1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Trước khi tôi mở lớp ( trước hè năm 2005 ) thì tôi chưa hề biết đến vi tính là gì hết cả . Có nghĩa là tôi chưa từng xem hay thâu nhận những bài tập của những môn võ khác ở trên mạng ! Còn xem video hoặc đĩa hình ư ? Thời gian đó tôi chưa từng làm như vậy , ai gần tôi thì đều biết và hiểu . Còn thì hầu như thời điểm đó tôi không hề đi đến những võ đường khác nhau để học hỏi của họ , mà tôi cũng không thích như vậy .
    Năm 2003 tôi vẫn còn rong chơi , không hề có ý gì đến việc Học và Hành Võ Thuật . Chỉ bắt đầu từ năm 2004 đến năm 2005 tôi mới bắt đầu hệ thống hóa và lập giáo trình cho chương trình huấn luyện của lớp tôi . Hoàn toàn những phương pháp đó tôi không hề thấy khi xưa lúc tập võ và tôi dám khẳng định 100% đó là những phương pháp do tôi lập ra .
    Bác không cần phải sửng sốt đâu , vì tôi khác rất nhiều những người như bác . Bởi tôi học của thầy tôi 1 nhưng tôi đã biến ra gấp nhiều lần ..... chứ tôi thấy nhiều người tập được của thầy bao nhiêu thì cứ theo khuôn mà lập lại i sì phoóc . Tôi thấy buồn cười vì lối luyện tập đó bác ạ
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Nghe cái giọng này lại nhớ đến banabinhdinh ​
  3. lanpurge

    lanpurge Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/07/2005
    Bài viết:
    4.955
    Đã được thích:
    481
    bác Viên Anh ơi, chuyện vợ chồng bác ổn chưa ậy ?
    Được lanpurge sửa chữa / chuyển vào 00:39 ngày 08/02/2007
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Thiếu Lâm Hồng Gia hệ ứng dụng thực hành hiện đang được huấn luyện tại công viên Thống Nhất - Hà Nội vào lúc 17h đến 18h30 thứ hai và thứ sáu hàng tuần .
    Với gần 100 phương pháp ứng dụng riêng biệt để nâng cao những kỹ năng về Cương - Nhu , Công - Thủ trong thời gian ngắn nhất .
    Hồng Viên Anh

  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Sự Nhất Quán Tĩnh và Động
    Có rất nhiều người lấy làm lạ khi nghe đến sự Nhất Quán Tĩnh và Động, vì đây là hai trạng thái trái ngược nhau. Nhưng thật ra, cả hai cùng hoà hợp với nhau. Tất cả những kỹ thuật chính tông đòi hỏi hành giả phải ở trong trạng thái Nhất Quán Tĩnh và Động.
    Trong những môn phái chuyên về tĩnh, chúng ta có thể kể ra môn tọa thiền, các phương pháp thổ nạp, tĩnh tọa hoặc cầu nguyện. Trong những môn phái về động, dĩ nhiên, phải nhắc đến võ thuật. Những người theo những phái tĩnh thường rơi vào thói quen sùng bái tình trạng tĩnh lặng, và đưa đến một trạng thái yên tĩnh nguy hiểm. Mặt khác, những người chuyên hoạt động chỉ biết đến phần thể lực và trở nên cuồng nhiệt trong sự hăng hái của họ.
    Hoạt động mà không có tĩnh lặng hoặc tĩnh lặng mà không có hoạt động là một trạng thái hoàn toàn, bao hàm yếu tố của một hoạt tính cực kỳ mãnh liệt và một hoạt tính mãnh liệt tự nó đã tiềm ẩn một sự tĩnh lặng tuyệt đối. Khi chúng ta đang ở trong một trạng thái yên lặng, nhưng thật ra chúng ta đang di chuyển với một tốc độ thật nhanh vì chúng ta đang ngồi trên mặt quả địa cầu đang xoay chuyển... Sự yên lặng của chúng ta đó thực ra nó đang hoạt động một cách không tự chủ và không thể điều khiển được. Những con vụ mà trẻ nít chơi thường đạt đến một trạng thái ổn định khi chúng được quay với một tốc độ thật nhanh. Trạng thái tĩnh lặng thật sự không phải chỉ là sự việc ngồi yên và cho phép tâm ý dật dờ mông lung. Một trạng thái như vậy chỉ làm mất thời giờ của công phu tọa thiền hay thổ nạp.
    Thật ra, chúng ta phải có khả năng di động nhanh chóng tức thì mà vẫn giữ được sự yên tịnh. Chúng ta sẽ di động rất nhanh chóng và mạnh mẽ nếu chúng ta ở trong tình trạng yên tĩnh. Vậy nên, nếu chúng ta phải đối phó với một địch thủ cầm khí giới bén nhọn, thì chúng ta phải có tâm ý tĩnh lặng như mặt hồ, điều nầy sẽ giúp chúng ta di chuyển ăn khớp với những hành động của đối thủ. Những người cứ lo lắng vì những sự gian trá hay những khẩu hiệu cuồng nhiệt không đáng để cho chúng ta nhắc đến. Người bình tĩnh, dù không thể đoán trước trong tâm ý đòn tấn công của đối thủ, nhưng lại có thể cảm nhận được, điều đó mới là tuyệt vời.
