1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Phép dưỡng sinh của Càn Long & Hoa Đà!

    Phần đông các ông vua trong lịch sử đều rượu chè, trụy lạc nên tuổi thọ rất ngắn. Nhưng vua Càn Long đời Thanh (Trung Quốc) thọ tới 89 tuổi. Bí quyết của ông là suốt đời thực hiện nghiêm ngặt thuật dưỡng sinh ?o10 điều thường trực?.
    Mười điều dưỡng sinh trên có thể diễn đạt vắn tắt là:
    Răng thường đánh: Hai hàm răng đánh vào nhau thành tiếng. Đó là cách luyện cơ chân răng, giúp răng bền chắc, tránh các bệnh về nha khoa, răng khó rụng. Nó cũng giúp cả cơ mặt hoạt động, góp phần làm tăng lưu thông máu lên não...
    Bọt thường nuốt: Vì nước bọt giúp điều hòa dịch vị, tăng khả năng hấp thụ thức ăn, tránh được bệnh viêm loét dạ dày cũng như nhiều bệnh đường tiêu hóa...
    Tai thường rung: Hai bàn tay áp vào hai tai, vỗ nhẹ liên hồi; hoặc hai ngón tay nút vào hai lỗ tai rồi rút mạnh ra, cứ thế liên tiếp nhiều lần. Như thế, màng nhĩ thường được rung, tránh được trạng thái chùng màng nhĩ khi có tuổi, khiến cho tai thính cả lúc tuổi già.
    Mũi thường vuốt: Hai bàn tay xát nóng, vuốt hai bên mũi nhiều lần, có thể phòng cảm mạo, viêm mũi.
    Mắt thường đảo: Ngưng mắt nhìn xa, đảo nhãn cầu nhiều lần, tiếp đến lại ngưng mắt chăm chú, rồi lại đảo nhãn cầu. Luyện tập như thế giúp tăng thị lực, phòng được các chứng hoa mắt, suy giảm thị lực...
    Mặt thường xát: Hai bàn tay xoa vào nhau cho nóng lên rồi xoa mặt nhiều lần. Xoa mặt làm tăng lưu thông huyết dịch ở mặt, tránh hoặc giảm được nếp nhăn, lại có thể phòng các bệnh về da mặt.
    Chân thường vuốt: Thường xoa vuốt chân từ bàn chân tới đùi, có thể làm giảm tình trạng đọng máu, phòng được nhiễm lạnh cơ thể từ chân, nên tránh được các bệnh ở chân cũng như chứng mất ngủ...
    Bụng thường xoa: Dùng bàn tay xoa trên vùng bụng, giúp dạ dày, ruột được vận động nhẹ, tăng khả năng tiêu hóa, ăn ngon miệng, phòng được các chứng chướng bụng, bí trung tiện...
    Chi thường duỗi: Tứ chi thường co vào duỗi ra nhiều lần, có thể giúp khí huyết toàn thân lưu thông, phòng được các chứng thiểu năng tuần hoàn não cũng như các chứng về mạch...
    Hậu môn thường động: Mỗi ngày dành vài lần tập trung tinh thần làm co duỗi hậu môn, có thể phòng được viêm tuyến tiền liệt cũng như các bệnh đi lỏng mãn tính...
    Hoa Đà: Trường kỳ tập luyện
    Hoa Đà sống ở thời Tam Quốc (Trung Quốc), là thầy thuốc trứ danh, cũng là một chuyên gia về dưỡng sinh. Tương truyền, lúc lâm chung, tai ông vẫn thính, mắt vẫn tinh, tóc không một sợi bạc! Học trò của ông là Ngô Phổ thọ cũng đến trăm tuổi.
    Thời trẻ, có lần lên núi hái thuốc, khi lên đến lưng chừng núi, Hoa Đà phát hiện một cái hang; trong có hai vị tiên râu dài tóc bạc đang bàn luận y học. Ông đứng ngoài hang nghe và nhớ nhập tâm. Hai vị tiên về sau không những truyền lại cho ông y thuật cao siêu mà còn dạy phép tập luyện phỏng theo tư thế của năm loài muông thú là hổ, hươu, gấu, khỉ, hạc, gọi là ?ongũ cầm hý? (trò chơi của năm loại cầm thú).
    Vận động thân thể theo các động tác khác nhau của năm loài vật trên sẽ tác động tốt đến phủ tạng, giúp khí huyết toàn thân lưu thông, sống lâu vô bệnh, vì đã vận động được tất cả các bộ phận, các tổ chức trong cơ thể cùng một lúc. Y học Trung Quốc cho rằng ?ongũ cầm hý? có tác dụng dưỡng sinh rất hiệu quả. Y học hiện đại cũng đã chứng minh ?ongũ cầm hý? là bài thể dục dưỡng sinh cùng lúc làm vận động tất cả hệ thống gân, cơ cũng như tác động đến các tuyến nội tiết. Do đó, nó vừa nâng cao công năng của hệ gân cơ, vừa tăng công năng phủ tạng, làm tăng sự lưu thông của khí huyết, kích thích sự hoạt động của các cơ quan hô hấp, tiêu hóa, bài tiết, các tuyến nội tiết...
    ?oNgũ cầm hý? không đơn thuần là bài tập dưỡng sinh hay thể dục, mà là một bài luyện khí công cao cấp. Trong bài luyện khí công này, Hoa Đà kết hợp nhịp nhàng giữa vận động gân cơ với luyện thở, lấy khí công dẫn dắt các cơ quan nội tạng, điều hòa trạng thái hoạt động cho cân bằng, khiến cơ thể tráng kiện, như trẻ lại, kìm chế quá trình lão hóa. Các thuật dưỡng sinh đời sau dựa trên nguyên tắc ?othái cực?, ?ohình ý?, ?obát quái?, xét về nguyên lý đều phù hợp với thuật ?ongũ cầm hý? của Hoa Đà.


