1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Thức thứ mười hai:
    Đề chủng hợp chưởng (Đưa gót hợp chưởng).


    1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
    1.1. Từ thức dự bị, hai tay cạnh người, từ từ đưa lên cao, chưởng tâm hướng thượng, tới đầu đỉnh thì hai chưởng hợp nhau, chân giữ nguyên vị trí. (H27).
    1.2. Phủ ngưỡng điệu vỹ (Cúi, ngửa hợp với đuôi) : Tiếp theo thức trên, hai châm khum xuống, hai tay hạ xuống ngực. (H28-1).
    Hai bàn tay úp vào nhau. Chưởng tâm hướng ngực. (H28-2).
    Gối gập, lưng hạ xuống, hai bàn tay mở ra, chấm xuống đất ở hai mắt cá ngoài. (H28-3).
    Sau đó thẳng lưng, hai tay đưa qua đầu, bàn tay đưa lên, chưởng tâm hướng trời, mười đầu ngón tay đối nhau. (H28-4).
    Luyện liền 3-5 thức.


    [​IMG]
    1.3. Tả hữu phủ ngưỡng (phải, trái cúi, ngửa) : tiếp theo thức trên. Chân bất động. Lưng chuyển sang trái. Chân trái hư (không dùng sức nặng thân), chân phải thực (chuyển sức nặng thân lên chân phải). Hai tay giữ nguyên đầu ngón tay đối nhau. Mặt đối nhìn vào chân trái. (H29-1).
    Chân giữ nguyên vị trí. Thân thẳng đậy, song chưởng cử quá đầu. Chưởng tâm triều thượng. Đầu các ngón tay đối nhau. (H29-2).
    [​IMG]

    Lưng quay 180 độ . (H29-3).
    Giữ nguyên vị trí. Cung thân, từ từ cúi xuống 90 độ,
    hai tay rời nhau, bàn tay xòe đối diện với mặt đất. (H29-4).
    Luyện liền (1) (2) (3) 3-5 thức.