    Gìn giữ một sự tĩnh lặng thâm sâu, dù là trong những hành động mạnh bạo, rất là cần thiết trong cuộc sống hàng ngày, giống như biển cả, dù trên sóng dậy vì bão tố, nhưng dưới đáy vẫn luôn luôn yên tịnh. Sức mạnh của hoạt động xuất phát từ sự yên tịnh bẩm sinh. Vì lý do đó, nếu chúng ta yên tĩnh, không để ý đến tốc độ của động tác đang làm, thì chúng ta không có làm trở ngại sự hô hấp. Một người không chế ngự được sự tĩnh lặng đó sẽ bị trở ngại hô hấp và mỗi động tác sẽ trở nên nặng nề. Dù một người nào đó rất giỏi về kỹ thuật đòn thế, nhưng nếu sự hô hấp không đều đặn, thì người đó sẽ không thể thi triển được. Nếu có một đối thủ trước mặt, người đó sẽ bị mất đi sự tự chủ. Nếu phải chiến đấu với nhiều địch thủ, việc mất tự chủ sẽ đưa đến sự hô hấp dồn dập, và sức người đó sẽ yếu dần cho đến không thể cử động chi được.
    Vì thế chúng ta phải luôn luôn nhớ đến tầm quan trọng lớn lao của sự gìn giữ tĩnh lặng trong tác động để có thể tiến bộ trong sự tập luyện võ thuật.
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 10:01 ngày 10/02/2007
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Chúng ta ngày nay tập võ vì điều kiện và môi trường khó khăn cho nên khó có thể mà đạt được đến cái cảnh giới tối cao đó của tiền nhân, nhưng việc luyện tập thân pháp nhanh nhẹn thì cũng chính là một phần của việc luyện tập Khinh Công vậy.... Kinh nghiệm lâm chiến, ra đòn cực kỳ nhanh, phản xạ cực kỳ nhanh, di chuyển cực kỳ nhanh....đều là những yếu tố quan trọng trong một cuộc đấu..... Luyện thân pháp thì môn phái nào cũng có phương pháp đặc biệt cho môn sinh của mình , tuy nhiên phần đông mọi người đều chỉ lo trọng hình chứ không trọng ý, chỉ lo học đòn thế, quyền pháp cho đẹp mà quên mất đi tầm mức quan trọng của thân pháp.... Những Lăng Ba Vi Bộ, Lưỡng Nghi thân pháp, Ảo vân di bộ thân pháp, Vô ảnh bộ pháp....v....v... Không phải là những môn học có tính cách trừu tượng hay là học để múa như nhiều người đã có cách suy nghĩ sai trái....
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 10:07 ngày 10/02/2007
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    BẮC PHÁI NGOẠI GIA

    Trong quyền thuật, Bắc Phái hay Ngoại Gia bao gồm rất nhiều các môn võ khác nhau, được xuất xứ từ các địa phương Hoa Bắc. Cũng như, triết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng được du nhập từ nước ngoài. Về kỹ thuật thực hành, Bắc Phái Ngoại Gia có những đặc tính căn bản như: cương mãnh, nhanh nhẹn, năng động, trực diện, đường thẳng, ngoại lực, tư thế dài rộng,?Căn cứ vào các môn võ nổi tiếng, người ta nhận thấy có 3 loại tổng quát như: Trường Quyền, Đoản Đả, và Địa Đàng (theo sách "Quốc Kỷ Luận Lược" của Từ Triết Đông).
    Trong Trường Quyền, một số môn nổi tiếng như: Thái Tổ, Nhị Lang, Mê Tung, Bát Cực, Phiên Tử, Tra Quyền, Hồng Quyền,? đều có những điểm đại đồng và tiểu dị. Thí dụ như môn Phiên Tử sở trường về luyện tay, môn Phê Quải chuyên luyện về chưởng pháp, còn Tra Quyền chuyên luyện về bước di chuyển. Đó là nét độc đáo của mỗi môn. Ngoài ra, trong lúc tập luyện, hầu hết các môn trong Trường Quyền đều tập trung vào các điểm: tiến thoái nhanh lẹ, nhảy và tọa một cách nhẹ nhàng, khí trầm thế vững, biến hóa linh động, đường quyền dài rộng,?
    Về Đoản Đả, các môn nổi tiếng nhất là Miên Trường Đoản Đả, Lục Lộ Đoản Đả của Đàn Thoái Môn, Thiên Cang Thủ ở vùng Giang Nam, Đối Đả của phái Hồng Tháo,? đều áp dụng quyền pháp nghiêm ngặt, thủ pháp kín đáo.
    Còn Địa Đàng chuyên về nhào lộn, nổi tiếng nhất Lục Hợp Môn, Hầu Quyền, Túy Bát Tiên,?
    Về sau, cả ba môn Trường Quyền, Đoản Đả và Địa Đàng đều được một số các võ phái phối họp lại với nhau. Sau đây là nguồn gốc và lược sử một số các môn võ nổi tiếng đại diện cho Bắc Phái Ngoại Gia Quyền:
    1. Đàm Thoái và Đàn Thoái Quyền:
    Môn võ Đàm Thoái hay còn gọi là Đàn Thoái được du nhập vào Trung Hoa, từ những người theo đạo Hồi ở Tây Tạng, khoảng thế kỷ thứ mười bốn, rất thịnh hành ở tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Về kỹ thuật, môn này có hai nhánh. Những người theo học 12 lộ quyền thường gọi là Đàm Thoái. Còn những người theo học 10 lộ quyền lại gọi là Đàn Thoái. Vào thời nhà Thanh, Hoắc Nguyên Giáp, người ở Hà Bắc, xuống phương nam sáng lập Tinh Võ Hội ở Thượng Hải, và phổ biến môn Đàm Thoái, rất đông người theo học. Về sau, Mã Vĩnh Trinh là người nổi tiếng giỏi nhất về môn Đàm Thoái ở Thượng Hải.