  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Bát đoạn cẩm - bài khí công giúp tăng tuổi thọ
    Bát Đoạn Cẩm là bài tập khí công của phái Thiếu Lâm đã có từ hơn 1.000 năm nay ở Trung Quốc; có tác dụng phòng trị bệnh cho cả người già lẫn người trẻ, người ốm lẫn người bình thường. Gần đây, nó đã được phổ biến ở TP HCM và Huế.
    Từ bài Bát Đoạn Cẩm nguyên gốc, các ?ođại sư? khí công của Sở Thể dục thể thao Bắc Kinh nghiên cứu chuyển thể ra bài tập quốc tế đơn giản gồm 8 động tác luyện khí ở gân cân cơ, giúp làm thông các kỳ kinh bát mạch trong cơ thể, gia tăng khí lực, đạt đến sự trường thọ không bệnh tật. Bài tập đã thu hút được hàng triệu người trên khắp thế giới tham gia.
    Khác hẳn bài Bát Đoạn Cẩm nguyên gốc, bài Bát Đoạn Cẩm quốc tế dễ tập, có cách thở đơn giản hơn và đi theo trường phái dưỡng sinh trường thọ. Nó không có tác dụng phụ, dễ truyền bá cho đông đảo quần chúng và đạt hiệu quả cao trong việc bảo vệ sức khỏe. Mỗi động tác đều mang những tác dụng thực tiễn.

    Động tác 1.
    1. Hai tay chống trời điều lý cả vùng Tam tiêu

    Tam tiêu gồm Thượng tiêu (não, hệ tuần hoàn, hô hấp), Trung tiêu (hệ tiêu hóa), Hạ tiêu (hệ tiết niệu - sinh dục). Luyện thông kinh Tam tiêu có tác dụng giúp ăn ngon, ngủ yên, trí tuệ minh mẫn, cơ thể cường tráng, mọi suy yếu sinh lý - sinh dục được điều chỉnh; trẻ em mau lớn, phát triển khả năng học toán; trí tuệ thanh thản, không lười biếng, linh động hơn.
    - 2 tay đưa lên: hít vào, điều khí đến cả vùng Tam tiêu từ huyệt Bách hội ở đỉnh đầu đi xuống gáy và đi lên sau tai, lên đuôi lông mày 2 bên. Phải nhón chân lên.
    - 2 tay đưa xuống về 2 bên đùi: thở ra, cong 2 ngón chân cái lên để kích thích các huyệt thuộc kinh Đại tràng và nhóm kinh dương trước cẳng chân.


    Động tác 2.
    2. Tay trái, phải dương ra như bắn cung

    Tác dụng: Làm mạnh 2 cánh tay, cứng cáp đôi chân; thông kinh Đại tràng gồm 20 huyệt từ đầu ngón tay trỏ tới cánh mũi; trị táo bón, tê bại, phong thấp nhức gân, khớp xương; liệt nhẹ nửa người.
    - Tay đưa ra bắn cung: hít vào.
    - Tay đưa chéo về lại trước ngực: thở ra.


    Động tác 3.
    3. Điều hòa tỳ vị, một tay đẩy lên

    Tác dụng: Dùng luyện khí, lưu thông 2 kinh tỳ, vị (dạ dày và lá lách). Giúp ăn ngon, ngủ được, mau đói, đại tiểu tiện thông suốt.
    - Một tay đưa lên đầu, một tay ấn xuống bên hông trái: hít vào.
    - 2 tay lật lại đưa về ngang chấn thủy: thở ra.


    Động tác 4.
    4. Liếc nhìn phía sau, xua đi sự hao mòn sức khỏe

    Tác dụng: Chủ luyện hệ thần kinh, đưa máu đầy đủ lên não.
    - Đầu quay qua một bên và 2 bàn tay đưa ra 2 bên đùi: hít vào.
    - Đầu trở về vị trí như cũ và 2 tay đưa lên bụng: thở ra.


    Động tác 5.
    5. Lắc đầu vẫy đuôi, xua hết tính nóng nảy

    Tác dụng: Làm tăng lượng máu lưu thông, mất tính nóng nảy vì thiếu máu.
    Động tác:
    - Đầu nghiêng qua một bên: hít vào.
    - Đầu trở về vị trí cũ ở ngay giữa: thở ra.


    Động tác 6.
    6. Phía sau giẫm gót bảy lần, trăm bệnh tiêu tan

    Tác dụng: Kích thích quan trọng 2 kinh nhâm và đốc (đường đi giữa trước và sau thân), tăng sinh lực, hồi sức, giúp thân thể cường tráng.
    - Nhón chân lên, 2 tay ấn xuống: hít vào.
    - Hạ chân xuống, 2 tay đưa lên: thở ra. Động tác này làm tối thiểu 30 lần.
    - Nhón chân lên cao và chạm mạnh gót chân xuống đất: thở bình thường. Tối thiểu làm 100 lần.


    Động tác 7.
    7. Nắm chặt tay, trợn mắt tăng khí lực

    Tác dụng: Làm tăng khí lực do tay chân và thân eo liên lạc với nhau.
    - Tay thủ ở hông: hít vào.
    - Tay đấm ra: thở ra; rồi ở tư thế này hít vào và tay kia đấm ra và thở ra.


