã có từ hàng ngàn năm về trước được biểu trương bằng vòng tròn Thái Cực, ngày nay các nhà khoa học mới khám phá ra phần nhỏ nhất của vật chất là phân tử; phân tử được cấu tạo bởi nguyên tử; trong nguyên tử lại có âm điện (electron) chạy chung quanh hạt nhân nguyên tử. Trong hạt nhân nguyên tử lại có dương điện tử và trung hòa điện tử. Cùng với khoa châm cứu, điểm huyệt, thái cực quyền và dưỡng sinh khí công đã chữa lành những bệnh nan y bằng những phương pháp rất giản dị và thần kỳ của một nền triết học và y lý Đông Phương. Với những thành qủa hiển nhiên, việc luyện khí để dưỡng sinh và trị bịnh đã thực sự là một môn khoa học Á Đông mà các nhà khoa học Tây Phương cũng phải công nhận.
    Bệnh là do sự mất quân bình âm dương trong cơ thể, kinh mạch bị bế tắc, lục phủ ngũ tạng bị sơ thoái, nguyên khí bị tiêu hao do đời sống không điều độ, điều hòa, lo âu, hoặc suy nghĩ thái quá sinh tâm bệnh. Do đó, chỉ cần tái tạo sự trật tự, lập lại sự quân bình âm dương trong cơ thể, khai thông kinh mạch, bằng những bộ nội công và khí công, bồi bổ cho lục phủ, ngũ tạng, hòa với siêu nhiên để cho thần kinh và đầu óc được nghỉ ngơi, phục hồi được những năng lượng đã bị tiêu hao, bằng cách chưởng hưởng khí hạo nhiên, khôi phục lại nguyên khí mà do đời sống và những sinh hoạt xã hội hằng ngày làm tiêu hao, thì bệnh tự tiêu dứt.
    Trở lại núi Thiếu Lâm trong một phong cảnh yên lặng, thanh vắng vô cùng, trên các mỏm đá, dưới những gốc cây nơi các đạo sĩ hài đồng nét mặt an nhiên ân đức, trầm tĩnh ngồi nhắm mắt dưỡng thần, không vướng tà khí, sa;người ngời vẻ thiên chân. Đó là cách vận công chuyển khí đan điền, tâm rỗng tọa hư không, hết sức tự nhiên và dơn giản để luyện phép trường sinh hoặc dưỡng sinh trị bệnh. Đó là cách vận chuyển "huyền công", tâm rỗng tọa hư không, đó là cách xử dụng đạo hạnh tối thượng thừa, hết sức tự nhiên như viên ngọc qúi không chút bụi trần, tỏa chiếu hào quang sáng ngời.
    "Hạ tiêu" khí : người ta sống được là nhờ ở khí, nhờ cách vận chuyển khí đan điền để tâm lìa được hạ tiêu, trung tiêu (mạch dẫn khí nằm ở gần trong bao tử), thì sẽ không bị kinh sợ, không oán, không giận, ắt khí hòa thuận, bình yên, tâm trí trở nên trầm tĩnh, sáng suốt, đời sống tự nhiên có tiết độ, điều hòa, không thích ăn uống quá độ như xưa. Khi đường kinh mạch dẫn khí nằm ở phía trên bao tử được khai thông, thì khí thần được mãn túc, không ngủ nhiều, tâm hồn an toại, trong lắng, tỉnh táo, hòa cảm với hư vô, thấu hiểu nguyên lý mà đi đến chỗ huyền diệu.
    Vận chuyển khí đan điền cũng là để khai thông nhâm đốc và lục phủ ngũ tạng. Khi nhâm đốc và lục phủ ngũ tạng được khai thông, thì sức khỏe được dồi dào, không bệnh hoạn. Tâm trở nên ôn hòa, cởi mở, bác ái. Khí huyết thuận hòa thì trí huệ phát sinh sáng suốt và đi đến chỗ huyền vi, cao siêu mà người phàm khó có thể lường được.