    1.4. Tiếp theo thức trên, hồi thân trở lại chính hướng. Hai tay từ từ hợp lại trước ngực, mười ngón tay đối nhau, chưởng tâm hướng hạ. Khi hai chưởng xuống ngang rốn, thì rời nhau, trở về vị trí như dự bị thức.
    1.5. Thức kết thúc : Buông lỏng hoàn toàn cơ thể.
    - Hoặc nghỉ, uống một ly nước trái cây, (dành cho việc trị bệnh)
    - Hoặc vận khí một vòng Tiểu Chu-thiên, hoặc Thu công (dành cho các thầy thuốc châm cứu, các thầy thuốc đấm bóp, võ sư, võ sinh,).
    2. HIỆU NĂNG
    Cường cân tráng cốt (mạnh gân, xương).
    Bổ thận, thêm tủy.
    Điều khí hoạt huyết.
    3. CHỦ TRỊ
    Trị các bệnh về xương sống.
    Làm lưu thông máu,
    Làm khí điều hòa.
    [​IMG]
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
    I. Khí công là gì?
    "Khí" người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật Bản, "Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất Hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ, tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.
    "Công" do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian.
    Do đó, "khí công" có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí" (oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.
    Trong võ thuật cổ truyền đông phương, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.
    II. Lược Sử Khí Công:
    Trong ý nghĩa quân bình hơi thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diên loài người trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương, khí công đã được áp dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn học: Y học, Đao học, và Võ học.
    Theo y như Hoàng Đế Nội Kinh (2697 ?" 2597 B.C. trước Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây lịch), nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.
    Vào thời nhà Thương (1783 ?" 1122 B.C trước Tây lịch), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.
    Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề cập đếnn vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 ?" 221 B.C. trước Tây lịch). Sau đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến 220 A.C. sau Tây lịch), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vì y sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.
    Vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và Chim.
    Vào năm 520 ?" 529 sau Tây lịch, ***** Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài đã soạn ra sách Dịch Cân Kinh, đ dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng sức mạnh trong việc luyện võ.
    Về sau, dựa vào nguyên lý khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...
    Theo truyền thuyết, vào triều đại nhà Tống (950 ?" 1279 sau T.L.), tại núi Võ Đang, đạo sĩ Trương Tam Phong sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực Quyền, gồm những động tác giúp người tập luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.
    Về sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ, ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền thuộc ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và Vũ Gia, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục Hợp Bát Pháp Quyền...
    III. Triết Lý Khí Công
    A. Vũ trụ quan
    Theo quan niệm Đông phương, khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận. Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:
    "- Khí tụ lại thành hình, khí tán đi hình loại, muôn vật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh, Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "-Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.
    Hai tính chất căn bản là Âm và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.
    Thiên Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió thổi, mưa rơi, bão tố, sấm sét...d xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.
    "Địa Khí đến từ quả đất, cũng như từ sự thấm những nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên những tai họa động đất, chính làn nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất quân bình âm dương tính trong địa khí.
    "Nhân Khí" là sinh lực con người.`con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.
    B. Nhân Sinh Quan
    Con người khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sãn có trong hài nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận: tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch , nước uống và thực phẩm (đọn vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: Tim, phổi, bao tử, lá mía, ruột già, ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)
    Vớ tuổi thọ tăng dần, các đường ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.
    Để tái tạo sức khỏe bình thường, việc khai thông hệ thống kinh mạch , cũng như, quân bình Ân Dương tính trong nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Ơû điểm này, Đông Y Học đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốn hóa học ở các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và tể dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...
    Trong phép dương sinh, người ta cần phải biết sống hòa hợp với luật thiên nhiên, để khia thác tối đa lợi thế của Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ quân bình âm dương tính cho Nhân Khí của con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ các mầm móng bệnh chứng, có thể xảy ra cho con người.
    Ngoài ra, viện tập luyện khí công rất ích lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của các tế báo trong cơ thể, cũng như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí và Địa Khí từ bên ngoài.
    IV.Phương Thế Thực Hành
    Trong khí công gồm có ba loại thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một trong ba tư thế chánh yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong mổi tư thế chánh này còn được chia ra kàm nhiều tư thế phụ như sau:
    Với tư thế đứng còn có thế đứng tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân dang rộng ra hai ben trái phải).
    Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ gối.
    Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng người với lưng tựa phía dưới.
    Trong các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi của tư thế đứng:
    - Tư thế đứng rất thuận tiện, khi tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....
    - Tư thế đứng còn giúp cho máu lưu thông dễ dàng trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể.
    - Ngoài ra, tư thế đứng tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    V. Hiệu Quả Của Khí Công
    Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động của nhiều triệu mao quản bị đình trệ, và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể.
    Trong phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép kiêng cử, cơ thể tái tạo sức khỏe bình thường cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu, bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh nhức đầu, bệnh nhứ mỏi khớp xương và bắp thịt...
    Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm hồn thanh tịnh, và bình tĩnh để có một đời sống tình cảm an hòa, khắc phục được những trở ngại bất thường trong đời sống loạn hàng ngày. Để đạt được thành quả trong lúc tập luyện khí công, tùy theohoan cảnh, học viên nên tuân hành nghiêm chỉnh theo một thời dụng biểu tập luyện đều đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi, từng bước một, tuần tự tiến hành. Nếu vội vã, đốt giai đoạn tập luyện, sức khỏe của học viên dễ bị tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn thận tránh những khuyết điểm. Việc tập luyện sai phép có thể tạo nên những biến chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc tập luyện.
    HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG
    · Ý NIỆM VỀ KHÍ:
    Đối với người Tây phương, "Khí" được hiểu bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy, Life Force, Bio-Force, Electromagnetism... Cũng như "Animal Magnetism" ở Úc châu do Mesmer, "Odic Force" ở Đức do Baronvon Reichenbach, "Orgone Energy" ở Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga Sô do Inyushin.
    "Khí" (Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như :Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, năng lực tinh thần,...
    Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật hoạt động sinh ra khí. Cũng như, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng. Cơ năng quyết định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan ssinh hoạt biến thành cơ năng. Nhà khoa học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = mc 2. năng lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và khối lượng vật chỉ là một, nhưng p hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra.
    Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu tố và điều kiện sống chung quanh (như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã hội...), nguồn năng lực (khí) trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong đời sống hàng ngày, nguồn năng lực (Khí) đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực (Khí) con người. Qua tiến trình hô hấp không khí, dưỡng khí (oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon dioxide), và nước, theo phương trình hoá học như sau:
    Food + Oxygen ® Energy + Carbon Dioxide + Water
    (Đồ ăn) + (Dưỡng khí) ® (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước)
    năng lựv (khí) được sinh ra từ phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ, và các bộ phận trong cơ thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí) sung mãn, trong đòi sống khỏe mạnh, ngoài hai yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí (Oxygen) (trong khí trong lành), và thức ăn tươi tốt (đầy đủ chất dinh dưỡng), người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác, không kém phần quan trọng như: nước uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí quân bình, và vận động thể dục...
    · HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG:
    Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người.
    Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp (hít thở) không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể.
    Hơi thở của một người khỏe mạnh bình thường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hoi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh, trong một linhhồn minh mẩn.
    Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi thở của học thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, để đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài. Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh bình thường.
    Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện khí công, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào) càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoan tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào) trong một phút.
    Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồi thiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài trong 30 phút. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan điền).
    · BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG:
    Đối với học viên mới nhập môn khí công, điều quan trong nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đế tiến trình hô hấp của con người như sau:
    · Nhiệm vụ của phổi:
    Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miện, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong ***g ngực, và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy. Lá phổi bên trái có hai thùy.
    Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào).
    Bên trong mỗi lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí (Khí bào), chia thành hiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co dãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi nhò khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải trừ thán khí (carbon dioxide) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxide).
    Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt.
    Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong ***g ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.
    · Vai trò hoành cách mô:
    Thân người được chia làm hai phần: phần trên là ***g ngực, phần dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một "Hoành Cách Mô" (một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co dãn của ***g ngực và hoành cách mô đã đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí.
    ***g ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phối bắt đầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn. Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho ***g ngực được căng phồng lên. Do đó, bên trong ***g ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dãn nở lớn tối đa của ***g ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi.
    Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan Điền), khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, khiếncho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4 phân (centimeters). Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi, dãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự dãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxide) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi.
    Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho đôi dây tah kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh.
    Không khí được thổ ra là buớc sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với ***g ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên. Đồng thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài.
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Treo xà đơn
    Sắm 1 xà đơn đừng cao lắm, vừa hổng chân người tập, treo ở khung cửa phòng ngủ để tập mỗi ngày. Nhảy lên nắm xà đơn và treo thân mình từ 1-3 phút, tập cho cột sống có dịp giăn ra, do sức nạng của thân, kéo ra, đòng thời tập cho tay có sức mạnh.
    Nếu có sức thì rút thân mình lên 1-3 lần để đo sức mạnh. Có thể uốn thân mình công ra phía trước và phía sau từ 5-10 lần mà không xích đu. Có thể lắc thân mình qua lại do hai tay kéo qua kéo lại từ 4-10 lần cho hai tay tăng sức mạnh. Có thể đưa hai chân thành thước thợ đối với thân mình để luyện tập các bắp thịt thắt lưng, dây chậu và đùi. Trong lúc treo, thở tối đa và triệt để.
    Lúc xuống nếu xà đơn treo quá cao thì phải có ghế nâng xuống nhẹ nhàng, không nhảy mạnh để tránh đốt xương sống bị sức năng dồn ép, mất hết tác dụng của đọng tác treo.(Hình 63)
    Tác dụng: Ðộng tác này giúp hai tay làm chủ đước sức nặng của toàn thân, làm cho thân thể giãn ra không bị bắp thịt co rút triền miên trong tư thế đứng. Có thể bị bệnh chuột rút (vọp bẻ) ở tay của người viết văn hoặc nghệ sĩ đàn dương cầm.
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Dịch Cân Kinh là gì?