    Động tác 8.
    8. Hai tay phang xuống chân, bền thận và giữ eo

    Tác dụng: Lưu thông mạch nhâm - đốc và thận kinh; giúp gân cốt mềm mại, dẻo dai, tủy sống được săn sóc, tinh thần vui vẻ sảng khoái; bổ thận tráng dương.
    - Thân đưa từ dưới lên và ưỡn ra sau: hít vào.
    - Thân cúi xuống, vuốt 2 chân: thở ra.
    Bài khí công Bát Đoạn Cẩm rất hiệu quả với bệnh đốt sống cổ dạng động mạch hoặc u tủy, bệnh mạch vành, đau lưng - đùi, rối loạn chức năng dạ dày - ruột, chán ăn...
    Lưu ý:
    - Bài tập trên không thích hợp cho người đang bệnh nặng.
    - Vận dụng bài tập trên cần thuộc lòng, đồng thời phải kiên trì, nếu không sẽ không đạt hiệu quả như ý.
    - Nếu dùng trong điều trị bệnh, có thể kết hợp với các liệu pháp khác.
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Bài khí công ''Hạc trắng gọi mặt trời''
    Bạch hạc hoán dương (hạc trắng gọi mặt trời) là bài khí công dưỡng sinh đơn giản nhất của các tăng ni chùa Thiếu Lâm. Bài tập này đã có từ ngàn xưa, dùng để luyện tập cơ bản mỗi buổi sáng nhằm điều khí, dưỡng thân và định thần, tăng cường tuổi thọ.
    Bài khí công này tuy ngắn, chỉ có 4 thế nhưng bao gồm tất cả các động tác thăng, giáng, khai, hợp; làm cho khí huyết toàn thân hoạt động. Nếu muốn đạt đến mức độ cao nhất của khí công, dù bạn đã tập luyện thành thục đi nữa cũng phải an định thân tâm, hòa đồng vũ trụ.
    Sau đây là cách tập đơn giản và tiết kiệm thời gian nhất, có thể thực hành mỗi buổi sáng: Hít vào bằng mũi, bụng dưới phình (đan điền). Thở ra bằng mũi, hóp bụng tối đa, thời gian hít vào bằng thời gian thở ra.
    Thế 1: Đứng nghiêm, thả lỏng toàn thân, 2 chân đứng dạng ra bằng vai, 2 tay buông thõng ép sát 2 bên đùi. Thở tự nhiên.
    Thế 2: a. Lật ngửa 2 bàn tay và đưa thẳng ra trước ngang vai; hít vào bằng mũi từ từ và sâu.
    b. Cúi xuống đưa 2 tay sát đất, 2 mũi bàn tay hướng vào nhau, lòng bàn tay hướng lên: thở ra bằng mũi sâu. Hai chân thẳng chứ không được cong.
    Thế 3: a. Từ từ nhấc người và vai lên cho đến lúc 2 bàn tay ngang đầu gối (chỉ có vai cử động), hít vào bằng mũi.
    b. Vai hạ xuống, 2 tay lại đưa xuống sát đất (chân vẫn thẳng không được cong), thở ra bằng mũi giống động tác 3.
    Đưa lên xuống và thở hít như thế 3 lần.
    Thế 4: a. Đưa 2 tay từ ngoài lên cao quá đầu, 2 tay thẳng như chữ V đưa ra 2 bên; hít vào bằng mũi.
    b. Nắm 2 bàn tay lại đưa xuống ngang vai, lòng bàn tay úp vào 2 vai, từ từ mở bàn tay ra, từ 2 vai đưa thẳng xuống sát 2 bên hông, tay thẳng; thở ra bằng mũi, ngực ưỡn vai thả lỏng.
    Chú ý: Có thể tập nhiều lần tùy sức, thả lỏng càng nhiều càng tốt. Động tác thật chậm rãi và hơi thở sâu từ từ, không gấp gáp như tập thể dục hoặc thể thao.
    Sau khi tập xong, phải thở xả nhiều lần để trả nợ oxy (nợ rất ít): Hít vào bằng mũi phình bụng, thở ra bằng miệng thóp bụng, thời gian thở ra gấp đôi thời gian hít vào.
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Bí quyết sống lâu
    Để có tuổi thọ cao, chúng ta có hai vấn đề cần chống: mỡ máu cao khiến tim dễ ngừng đập và huyết áp cao. Phải: 1. Ăn uống cân bằng, 2. Vận động có oxy, 3. Có trạng thái tâm lý tốt
    1. Ăn uống cân bằng:
    Uống:
    a/ Trà xanh có chất trà đa phân có khả năng chống ung thư cộng flour làm bền răng, tiêu diệt vi khuẩn, chữa được sâu răng, chất trà cam ninh nâng cao độ bền huyết quản, làm cho huyết quản và mạch máu não khó bị vỡ; chống bức xạ.
    b/ Rượu vang đỏ: Trong vỏ quả nho có chất nghịch chuyển thuần, tác dụng chống suy lão, chống oxy hóa, chống bệnh tim, phòng tim ngừng đập đột ngột (đột quỵ), ngoài ra rượu vang đỏ còn làm hạ huyết áp, hạ mỡ máu, nhưng với rượu vang đỏ, mỗi ngày cũng không được uống quá 50 - 100 cc, cần lưu ý: ăn quả nho đỏ chỉ rửa sạch và ăn cả vỏ, nho trắng và rượu trắng không có tác dụng trên mà còn gây chứng làm đặc máu; với rượu trắng, mỗi ngày không được uống quá 5 - 10 cc.
    c) Sữa đậu nành có chứa đường quả khiến cơ thể có thể hấp thụ 100%, ngoài ra còn kali, magnesium, calci (hàm lượng calci nhiều hơn trong sữa bò), chất dị hoàng đồng chữa ung thư vú, ung thư trực tràng, ung thư kết tràng; theo giáo sư, muốn phòng chống ung thư, nhất thiết phải uống sữa đậu nành.
    d) Sữa chua: Duy trì cân bằng vi khuẩn.
    e) Canh xương có chất uyển giao tốt cho cơ thể.
    f) Canh nấm: Nâng cao khả năng miễn dịch.
    Ăn:
    a) Cốc:
    + Đặc biệt là ngô, còn được gọi là cây vàng vì trong ngô già có nhiều chất noãn ân chi, á dụ toan, cốc vật thuần, vitamin E chống cao huyết áp, xơ vữa động mạch (giáo sư Tề Quốc Lực sống ở Mỹ, rất khỏe, tuy đã trên 70 tuổi giọng nói vẫn vang vang, mặt không có nếp nhăn là do giáo sư kiên trì ăn cháo ngô 6 năm liền). Người Mỹ nguyên thủy, người da đỏ không bị cao huyết áp và xơ vữa động mạch là do họ ăn ngô.
    + Kiều mạch: ba hạ: huyết áp cao, mỡ máu cao, đường máu cao. Kiều mạch còn có 18% xenluylo khiến người ăn kiều mạch không bị viêm dạ dày, viêm đường ruột, chống ung thư trực tràng, ung thư kết tràng.
    + Các loại khoai: Khoai lang trắng, khoai lang đỏ, khoai tây, củ từ, chúng có 3 tác dụng - hấp thụ nước, làm trơn đường ruột khiến không bị ung thư trực tràng, ung thư kết tràng - hấp thụ mỡ và đường khiến không bị đái tháo đường - hấp thụ độc tố chống viêm dạ dày, viêm đường ruột.
    + Yến mạch: Làm hạ huyết áp, hạ mỡ máu.
    + Kê: Tác dụng: trừ thấp, kiện tỳ, trấn tĩnh, ngủ ngon. Không nên dùng thuốc an thần (ít nhiều đều có độc), thay vào đó nên ăn kê.
    + Đậu nành: Nhiều prôtêin, prôtêin của 1 lạng đậu nành bằng 2 lạng thịt nạc, bằng 3 lạng trứng gà, bằng 4 lạng gạo. Đậu nành là hoa của dinh dưỡng, là vua các loại đậu, trong đậu nành có chất dị hoàng đồng, tác dụng phòng, chống ung thư tuyến vú, ăn sáng bằng sữa đậu nành và óc đậu rất tốt.
    b) Rau:
    - Rau xanh: Chống bức xạ, trong đó:
    Cà rốt: Có tác dụng dưỡng mắt, chống quáng gà, bảo vệ niêm mạc, dưỡng tóc, dưỡng da, dưỡng niêm mạc, ăn cà rốt nhiều ít bị cảm, nó còn chống bức xạ.
    Bí đỏ: Kích thích tế bào tụy sản sinh ra insulin, thường xuyên ăn bí đỏ không bị đái tháo đường.
    Mướp đắng: Tiết ra insulin, thường xuyên ăn mướp đắng không bị đái tháo đường.
    Cà chua: Ăn cà chua sẽ không mắc ung thư nhưng cà chua ăn sống không có tác dụng; phải đun nóng cà chua mới tách ra được chất chống ung thư, vì vậy hãy ăn cà chua theo kiểu xào với trứng, nấu canh cà chua hay ăn canh trứng gà cà chua.
    Tỏi: Là vua chống ung thư. Tỏi không được ăn nóng vì hết tác dụng. Phải thái nhánh tỏi thành từng lát, để từng lát trong không khí độ 15 phút, kết hợp với oxy, tỏi mới phát sinh ra chất tỏi hay đại toán tố chống ung thư.
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Danh sách 72 công phu của võ Thiếu Lâm
    Võ Thiếu Lâm được tương truyền là có 72 công phu sau:
    Thiết tý công
    Bài đả công
    Thiết tảo công
    Túc xạ công
    Cước thích công
    Đồng sa chưởng (Trúc Diệp thư)
    Xà hành thuật
    Đề thiên cân
    La Hán công
    Thiết đầu công
    Tứ đoạn công
    Thiết bố sam công
    Song tỏa công
    Thượng quán công
    Thạch tỏa công
    Thiết châu đới
    Thiên cân sạp
    Tiên kình pháp
    Phân thủy công
    Ngọc đới công
    Ưng dực công
    Khiêu việt pháp
    Bá vương chừu
    Nhất chỉ kim cương pháp (Đại lực kim cương chỉ)
    Bạt đinh công
    Nhất chỉ thiên công
    Thạch trang công
    Kim chung tráo
    Thiết ngưu công
    Toàn phong chưởng
    Ngọa hổ công (Phục hổ công)
    Bạt sơn công
    Kim long thủ (Hợp bàn chưởng)
    Thôi sơn công (Thôi sơn chưởng)
    Thích mộc trang (Thích tranh công)
    Ưng trảo công
    Trảm ma kiếm
    Huyền không quyền
    Kim sa chưởng
    Thiết sa chưởng
    Phi hành công
    Thương đao bất nhập pháp
    Ngũ độc truy sa chưởng
    Phi đảm tẩu pháp
    Nhất tuyến xuyên
    Thoãn tung thuật
    Kim sản chỉ
    Yết đế công
    Mai hoa trang
    Niêm hoa công
    Đường lang trảo
    Bao bản công
    Thiểm chiến pháp
    Kim đao hoàn chưởng công
    Khinh thân thuật
    Thiết tất công
    Lục địa phi hành thuật
    Xuyên liên công
    Lăng lý toản
    Điểm thạch công
    Tỳ bà công
    Nhu cốt công
    Bích hổ du tường thuật
    Môn đang công
    Phân đằng thuật
    Bố đái công
    Cáp mô công
    Thiên tầng chỉ công
    Đan tử quyền
    Tỏa chỉ công
    Truy phong chưởng
    Nguyễn huyền công
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Hỏi: Làm thế nào để có thể tự học được võ thuật?

