1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. _Vien_Anh_

    _Vien_Anh_ Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/10/2006
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Tổng Hội Thế Giới Võ Lâm Đạo Việt Nam đã được giáo sư Vũ Đức chánh thức thành lập , với giấy phép của chính quyền tiểu bang California, USA, cấp ngày 07/07/1982.
    Năm 1910 ?" 198? : Võ sư Huỳnh Kim Hên, hiện là Mã Thanh Long, sanh tại tỉnh Bạc Liêu. Thuở nhỏ, từ 9 đến 19 tuổi, đã theo học võ với người bác ruột hiệu là Mã Thanh Khôn, thuộc võ phái Thiếu Lâm Hồng Gia Quyền. Năm 1936, ông bắt đầu dạy võ cho quân đội Hoàng Gia Cao Miên, tại Nam Vang. Đến năm 1957, ông chánh thức thành lập võ đường Mã Thanh Long, tại Hòa Hưng, Sài Gòn. Trong cuộc đời dạy võ, ôn đã đào tạo rất nhiều huấn luyện viên, và võ sĩ danh tiếng chiến thắng trên võ đài.
    Năm 1917 ?" 198? : Võ Sư Lê Văn Kiển, hiệu là Tám Kiển, người ở Sóc Trăng, tỉnh Ba Xuyên, man Việt Nam. Lúc 12 tuổi, học võ với thân phụ, được chú ý về môn bắn cung. Về sau ông được học võ với nhiều vị lão sư có trình độ võ học cao về lý thuyết lẫn thực hành. Oâng đã thành lập võ phái Nam Tông. Năm 1950, ông có lớp dạy võ tại sân vận động Phan Đình Phùng (Sài Gòn). Năm 1961, ông dạy võ tại Trung tâm Sinh Hoạt Thanh Niên /Chợ Lớn (Khu Đại Thế Giới cũ) và tại sân vận động Cộng Hòa, đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn. Năm 1969, ông được đắc cử Chủ Tịch, tổng hội Võ Học Việt Nam. Nam 1970, ông đã xuất bản sách võ "Thập Bát Liên Châu".
    Năm 1920 ?" sống: Võ sư Lê Sáng, sanh tại Hà Nội (gốc ở Thanh Hóa), theo học võ từ năm 1939 đến 4/1960 với võ sư Nguyễn Lộc, sáng tổ của môn phái VoViNam (gọi tắt của Võ Việt Nam). Trước khi qua đời (vào ngày 4/4/1960), võ sư Nguyễn Lộc đã ủy nhiệm lại cho võ sư Lê Sáng chức vụ Chưởng môn lãnh đạo võ phái VOVINAM . Về sau, võ sư Lê Sáng đã phát triển một hệ thống võ đường huấn luyện cho quân đội, cảnh sát, và dân sự trên toàn quốc, dưới sự lãnh đạo của Tổng Cục Huấn Luyện trung ương tại đường Sư Vạn Hạnh, Chợ Lớn. Trải qua nhiều thăng trầm với thời cuộc, môn phái VoViNam đã thật sự bành trướng mạnh mẽ, sâu rộng trong quảng đại quần chúng Việt Nam.
    Năm 1917 ?" 199? : Võ sư Mai Văn Phát, pháp danh Thích Thiện Tánh, sinh tại xã Thuận Hưng, Thốt Nốt, Long Xuyên. Năm 1929, lên Thất Sơn thụ giáo với ông Huỳnh Trí Đức về võ thuật và thiền tông. Năm 1936, tại Cần Thơ, được gặp võ sư Hia Thêm, đưa về Trung Hoa để truyền dạy võ thuật Thiếu Lâm. Năm 1942, hồi hương Việt Nam. Năm 1943, dạy võ tại Châu Đốc. Năm 1956, lên Sài Gòn trụ trì tại chùa Long Hoa. Năm 1964, chánh thức thành lập võ đường Trung Sơn, tại số 53/22 Trần Khánh Dư, Tân Định (ngang hồ tắm Cộng Hòa cũ). Năm 1971, võ sư đắc cử Chủ Tịch, Tổng Hội Võ Học Việt Nam.
    Năm 1908 ?" 198? : Võ Sư Trần Phú Đáng, sinh tại quận Diên Bàng, tỉnh Quảng Nam. Oâng bắt đầu học võ vào lúc 20 tuổi (1928). Sau 5 năm luyện võ, lần đầu tiên, ông đã chiến thắng trận đấu võ đài được tổ chức tại hội chợ tỉnh Hội An vào năm 1933. Sau đó mỗi 2 năm, các trận đấu võ đài tại hội chợ của các tỉnh (Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam), ông đều có tham dự đấu, có trận thắng hoặc hòa, chưa có bị thất bại. Năm 1954, ông mở phòng tập dạy võ tại Đà Nẵng, về sau, chánh thức thành lập võ đường Trần Hưng Đạo (tại số 50 đường Hàm Nghi, Đà Nẵng). Oâng đã đào tạo rất nhiều võ sinh, huấn luyện viên, đáng kể là hai cao đồ Đặng Ngọc Sách và Nguyễn Văn Vĩnh đã mở hai võ đường riêng, có đông đảo võ sinh trong thành phố Đà Nẵng, vào năm 1970 ?" 71.
    Năm 1910 ?" 198? : Võ sư Bảy Hý (tên thật Lê Công Trứ), sinh tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Lúc 14 tuổi, theo học võ với vị thầy võ tại Duy Xuyên. Về sau, được thụ giáo với võ sư Hiệp Vân, một hiệp sĩ nổi danh vào năm 1930. Oâng đã chiến thắng oanh liệt các trận đấu võ đài tại các tỉnh Hội An, Thu Bồn, Đà Nẵng, vào lúc tuổi thanh niên. Trước 1970, ông thành lập võ đường Lê Huấn, tại Đà Nẵng.