    Tương truyền, trong thời gian ở chùa Thiếu lâm, Bồ Ðề Ðạt Ma đã quan sát và thấy đa số đệ tử trong chùa đều mắc chứng xanh xao ốm yếu. Sau khi điều tra, người đã hiểu được nguên nhân vì họ tuy tinh tấn tu thiền, nhưng hầu như không vận động cơ thể. "Tĩnh" quá dư, mà "Ðộng" bất túc, đã là cội nguồn của căn bệnh của họ.
    Nhằm mục đích cải thiện tình trạng sức khỏe cho các đệ tử, Người đã nghiên cứu và soạn ra phương pháp "Dịch cân kinh" và cho các đệ tử theo pháp đó mà luyện tập mỗi ngày, dần dần thiền bệnh kể trên mới được đẩy lùi.
    "Dịch cân kinh" đã trở thành một bí truyền của võ phái Thiếu Lâm. Chỉ những đệ tử đích truyền mới được tập mà thôi. Nhưng, về sau chùa Thiếu Lâm đã trải qua nhiều cơn biến động, bởi nạn binh đao và hỏa hoạn, do triều đình gây ra, một số nhà sư có võ công cao đã thoát được vòng vây và sống lưu lạc trong dân gian. Trong thời gian sống ẩn náu như vậy, đôi khi họ gặp được những thanh niên ưu tú và có thiện căn, đã thu nhận làm đệ tử tục gia và truyền dạy võ công cho họ, bởi vậy mà võ thuật nói chung và "Dịch cân kinh" của Thiếu Lâm nói riêng mới được lưu truyền vào trong dân gian.
    "Dịch" là thay đổi, "Cân" là gân cốt và "Kinh" là phương pháp. "Dịch Cân Kinh" là phương pháp đào luyện gân cốt và ý chí đặng chuyển yếu thành mạnh.
    "Dịch Cân Kinh" còn là phương pháp tập kết hợp giữa "Ðộng" và "Tĩnh", giữa "Cương" và "Nhu", giữa "Thần" và "Khí" và giữa "Khí" và "Lực". Cổ nhân cho rằng một con nước thường xuyên khơi thông trôi chảy sẽ được trong và sạch, đó là nguồn nước sống. Nếu bị tắc nghẽn, ứ đọng sẽ bị dơ và thối là con nước chết. Chúng ta thường xuyên tập luyện "Dịch Cân Kinh" trong một thời gian dài, khí huyết sẽ sung mãn và lưu thông vận hành khắp châu thân, cơ thể sẽ cường tráng, sẽ đẩy lui được những bệnh tật kinh niên tái phát và đi đến trường sanh tồn thọ.
    "Dịch Cân Kinh" là một phương pháp tốt, quý hơn những "linh đơn thần dược".