    Trả lời:
    Nội dung võ thuật khá phong phú, bao gồm: quyền thuật, binh khí, đối kháng, đối luyện?.Người tập có thể tùy theo sở thích và điều kiện của mình để chọn lựa một môn võ thuật hoặc một vài nội dung để tập luyện. Nhưng luyện võ phải cần có phương pháp đúng.Người mới tập thì bắt buộc phải tập cơ bản công, sau đó mới tập các bài quyền, tiếp theo là đến binh khí, theo thứ tự từ dễ đến khó. Trong quá trình tập phải chú ý một điều là không được tham nhiều, mà cần tập đi tập lại nhiều lần cho nhuần nhuyễn, ghi nhớ đầy đủ. Sau đó mới học bài tiếp theo. Giai đoạn cuối cùng là áp dụng vào đối kháng, thực chiến.
    Người tự học cũng cần chú ý thêm một số điểm sau đây:
    1) Nắm rõ phương hướng di chuyển của mỗi động tác, dựa theo phương hướng của hình vẽ trong tài liệu làm chuẩn.
    2) Hiểu được lộ tuyến của bài quyền từ khi khởi thức đến khi thu thức. Điều này nên căn cứ theo các hướng mũi tên chỉ dẫn ở từng hình vẽ động tác.
    3) Đọc hiểu lời văn chỉ dẫn trong tài liệu đối với từng động tác. Cần lưu ý đến hàm nghĩa tên gọi của của động tác và những yếu lĩnh, yêu cầu đối với động tác.
    4) Lập một nhóm gồm từ 2-3 bạn tập cùng nhau. Khi tập một người cầm sách đọc hướng dẫn, một người tập, còn người kia thì sửa. Ngoài ra cũng cần phải tích cực xem biểu diễn võ thuật, các cuộc thi đấu hoặc băng đĩa hình để tham khảo thêm thực tế.