    2. Tra Quyền hay Xoa Quyền:
    Tra Quyền hay còn gọi là Xoa Quyền là một môn võ cổ của Trung Hoa, thuộc Bắc Phái, xuất xứ từ các tín đồ Hồi Giáo người Trung Hoa, thuộc các tỉnh Tân Cương, Thanh Hải, và Cam Túc, vào thế kỷ thứ 14. Môn này có cùng nguồn gốc với môn Đàm Thoái. Cả hai đều được thịnh hành vào thế kỷ thứ 17 tại Trung Hoa. Theo sách Kỷ Hiệu Tân Thư Quyền Kinh của Thích Kế Quang, nhà họ Ôn có 72 đường hành quyền, cùng một dụng ý như Tra Quyền.
    3. Nga Mi Võ Phái:
    Vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L) tại núi Nga Mi Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, võ phái Nga Mi được sáng lập, do nữ sáng tổ Chu Tú Anh, xuất thân từ dòng họ Chu gia giỏi võ, danh tiếng nhiều đời, tại tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Thuở nhỏ, vì cha mất sớm, hai anh em Chu Đức Kiệt và Chu Tú Anh được chú ruột, Chu Đức Võ Thượng Nhân, nuôi dưỡng và truyền dạy võ nghệ rất cẩn thận.
    4. Không Động Võ Phái:
    Võ Phái Không Động được xuất hiện tại núi Không Động, tỉnh Cam Túc, một nơi núi rừng âm u, lạnh lẽo, với một xuất xứ mù mờ, nguồn gốc sáng lập không được xác định. Cách thu nhận môn đồ rất khắt khe và hạn chế.
    5. Võ Phái Địa Đàng:
    Võ Phái Địa Đàng chuyện luyện về các kỹ thuật nhảy nhào, lăn lộn, té người xuống đất. Theo sách Quyền Kinh của Thích kế Quang, ***** của môn võ này là Thiên Trật Trường. Ơû miền Hoa Bắc, võ phái này áp dụng phối hợp với kỹ thuật Trường Quyền. Trái lại, ở vùng Giang Nam, kỹ thuật của Đoản Đả được phối hợp làm căn bản. Ngoài ra, môn võ Túy Bát Tiên rất được xem trọng trong võ phái Địa Đàng. Về sau, Trương Cảnh Phúc, tự là Giới Thần, rất nổi tiếng về Địa Đàng, ở Hà Bắc. Oâng đã từng xuống Hoa Nam, dạy môn Địa Đàng cho Trung Hoa Thể Dục Hội, tại Thương Hải.
    6. Côn Luân Võ Phái:
    Vào thời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 ?" 1425 T.L.) nhà vua xuất công khố trùng tu ngôi cổ tự Bích Vân, trên dãy núi Côn Luân Sơn, thuộc đất Lương Châu, huyện Tiêu Dương, tỉnh Thanh Hải, để cấp cho Chu Đức Võ Thượng Nhân trụ trì tu luyện, và sáng lập võ phái Côn Luân.
    Gần ngày tạ thế, Chu Đức Võ Thượng Nhân đã kế truyền chức Chưởng Môn phái Côn Luân cho Chu Đức Kiệt, một người cháu ruột, cũng là một cao đồ đắc ý nhất của ngài. Ngài còn lưu truyền lại bí kíp "Thái Dương Trường Kiếm Pháp", cùng với thanh bảo kiếm Thái Dương, do ngài dày công nghiên cứu chế tạo, cũng như, môn thuốc giang hồ "Tiêu Nhục Phấn" (còn gọi là Mãng Xà Diệp), cách chế tạo thuốc phấn này do sư phụ của ngài truyền lại.
    Trước kia, Chu Đức Võ Thượng Nhân được thụ giáo với sư phụ Huyền Vân Trưởng Lão, tại Bạch Vân Miếu, trên dãy núi Cửu Huyền Sơn, miền bắc quan ngoại, biên giới Mông Cổ. Nguyên sư phụ Huyền Vân Trưởng Lão, vào thuở thiếu thời, đã tình cờ khám phá ra lá cây "Tiêu Nhục Diệp" (hay Mãng Xà Diệp) qua sự chỉ điểm của người tiều phu Mông Cổ, cư ngụ bên chân núi Cửu Huyền Sơn. Loại lá "Tiêu Nhục Diệp" chỉ mọc trong rừng rậm, nơi có nhiều mnag xà lui tới, vì giống mãng xà có sẵn chất giải độc trong máu, nên khi ăn loại lá cây này, mãng xà không bị nguy hiểm, mà còn tiêu hóa được con thịt vừa mới nuốt vào trong bụng. Ngoài ra, bất cứ động vật nào nhiễm phải chất độc của lá "Tiêu Nhục Diệp", đều bị nguy hiểm đến tánh mạng, vì nhục thể sẽ bị tiêu hủy, từ từ tan ra thành nước. Trên đường giang hồ hành hiệp, mỗi khi muốn làm sạch, tiêu mất thi thể đối phương, người hiệp sĩ chỉ cần cho một lượng vừa phải của "Tiêu Nhục Phấn" vào vết thương trên tử thi. Sau vài phút đồng hồ, tử thi dần dần bị tan biến thành nước mà tiêu mất.