  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Những truyền thuyết về Bồ Ðề Ðạt Ma

    Ðạt Ma thiền sư (? - 536), nguyên quán Thiên Trúc, Ân Ðộ, là con thứ ba của Hương Chí Quốc Vương (Bà La Môn), thuộc dòng họ Xát Ðế Lợi. Tuy con nhà quyền quý, cao sang, nhưng người không hề ham muốn lối sống phù phiếm xa hoa, nên bỏ nhà đi tu, theo một vị cao tăng bên Phật giáo là Bát Nhã Ða La tôn giả.
    Trên 2500 năm về trước, Ðức Thích ca đã sáng lập ra Phật Giáo, và Người là vị giáo chủ đầu tiên. Sau khi nhập diệt, đệ tử của ngài là Ca Diếp lên nối ngôi vị. Sau đó dòng truyền thừa của Phật giáo lần lượt qua tay các tổ A-Nan, Thương Na Hòa Tu, Ưu-Ba-Cấp-Ða, Ðề Ða-Ca, Di-Gia-Ca... khi truyền tới tổ Bát Nhã Ða La là đời thứ 27 và Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ 28.
    Phật giáo Ân Ðộ ở thời kỳ Bát Nhã Ða La tôn giả làm chủ trì, không mấy phát triển, bởi vì căn tánh người Ân bấy giờ chưa được thành thục. Cho nên Bát Nhã Ða La tôn giả đã phái Ðạt Ma qua Ðông thổ để truyền pháp. Vì Phật Giáo bên đó đi sai phương hướng, hơn nữa Ngài cũng nhận định rằng căn tánh người Trung Hoa lúc ấy đã tới độ chín mùi.
    Kể từ hồi thế kỷ thứ nhất, vào thời Ðông Hán, đời vua Minh đế niên hiệu Vĩnh Bình, Phật Giáo Ân Ðộ đã bắt đầu du nhập vào đất Trung Hoa, nhưng phần lớn chỉ giới hạn trong hàng vua chúa quan lại và dừng ở mức độ dịch thuật kinh sách Phạn ngữ sang Hán tự mà thôi, hơn nữa ở thời kỳ đầu Phật Giáo chỉ được coi là thứ tôn giáo ngoại lai, chứ chưa được đưa lên hàng quốc giáo.
    Sau này Ðạt Ma chuyển qua đất Trung Hoa để hoằng dương đạo Phật, cho nên Ðạt Ma đã trở thành vị thủy tổ của Phật Giáo Trung Quốc nói riêng và cho cả vùng Ðông Nam A nói chung. Người ta còn tôn Ðạt Ma là "Thiền tông đệ nhất tổ".
    Vào thời kỳ Nam Bắc triều phân tranh, ý thức và tư tưởng của Lão Trang tử phát triển rộng khắp. Vào hồi Nam triều đời vua Lương Võ đế niên hiệu Phổ đạo, Ðạt Ma đã ngồi thuyền tới Trung Hoa và cập bến Quảng Châu, nên thành Quảng Châu còn được gọi là "Tây lai sơ địa" dể đánh dấu việc đặt chân lên bờ của Ðạt Ma ***** khi ngài mới từ bên Tây Vực qua.
    Dân Quảng Ðông lúc hồi đó thấy Ðạt Ma người đen như củ súng, lại râu tóc bờm xờm nên đã gọi ngài là "Ma la xát" và ngày nay người Quảng vẫn dùng câu đó để chỉ người Ân Ðộ.
    Sau đó Ðạt Ma tới Kim Lăng. Lương vũ Ðế Tiêu Khản đã thân hành tiếp đãi người, tuy rằng Tiêu Khản là vị vua rất ngoan đạo và có nhiều cống hiến to lớn đóng góp cho Phật giáo bấy giờ, song vì quá nặng về phần gíáo lý theo kinh sách, cho nên Ðạt Ma cảm thấy cơ duyên không hạp nên ngài đã bỏ đi. Ðịnh lên phía Bắc, nhưng lúc bấy giờ nước sông Trường Giang đang lên to, lại không có thuyền nên ngài đã ngắt một nhánh cỏ lau đặt xuống mặt nước và đặt chân lên, cứ thế rẽ sóng vượt con nước qua bờ ngạn bên kia như thể đi trên đất bằng. Những thường dân Trung Hoa đứng hai bên bờ sông lúc bấy giờ trông thấy cảnh tượng kỳ lạ như vậy cho là Bồ Tát đã giáng thế. Ðó là sự tích Ðạt Ma đạp nhánh cỏ lau, vượt sóng qua sông.