    Nhiều người thường lầm tưởng là con nhà võ thì phải tập tạ để được vai u thịt bắp. Các vị sư Thiếu Lâm chỉ chuyên luyện gân khí, tâm và ý để khai thông kinh mạch hầu đi đến chỗ sáng suốt minh triết. Mượn cái động để trở về cái tịnh. Tâm không buồn rầu, lo âu, oán nghét, giận hờn, thì khí huyết được lưu thông điều hòa, cơ thể con người lập lại được quân bình. Từ đó, con người không bệnh hoạn và kéo dài được tuổi thọ, trí óc được minh mẫn và sáng suốt.
    Do đó con đường của Thiếu Lâm không phải là con đường của "Hữu dũng vô mưu" như nhiều người thường lầm tưởng. Mật lộ của Thiếu Lâm là con đường "Thừa võ hóa văn" chỉ dành cho những người có căn duyên thì mới có thể hiểu được đằng sau bức màn bí mật của nền võ đạo, y lý và triết học Á Đông với một nền siêu văn minh tiềm tàng và huyền bí mà ngày nay các giới khoa học Tây Phương cũng thầm thán phục và công nhận ngoài phạm vi kiến thức của họ.
    Mật thất của Thiếu Lâm cũng không khó tìm nhưng cũng không dễ đến. Chỉ cần hành giả có căn duyên, kiên nhẫn và bền chí thì việc vén bức màn bí mật của chùa Thiếu Lâm cũng không phải là việc khó làm.
    ***
    Trọng dụng công phu khi dưỡng bệnh
    Ngọc quang phản chiếu tạo quân bình
    Lui về tĩnh thổ minh thiên ý
    Vũ đạo khai tâm hữu chí tình.
    ***
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Phép dưỡng sinh của một số cổ nhân Trung Hoa
    1) Phép dưỡng sinh của Khổng Tử
    Vào thời Khổng Tử, tuổi thọ trung bình của người Trung Quốc là 30, riêng vị tổ của Nho gia thọ đến 73 tuổi. Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử nói rằng ở mỗi độ tuổi, con người ta có những yêu cầu khác nhau về dưỡng sinh.
    Sách Luận ngữ viết: ?oQuân tử có ba chặng đời. Niên thiếu huyết khí chưa định, tránh ''sắc''. Tráng niên huyết khí sung mãn, tránh ''đấu''. Có tuổi huyết khí suy nhược, tránh ''đắc''. Theo cách giải thích của Khổng Tử và vận dụng kinh nghiệm lâm sàng ngày nay, có thể diễn giải là:
    Tuổi thiếu niên cơ thể chưa phát triển đầy đủ, nên tránh sắc dục. Quan hệ ******** quá sớm sẽ làm tổn hại sinh lực, ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng bình thường.
    Tráng niên tránh ?ođấu?, theo giải thích của Khổng Tử là ?ođấu khí?, ?ođấu dũng?, ?ođấu thắng?, tóm lại là tránh cương cường hiếu thắng. Y học ngày nay xếp tính khí này vào nhóm hành vi hình A. Trong lâm sàng, người có hành vi hình A có tỷ lệ cao huyết áp rất lớn do thường xuyên sống trong tâm trạng căng thẳng.
    Người tráng niên cần chú ý điều tiết khí độ, nên nhớ câu ?otri túc thường lạc? (biết đủ thì thường xuyên vui vẻ) để tránh bệnh tật và tăng tuổi thọ.
    Còn ở người có tuổi, các chức năng cơ thể đã suy yếu, cả thể lực lẫn tinh lực đều suy giảm. Cần cảnh giác trước lòng tham muốn được thêm thứ mà mình đã được; vì điều đó dẫn đến tiếp tục lao tâm, lao lực, rất hại cho sức khỏe và tuổi thọ.
    2) Phép dưỡng sinh của Hoa Đà
    - Trường kì tập luyện -
    Hoa Đà sống ở thời Tam Quốc (Trung Quốc), là thầy thuốc trứ danh, cũng là một chuyên gia về dưỡng sinh. Tương truyền, lúc lâm chung, tai ông vẫn thính, mắt vẫn tinh, tóc không một sợi bạc! Học trò của ông là Ngô Phổ thọ cũng đến trăm tuổi.