    7. Tung Sơn Thiếu Lâm Tự:
    Võ phái Tung Sơn Thiếu Lâm Tự do Đạt Ma ***** sáng lập, vào năm (520 ?" 529 sau T.L.), tại núi Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam, là một danh môn chính phái, có nề nếp kỷ cương, trong suốt gần 15 thế kỷ. Thiếu Lâm Tự đã được mọi người mến mộ, có thành tích lừng lẫy, danh trấn giang hồ, được giới võ lâm kính nể như một ngôi sao Bắc Đẩu, trên vòm trời võ lâm Trung Hoa.
    Kể từ đời nhà Đường, sau chiến công oanh liệt của 13 vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (năm 627 sau T.L.) dẹp được giặc Vương Thế Sung, từ đó, võ phái Thiếu Lâm vang danh khắp Trung nguyên.
    Trong suốt thời nhà Minh (1368 ?" 1644 T.L.), võ phái Thiếu Lâm Tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, sau khi học võ thuần thục với hai vị thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573 ?" 1616 sau T.L.). Đến đời vua Minh Sùng Trinh (1628), tướng Thẩm Thụy Trinh đã mời các nhà sư Thiếu Lâm Tự: Hồng Kỷ và Hồng Tín đến Thái Thượng dạy võ cho binh sĩ. Khi nhà Minh mất về Thanh triều (1644), các cựu thần văn võ và tôn thất nhà Minh, phần đông, trốn ẩn trong chùa Thiếu Lâm Tự, để ẩn dật và chuyên tâm gắng sức luyện võ, mưu tìm cơ hội khôi phục quốc gia.
    Sau cùng, Thiếu Lâm Tự đã ở vào thời cực thịnh, vang danh trong phong trào "Phản Thanh Phục Minh" của dân Hán, vào thời Mãn Thanh.
    Ngoài ra, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự còn là một lò luyện võ sản xuất biết bao ngoại đồ cao đẳng, nhân tài võ dũng, giang hồ hiệp sĩ, giúp dân giúp nước, khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa, trong những thế kỷ vừa qua. Cũng như, một số chi nhánh Thiếu Lâm Tự địa phương Nam Bắc đã được các cao đồ phát huy như Hồng Gia, Lưu Gia, Lý Gia, Thái Gia, và Mặc gia,? cũng như, rất nhiều võ phái lớn nhỏ được sáng lập tại các địa phương Trung Hoa, đáng kể đến như: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái, Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái, Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Sơn Đông),?
    8. Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái:
    Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái được đặt trụ sở tại chùa Tam Vân Tự, tọa lạc tại phía đông ngoại thành Quảng Châu, tỉnh Phúc Kiến. Ngôi vhùa này đã được xây cất vào thời vua Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên (756 sau T.L.). Vào đời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 sau T.L), vị trụ trì Ngũ Chấn Thiền Sư đến từ Thiếu Lâm Tự, phát động huấn võ cho các vị thiền sư trong chùa Tam Vân Tự. Ngũ Chấn Thìn Sư, dáng người cao lớn khỏe mạnh, là sư đệ của chiêu Đức Sư Trưởng, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự lúc bấy giờ. Vào triều nhà Minh, những vị thiền sư tại Tam Vân Tự đã có lần vang danh trong cuộc chiến thắng bọn "Nụy Khấu" (cướp biển người Nhật) đến cướp phá dân lành, thuộc vùng ven biển, tỉnh Phúc Kiến. Đến đời Mãn Thanh, vì tham gia vào phong trào "Phản Thanh Phục Minh" ngôi chùa này đã bị chính quyền Mãn Thanh đốt phá, và các vị thiền sư đã phải bôn ba trốn tránh tại các tỉnh lân cận như Quảng Đông, Quảng Tây,?và âm thầm phát huy tinh thần võ dũng của Thiếu Lâm Nam Phái.
    9. Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái:
    Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái tu luyện tại chùa Long Sơn Tự, trên núi Bạch Hạc Sơn (hay Long Sơn), thuộc huyện Quan Đồ, phía Tây tỉnh Vân Nam. Võ phái này được sáng lập bởi Nhứt Khánh Thiền Sư, vào hàng sư đệ của Trí Dõng Thiền Sư (Trí Dõng là thầy dạy của Chiêu Đức và Ngũ Chấn Thiền Sư). Vì xuất xứ từ Thiếu Lâm Tự, cho nên, cách luyện tập của Bạch Hạc phái đã được Nhứt Khánh Thiền Sư áp dụng giống y như tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự. Nhứt Khánh Thiền Sư thọ được 91 tuổi. Đệ nhất cao đồ của ngài là Thượng Thái Lão Ni Sư Trưởng lên kế nghiệp, và chỉ truyền dạy 10 ni cô, đều rất giỏi võ nghệ.
    Vào đời vua Thanh Cao Tôn, niên hiệu Càn Long (1736 ?" 1796 sau T.L.), Bạch Hạc Phái tại Long Sơn Tự được truyền đến Ngũ Mai Lão Ni Sư Trưởng, lúc bấy giờ, danh nghĩa Bạch Hạc Phái lẫy lừng trong chốn giang hồ hành hiệp.
    10. Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông):
    Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái, Sơn Đông, được đặt trụ sở tu luyện tại Chùa Bạch Vân Tự, trên núi Mã Dương Cương, thuộc dãy Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc. Nữ sáng tổ Âu Dương Bích Nữ trụ trì tu luyện, và khai sáng võ phái này, vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L.). Xuất thân từ một gia đình yêu chuộng võ thuật, cha của Âu Dương Bích Nữ là Âu Dương Tòng Thiện, một ngoại đồ cao đẳng của Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, thuộc hàng sư huynh trên Chiêu Đức Thiền Sư, cả hai là bạn đồng môn, cùng thụ huấn với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư.