    Sau khi vượt sông Trường Giang, Ðạt Ma đã đi lên miền núi Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, ở nơi ấy có ngôi chùa Thiếu Lâm. Thiếu Lâm tự được kiến tạo vào năm 496. Bạt Ðà là một vị cao tăng từ Thiên Trúc qua, rất được ông vua bấy giờ là Hiếu Văn Ðế trọng đãi, đã khai sáng ra ngôi chùa này, và người đã truyền dạy pháp môn tu tự giải thoát tiểu thừa tại nơi đây. Ba mươi năm đó. Ba mươi năm đó, Bồ Ðề Ðạt Ma cũng lên tới đây, song người chỉ truyền dạy môn thiền mà thôi. Thiền Tông chủ trương "Bất lập văn tự, dĩ tâm truyền tâm" và "Trực chỉ nhâm tâm, kiến tánh thành Phật". Sau đó người đã vào "diện bích" trong động Thiếu Thất ở ngọn Ngũ Nhũ Phong liền trong 9 năm và người đã thành tựu sự truyền thừa của môn thiền tại nơi đây. Cho nên Thiếu Lâm tự còn được mệnh danh là "Ðình tổ của thiền tông" và Thiếu Thất động được gọi là "Ðạt Ma động" và được xếp hạng vào hạng văn hiến lịch sử.
    Trong những năm tháng xoay mặt vào vách đá ngồi thiền định, loài chim đã bay đến làm ổ trên mình mà ngài không hề hay biết. Qua đó đủ thấy thiền công thâm hậu của Người. Người thời bấy giờ gọi Ðạt Ma là "Bích quán la môn". Ngày nay bên Trung Hoa có pháp môn thiền rất nổi tiếng gọi là "Ðạt Ma diện bích công" được đông đảo người ưa thích và hâm mộ. Ðạt Ma đã từng thâu tóm pháp này trong mấy câu như sau:
    Ngoại chỉ chư duyên,
    Nội tâm vô suyễn,
    Tâm như tường bích,
    Khả dĩ nhập đạo.
    Nghĩa rằng: ngoài bặt các duyên, trong không vọng niệm, tâm như tường đá, sẽ vào được đạo.
    Ngoài ra Người cũng hằng dạy cho các đệ tử phải luôn giữ theo 4 hạnh là: báo oán hạnh, tùy duyên hạnh, xướng pháp hạnh và vô sở cầu jạnh, cốt dùng để đối trị và giữ lòng bình thản trước mọi chướng duyên có thể diễn ra trong quá trình tu tập thiền định. Bởi thế, người đời cũng cho rằng: "Bích quán tứ hạnh, Vi Ðạt Ma chi đạo".
    Trong thời gian Ðạt Ma ở núi Tung Sơn, Ngài đã thu nhận được một đệ tử là pháp sư Thần Quang, sau cho cải pháp danh là Huệ Khả. Câu chuyện được truyền tụng như sau:
    Diêm Vương sai quỷ vô thường đi tìm pháp sư Thần Quang, Thần Qung biết là thọ hạn của mình đã tới, vội đi tìm Ðạt Ma để xin học pháp liễu sanh tử. Khi đó Ngài đang sửa soạn ngồi thiền, sau khi nghe hết ý định của Thần Quang Ngài chỉ quay đầu lại nhìn một cái đoạn mặc nhiên đi vào cuộc thiền định. Thần Quang vì thành tâm cầu pháp đã kính cẩn quỳ gối bên Người để chờ đợi. Vào một ngày mùa đông tuyết lạnh 9 năm sau đó, Ðạt Ma đã xuất định, khi nhìn thấy Thần Quang vẫn còn quỳ gối kế bên, người rất cảm động và ưng thuận cho làm đệ tử. Sau này Huệ Khả đã được Ðạt Ma truyền cho pháp y và 4 cuốn kinh Lăng gia để nối tiếp dòng truyền thừa của Thiền Môn.
    Sau ngày viên tịch, các đệ tử đã đưa di hài của Ðạt Ma về an táng ở dưới chân núi Hùng Nhĩ Sơn, ở tỉnh Hà Nam. Sau đó , Bửu Tháp tàng trữ linh cốt Ðạt Ma cũng được xây cất lên ở nơi đó. Lại có một truyền thuyết nói rằng, sau khi đã thị tịch 3 năm, có người vẫn thấy Ðạt Ma đang ung dung đi trên đường. Lúc ấy Người bước đi chân không, một bên tay cầm cây thiền trượng, còn bên tay kia đang cầm lơ lửng một chiếc giầy. Hỏi rằng: -Người đi đâu đó? - thì trả lời rằng đi về Tây Thiên. Chuyện Ðạt Ma còn sống làm mọi người kinh ngạc và không tin, họ đã cùng nhau khai quật mồ Ðạt Ma và duy chỉ tìm thấy có một chiếc giầy mà thôi! Ðó là chuyện Ðạt Ma mang chiếc giầy trở về Tây Thiên.
    Sau Ðạt ma. Huệ Khả trở thành nhị tổ, rồi lần lượt tới Tăng Xán làm tam tổ, Ðạo Tín là tứ tổ và Hoàng Nhẫn làm ngũ tổ của Thiền Tông.