    Tại Đà Nẵng, đồng thời với võ sư Bảy Hý, còn có các võ sư lão thành như:
    -Võ sư Hồ Phước là chú của Hồ Cưu (nhà vô địch tại điạ phương 1940)
    Võ sư Phan Vũ Túc với võ đường Hòa Quang Phái (kiêm Đông y sĩ, Vạn Hưng Đường) tại số 34 đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Oâng rất kỹ lưỡng trong việc thu nhận học trò.
    Võ sư Trương Khả có tính tình rất vui vẻ, rất tận tâm, sốt sắng trong việc dạy dỗ học trò. Vào thời Pháp, ông đã tham gia vào quân đội lính Lê Dương của Pháp và được xuất ngoại rất nhiều nơi như: Pháp, Ý. Trước năm 1970, ông mở võ đường tại xã Thanh Khê 3, ngoại ô Đà Nẵng.
    Võ sư Đặng Văn Vàng với Võ Đường Việt Nam, tại số 132/902 đường Trần Cao Vân, An Cư 3, Đà Nẵng.
    Võ sư Năm Sẻ (tên là Trần Tử Hiếu) với võ đường Nguyễn Trung Trực, tại khóm Hòa Bình, Liên Gia 75, xã Hòa Phát, tỉnh Quảng Nam.
    Võ sư Lưu Thanh Bình với võ đường Lê Trung Hậu, tại xã Hòa Khánh, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
    Võ sư Nguyễn Lự với võ đường Cao Thắng, tại Liên Gia 34, thôn An Hòa, Xã Hòa Phát, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
    Võ sư Tấn Hoành với võ đường thành lập trước 1970, tại ấp Từ Quang, Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
    Võ sư Lâm Võ, tên thật là Lâm Hiến Giới, sinh năm 1910, tại Tây Hồ, Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa). Thân phụ của ông tên là Lâm Hùng Sơn thuộc môn phái Thiếu Lâm Tự. Năm 1945, ông sang sinh sống ở Việt Nam. Về sau, ông dừng chân tại đất Quảng Ngãi, vui sống tuổi về già. Trước năm 1970, ông đã mở võ đường tại ấp Phú Hòa, Tàu Tương (gần cầu sông Trà Khúc), tỉnh Quảng Ngãi. Oâng đã đào tạo được rất nhiều môn đồ võ công xuất sắc.
    Võ sư Thanh Long kiêm Đông y sĩ, với võ đường thành lập trước 1970 tại số 96/10 đường Hoàng Diệu, tỉnh Pleiku.
    Võ sư Lãng (đã qua đời trong biến cố tết Mậu Thân, 1968) thuộc Nga Mi phái, ông đã có lớp dạy võ tại sân vận động Tự Do, Huế.
    Võ sư Nhuận với võ đường ở Bãi Dâu (chợ Dinh) Huế.
    Võ sư Minh với võ đường ở đường Lê Lợi, Huế.
    Võ sư Lê Văn Tường, dạy võ Thiếu Lâm và Bình Định, trước năm 1970 với võ đường Đại Hải, nằm bên quốc lộ 1, Nha Trang.
    Võ sư Võ Châu Long, thuộc phái Bình Định và Thiếu Lâm Nam phái, đã từng là nhà vô địch tại Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Trị. Oâng nổi tiếng gan lì trong nhiều trận đấu võ đài từ Trung vào Nam. Trước năm 1970, ông mở võ đường tại đường Nguyễn Thái Học (gần lò heo) Nha Trang.
    Võ sư Kim Sang dạy võ quyền Tự Do vào năm 1970 với võ đường Kim Sang tại số 30 đường Đồng Nai, sau về số 3, Lê Lai, Nha Trang.
    (Người viết xin cáo lỗi: Vì sự hiểu biết của soạn gỉa có hạn nên còn thiếu sót rất nhiều về phương danh của các bậc võ sư lão thành, thuộc nhiều võ phái khác nhau, trên toàn quốc. Người viết xin cám ơn trước nếu quí vị độc giả bổ khuyết cho phần này. Về tên tuổi, quê quán và hoạt động của các võ sư lão thành, xin gởi về: Giáo Sư Vũ Đức, hộp thư PO Box 6204, Rosemead, CA 91770. Thành thật cám ơn.)
    MÔN QUYỀN ANH (BOXING)
    Trong thời gian quân đội viễn chinh Pháp đặt chân lên mảnh đất Việt, môn Quyền Anh (Boxing), với kỹ thuật tay đấm thần tốc, mãnh liệt, đã được sự ngưỡng mộ nồng hậu của quần chúng Việt. Vào thập niên 1960 ?" 1970, các vị võ sư huấn luyện Quyền Anh đáng kể như: võ sư Minh Cảnh, võ sư Huỳnh Tiền, võ sư Kid-Dempsey, võ sư Trần Mông Lân, võ sư Nguyễn Son, võ sư Lý Huỳnh, võ sư Minh Thành .... Bộ môn Quyền Anh được hoạt động dưới sự chăm sóc của Tổng Cuộc Quyền Thuật Việt Nam.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Philippe (đứng ở bìa phải) trong màn tay không chặt ghế của lão võ sư Hà Châu
    Lão võ sư Hà Châu: ?oNhiều võ sinh còn thiếu một chữ NHẪN?