    Nguyên tổ tiên dòng họ Âu Dương, trải qua nhiều đời, rất giàu có và ham chuộng văn học nghệ thuật. Vào đời vua Tống Nhân Tôn (1023 sau T.L.), Âu Dương Tu, tự là Vĩnh Thúc người ở đất Lư Lăng, thi đỗ tiến sĩ, và được giữ chức Thái Tử Thiếu Sư trong triều Tống Nhân Tôn. Về sau, ông xin từ quan, về quê làm trí sĩ, hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ, biên soạn sách "Văn Trung Tập" được lưu truyền trong văn học sử Trung Hoa.
    Về sau, họ Âu Dương, qua nhiều đời tại Tô Châu, chuyên về việc kinh doanh, trở nên một họ giàu lớn, có nhiều ruộng đất, và nhiều cổ phần lớn trong các hiệp hội kinh doanh lớn. Đến đời Âu Dương Tòng Thiện, ngoài văn học còn ham chuộng võ nghệ, sẵn có sức khỏe và trí thông minh, từ thuở bé, cha mẹ đã mời danh sư về nhà truyền dạy võ cho ông. Đến năm 15 tuổi, ông được phép theo học võ tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư. Đến năm 21 tuổi, việc học tập thập bát ban võ nghệ đều tinh thông. Sau khi hạ san Thiếu Lâm Tự, Âu Dương Tòng Thiện giao dịch rất rộng rãi, thường kết giao với các hảo hán giang hồ, dị nhân quái khách, đạo sĩ thiền sư, và tao nhân mặc khách. Cho nên, tại Tô Châu, và khắp mọi nơi lân cận, họ Âu Dương đã vang danh, mọi người đều biết đến. Trong trang trại, lúc nào cũng tấpn ập bạn bè, hàng trăm thực khách từ bốn phương đến thăm viếng lưu ngụ. Vì vậy, khách giang hồ đã đặt tước hiệu cho Âu Dương Tòng Thiện là "Trai Mạnh Thường".
    Âu Dương Tòng Thiện có hai con trai là Tòng Cát, Tòng Đức, và một gái là Âu Dương Bích Nữ. Cả ba anh em họ Âu Dương đều ham chuộng võ nghệ, và được cha tập luyện ngay từ thuở nhỏ, theo phương pháp chính tông Thiếu Lâm Tự. Ngoàira, các tay hảo hán giang hồ qua lại Âu Dương Trang, còn mang ra những đòn hay thế lạ của các võ phái khác nhau, để chỉ dạy cho ba anh em Âu Dương. Khi đến tuổi 17, lần lượt, cả ba đều được đưa lên Thiếu Lâm Tự, theo học tập hai năm liền với sư phụ Chiêu Đức Sư Trưởng. Cả ba anh em Âu Dương đều tinh thông thập bát ban võ nghệ, và đặc biệt giỏi về tài cung tiển và kỵ mã. Riêng về Âu Dương Bích Nữ, nàng thường sử dụng Thiết phiến, một võ khí cá nhân đặc biệt, do Chiêu Đức Sư Trưởng chế ra. Đó là một cây quạt xếp bằng sắt, có 6 dóng đầu nhọn. Khi xếp chụm lại giống như cây giản vuông bằng sắt. Lúc thuận tiện, muốn lấy đầu đối thủ, bất ngờ xòe ra thành cây quạt, với 6 dóng đầu nhọn, cổ đối thủ sẽ bị tiện đứt như bị cưa cắt. Bích Nữ sử dụng món võ khí này rất tinh vi, cho nên, giới giang hồ gọi nàng là "Thiết Phiến Cô".
    Vào thời vua Minh Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 10, với tư cách công dân trung nghĩa, gia đình Âu Dương Tòng Thiện đã lập được đại công, trong việc cứu mạng nhà vua thoát hiểm, và giúp vua phá vỡ cuộc âm mưu phản loạn của nhóm Thuận Vương, tránh được cuộc nội chiến tương tàn, khiến cho dân chúng lầm than, khốn khổ. Do đó, Âu Dương Tòng Thiện đã được vua Minh Thành Tổ sắc phong tước "Trung Dũng Hầu", và toàn gia đình họ Âu Dương được phép dùng chữ "Trung Dũng Tô Châu Đệ Nhất Gia".
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Tự vệ cận chiến (dành cho phái nữ) phần 1
    --------------------------------------------------------------------------------
    Mỗi ngày các bạn nữ đứng trước gương luyện tập. Vừa vận động cơ thể, có thể sử dụng khi cần thiết.
    Đừng quá lo lắng nếu luyện sai chút đỉnh. Các bạn cứ xem như là 1 bài tập thể duc.
    Lưu Ý: Các hành động phải mạnh, dứt khoát. Luôn phải tưởng tượng ra đối thủ đang đứng trước hoặc sau mình.
    good luck.