  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    NGUỒN GỐC:
    Theo truyền thuyết, vào thời thượng cổ, tại Ấn Ðộ, phần đông dân bản xứ và các tu sĩ rất hâm mộ luyện tập môn võ tay, được gọi là "Cửu Long". Mãi đến thời Phật lịch, trên đường du hành truyền bá Phật pháp, các thiền sư Ấn Ðộ, ngoài đức tin và đạo hạnh, còn cần đến một bản lãnh võ công để tự vệ và vượt qua những chướng ngại nơi núi rừng, sông biển đầy gian hiểm với hút dữ, cường sơn đạo tặc. Từ đó hình ảnh võ thuật được xuất hiện nơi chốn thiền môn. (Theo tài liệu giảng huấn của thiền sư Thiện Tâm, sáng tổ Võ Lâm Ðạo Việt Nam 1930).
    Vào năm 520, Bồ Ðề Ðạt Ma, ***** thứ 28 của Thiền Tông Ấn Ðộ đến Trung Hoa rồi dừng chân nơi cổ tự Thiếu Lâm, núi Tung Sơn huyện Ðặng Phong tỉnh Hồ Nam. Sau chín năm "Diện Bích Tham Thiền" nơi đây, ngài đã khai sáng cho Trung Hoa hai nền quốc kỹ tuyệt học và hình ảnh kỳ tài của ngài được suy tôn bất diệt, như một sáng tổ của Thiền Tông Trung Hoa và võ thuật Thiếu Lâm Tự.
    Chính nhờ vào phép tham thiền "Diện Bích", một kỹ thuật "Quán Tâm trong tĩnh lặng" hay "mặc chiếu", ***** đã giác ngộ, cảm nhận được cái sức mạnh siêu linh của tâm hồn nằm tiềm tàng trong cơ thể con người. Cái sức mạnh siêu linh vĩ đại này, nếu người ta biết cách khổ luyện, để tập trung thức tỉnh nó, sẽ trở thành một lợi khí dũng mạnh, bén nhạy nhất và hữu dụng vô cùng tận trong võ thuật thượng thừa.
    Do đó Bồ Ðề Ðạt Ma đã sáng tác ra môn "Tẩy Tủy", một đại pháp môn nội dẫn được áp dụng vào võ học siêu đẳng. Về sau, người ta gọi là "Nội Công Tâm Pháp", một phương pháp tu luyện để phát huy nội lực, qua ba giai đoạn chính yếu: Ðiều Thân, Ðiều Tức, và Ðiều Tâm.
    Cũng như qua hình ảnh mệt mõi của các môn đồ không đủ sức chịu đựng trong những buổi tập thiền định đầy gió lạnh của mùa Ðông băng tuyết, Bồ Ðề Ðạt Ma sáng chế ra môn "Dịch Cân", một pháp môn ngoại dẫn áp dụng vào võ học nội công trung đẳng, gồm có 12 phép tập luyện thân thể nhằm phát huy sức mạnh gân thịt, và đã thông kinh mạch để đưa khí huyết sung mãn từ ngoài vào bên trong các phủ tạng. Do đó, môn "Dịch Cân" ngoài hiệu quả cường tráng thân thể, nó còn giúp tiêu trừ các chứng bệnh bên trong phủ tạng.
    Ngoài ra, Bồ Ðề Ðạt Ma còn truyền dạy cho tất cả môn đồ các cấp về "Thập Bát La Hán Môn", gồm có 18 động tác căn bản về quyền cước để khỏe mạnh tây chân tự vệ.
    Sau đây, tác giả Quảng Từ Lão Ni đã đề cập đến Ðạt Ma trong pho sách "Võ Thuật Tùng Thủ":
    "... Vào một sáng tinh sương mùa đông lạnh lẽo, toàn ngôi chùa Thiếu Lâm chìm đắm trong sương mù âm u của núi rừng Tung Sơn.
    Từ trong tịnh thất, Ðạt Ma ***** bừng tỉnh cơn thiền trong tiếng động mạnh của cánh cửa sổ bị gió thổi đập mạnh vào tường. Ngài bước nhanh qua thiền viện, thiền đường vắng lạnh trong không khí yên tĩnh siêu nhiên. Gần ba chục môn đồ ngồi bất động như ba chục pho tượng nhập đại định, trong tư thế "Kiết già phụ tọa". ***** quan sát toàn diện khung cảnh. Mỗi người tuy phảng phất vẻ tịnh tu nhưng gương mặt hôm nay sao biểu lộ sự cố gắng cùng cực, không có được sự bất động vô tâm như bao ngày trước. Từng cơn gió lướt qua, nhiều người phải nghiến chặt răng, tay bắt ấn quyết liệt trong cử chỉ kềm chế tối đa. Trời rét lạnh như băng đá, máu dồn lên đầu, gương mặt các môn đồ đều đỏ lên, khắc khổ. ***** chợt hiểu. Vì không đủ nội lực phấn đấu với khí hậu, tiết trời bất thường của mùa đông, đầy sơn lâm chướng khí.nên tất cả đều đang ở torng tình trạng khẩn trương, có thể dẫn đến nội thương, tổn hại nguyên khí, làm cản trở bước đường tu tập. ***** tự nghĩ: Ngài phải có trách nhiệm và hành động.
    Sau đó, mỗi ngày trong chương trình tu học, đầu có giờ tập luyện "Thập Bát La Hán Môn" và "Dịch Cân" do chính ***** giảng huấn."
    Thời kỳ sơ khởi của võ thuật Thiếu Lâm bắt đầu từ đó. Sau khi Bồ Ðề Ðạt Ma qua đời, các môn đồ Thiếu Lâm dựa vào 18 động tác căn bản của "Thập Bát La Hán Môn" và 12 phép tập vận động của "Dịch Cân" để khai triển thêm nhiều thế căn bản và đường quyền thế võ tự vệ.
    Mãi đến triều đại nhà Nguyên (1260 - 1368), Thiền sư Viên Trường Quang, tuổi năm mươi, trước khi gia nhập Thiếu Lâm Tự nguyên là một thanh niên khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, thuộc gia đình giàu có. Viên Trường Quang dựa vào 18 thế căn bản "Thập Bát La Hán Môn" của Ðạt Ma biến chế ra một hệ thống quyền cước với bảy mươi hai thế căn bản gọi là "Thất Thập Nhị Quyền Công". Sau đó, Viên Trường Quang còn xuống núi hành hiệp và kết giao với nhiều danh sư để thử nghiệm ưu khuyết điểm của "Thất THập Nhị Quyền Công".
    Một hôm, Viên Trường Quang được kết giao với một lão sư, Lý Thanh tuổi ngoài sáu mươi. Trong trận đấu giao hữu, lão sư Lý Thanh vơi thân thủ nhanh nhẹn đã kềm chế được ngọn đá dũng mãnh của đối phương, đồng thời dùng thế song chỉ của hai ngón tay phải điểm huyệt, làm đau tê buốt bàn chân đá của Viên Trường Quang.
    Sau đó, Lý Thanh giới thiệu Viên Trường Quang với Bát Dự Phong, một người bạn thân của ông tuổi năm mươi, đương kim vô địch võ thuật nổi danh lúc bấy giờ tại các vùng Sơn Tây, Hồ Nam và Hồ Bắc. Ba người bạn gặp gỡ tâm đầu ý hợp. Cùng nhau vào chùa Thiếu Lâm ngày đêm nghiên cứu võ thuật. Với căn bản của "Thập Bát La Hán Môn" và "Thất Thập Nhị Quyền Công" của Thiếu Lâm, ba người cùng hợp tác chế thêm một trăm bảy mươi động tác căn bản quyền cước, được phỏng theo đặc tính và bộ pháp chiến đấu của "Linh Thú Ngũ Hình" như: Long Hổ, Báo, Xà, Hạc. Tất cả đã tạo nên một nền tảng sơ khởi cho võ thuật Thiếu Lâm, được truyền bá rộng rãi từ xưa đến nay.
    Kỹ thuật huấn luyện:
    Võ thuật Thiếu Lâm được người Trung Hoa xem là "ngoại gia quyền" vì được du nhập từ nước ngoài (Ấn Ðộ) vào, do ***** Bồ Ðề Ðạt Ma sáng tạo tại chốn thiền môn nhằm để tăng cường sức khỏe thân tâm, và tự vệ. Ngoài việc tập luyện võ thuật, môn sinh còn phải tuân hành mười điều tâm niệm sau đây:
    1 - Phải chuyên cần tập luyện võ thuật.
    2 - Chỉ được dùng đến võ thuật trong trường hợp phải tự vệ.
    3 - Phải giữ phép lịch sự và kính nhường với những bậc thầy và cao niên.
    4 - Phải đối xử tử tế, và có lòng thành tín với các đồng bạn.
    5 - không nên tự ý khoe khoang võ thuật trước mặt mọi người và không được nhận lời thách đấu của bất cứ ai.
    6 - Không bao giờ gây chiến trước.
    7 - Không nên dùng rượu và thịt.
    8 - Không làm việc tà dâm.
    9 - Không nên có những tánh: công kích, gian tham, và tự phụ.
    10 - Chỉ dạy võ thuật cho những người có đức hạnh tốt.