    TT - Mai danh ẩn tích khá lâu, nhưng ?ođại lực sĩ? Hà Châu vẫn xuất hiện đầy ấn tượng ở tuổi 83, trong chương trình ?oCửu Long hội ngộ? diễn ra tại nhà thi đấu QK7 vào tối 17-9.
    Nói đến võ sư Hà Châu, người ta nghĩ ngay đến một người có sức mạnh phi thường, một cao thủ đứng đầu về ngạnh công, vốn nổi tiếng với việc nằm cho xe hủ lô 12 tấn cán qua người. Tuy nhiên, để mời được ông đến với ?oCửu Long hội ngộ?, BTC phải đi đến lần thứ tư lão võ sư Hà Châu mới nhận lời. Không phải lão võ sư làm eo, mà theo ông thì ?obây giờ giả thiệt khó phân lắm?, sợ rằng sẽ giống như sơn đông mãi võ.
    Từ chuyện ?othật giả khó phân?, chúng tôi hỏi lão võ sư về chữ ?ođạo? của người học võ ngày nay. Thoáng trầm ngâm, ông cho biết: ?oCác em học võ bây giờ phần lớn chỉ là lên đấu để đoạt huy chương. Nhiều em học xong, bước ra ngõ là quên mất tình thầy trò. Học võ nhưng nhiều em lại tỏ ra khá ngông nghênh, ngang tàng bởi thiếu một chữ NHẪN?!
    Vậy Philippe thì sao? Ông đã nói về cậu học trò Tây của mình: ?oCậu ấy rất có khiếu về võ thuật. Tâm tính tốt và hiền lành khiến tôi hài lòng về cậu ấy ngay từ những lần tiếp xúc đầu tiên?.
    Ngoài chuyện giúp đỡ thầy mở võ đường ở đường Trần Não (Q.2, TP.HCM), Philippe còn cùng bạn bè lập trang web honggiahachau bằng tiếng Anh và tiếng Pháp để quảng bá võ học của thầy Hà Châu cũng như của VN cho toàn thế giới biết. Tháng bảy vừa qua, anh cũng đã mời lão võ sư Hà Châu sang Pháp để quảng bá võ học gần một tháng trời. Theo Philippe: ?oThầy đã lớn tuổi rồi, bất cứ điều gì có thể làm thầy vui và sống lâu là tôi sẵn sàng?.
    Cái tình của một võ sĩ nước ngoài đáng để cho những võ sinh VN phải suy ngẫm.
    Đó ! Đến ngay Võ sư - Đại lực sĩ Hà Châu mà còn phải thốt lên : Môn sinh bây giờ còn thiếu chữ Nhẫn thì các bác đã hiểu rồi đó . Còn đâu nữa cái thời mà những đệ tử Võ công luôn luôn toàn tâm toàn ý với sư phụ của mình nữa ..... Buồn !
    Buồn vì cuộc sống bây giờ thực dụng quá đi ​
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Võ Chiến
    Trong kỷ thuật tự vệ cần nhứt là sự bình tỉnh và phán đoán tình huống,vì chúng ta đánh giá được đối phương muốn gì và sẽ làm gì là chúng ta đã giải quyết được vấn đề như Tôn Tử có câu "Biết mình biết ta trăm trận trăm thắng" .
    Tự Vệ Chống Dao
    Trong kỷ thuật tự vệ,chống dao là kỷ thuật cơ bản của tự vệ ,kỷ thuật này giúp cho người tự vệ ý thức được các yếu tố của cách sử dụng dao tấn công và phản ứng khi bị dao tấn công.
    Chúng ta phân tích tâm lý ,cách dùng dao tấn công và phương pháp Tự Vệ :
    Khi đối phương muốn dùng dao tấn công thường có tâm lý quá khích ,tức giận muốn giải quyết các trở ngại vướng mắt,nên có cách sử dụng dao tấn công mạnh,rộng và dài.
    Thường đường dao sẽ rõ và lấy trớn [2 nhịp] .Nếu người tự vệ bình tỉnh sẽ nhận ra được đường dao từ nhịp bắt đầu và nhịp kết thúc đó là thời điểm để chận đánh phản công của người tự vệ .
    Người tự vệ có thể tạo thời điểm phản công qua các thủ thuật nhấp nhử,di chuyển....
    Có thể sử dụng các đổ vật phụ trợ như giầy dép ,áo,túi,cây v.v... để che đỡ hoặc tấn công.