    Đẩy cằm thúc háng
    Ta đang đi hoặc đang đứng, đối phương ở trước mặt hai tay hắn luồn dưới nách định ôm lấy ta
    - Hai tay ta đưa lên đẩy mạnh vào cằm đối phương
    - Co chân phải thúc mạnh đầu gối vào hạ bộ đối phương, phần thân trên ngã ra đằng sau


    Đập mặt thúc háng
    Khi ta đang đứng, đối phương ở trước mặt, hai tay ôm lấy cả ta vào người hắn
    - Ta ngã người ra sau, sau đó đập mạnh trán ta vào mặt (phần mũi) đối phương
    - Ta co chân phải, ngã người ra sau, thúc mạnh đầu gối vào hạ bộ đối phương

    Thúc bụng kéo khủy
    Ta đang đi hoặc đang đứng, đối phương ở bên phải ta, hắn ôm chặt cả người và tay ta
    - Ta lùi chân trái ra sau, tay phải gập lại thúc mạnh khủy tay vào bụng (hoặc ngực) đối phương
    - Tay trái tóm lấy cổ tay phải đối phương, tay phải tóm luồn xuống dưới cánh tay phải hắn kéo mạnh khủy tay hắn đồng thời xoay người sang bên phải

    ( Trích từ cuốn Thiếu Lâm Hồng Gia - Tác giả : Hồng Viên Anh )​
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    TRUNG HOA VÕ SỬ

    THỜI THƯỢNG CỔ: (trước thời nhà tần, 221. b.c. trước thiên chúa)
    Theo truyền thuyết thần thoại Trung Hoa, vào thời thái cổ hỗn mang, ông Bàn Cổ được sinh ra bởi khí thiêng vũ trụ. Sau đó khoảng hơn mười tám ngàn năm, trời đất mới bắt đầu khai lập theo định luật thiên nhiên. Dần dần, vạn vật và loài người xuất hiện trên quả đất. Trong giai đọan này, các nhà chép sử gọi là thời đại Tam Hoàng, khoảng tám mươi mốt ngàn năm. Theo sử ký của Tư Mã Thiên năm 145 80 BC trước Thiên Chúa), Tam Hoàng gồm có Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Theo sách Thượng Thư Đại Truyện, vua Toại Nhân dạy người biết dùng lửa (tức là thời đại phát minh lửa) Vua Phục Hy dạy người biết cách đánh cá, săn bắn thú rừng (tức là thời đại du mục). Vua Thần Nông dạy người biết làm ruộng vườn, giao dịch họp chợ (tức là thời đại canh nông).
    Tiếp theo Tam Hoàng, truyền xuống thời đại Ngũ Đế (khoảng hơn 474 năm). Ngũ Đế cũng có nhiều thuyết khác nhau. Theo sách sử, thời đại Ngũ Đế gồm có các vua: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Thực ra, năm tên của Ngũ Đế không phải là tên vua, chính là tên của các bộ tộc thời xưa.
    Sau đó, Đế Thuấn nhường ngôi lại cho vua Vũ, thuộc bộ tộc Hạ, để lập nên triều đại nhà Hạ, bắt đầu cho chế độ quân chủ thế tập, cha truyền con nối ngôi vua. Nhà Hạ truyền ngôi được 422 năm, gồm những đời vua như: Vũ, Khải, Thái Khang,, sau cùng là Nhà Hạ bị diệt vong, bởi sự nổi lên của vua Thang, nguyên là tù trưởng của bộ tộc Thương, vua Thang thâu gồm nhiều bộ tộc khác nhau, để dựng nên triều đại nhà Thương, bắt đầu đóng đô tại vùng đất Hà Nam, thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay. Mãi đến đời thứ tám nhà Thương, vua Bàn Canh dời đô sang đất thuộc bộ tộc Ân, cho nên nhà Thương còn được gọi là nhà Ân từ đó. Triều đại nhà Thương (hoặc Ân) truyền ngôi được 661 năm.
    Tại Trung Hoa, các món binh khí bằng đá như: dao đá, búa đá, tên đá,cuốc đá, mác đá, chày đá,, đã đào được ở các vùg đất thuộc làng Ngưỡng Thiều, huyện Thăng Trì, tỉnh Hồ Nam. Theo các nhà khảo cổ, những di tích binh khí bằng đá nầy đã xuất hiện cách nay khoảng 5,000 nam. Điều này chứng tỏ rằng võ thuật Trung Hoa đã khai sinh vào thời Thượng Cổ.
    Theo truyền thuyết Trung Hoa, vua Hoàng Đế (năm 2697. B.C. trước Thiên Chúa) là thủy tổ của Hán tộc, từ miền Bắc, dùng kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền Trung Hoa, đã chiến thắng tù trưởng Xi-Vưu (Chi-You) của Miêu tộc, và chiếm lấy miền đất lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Thiên Chúa.
    Cũng như, dựa vào những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương, các nhà khảo cổ cho rằng phương thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà Thương (năm 1783 1134.B.C.trước Thiên Chúa).
    Hơn nữa, các kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền này còn được thể hiện trong các vũ điệu dân tộc cổ truyền, qua hình ảnh hai vũ công, đầu mang sừng, giống như hai con bò đang lừa thế ôm vật, với đội cặp sừng đánh hút vào nhau.
    Đến đời vua nhà Ân (hay Thương), bộ tộc Ân thường đánh nhau với các bộ tộc khác, cho nên, việc chế tạo những vũ khí bằng đồng rất là phát đạt như: cung, tên, giáo, dao, búa, thương,. Bằng chất đồng. Theo bốc từ ở Ân Khư, trong cuộc chiến tranh với các bộ tộc Thổ Phương và Lữ Phương, người Ân có khi giết chết hơn 2600 người, kẻ địch bị bắt về làm nô lệ.