    Về kỹ thuật huấn luyện, tổng quát gồm có bốn bộ môn căn bản: Quyền cước, Binh khí, Nội ngoại Thần Công và Huyệt Ðạo Kinh Mạch. Trước tiên, bô môn quyền cước được xem là nền tảng sơ khởi trong việc huấn luyện võ thuật. Sau đó, môn sinh mới được lần lượt học tập đến các bộ môn Binh khí (như côn, thương, kích, đao, kiếm), môn Nội ngoại thần công (gồm các bí quyết tập kuyện công phu như khí công nội dẫn, ngoại công như ngạnh công và nhuyển công gồm có các phương pháp công phu luyện tập sức mạnh các ngón tay chỉ công: Nhất chỉ thiền, Long Trảo công, ngọa hổ công,... luyện lực ở cạnh vàlòng bàn tay; Chưởng Công: Thiết sa Chưởng, Thôi sơn chưởng, Trúc diệp chưởng,... luyện về khinh công và phi hành, luyện về Thiết quyền và Thiết tý, luyện về Thiết cước và Thiên cân trụy, luyện về những công phu đặc dị mình đồng da sắt,...), Môn Huyệt Ðạo và Kinh Mạch (các phương pháp điểm và giải huyệt bí truyền áp dụng vào chiến đấu đã thương và cứu tử hoàn sanh).
    Tất cả đều được truyền dạy lần lượt từ dễ đến khó, từ cấp bậc thấp lên dần cấp bậc cao hơn. Về bộ môn quyền cước, khởi đầu từ cách tập đứng các thế tấn căn bản đến di chuyển từ bước một (Bộ tấn pháp), đến các đòn thế căn bản đánh đỡ về tay (thủ pháp), và các thế đá căn bản hướng tới trước, phía sau, một bên phải trái (cước pháp). Dần dần tập luyện các bài quyền mẫu, các thế đánh đỡ tự vệ và giao chiến mẫu, từ các bài đấu luyện với nhau, áp dụng từ đơn luyện đến song luyện. Cầm Nả Thủ Pháp học cận chiến để bắt bẻ, khóa tay chân, và vật ngã đối phương. Càng học lên cấp bậc cao, kỹ thuật huấn luyện càng chứa nhiều thế phức tạp, đòi hỏi người môn sinh phải có lòng kiên nhẫn và khó nhọc.
    Tóm lại, võ thuật Thiếu Lâm mang những đặc tính căn bản như công, thủ, phản, biến, nhu, cương, khí, lực,... Về hình thức, quyền pháp di chuyển thường theo một đường thẳng tới lui, lên xuống, trước sau, trái phải. Di chuyển căn bản theo bốn phương, tám hướng, với thân hình biến chuyển có lúc vững chắc như núi thái sơn, có luc mềm dẻo linh động, nhanh nhẹn dũng mãnh như cuồng phong vũ bão. Tất cả đều được phối hợp trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, chạy, nhảy, lăn, nhào,... Các đòn thế công hay thủ phải được rõ ràng, dứt khoát, thực dụng, sức mạnh là yếu tố chính yếu, tính uyển chuyển là phụ thuộc. Trong các động tác không được rườm rà, hay khoa trương hoa dạng, để tránh phí sức lực. Các thế tấn công thường nhắm vào các nhược điểm trên cơ thể của đối phương.
    Về sự huấn luyện "Linh Thú Ngũ Hình" được quan niệm rằng đặc tính và bộ pháp chiến đấu của năm loài thú Long, Hổ, Báo, Xà, và Hạc lần lượt được tượng trưng cho sự huấn luyện về tinh thần, bộ xương, sức mạnh, hơi thở, và gân thịt. Năm yếu tố này cần được phối hợp lại thành một đồng nhất thể. Cũng như sự kết hợp cần phải có giữa cứng và mềm (nhu cương), trong và ngoài (nội ngoại), thể chất và tinh thần (thân tâm). Do đó, việc huấn luyện "Linh Thú Ngũ Hình" đòi hỏi một sự cố gắng và kiên nhẫn cao độ, nhằm đạt đến sự ích lợi tối đa cho cơ thể của người tập luyện có những đức tính chính yếu sau đây:
    Thân pháp phải được vững chắc và linh động.
    Tâm pháp phải giữ được bình tĩnh.
    Khí pháp nên được điều hòa hơi thở.
    Nhãn pháp phải được trong sáng, để quan sát rõ ràng cuộc chiến.
    Quyền cước pháp phóng ra khéo léo, dũng mãnh và nhanh nhẹn.
    Ðấu pháp phải biết dùng đến mưu trí trong mỗi tình thế, và nhận định đúng thời điểm để áp dụng phù hợp các đòn thế: công, thủ, phản, biến, nhu, cương, khí, lực,...
    Tất cả là những yếu tố cần thiết trong việc huấn luyện để giúp cho môn sinh Thiếu Lâm giữ thế thượng phong, thủ thắng trước đối thủ.
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    DỊCH CÂN KINH
    Dịch Cân kinh là tiếng gọi tắt của Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bộ sách này đầy những huyền thoại, đầy những ngụy tạo, đầy những mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây ra phản ứng nguy hại cho cơ thể, dĩ chí chết người.
    Vì vậy sau buổi hội thảo hôm nay, tôi xin Quý-vị hãy vì Y-đạo, chịu khó giảng dạy cho người xung quanh, cho thân chủ, để sự thực được soi sáng.
    Phần thứ nhất: Dẫn nhập
    1.- Nguồn gốc
    Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu-lâm bên Trung-quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền-công vào Trung-quốc, và làm cho quảng bá.
    Ghi chú,
    Trung-quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu-lâm.
    1, Hà-Nam đăng phong Tung-sơn Trung-châu Thiếu-lâm tự,
    2, Hà Bắc Bàn-sơn Thiếu-lâm tự,
    3, Phúc-kiến Tuyền-châu Nam Thiếu-lâm tự,
    Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-hiến xuất bản xã Bắc-kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:
    "Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời Thanh Khang-hy (1662-1723), Ung-chín h(1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang-tự (1875-1909), chính Phúc-sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-sơn Thiếu-lâm tự, người ta mạo ra tập Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".
    Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các Đạo-gia Trung-quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, hút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai.
    Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chinh xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma của chùa Thiếu-lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực.
    Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân Kinh trên, họ phịa ra nhiều bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền "một phương pháp" luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khởi ung-thư gan, lao thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân Kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-hải, Giang-tô, Hồ-Nam, Phúc-kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-lâm ở Hương-cảng, Đài-loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vìø được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975.
    Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên Hoa-kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-luật-tân, và cộng tác với Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành bác sĩ. (Tài liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác nhận sau.
    Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu:
    _ Lão khoa,
    _ Thần kinh,
    _ Não khoa, (Neurology)
    _ Niệu khoa (Urology)
    _ Phong thấp (Rhumatology)
    _ Phế khoa (Pneumology)
    _ V.v...
    Đến đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:
    1, Dịch Cân kinh,
    2, Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe).
    3, Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú).
    4, Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm).
    5, 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
    6, Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh).
    7, Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu).
    Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:
    _ Dễ luyện,
    _ Luyện mau kết quả,
    _ Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả.
    _ Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm.
    Tuy vậy nếu bàn về kết quả luyện thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24 thức luyện của Trần Hy Di.
    Vì luyện Thiền-công, Khí-công từ nhỏ, nên trong thời gian học tại Đại-học Y-khoa Thượng-hải, tôi theo dõi những buổi giảng Khí-công rất kỹ. Sau khi rời Thượng-hải, trở về Paris, tôi luyện Dịch Cân kinh liên tiếp 5 năm. Trong lúc luyện tôi đã gặp những khúc mắc khó khăn, nan giải, đành chịu, không biết bàn với ai. Phải chờ đến 1987, tôi sang Úc, ở tại nhà bào đệ là Trần Huy Quyền vấn đề mới được soi sáng.
    Trong gia đình 6 anh em tôi, thì Quyền là người thông minh nhất. Bất cứ vấn đề gì rắc rối, bí hiểm đến đâu, Quyền chỉ suy nghĩ khoảng nửa giờ là kiến giải sáng suốt. Tôi là thầy thuốc thiếu kinh nghiệm dạy võ thuật, lại nữa tôi chỉ dạy Khí-công cho những sinh viên đã tốt nghiệp Đại-học Y-khoa, nên không có cái nhìn tổng quát. Còn Quyền thì dạy đệ tử nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn nhất có khi tới 80, lại có đủ trình độ kiến thức. Vì vậy Quyền nhiều kinh nghiệm sư phạm hơn tôi. Tôi đem Dịch Cân kinh ra bàn với Quyền. Vì Quyền đã học võ từ năm 11 tuổi, dạy võ 22 năm (năm đó Quyền 42 tuổi), rất nhiều kinh nghiệm. Trong một tháng, anh em đã trao đổi, bao nhiêu khúc mắc đều giải được hết. Năm sau (1988) tôi trở lại Úc, chúng tôi ra soạn thành tài liệu.
    Nay nhân đại hội Y-khoa Châu-âu của ARMA, do yêu cầu của anh em, một lần nữa tôi sửa đổi, thêm kinh nghiệm, đem ra giảng dạy. Tôi tin rằng anh chị em sẽ hội lĩnh được hết. Trước là luyện cho thể kiện, tâm an, thần tĩnh. Sau là dạy cho thân chủ, giúp họ trị bệnh.
    2.- Nội dung
    Bản Dịch Cân Kinh mà các Đại-học Y-khoa Trung-quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết. Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ bản để độc giả tham chước. Về tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo bản của các Đại-học Y khoa Trung-quốc.
    Cũng như tất cả thư tịch Trung-quốc, trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết này bị nạn tam sao thất bản. Khi san định, phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các Đại-học đã vứt bớt đi hầu hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi. Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học Y-khoa Thượng-hải và tham chước bản của các Đại-học Thành-đô, Giang-tô, Bắc-kinh, Vân Nam.
    Mỗi thức gồm có:
    _ Động tác và tư thế, để chỉ thế đứng khởi đầu, rồi các động tác biến hóa, thở hít.
    _ Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát của kết quả đạt được nếu luyện đúng.
    _ Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát nghĩa hơn là chữ Chỉ-định.
    _ Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết, để đọc giả có thể luyện một mình. Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ, Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
    Phần thứ nhì: Chuẩn bị
    1.- Điều kiện để luyện,
    _ Từ sáu tuổi trở lên.
    _ Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20 đến 30 độ C).
    _ Ăn vừa đù no, không đói quá, không no quá, không say rượu.
    _ Y phục rộng.
    _ Giải khai đại tiểu tiện trước khi luyện.
    _ Luyện từng thức theo thứ tự.
    _ Không nhất thiết phải luyện đủ 12 thức một lúc.
    _ Khi mới luyện, luyện từng thức một. Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức đầu rồi luyện thức thứ ba.
    _ Mỗi ngày luyện một hay hai lần.
    _ Trong toàn bộ tôi dùng chữ: thổ nạp để chỉ thở hít hay hô hấp. Thổ (hô) để chỉ thở ra. Còn gọi là thổ cố nạp tân (thở khí cũ ra, nạp khí mới vào). Nạp (hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài ngắn tùy ý, không bắt buộc.
    _ Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng dẫn khí theo hướng nhất định.
    2.- Trường hợp không nên luyện Dịch Cân kinh,
    _ Đang bị cảm, cúm, sốt.
    _ Bị thương các vết thương chưa đóng sẹo.
    _ Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ nữ đang cho con bú luyện rất tốt).
    _ Ăn no quá hay đói quá.
    _ Sau khi làm việc quá mệt.
    3.- Tư thức dự bị lúc mới luyện.
    Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên.
    _ Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai,
    _ Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng,
    _ Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ,
    _ Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình, cảnh,
    Tiến hành toàn thân buông lỏng:
    Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng, bụng, đùi, chân...
    Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý, không suy nghĩ.
    _ Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh.
    _ Hơi thở bình thường.
    Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc khởi đầu cho nhiều thức. Tất cả các thức Dịch Cân kinh đều là lập thức (thức đứng). Không có Ngọa thức (thức nằm) và Tọa thức (thức ngồi).
    4.- Hiệu năng,
    _ Điều thông khí huyết,
    _ Tăng vệ khí,
    _ Ích tủy thiêm tinh,
    _ Kiên cân, ích cốt.
    _ Gia tăng chân-nguyên khí,
    _ Minh tâm, định thần,
    _ Giữ tuổi trẻ lâu dài.
    _ Gia tăng nội lực.
    5.- Chủ trị,
    _ Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y, Châm-cứu, Trung-dược v.v.
    _ Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh:
    Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí, khí hãm.
    Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư, bần huyết.
    Trị tất cả các chứng phong thấp.
    Trị tất cả các bệnh về thần kinh.
    Trị tất cả các bệnh tâm, phế.
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Phương pháp luyện Dịch Cân kinh
    Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
    Thức thứ nhất: Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực).
    Thức Thứ Nhì: Lưỡng Kiên Hoành Đản (Hai vai đánh ngang).
    Thức Thứ Ba: Chưởng Thác Thiên Môn (Hai tay mở lên trời)
    Thức Thứ Tư: Trích Tinh Hoán Đẩu (Với sao, đổi vị)
    Thức Thứ Năm: Trắc Sưu Cửu Ngưu Vỹ ( Nghiêng mình tìm đuôi trâu).
    Thức Thứ Sáu: Xuất Trảo Lượng Phiên (Xuất móng khuất thân)
    Thức Thứ Bảy: Bạt Mã Đao Thế (Cỡi ngựa vung đao)
    Thức Thứ Tám: Tam Thứ Lạc Địa (Ba lần xuống đất)
    Thức Thứ Chín: Thanh Long Thám Trảo (Rồng xanh dương vuốt)
    Thức Thứ Mười: Ngoạ Hổ Phốc Thực (Cọp đói vồ mồi).
    Thức Thứ Mười Một: Hoành Chưởng Kích Cổ (Vung tay đánh trống)
    Thức Thứ Mười Hai: Đề Chủng Hợp Chưởng (Đưa gót hợp chưởng)
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    DỊCH CÂN KINH​
    Thức thứ nhất:
    Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực).