    Tam Thập Lục Chiến:
    -Công chiến :Tấn công nhứt thế,nhị thế và liên hoàn thế.Thắng Biến pháp
    Tiên phát trị nhân:[Ðịnh kế] Xuất thủ trước ÐT
    Lạc tỉnh hạ thạch: ÐT thất thế ,ta nhồi đả (rới xuống giếng thả đá)
    Nhất tiển song điêu: Tấn công 1 lúc 2 mục tiêu-xuất quyền thu trảo
    Sát kê hạch hầu : Ðánh dằn mặt(giết gà dọa khỉ)
    Di thư giá họa: ép khoá đòn ÐT (viết thư giá hoạ)
    Cầm tặc cầm vương: Tấn công điểm yếu (huyệt) (bắt giặc bắt chúa)
    Quá kiều trừu bản : Triệt quan phá gốc (qua cầu phá cầu)
    Hao bác dẩn ngọc: Kiếm đòn (hao tốn được ngọc)
    Lý đại đào cương: Ðổi đòn (lý ngang trái đào liều)
    Sấn hoả đã kiếp: Thời điểm tấn công(châm dầu vào lửa)
    -Thủ chiến :Triệt phá thế nhứt thế,nhị thế và liên hoàn thế.Thắng phản pháp
    Phủ đỡ trừu tân:Triệt lực ,phân lực ÐT (Bớt lửa dưới nồi)
    Dỉ dật đãi lao: Tịnh chế động(lấy khoẻ đãi mệt)
    Ðan trư ngật hổ : đưa sơ hở dụ ÐT (heo đỏ hổ mê)
    Minh trí cố muội: giả ngu dụ phản công (biết mà làm như không biết)
    Tá đao sát nhân : Lấy đòn địch đánh địch( mượn dao giết người)
    Không thành kế : Không thủ gài đòn
    Thuận thủ khiên dương : dẩn tiến lạc không-cầm nả (thuận tay dắt dê)
    Tá thai hoàn hồn: Niêm thủ,niêm thân (mượn thai hoàn hồn)
    Tẩu kế : thoát ngoài vòng kiểm soát của ÐT-Bất chiến bất bại.
    -Phản chiến :Né phản đòn nhứt thế,nhị thế và liên hoàn thế. Thắng Công pháp
    Vô trung sinh hửu: tự nhiên xuất thần-vô ảnh pháp(không có nhưng có)
    Khích tướng kế : Thách thức ÐT theo kế-tự hưng phấn
    Khổ nhục kế : Giả té,đau,dụ ÐT sơ hở phản công
    Minh trí cố muội : giả ngu dụ phản công (biết mà làm như không biết)
    Tá đao sát nhân : Lấy đòn địch đánh địch( mượn dao giết người)
    Ðiệu hổ ly sơn:lui dụ địch ,phản công (dụ hổ rời núi)
    Kim thuyền thoát xác: Né-mài-hụp -đội (ve sầu thoái xát)
    Phản khách làm chủ: đi sau về trước -hoán đòn (chủ động)
    Phản gián kế :Thăm dò thông tin về ÐT
    -Biến chiến :Gài, doạ, nhử, nhá đòn.Thắng Thủ pháp
    Du long chuyển phượng: đo biến hoá (đổi long thành phụng)
    Chỉ tang mạ hoè: nhử thượng đánh hạ (chỉ (mượn) cây dâu chưởi cây hoè)
    Thanh đông kích tây: Nhá tả đánh hữu (dương đông đánh tây)
    Hư trương thanh thế: Thổi phòng uy thế (dọa)
    Ðả thảo kinh xà: Lấy động chế tịnh,,vổ tay ,hù đánh (đánh cỏ rắn sợ)
    ám độ Trần Sương: Rình tấn công-lót bộ lợi địa(lén qua sông trần sương)
    Man thiên quá hãi: Hoa quyền tấn công(Mây mù qua biển,tung hỏa mù)
    Dục cầm cố tung: Ðẩy ép ÐT,ÐT phản ứng theo ý(muốn bắt nhưng thả)
    Mỹ nhân kế : Gây cảm tình (làm ÐT sơ hở)
    Liên hoàn kế : Phối hợp các kế thành liên hoàn
    -Trường chiến : Thường dùng cước pháp tấn công từ xa và phối hợp di chuyển
    -Ðoản Chiến : Thường dùng đoản quyền tấn công và nhập nội
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Khẩu Quyết Chiến Ðấu :
    Vạn sự bất ly phải nghiên thân
    Niêm thủ chú ý cần chỏ trầm
    Trong lúc chiến đấu cần bộ vững
    Nêu cao võ thuật phải siêng năng
    Phân hư thực
    Trửu bất qui hậu
    Ðộng trung cần tịnh
    Trước tiên cần trói khóa
    Nửa đường cần biến hoá
    Xúc thủ cần truy nả
    Sau này cần nhồi đả
    Thu tam lục xuất cửu trường ngủ đoản
    Hoành lai trực xung -trực lai hoành xung
    Công-thủ-phản-biến-Trường -Ðoản
    Kình,Khẩn,Cận,Cấp,Thiết
    Ngủ Ðả pháp :cầm đả,triệt đả,truy đả,chấn đả,niêm đả
    Lai Lưu Khứ Tống
    Ðộng cần khai triển,Tịnh cần khẩn tốc
    v.v...
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Võ Công
    Ngoại công : Phương pháp rèn luyện với các phương tiện dụng cụ đặc biệt ,để nâng cao các khả năng,tố chất của võ công mạnh, nhanh, cứng, dẻo,kín... điển hình như các dụng cụ : Thạch toả (tăng sức mạnh),Mộc nhân (tăng kình lực,rắn chắc tay chân,kín đòn),Thiết tuyến( tăng nội lực),Bao cát(tăng đòn thế liên hoàn...), Cầu(nhanh ,chính xác)Trúc lâm thung(chính xác,phân đòn)Thiên địa thung(phân kình lực)Mai hoa thung(luyện tấn bộ pháp) v.v...
    -Cơ công : Luyện các dụng cụ để phát triển tố chất của cơ bắp
    -Cân công : Luyện các dụng cụ để phát triển tố chất của gân
    -Cốt công : Luyện các dụng cụ để phát triển tố chất của xương
    -Ðại công : Luyện công phu trường kỳ 1 công phu tuyệt kỷ như là Thiết sa chưởng,Thiết bố sam,Thạch đầu công v.v...
    - Nội công : Khai thác và vận dụng sức mạnh nội lực trong cơ thể qua các phương pháp đặc biệt điều khiển các cơ, gân, xương, da, mạch, khí huyết...
    - Khí công : Khai thông kinh mạch và điều khiển hơi thở,nhịp tim,khí lực ,huyết mạch ...
    - Y'' công : luyện về quán thân,quán thức,quán thần...
    - Thần công : luyện về các khã năng đặc biệt
    Kình lực trong võ thuật :