    Theo sách sử, nhà Thuong (Ân) truyền ngôi được 661 năm, đến đời vua Trụ, vì tham tàn vô đạo, bị diệt vong, về tay người con của Văn Vuong là Vũ Vương. Văn Vương là hậu duệ thuộc dòng dõi tù trưởng (tên Khí) ở đất Thai, vào đời vua Nghiêu và Thuấn, từ phương Bắc di cư đến chân núi Kỳ Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay.
    Vào năm 1134 B.C trước Thiên Chúa, vũ Vương lên ngôi vua, đóng đô ở đất Cảo Kinh, lập nên triều đại nhà Tây Chu, bắt đầu chế độ phong kiến. Đến năm 770 B.C. trước Thiên Chúa, vua Bình Dương đời đô về Lạc Dương, bắt đầu cho nhà Đông Chu. Nhà Chu truyền ngôi được 885 năm (từ 1134 249 B.C. trước Thiên Chúa).
    Theo sử liệu, thời đại nhà Chu là giai đoạn bắt đầu của thời đại kim khí, và các tư tưởng triết học Trung Hoa. Thuật bắn cung và dùng chiến mã xa cũng được phát sinh, với sự hưởng ứng mãnh liệt của giới thượng lưu trí thức. Thuật bắn cung, lúc bấy giờ đã được xem trọng, như là một phần nghi lễ văn hóa, tập quán xã hội, một nghệ thuật cần thiết, trong chương trình giáo dục học đường cho các học sinh ở lớp tuổi từ 15 đến 20.
    Theo sử ký của Tư Mã Thiên, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722- 221 B.C. trước Thiên Chúa), người Trung Hoa đã biết dùng sắt, để thay thế chất đồng, trong việc chế tạo binh khí. Vào thời kỳ này là lúc nhà Đông Chu bắt đầu suy tàn, tiến dần đến diệt vong. Những lãnh chúa ở các địa phương nổi lên chiếm đất, hùng cứ lập nên những vượng quốc tự trị. Xã hội Trung Hoa, lúc bấy giờ, gặp phải nhiều nỗi bất công, trộm cướp, loạn lạc khắp nơi. Những vị anh hùng, hiệp sĩ, giỏi võ hảo tâm, tự nguyện đứng lên thế thiên hành đạo, trừ gian diệt bạo, để giúp đỡ bênh vực dân lành, sức yếu thế cô.
    Vào thời Xuân Thu (772 481 B.C. trước Thiên Chúa), Trung Hoa có hơn 160 nước lớn nhỏ, dưới quyền thống trị của nhà Chu. Sang đến thời Chiến Quốc (từ 481- 221 BC trước Thiên Chúa) trải qua nhiều cảnh chiến tranh, các nước lớn mạnh lần lần thôn tính các nước nhỏ yếu, co nên, nhiều nước bị cảnh diệt vong, chỉ còn lại 7 nước lớn mạnh, tranh hùng với nhau, tạo nên một cuộc chiến quốc sử lâu dài giữa các nước như: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, và Tần.
    Trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, thuật đánh kiếm đã được phổ biến rộng rãi, khắp cả hai miền Nam và Bắc Trung Hoa. Điều ấy đã được minh chứng trong sách "Ngô Việt Xuân Thu"

    Trích từ cuốn Thiếu Lâm Hồng Gia - Tác giả : Hồng Viên Anh ​
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    THỜI TRUNG CỔ: (Từ 221 trước TC đến 684 sau TC )
    Vào năm 249 B.C. trước Thiên Chúa, nhà Chu mất ngôi về tay Tần Thủy Hoàng. Vì biết cách áp dụng chính sách phú quốc cường binh, Tần Thủy Hoàng đã diệt được 5 nước: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu và Yên. Sau đó, vào năm 221 B.C. trước Thiên Chúa, Tần Thủy Hoàng tận diệt luôn nước Tề, thống nhất đất Trung Hoa, và lập nên nhà Tần, với một chế độ quân chủ chuyên chế, tại kinh đô Hàm Dương.
    Để chống giữ giặc Hung nô từ phương Bắc, Tần Thủy Hoàng cho thực hiện "Vạn Lý Trường Thành", dài hơn 1400 dặm, dọc theo biên giới, vùng núi rừng thung lũng, từ Lâm Thao, tỉnh Cam Túc đến tận Sơn Hải Quan. Công trình xây cất này đã gây nên biết bao tốn kém công quỹ , và xương máu, khổ cực từ phía dân chúng.
    Hơn nữa, vì muốn thống nhất tư tưởng ngôn luận, nhà Tần ra lệnh đốt bỏ tất cả sách vở, và bắt chôn sống hơn 460 học trò. Về phương Nam, nhà Tần đem quân chinh phụcc xứ Bách Việt, và di dân hơn 50 vạn để khai hoang lập ấp.
    Vào thời nhà Tần, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh hành, và được minh chứng qua truyện "Kinh Kha Hành Thích Vua Tần" trong sử ký có ghi nhận: "Kha bàn về kiếm thuật trái ý với Nhiếp Cái. Về sau, Kha đâm không trúng Tần Thủy Hoàng, Lỗ Câu Tiễn có nói rằng:-Tiếc thay Kha không tinh luyện môn kiếm thuật."
    Đến đời Nhị Thế Hoàng (năm 209 B.C. 206 B.C. trước Thiên Chúa)vì chính sách quá khắc nghiệt của nhà Tần, dân chúng khắp nơi nổi lên chống lại chính quyền, nhưng đều bị quân Tần đánh dẹp, duy chỉ còn lại binh của Lưu Bang ở đất Bái, và Hạng Võ ở đất Ngô, có đủ sức chống cự với quân Tần.