    Trong thời kỳ Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, Thiền tông phân chia thành hai phái Bắc và Nam, phái Bắc thiền chủ trương tu tiệm ngộ tiểu thừa, vị đại biểu là Thần Tú pháp sư. Phái Nam thiền do Huệ Năng làm chủ trì, tu theo pháp đốn ngộ đại thừa. Câu chuyện được kể lại như sau: số là ngũ tổ bảo chúng đệ tử làm bài thi bằng thơ văn, để qua đó Người lựa tuyển kẻ nối dõi y bát, Thần Tú pháp sư là đại đệ tử của Người đã làm bài kệ như sau:
    Thân thị bồ đề thụ,
    Tâm như minh kính đài,
    Thì thì cần phất thức,
    Mạc sứ nhạ trần ai.
    Ý nói rằng: Thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, luôn luôn chăm lau chùi, chớ để nhuốm trần ai.
    Huệ Năng (638 - 713), tục họ Lư, người Tân châu, Quảng Ðông, nhà nghèo, làm nghề bán củi để nuôi mẹ, lúc đó mới xuất gia không bao lâu, làm công việc tạp dịch như xay giã gạo trong chùa, địa vị rất thấp kém lại dốt chữ, nhưng là bậc có huệ căn lớn, đã từng ứng khẩu đọc ra một bài thơ và nhờ tay kẻ khác ghi chép lại như sau:
    Bồ đề bổn vô thụ,
    Minh kính diệc phi đài,
    Bản lai vô nhất vật,
    Hà xứ nhạ trần ai?
    Nghĩa rằng: Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, đâu chỗ nhuốm trần ai? (phần dịch nghĩa của bài kệ này xin được mạn phép sao ra từ cuốn "Thiền đạo tu tập" do Chang chen Chi tiên sinh dịch.)
    Hai bài kệ trên đều rất xuất sắc tuyệt vời, nhưng cũng nổi bật rõ nét đường hướng tâm pháp khác biệt nhau rõ ràng, và ngộ tính của Huệ Năng có phần cao hơn, cho nên đức ngũ tổ đã mật truyền cà sa do Ðạt Ma để lại cho Huệ Năng và ra chỉ thị phải bỏ về phương nam để tránh khỏi bị phe phái của Thần Tú ám hại. Sau này phái thiền bắc truyền của Thần Tú dần dần bị suy thoái, thiền tông nam truyền của pháp sư Huệ Năng ngày một phát triển, và được coi là dòng thiền tông chính thống.
    Vào cuối đời Ðường, thiền đốn ngộ đại thừa lại phân chia ra thành 5 tông khác nhau như sau: Quy nhưỡng tông, Lâm tế tông, Tào động tông, Vân môn tông và Pháp nhãn tông. Sự kiện này xảy ra đã được tổ Ðạt Ma lường biết trước từ lâu và được người nêu lên trong mấy câu kệ để lại cho hậui thế như sau:
    Ngô bản lai thử thổ.
    Truyền pháp cứu mê tình,
    Nhất hoa khai ngũ diệp
    Kết quả tự nhiên thành.
    Trong khu vực lăng mộ của Ðạt Ma, có tấm bia đá lớn, trên ghi những lời của Lương Võ đế Tiêu Khản đã ca tụng Ðạt Ma và những công đức của Người. Truyện kể, khi xưa, vì làm Người phật ý bỏ đi, vua Tiêu Khản rất hối hận, đã cho kẻ hạ thần đuổi theo, để thỉnh Người về, nhưng đã muộn vì Người đã quá giang sang tới nước Ngụy. Sau khi Ðạt Ma viên tịch, Lương Võ Ðế cho xây lên tấm bia thạch nói trên để kỷ niệm Người.
    Ngày nay, trên chùa Thiếu Lâm, trong ngôi "Thiên Phật Ðiện" có đặt thờ một phiến đá rầt quý và linh thiêng, đó là tấm "Diện bích ành thạch", đá cao ngoài thước tây, trên mặt đá có những đường chấm phá tự nhiên như bức tranh thủy mặc, miêu tả đầy đủ hình dong tướng mạo của Ðạt Ma. Theo truyền thuyết, trong suốt quá trình 9 năm trường ngồi ngó vách nhập định, hình hài Ðạt Ma đã được phóng xạ và ghi tạc lên phiến đá. Nghe nói, nếu ai có duyên may mắn, được kề cận bên tấm đá linh thiêng này để ngồi thiền, sẽ dễ dàng nhập được vào cuộc định, tựa như đã tiếp nhận được sự gia trì của Ðạt Ma Thiền Sư vậy.
    Ngày nay hàng năm nhằm ngày mồng 5 tháng 10 âm lịch là ngày kỷ niệm Bồ Ðề Ðạt Ma giáng sanh.