    Lực là sức mạnh chịu đựng của cơ bắp như lực sỉ chịu được sức nặng .Kình là sức bật của cơ bắp,gân, xương và khí huyết.
    Ðiểh hình về kình như :
    Cơ kình : co,dẩy,gồng khi đánh động tác.
    Cân kình : bật khớp,duổi, buônglõng như roi quất v.v...
    Lưu ý: Khi tập các động tác khai kình phải nhớ răng kề răng để không bị long óc nhức đầụ
    Khi luyện kình cần phải tập cho cơ thể có sức chịu đựng ,vì khi khai kình thì sức công phá có thể làm ảnh hưỡng tới kinh mạch.Nên tập các phương pháp tăng cường sức chịu đựng của cơ thể bằng các phương pháp nội khí công ...
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Võ Khí
    Binh Khí Trường :thương,trường côn,đại đao...
    Binh Khí Ðoản : Ðao,kiếm,gậy...
    Binh Khí Nhuyễn : xích,nhị khúc ,tam khúc,ám tiêu...
    Binh Khí Câu : câu,kích...
    Ðao Pháp
    Xin được giới thiệu về môn đao thuật .Ðao thuật có tánh cách mạnh mẽ vửng chắc phù hợp với tánh cách mạnh mẽ của con nhà võ với sự đa dụng và biến hóa của nó làm cho người sử dụng rất thích các kỷ thuật phong phú của Ðao pháp.Ðao có khá nhiều kiểu mẩu đa dụng tùy theo người thích sử dụng tánh năng ÐIển hình như Cửu hoàn Ðao là 1 loại Ðao có gắn 9 vòng tròn vào sống Ðao với tác dụng làm vang lên những tiếng kêu làm cho Ðối thủ rối loạn,không phân biệt .Liểu diệp đao với kỷ thuật luyện kim đặc biệt cây Ðao trở nên rất là dẽo (như lá liểu) rất tiện cho việc cất giấu trong người và cách sử dụng rất khó thường dành cho các cao thủ sử dụng vì Ðộ dẽo của nó,mà người sử dụng phải biết sử dụng kình lực để đIều khiển lưởi đao trở nên cứng rắn trong chiến đấu.Hổ Ðầu Ðao với sống Ðao có răng cưa giúp cho việc gài ,khóa, binh khí của đối phương.v.v...
    Chúng ta hãy tìm hiểu cấu tạo của cây Ðao :
    -Cán Ðao:Phải tròn dẹp từ nhỏ đến hơn lớn (bằng lòng bàn tay)Ðể không bị tuộc khi sử dụng,thường hay có mũi nhọn ở dưới cán để đâm khi trở mũi Ðao.Ngoài ra còn có tấm bảo vệ cổ tay.
    -Lưởi Ðao:có bề mặt rộng giúp cho sức chém mạnh ,phía gần mũi rộng hơn nên tăng sức ra mũi Ðao .
    Lúc Tôi còn học võ được sư phụ truyền thụ cho đao pháp tôi cố gắng tập cho tốt nhưng tập hoài mà vẩn múa không được,bởi vì sư phụ tôi bắt tôi luyện với 2 lưởi đao nên rất khó đIũu động cộng với lưởi đao dẽo cứ lặt lìa không theo sự đIều khiển của Tôi,muốn làm cho 2 tay được đều,nhưng khổ nổi 1 tay còn chưa xong nói chi 2 tay 1 lúc,rồi từ từ dưới sự dìu dắt của sư phụ tôi cũng biết múa may đôi chút.Nhưng sư phụ cứ bảo con luyện Ðao như vậy khó mà thành được ,vì con phải sử dụng 1 lúc phối hợp nội tam hợp và ngoại tam hợp mới đuợc : nội tam hợp là tinh khí thần,ngoại tam hợp là thân thủ bộ với tứ khai là hình ý khí thần thì mới biến hóa vô cùng tận .Sau 1 thời gian với sự luyện tập cộng với các tôi đã tâm đắc được lời sư phụ của tôi trong võ học ,sự biến hóa trong sự vận hàng của võ đạo.
    Trong các loại binh khi sử dụng trong chiến đấu cần yếu tố tốc chiến, tốc thắng mới được vì đao kiếm vô tình ,nên mổi loại binh khí đều phải có 1lối đánh riêng chiến thuật riêng để tăng hiệu quã .nên trong ứng dụng chiến đấu của người xưa truyền lại thường hay loan Ðao trứơc khi tấn công,đó là dụng ý dò xem Ðối phương có những phãn ứng gì,sơ hở gì cộng với khoãng cách ra đòn.Ưu thế của múa Ðao để che kín và tạo sức mạnh cho đường Ðao ,nên người luyện Ðao cần chú mục trong kỷ thuật của Ðao pháp sợ giúp cho người luyện Ðao đáo thần vào cây Ðao và phát Ðòn chính xác hợp lý.trong các kỷ thuật cao của Ðao pháp phải sử dụng được thân pháp phối hợp với bộ pháp ,thủ pháp liên quán với Ðao pháp đạt đồng nhứt,không có chút gián đoạn nhứt là không nên dùng sức lực gồng vào Ðao (vì sức gồng làm giãm tốc độ ,biến hóa của Ðao pháp)phải truyền khí thần vào Ðao pháp mới cảm thấy Ðao là mình ,mình là Ðao.
    +Kỷ thuật căn bản của Ðao pháp:
    -Loan Ðao gồm có 8 thức:nếu người luyện võ luyện tập chuyên cần sẽ phát huy được oai lực của Ðao pháp,biến hóa vô thường .
    Côn Pháp
    Côn pháp phải cần có các yếu tố sau đây :
    Kỷ thuật đàn côn [rung côn ] bằng kình của thân thủ bộ.[Côn xuất như long quy]
    Loan côn phải kín che mắt cá,phía sau...
    Suốt,đổi côn phải nhanh gọn,côn phải di chuyển theo thân thủ bộ...
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Tự thân võ thuật đã có một sức hút rất lớn đối với con người, nhất là thanh thiếu niên. Võ Thuật đáp ứng và thoả mãn được tính hiếu động, nâng cao thể trạng, phát triển năng lực tự vệ, tấn công cho người tập. Ngoài ra sự trình diễn mang tính chất thẩm mỹ cao hoặc các công phu đặc dị cũng chinh phục cảm quan của đại đa số quần chúng nhân dân, các giới, các ngành ..