    Sau cùng, binh của Lưu Bang chiếm được thành đô Hàm Dương, tiêu diệt nhà Tần. Tiếp theo, Lưu bang đánh dẹp được Hạng Võ. Vào năm 206 B.C. trước Thiên Chúa, Lưu bang lên ngôi vua, hiệu là Hán Cao Tổ, lập nên nhà Hán (Tây và Đông Hán), truyền ngôi được 425 năm.
    Theo Hán sử, vào triều nhà Hán, các môn Thủ Bác (võ đánh tay đá chân), Giốc-Để (đấu vật cổ truyền), Đạo Dẫn (nội công hô hấp) và Kiếm Thuật (kể cả các binh khí khác), đều được vua Hán nâng lên hàng quốc sách, được đặt năng trong chương trình huấn luyện binh sĩ. Nhà vua chỉ thị mở các kỳ thi võ dũng, tuyển chọn những người giỏi võ để bổ sung vào tướng lãnh.
    Cũng như, trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí" có đề cập đến "Binh Kỹ Xảo", gồm có 13 thiên, ở thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ Bác (võ đánh tay đá chân) được xếp vào "Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trong việc huấn luyện cho binh sĩ. Ở mục "Vũ Đế Ký" có ghi chép: "... Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba (năm 113 B.C trước Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ truyền)..." cũng như ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: "... Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ Dẫn, gồm có mười hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn".
    Ngoài ra, trong sách "Dưỡng Tín Mệnh Lục" có các chương "Phục Khí Liệu Bệnh Đạo Dãn Án Ma" trình bày về các phương pháp tập luyện hô hấp khí công và nội công tâm pháp.
    Do đó, môn Đạo Dẫn (Nội Công Tâm Pháp) đã có từ xưa, các quyền thuật gia đã áp dụng môn này để hổ trợ cho võ thuật, tăng phần sức mạnh thân tâm.
    Vào đời Hán Hoàn Đế và Linh Đế (năm 147 A.C, sau Thiên Chúa) quan Hổ Bôn là Vương Việt rất giỏi về kiếm thuật và nổi tiếng ở kinh sử. Cũng như môn đồ của ông là Sử A, người gốc Hà Nam được sự chân truyền kiếm thuật của ông.
    Đến cuối đời Hàn, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh hành. Theo sách "Điển Luận" của Tào Phi có chép "Kiếm pháp ở bốn phương đều khác nhau, duy chỉ kiếm pháp ở kinh sư là hay nhất".
    Vào thời Tam Quốc (năm 220 A.C sau Thiên Chúa), y sư Hoa Đà sáng chế phương pháp thể dục dưỡng sinh "Ngũ Cầm Hí" dựa trên các động tác và tính chất của năm loài thú rừng như Cọp, Gấu, Nai, Khỉ, Chim. Cũng như môn kiếm thuật vẫn được phổ biến rộng rãi, và được xem là môn chính yếu căn bản phát sinh ra các môn binh khí khác như thương, côn, chỉa ba, câu liêm, yển nguyệt đao, đơn đao, kích, ... Lúc bấy giờ các danh tướng giỏi về các môn binh khí như Lữ Bố giỏi về môn đánh kích, Tào Phi lúc tuổi trẻ giỏi về môn đánh song kích, cũng như Đặng Triển, quan Phân Úy Tướng Quân nhà Ngụy rất giỏi về kiếm thuật với tay không, Đặng Triển có khả năng đoạt được đao, kiếm, kích...
    Theo Tấn Sử (265 A.D. sau Thiên Chúa), Trần A là người giỏi về trường mâu và đại đao. Bỉnh Tiên giỏi về lối dùng mâu. Sang thời Nam Bắc Triều (năm 420 589 A.D sau Thiên Chúa) vào năm 520 đến 529 Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa từ Ấn Độ đã khai sáng Thiền Tông và võ thuật Thiếu Lâm Tự tại Tung Sơn tỉnh Hồ Nam. Võ thuật Thiếu Lâm Tự được người Trung Hoa xem là một tổ phái ngoại gia quyền, danh trấn giang hồ. Về sau, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng lập ra nhiều chi phái Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông và các danh gia Nam Phái như Hồng Gia, Lý Gia, Lưu Gia, Thái Gia, và Mặc Gia.
    Vào đời vua Lương nguyên Đế (552 A.D sau Thiên Chúa) Trình Linh Tiển tự Nguyên Điều người phủ Vi Châu tỉnh Giang Nam sáng chế môn Thái Cực Quyền, truyền xuống cho Trình Cũng Nguyệt, rồi đến Trình Tất, môn Thái Cực Quyền được đổi tên thành "Tiểu Cửu Thiên" gồm có mười bốn thế và hai ca quyết "Dụng Công Ngũ Chi" và "Tứ Tính Qui Nguyên".
    Sau nhà Tùy (589 618 A. D) đến nhà Đường hưng khởi (618 907) tinh thần võ sỉ đạo Trung Hoa lên cao độ, do bởi chiến công của mười ba vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (627 650) dẹp giặc Vương Thế Sung. Từ đó, võ phái Thiếu Lâm Tự vang danh khắp cả Trung Hoa. Theo Trình Xung Đẩu trong "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông": "... Lúc đó các nhà sư có công gồm có mười ba người, chỉ có Đàm Tông được vua phong cho làm Đại Tướng Quân, còn mười hai vị không muốn làm quan, nên được vua ban cho bốn chục khoảnh đất đai".
    Trích từ cuốn Thiếu Lâm Hồng Gia - Tác giả : Hồng Viên Anh​
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này