    Hoa Đà chính là người nghiên cứu và sáng lập ra phép tập luyện phỏng theo tư thế của năm loài muông thú là hổ, hươu, gấu, khỉ, hạc, gọi là ?oNgũ cầm hý? (trò chơi của năm loại cầm thú).
    Vận động thân thể theo các động tác khác nhau của năm loài vật trên sẽ tác động tốt đến phủ tạng, giúp khí huyết toàn thân lưu thông, sống lâu vô bệnh, vì đã vận động được tất cả các bộ phận, các tổ chức trong cơ thể cùng một lúc. Y học Trung Quốc cho rằng ?oNgũ cầm hý? có tác dụng dưỡng sinh rất hiệu quả. Y học hiện đại cũng đã chứng minh ?oNgũ cầm hý? là bài thể dục dưỡng sinh cùng lúc làm vận động tất cả hệ thống gân, cơ cũng như tác động đến các tuyến nội tiết. Do đó, nó vừa nâng cao công năng của hệ gân cơ, vừa tăng công năng phủ tạng, làm tăng sự lưu thông của khí huyết, kích thích sự hoạt động của các cơ quan hô hấp, tiêu hóa, bài tiết, các tuyến nội tiết...
    ?oNgũ cầm hý? không đơn thuần là bài tập dưỡng sinh hay thể dục, mà là một bài luyện khí công cao cấp. Trong bài luyện khí công này, Hoa Đà kết hợp nhịp nhàng giữa vận động gân cơ với luyện thở, lấy khí công dẫn dắt các cơ quan nội tạng, điều hòa trạng thái hoạt động cho cân bằng, khiến cơ thể tráng kiện, như trẻ lại, kìm chế quá trình lão hóa. Các thuật dưỡng sinh đời sau dựa trên nguyên tắc ?oThái cực?, ?oHình ý?, ?oBát quái?, xét về nguyên lý đều phù hợp với thuật ?oNgũ cầm hý? của Hoa Đà.
    3) Phép dưỡng sinh của Tô Đông Pha
    Tô Đông Pha (đại văn hào của Trung Quốc đời Tống) là tác giả các sách ?oQuyết luận về phép dưỡng sinh sống lâu, thanh thản?, ?oVấn dưỡng sinh?... Đó không chỉ là những phép dưỡng sinh hợp với tuổi tráng niên mà còn hợp với tuổi già để giữ cho cơ thể tráng kiện, đầu óc sáng suốt. Trong sách ?oLuận trà?, ông cho rằng trà trừ bệnh về răng lợi. Sau mỗi bữa ăn nên nhấp trà đặc, sẽ trừ được chứng viêm lợi, làm chắc răng.
    Tô Đông Pha có thói quen dùng lược chải trên da thịt để tăng sức khỏe và xoa chân (được ông coi là bảo bối quan trọng nhất). Mỗi ngày trước khi ngủ và sáng dậy, ông đều ngồi trên giường, nhắm mắt, co từng bàn chân đặt lên đầu gối chân kia, dùng lòng bàn tay xoa mạnh gan bàn chân mỗi bên chừng 200 lượt. Y học ngày nay chứng minh việc xoa gan bàn chân có thể góp phần trị được nhiều bệnh như thiếu máu, tiểu đường, yếu sinh lý, đau lưng...