    Đi sâu vào lãnh vực mênh mông của võ học, tri thức ta tăng tiến dần lên, quan điểm về võ thuật được đúng đắn hơn, đời sống tinh thần phong phú thêm? Thế là sức hút đã đưa ta vào quỹ đạo nhất định, khó thay đổi. Nhiều người thầy võ cho đó là ?oNghiệp? phải theo đuổi mãi, dù rằng trên đường lưu chuyển đã từng gặp không ít khó khăn trở lực.
    Võ Thuật là một chuyên khoa sâu, một ngành văn hoá nghệ thuật do con người tạo ra và di dưỡng. Võ thuật chỉ được xây dựng trên một chủ thể duy nhất, đó là con người và chính con người sẽ làm cho võ học ngày càng một cao rộng phong phú hơn - Sự tương tác hổ căn.
    Lịch sử phát triển của võ thuật gắn liền với đà tiến hoá của loài người. Thưở ban đầu các động tác chiến đấu rất thô sơ, chỉ là những cái tát, vồ, chụp, đấm, đá đơn giản, dần dần được tinh vi hoá sao cho từng tư thế phát đòn phải được hoàn thiện, thuận lợi nhất, nhanh mạnh nhất, hiểm hóc nhất, che giấu được chỗ hở tốt nhất?
    Tùy theo vị trí địa lý, nhân chủng và lịch sử đấu tranh của mỗi dân tộc, mà các trường phái võ thuật được hình thành và có vóc dáng riêng, hoặc thiên về quyền, hoặc thiên về cước, có phái chuyên về vũ khí, hoặc phát triển sâu về khí công, nội công, ngạch công, nhuyễn công v.v.
    Về mặt lý luận môn nào cũng có lý lẽ riêng; về mặt huấn luyện, phái nào cũng có chương trình và các phương thức tập luyện đặc thù. Nhìn chung tất cả đều hay, chỉ tiếc đời người không đủ thời gian và điều kiện để tập hết các môn; thế nên tùy hoàn cảnh, tùy sở thích, tùy cơ duyên mà người tập môn nầy, kẻ khác tập môn khác, tạo nên bầu không khí sinh hoạt võ thuật đặc sắc lan rộng khắp nơi.
    Tuy nhiên thời gian cũng sàng lọc để loại bỏ những gì không phù hợp, không đúng hướng với đà tiến bộ con người. Có những môn võ mất dần sức hút đến nỗi không còn cần thiết trong đời sống nhân loại, người ta không quan tâm mặc dầu môn ấy được dựng thành phim như huyền thoại; xem để giải trí thì được, chứ không ai muốn phải mất thời gian công sức tập luyện những công phu chẳng phù hợp với xu thế thời đại nữa.
    Đáng buồn hơn, ở trường hợp một số môn phái mạnh khác cũng đang kiệt dần sức hút vì mất đoàn kết do mâu thuẫn nội bộ; họ mãi lo tranh giành với nhau các tư lợi nhỏ nhen, những hư danh rỗng tuếch. Thời gian và tâm trí bị mất mát qua các cuộc đấu đá bôi bẩn nhau thay vì lo tập trung tìm tòi, nghiên cứu, hội thảo, bàn luận, chen vai góp sức để làm giàu tài sản chung, khiến cho tinh hoa thui chột, nghệ thuật bị xa dần nguồn cội. Người ngoài nhìn vào vừa chê cười vừa mất lòng tin, người cùng môn phái chỉ biết thở dài ngao ngán.
    Bất kỳ loại tài sản nào muốn tồn tại truyền đời cũng đều trông cậy vào thế hệ kế thừa, nhất là dạng tài sản về văn hoá nghệ thuật. Một môn phái võ đạo cũng không vượt qua qui luật ấy. Thế hệ đi sau phải được tiếp nhận đầy đủ các tinh hoa của nghệ thuật đề làm hành trang tiếp bước cha anh. Ví dụ: Dạy cho đệ tử một miếng võ không những chỉ dạy cho thuộc mà còn phải biết cách dạy để trở thành phản xạ, biết triển khai sử dụng sao cho có hiệu quả. Dạy múa một bài quyền ngoài việc thuộc bài ra, phải hướng dẫn cách bộc lộ được ý nghĩa thâm sâu tàng ẩn, để các động tác được thể hiện bằng sự thông minh trí tuệ, trong khuôn phép Kí Hoà, Tâm Định, Thần Minh. Giống như việc dạy hát của khoa Thanh Nhạc; thuộc bài hát và hát có kỹ năng như phát âm tròn vành rõ chữ, cách ngân nga nhấn nhá đúng cao độ, trường độ giòng nhạc và cường độ biểu lộ tình cảm trong bài hát.
    Nếu dạy hời hợt, không tránh khỏi học cũng hời hợt, nghệ thuật bị phôi pha sau từng đợt kế thừa, sức hút bị yếu dần trước khi mất hẳn, người trong cuộc cũng bị mất phương hướng trước một thứ nghệ thuật phi nghệ thuật.
    Để làm tốt công việc giảng dạy, ông thầy võ cần trang bị cho môn sinh ba thứ chất: Tố Chất, Tính Chất, Phẩm Chất - gọi là : Tam Chất đồng tập - để làm vốn liếng cơ bản cần có ngõ hầu đủ bản lĩnh nhận lãnh trách nhiệm vụ kế thừa .
    TỐ CHẤT:
    Đó là năm tố chất thể lực: - Nhanh - Mạnh - Bền ?" Khéo - Dẽo.
    Nhanh: Các động tác võ thuật được tập trở thành phản xạ, phát ra với tốc độc cao, phù hợp với tình huống diễn biến, đúng thời điểm, chính xác như ý muốn. Cần chú ý các bài tập bổ trợ về phản xạ có điều kiện, phản xạ tự nhiên.
    Mạnh: Sức phát đòn có cường lực lớn, các cú đấm, ngọn đá thể hiện được uy lực dũng mãnh. Lực phát được bắt nguồn từ đan điền, lan ra tay chân bởi các yếu tố hợp lực và các yếu quyết dụng nội lực.
    Bền: Khả năng thực hiện một khối lượng vận động lớn, kéo dài sự duy trì năng lượng cơ và các trạng thái sinh hoá của cơ thể. Mức độ sung sức ban đầu được nâng cao theo ngày tháng tập luyện (tất nhiên có mức bão hoà).
    Khéo: Sự phối hợp đồng bộ của nhiều động tác vi tế phức tạp, nói lên khả năng thực hiện độ khó, sự luyện tập dày công và làm chủ thần kinh.