  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Những điểm cần phải để ý khi tập Dịch Cân Kinh


    Nên chọn tập vào nơi yên tĩnh, không khí trong sạch.
    Khi mới ăn no và lúc đói bụng không nên tập.
    Không nên nhịn đại tiểu tiện trong khi tập.
    Người có bệnh tâm thần không được tập.
    Khi nóng giận, lúc lo buồn tinh thần bất an cũng không nên tập.
    Trong khi tập đột xuất có người gọi, hoặc có tiếng điện thoại reo, cũng không nên trả lời ngay, phải biết chế ngự bản thân không để xảy ra chuyện hoang mang hồi hộp.
    Phải tuần tự tiệm tiến, mới đầu tập ít, tập nhẹ, sau khi đã tập thuần thục và sức khỏe tăng lên rồi mới tập nhiều, tập nặng.
    Khi tập nên tập trung tinh thần, vì vừa suy nghĩ lung tung vừa tập sẽ không mang lại kết quả gì.
    Nên kiên trì chịu khó luyện tập mỗi ngày sẽ có nhiều kết quả bất ngờ.
    Người có bệnh cấp tính như đau tim, huyết áp cao, xuất huyết dạ dầy... không nên tập.
    Không đứng tập ở vào nơi có gió lùa.
    Sau khi mới tập xong, không nên uống và tắm hay rửa bằng nước lạnh.