    Ông tự giữ nghiêm ngặt chế độ sinh hoạt điều độ, tiết chế ẩm thực, ?omỗi bữa không dùng quá một chén rượu, một miếng thịt?; coi trọng phương châm sống lạc quan, ham vận động. Cuộc đời Tô ba chìm bảy nổi, mấy lần bị hạ ngục, vậy mà trong ngục ông vẫn tập luyện đều đặn, giữ tâm trí thảnh thơi, tinh thần sáng suốt. Lúc gặp cảnh đời bất đắc chí nhất, Tô vẫn không hề buồn chán, sa đà rượu chè. Trái lại, ông ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn danh thắng cổ tích, giữ được cả sức khỏe thể chất lẫn tinh thần
    4) Phép dưỡng sinh của vua Càn Long
    Vua Càn Long nhà Thanh ( Thanh Cao Tôn, Ái Tân Giác La Hoằng Lịch, ở ngôi 1736-1796 ) làm vua 60 năm, thêm vào ba năm làm Thái Thượng Hoàng tham gia triều chính, thực tế cầm quyền 63 năm lẻ 4 tháng. Vua Càn Long thọ gần 90 tuổi, là nhà vua cầm quyền lâu nhất trong các triều đại phong kiến Trung Quốc. Làm sao ông sống lâu để trị vì đất nước lâu đến như vậy? Gần đây con cháu các vị ngự y triều Thanh dựa vào di bút ông cha để lại đã giải đáp được nghi vấn trên. Tất cả chỉ gói gọn trong mật quyết vỏn vẹn 16 từ đơn giản: " Thổ nạp phế phủ, Hoạt động gân cốt, Thập đường tứ vật, Thích thời tiến bổ " ( Hít thở phế ( phổi, phủ, tạng), Hoạt động gân cốt, mười thường bốn cấm, Tùy thời thêm bớt ).
    Thổ nạp phế phủ: Hàng ngày dậy sớm lúc rạng sáng, ra chỗ không khí thoáng đãng trong lành, hít không khí trong sạch sâu vào tận phế phủ và thở hết kông khí bẩn ở trong người ra ngoài để thúc đẩy cho thân, tâm đều được mạnh mẽ.
    Hoạt động gân cốt: Chú trọng rèn luyện thân thể để tăng cường năng lực chống chọi bệnh tật. Quanh năm ngày tháng phải kiên trì vận động cơ thể đề đặn. Cho đến tận cuối đời vua Càn Long vẫn còn đi săn bắn tiêu khiển.
    Mười thường, bốn cấm: Mười thường là mười bộ phận của cơ thể phải thường xuyên hoạt động hàng ngày. Đó là: răng thường gõ, dãi thường nuốt, tai thường bật, mũi thường thóp, mắt thường liếc, mặt thường xoa, chân thường sát, bụng thường xoay, chân tay thường duỗi, hậu môn thường nâng. Bốn cấm là bốn việc phải thường xuyên cấm kỵ hoặc hạn chế: ăn cấm nói, nằm không mở lời, uống cấm say, sắc cấm mê mệt.
    Tuỳ thời thêm bớt: Người ta khi tuổi càng cao việc chuyển hóa thay đổi chất của các cơ năng ngày càng suy giảm, phải tuỳ thời điểm mà tăng mà bớt các thức ăn, uống thích hợp với tuổi tác để luôn mạnh khoẻ kéo dài tuổi thọ.
    Là một vị vua quyền uy ngang trời, xuong quanh đầy thứ ăn ngon mặc đẹp, tửu sắc đầy dẫy, nhưng vua Càn Long đã biết coi trọng đạo dưỡng sinh, biết tuỳ ngộ nhi an ( tuỳ theo hoàn cảnh, giữ cho yên lành ) nên suốt đời nhà vua luôn khoẻ mạnh, sống gần 90 tuổi vận xử lý việc triều chính bình thường. Đạo dưỡng sinh của vua Càn Long cũng đáng để người đời sau tham khảo và nghiên cứu ứng dụng.
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Xử lý chấn thương thông thường trong thể thao
    Khi bị chấn thương phần mềm, bệnh nhân không được chườm nóng hay kéo, nắn trong 2 ngày đầu. Chườm nóng làm máu chảy nhiều hơn; kéo nắn làm tổn thương bị nặng thêm, thậm chí có thể gây đứt cơ hoàn toàn và bầm dập mô xung quanh. Kết quả là tổn thương viêm tăng lên, vết thương lâu lành và sẹo bị xấu.