    Dẽo: Sự mềm dẽo uyển chuyển, vận động có nghệ thuật nhờ vào khả năng mở khớp ở biên độ rộng trên toàn thân thể.
    Các tố chất thể lực nêu trên rất cần thiết cho người luyện võ. Có những trường hợp bẩm sinh đã hội đủ cả năm tố chất, người ta gọi đó là thiên bẩm, hay năng khiếu; nếu được luyện tập đúng mức có thể đạt tới đỉnh cao võ thuật. Trong trường hợp không hội đủ cả năm, vẫn có thể thành công với điều kiện luyện tập thật chuyên cần - Cần cù bù năng khiếu ?" tuy nhiên vầt vả hơn là tỉ lệ đạt thấp hơn. Tiếc thay có những trường hợp ?" Tiên Thiên Toàn Túc, Hậu Thiên Bất Túc ?" sinh ra đã có những tiền tố nhưng không được đào tạo đúng hướng, đúng cách, đành hoài phí đi một nhân tố đầy đủ khí chất, gân cốt tốt tươi.
    Tóm lại cái giỏi của ông thầy võ là biết phát triển năng khiếu, và cũng biết biến sự Bất Túc thành Toàn Túc. Sức hút trở nên mạnh mẽ cũng từ chổ nầy, vì đã mang được võ thuật đúng nghĩa đến cho mọi người bằng tâm đức và tài năng chân chính.
    TÍNH CHẤT :
    Sự hiểu biết về lý luận võ học: Chính là nền tảng vững chắc cho sự thành đạt trong lãnh vự võ thuật. Có người theo tập luyện nhiều năm nhưng vẫn còn mù mờ vì không thông hiểu được các ý nghĩa chiều sâu mang tính uyên thâm, chỉ nắm bắt đường nét rồi suy diễn theo nghĩa thông thường để rồi bỏ qua những đặc trưng qúy giá vế tính triết học, tính sinh học, tính mỹ học, tính võ học của những bài bản, kỹ thuật, hay bài tập trong môn phái. Hiểu biết không cao, tất nhiên tính chất cũng tầm thường, mất phương hướng, lệc qũy đạo vì thiếu lực hút của một nghệ thuật đúng nghĩa.
    Xác định quan điểm đúng đắn về võ thuật: Là điều cần thiết để người tập võ thấy được đích đến và ý nghĩa thành tựu. Quan điểm sai, luyện tập sẽ chệch hướng, thay vì đi thẳng vào trọng tâm của chủ đề, nhanh chóng nắm bắt cái cốt lõi tinh túy, thì họ chỉ đi những vòng hời hợt bên ngoài, uổng phí thời gian công sức, cuối cùng mang tâm trạng chán nản, thiếu tự tin vì càng học tập càng bị lẫn quẩn.
    Sự đam mê và niềm tin: Là nguồn động lực đẩy ta vượt những khó khăn trên hành trình đến với võ đạo. Thiếu đam mê và niềm tin, ý chí sẽ không vững, nghị lực sẽ không bền, dễ bỏ cuộc nửa chừng và nuối tiếc đoạn đường đã qua.
    Nhiệt huyết và năng động: Là lòng hăng hái, không ngại việc, không sợ khó và tháo vát tạo ra nhiều cơ hội để đến thành công. Tuổi trẻ thiếu nhiệt huyết, năng động cũng vô ích như ông già thiếu kinh nghiệm. Cuộc sống không chờ đợi hay thiên vị kẻ lười nhác. Hãy sống thật, sống hết mình, biết chọn đích sống và phấn đấu với sự nỗ lực toàn tâm toàn trí.
    PHẨM CHẤT:
    Tính kỷ luật trong tập thể: Là đức tính cần thiết của con nhà võ, nói lên sự hoà mình, khiêm tốn, biết tự chế, tôn trọng cộng đồng. Sinh hoạt võ thuật rất trọng nghi thức (nhưng không hình thức cứng ngắt) nhắm mục đích giáo dực tính trọng kỷ luật cho môn đồ. Giữ môn qui nghiêm cẩn, là giữ giếng mối cho môn phái được tồn tại và phát triển lâu dài. Vô kỷ luật, ngang tàng ương bướng, gây rối đều là tánh xấu, là tai họạ của tập thể, cộng đồng.
    Hàm dưỡng tu tập tinh thần võ đạo: Điều nầy ta phải làm cả đời bằng ý thức và sự nghiêm túc, vì tinh thần võ đạo luôn hiện diện trong đời thường. Những kinh điển, giáo điều giúp ta nắm vững các mẫu mực nhưng cuộc sống lại cho ta kinh nghiệm. Thiện ác tốt xấu luôn song hành và cọ sát, đôi khi nẩy lửa và đổ vỡ, nhưng nhờ đó mới hiểu được thế nào là võ đạo để chiêm nghiệm, để ngộ và sùng bái.
    Cách đối nhân xử thế: Dù ta mạnh nhưng không được phép cho mình là kẻ mạnh vì người có võ dễ bị ngộ nhận là võ phu, võ biền. Đừng để mờ lương tri hầu phân biệt cho rõ đúng, sai, thiện, ác mà dẫn dắt hành động. Hảy trọng nhân nghĩa và công bằng với mọi người; khi cần phải biết thể hiện tính hiệp sĩ cứu nhân độ thế.
    Đức bao dung, lòng nhân aí: Đây là phẩm hạnh tốt đẹp và cao cả nhất, là chất liệu thu phục, cảm hoá người tốt nhất. Hãy thực hiện thường xuyên trong đời sống dù là những việt nhỏ nhặt, chắc chắn sẽ có một lực hút rất lớn đối với mọi người chung quanh.
    Muốn thành công trong lãnh vực võ thuật, phải luyện tập một cách nghiêm cẩn. Ranh giới giữa đúng và sai rất mong manh. Tập chệch một tí thôi, sẽ hình thành thói quen theo hướng lệch lạc, rất khó chỉnh sửa về sau, ngày càng xa rời đích đến.
    Tố chất, tính chất và phẩm chất không thể đứng độc lập riêng lẻ, mà phải giao thoa, hỗ tương để làm trụ cột vững vàng xây nền nghệ thuật, phát sức hút mãnh liệt với tha nhân đào tạo tốt các thế hệ kế thừa tiếp nối thừa kế một tài sản có giá trị thật sự, gieo nhân tốt cho công cuộc phát triển ở tương lai mai hậu.
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    NỘI CÔNG SƠN ĐÔNG