    1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
    1.1. Tý tiền bình cử (hai tay đưa ngang về trước), hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay từ từ úp vào nhau, rồi đưa lên tới vị trí ngang ngực. (H1).
    1.2. Cung thủ hoàn bao (vòng tay khép lại): cùi chỏ từ từ co lại, cho đến khi hai cánh tay ép nhẹ vào thân. Hai bàn tay hướng thượng. Hai vai hạ xuống, xả khí trong ***g ngực. Xương sống buông lỏng. Khí trầm đơn điền. Lưỡi đưa sẽ chạm lên nóc vọng (palais). Giữ tư thức từ 10 phút đến một giờ, mắt như nhìn vào cõi hư vô, hoặc nhìn vào một vật thể thức xa. Cứ như vậy trong khoảng một thời gian nhất định, tâm trung cảm thấy thông sướng. Đó là cách thượng hư hạ thực.(H2).
    2. HIỆU NĂNG
    Trừ ưu, giải phiền,
    Giao thông tâm thận.
    3. CHỦ TRỊ
    Mất trí nhớ, tim đập thất thường.
    Dễ cáu giận,
    Nóng nảy, thiếu kiên nhẫn,
    Trong lòng lo sợ vô cớ,
    Thận chủ thủy, tâm chủ hỏa. Khi tâm thận bất giao, tức thủy không chế được hỏa, sẽ sinh mất ngủ, mất trí nhớ. Thức
    này có thể điều hòa tâm thận. ​


Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này