    Trong sinh hoạt thể dục thể thao, có thể xảy ra các chấn thương ở cơ, gân và dây chằng. Do mức độ tổn thương nhẹ nên bệnh nhân có thể tự chăm sóc vết thương tại nhà.
    Bác sĩ Vương Huy Đồng, Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP HCM, cho biết, chấn thương cơ bắp có thể chia làm 3 mức độ:
    1. Giãn cơ: Là tổn thương cơ dạng nhẹ do dây chằng, gân, cơ bị kéo giãn. Số lượng bó sợi cơ bị đứt là dưới 25%. Ngay lúc bị chấn thương, người bệnh thấy đau nhói ở vùng gân cơ. Sau ít phút, cảm giác đau giảm và vùng bị tổn thương sẽ sưng nhẹ. Khi đó, dây chằng bị tổn thương buộc bệnh nhân phải ngừng hoạt động; nếu tiếp tục vận động, máu sẽ tụ lại nhiều, không có lợi cho việc điều trị sau đó.
    2. Rách cơ: Số cơ bị rách chiếm 25-75% bó sợi. Xuất hiện vết bầm do các sợi cơ bị đứt nhiều hơn. Bệnh nhân có thể nghe tiếng "bựt" hay "rắc" tại chỗ bị thương, có cảm giác đau dữ dội và phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Khớp có thể bị mất độ vững.
    3. Đứt cơ: Số cơ bị rách chiếm trên 75% bó sợi, có khi đứt hoàn toàn làm máu bầm tụ nhiều ngày sau đó, khớp sưng nhiều và trở nên lỏng lẻo. Bệnh nhân có thể bị trật khớp và hoàn toàn không hoạt động được.
    Với chấn thương phần mềm, việc xử lý ban đầu đúng cách là rất cần thiết, giúp chỗ tổn thương ổn định và mau lành. Việc sơ cứu gồm 4 bước:
    - Nghỉ ngơi: ngay sau khi bị chấn thương, cần ngưng tập luyện hoặc thi đấu. Có thể giữ vùng bị thương bằng nẹp cố định trong 1-3 ngày đầu.
    - Chườm lạnh: Mục đích để phòng ngừa biến chứng, không gây tụ máu hay chảy máu. Dùng túi đá ướp chườm lạnh ngay tại chỗ 10-15 phút, mỗi lần cách nhau khoảng 1 giờ, lặp lại nhiều lần trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1-3 ngày đầu sau khi bị thương. Không nên chườm một lần quá lâu hoặc chườm lạnh trực tiếp vì da sẽ bị bỏng.
    - Băng ép: Mục đích là làm giảm chảy máu, sưng bầm và đau nhức. Dùng băng thun quấn ép dưới vùng tổn thương, những vòng đầu phải quấn chặt, sau đó lỏng dần.
    - Kê cao vùng bị thương: Giúp máu trở về tim tốt hơn; làm giảm sưng, đau và viêm. Đặc biệt có thể kê cao chân 10-15 cm trong 1-3 ngày đầu. Tuy nhiên, không nên kê cao quá so với tim.
    Khi bị chấn thương, bệnh nhân có thể dùng thuốc giảm đau, nhưng tuyệt đối không nên xoa các loại dầu nóng. Nhiều người làm vậy vì lầm tưởng loại thuốc mà các vận động viên được xịt khi bị chấn thương là dầu nóng. Thực ra, đó là một loại khí lạnh dễ bốc hơi, có công dụng giống như chườm lạnh.
    Khi bị chấn thương, bệnh nhân không được chườm nóng hoặc xoa bóp. Việc chườm nóng khiến máu chảy nhiều hơn, còn xoa bóp lại khiến các dây chằng bị xơ chai, mất đi độ đàn hồi. Chúng sẽ trở nên yếu hơn và dễ chấn thương trở lại khi có những cử động hơi mạnh.
    Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị được 2-3 ngày. Lúc này, họ có thể tập luyện nhẹ nhàng (khoảng 50% sức), và tăng từ từ để cơ thể dễ thích nghi. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn, bệnh nhân nên đến khám ở các bệnh việc chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này