  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Thế 1 - Vi Ðà Hiến Chử (1)


    Tư thế:
    Ðứng thẳng người, hai chân dang rộng bằng tầm vai, hai tay đặt trước ngực, như đang ôm một quả cầu (xem hình 1).
    Cách tập:
    Thở tự nhiên nhẹ nhàng, toàn thân buông lỏng. Khẽ ngậm miệng, răng kề răng, chót lưỡi hơi cong lên đáp vào chỗ giữa răng và nướu hàm trên. Nét mặt tươi, trụ tâm vào Ðan điền.
    Ðứng bhư vậy từ 5 đến 10 phút.
    Lưu ý:
    Trong khi tập, nếu kết hợp thêm đứng tấn, thì hiệu quả càng cao. Mức độ đứng tấn cao hay thấp nên tùy thuộc tình trạng sức khỏe của bạn mà lựa chọn.
    Vi Ðà Hiến Chử ta tạm hiểu là Vi Ðà Bồ Tát hiến dâng lễ vật lên đấng Thế Tôn.

    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 19:01 ngày 06/02/2007
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]

    Thế 2 - Vi Ðà Hiến Chử (2)


    Tư thế:
    Tiếp theo thế trên, hai tay dang rộng qua hai bên, đặt ở độ cao bằng tầm vai, lòng bàn tay xoay về phía trên (xem hình 2).
    Cách tập:
    Như ở tư thế 1, thời gian ngắn hơn, tập từ 2 đến 5 phút và trụ tâm vào hai lòng bàn tay.
    Lưu ý:
    Nên dùng cách tự kỷ ám thị bằng hai câu tâm niệm như sau:
    Toàn thân thà lỏng
    Tinh thần yên tĩnh
    Nhẩm đọc 3 lần trong đầu để giúp việc nhập tịnh được tốt.
    Khi tập nên kết hợp thêm sự hơi nhóm mười đầu ngón chân lên và giữ như vậy suốt quá trình tập và khi tập nên để tâm vào hai bàn tay và mười đầu ngón chân thì hiệu quả càng tốt

  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Thế 3 - Vi Ðà Hiến Chử (3)


    Tư thế:
    Tiếp theo thế ở trên, hai tay đưa cao lên trên đỉnh đầu thành hình chữ "U" hai bàn tay xoay ngửa lên phía trên (xem hình 3)
    Cách tập:
    Hai tay cố vươn lên cao, trong khi hai gót chân được nhấc cao lên để hổ trợ và bấm những ngón chân xuống đất đặng giữ cho cơ thể được thăng bằng, và ngẩng mặt lên nhìn đôi tay, kéo dài động tác này trong vòng 1/2 phút..
    Lưu ý:
    Phương pháp thở trong khi tập của thế này như sau:
    Hít bằng mũi gom khí vô đầy ngực, nghĩa là suốt quá trình 1/2 phút đồng hồ trong tư thế vươn tay ngẩng mặt và nhấc gót, các bạn chỉ thực hiện một động tác hít hơi mà thôi, các bạn tính thời gian bằng cách đếm nhẩm từ 1 đến 30, vị chi là 30 giây đồng hồ.
    Khi đếm đến số 30 đoạn thở hơi bằng miệng, đồng thời xoay mặt trở xuống nhìn thẳng phía trước như cũ hạ tay và gót chân xuống để chuẩn bị cho thế tập tiếp theo. Người mới tập chưa điều phục được hơi thở chỉ nên tập thế này trong thời gian 15 giây.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này