    CHƯƠNG I:

    Lịch Sử Môn Nội Công
    Ai Là Người Có Thể Luyện Nội Công
    Thành Quả của Việc Luyện Nội Công
    Sự Thiếu Sót của Võ Thuật Ngày Nay

    CHƯƠNG II:

    Mười Khẩu Quyết Ghi Tâm
    Bài Tập Thứ Nhất: Luyện Thân Thủ
    a. Ngũ Bộ Tấn: Lập bộ, Kỵ Mã bộ, Đinh bộ, Chảo Mã bộ và Xả Tự Mã bộ.
    b. Thập Bát Thế Thủ Tụ Lực:
    1) Tiêu Thủ, 2) Câu Thủ, 3) Định Thủ, 4) Cổ Thủ, 5) Trầm Thủ, 6) Bổng Thủ, 7) Phân Thủ, 8) Phao Thủ, 9) Khấu Thủ, 10) Xuyên Thủ, 11) Đao Thủ, 12) Trảo Thủ, 13) Tiêu Chi Thủ, 14) Khai Cung Thủ, 15) Thác Phiên Phách Thủ, 16) Tháp Chủ Viên Hình, 17) Tang Quyền Thủ, 18) Tang Chưởng Thủ.

    CHƯƠNG III:

    1. Quán Tướng Khí Thần Hóa Lực
    2. Bài Tập Thứ Hai: Thiết Tuyến Viên Hình Quyền (Nội Công đại thành)
    3. Phép Chế Vòng Thiết Tuyến
    LỜI TỰA

    Nếu nói trong đời có những ngày đẹp vô cùng thì sáng hôm nay, đối với soạn giả, là một buổi sáng tràn đầy tươi vui hạnh phúc trong lòng. Vì, là một buổi sáng tiếng én reo vui và nắng vàng chan hòa trước cửa mừng đón bài tựa sách Nội Công và Bát Đoạn Cẩm, buổi sáng tạo hóa vui mừng vì có sự sanh ra.

    Vui mừng khác chi người Cha thấy Mẹ sanh con trai đầu lòng?

    Nội Công và Bát Đoạn Cẩm không phải là con đầu lòng của soạn giả, nhưng lần thai ngén nầy có trầm trọng khác thường. Khi ăn, lúc ngủ, giờ vui chơi, lòng soạn giả mênh mênh tưởng nhớ đến thai nhi (nội dung sách). Rồi sáng nay trời đẹp mới nẩy sanh một đứa con chiếu hào quang rực rỡ: ?oNội Công Bát Đoạn Cẩm?, đứa con quí nhập thế, đi vào lòng người, trao trên tay người, vạn triệu tay người, cho người nâng niu trìu mến như đứa con, như đứa em?

    Ai mà không thương con, ai mà không thương em, đứa con, đứa em sáng ngời như hòn ngọc quí.

    Lần sanh đứa con nầy soạn giả quên mọi điều mệt nhọc, quên mọi công lao vì mở mắt ra đã thấy muôn vạn nụ cười tươi ngưỡng mộ.

    Ai mà không sanh con, nhưng sanh được con quí mới là kỳ diệu. Nhưng dù kỳ diệu vẫn có người không nhận ra điều kỳ diệu. Như Phật Tổ xưa cầm Ngọc Như Ý đưa ra trước trăm chúng Thần Tăng liễu ngộ mà chỉ có mỗi Ca Diếp mỉm cười. Ca Diếp là người kế vị Phật, Phật cũng cười.

    Mừng thay, vui thay. Một cũng đủ huống hồ. Phật còn khiêm tốn huống hồ.

    Nay soạn giả đưa đứa con ra liền có vạn bàn tay đưa lên cười, bảo sao sáng nay trời không nắng đẹp, cỏ cây ngoài ngõ không trổ hoa đầy, chim én sao không reo vui chung quanh ghế ngồi. (Thật như thế chớ không phải hứng chí bịa chuyện hoang đường vì tịnh thất của soạn giả có trồng nhiều cây cảnh, chung quanh nhà chim yến làm tổ rất nhiều (trên mái nhà), tối chúng về, sáng chúng bay đi, nhưng sáng nay chúng vui nên ở muộn).

    Nói chi xiết điều vui cho người nghe, cho bằng hữu nghe. Đạo lớn thường vui làm sao nói ra cho người cùng vui. Lão Tử xưa cỡi con trâu xanh lòng vui ngập mà chỉ có Trời hay. Trang Tử vui quá đỗi mà Khổng Tử là bậc Đại Sĩ cũng khó lòng chia nổi như ta chia nhau tách nước trà. Lọ là.

    Nhưng nay thì bậc Cao Sĩ, học giả đông như sao trời, lòng như mây ngũ sắc nên đạo liễu ngộ không cần đến tuổi bạc đầu. Thế nên sách nầy ra bàn tay đón, tiếng cười vui truyền không dứt?

    Vui rồi, mừng rồi, soạn giả đâu có tịch mịch, đâu có như Trang Lão ngày xưa mà phải cỡi trâu ra ngoài quan ải, đánh trống khi vợ bửa nắp quan tài (áo quan, hòm đựng xác Trang Tử giả chết, mấy cháu nhỏ cần mua sách Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh xem thêm cho hiểu đời, các cháu học lên đại học, cao học đủ biết, chưa biết cũng phải học thêm).

    Nói cho rõ để người sơ sơ cũng hiểu là Tu Nội Công và Bát Đoạn Cẩm mà thành tựu thì thân thường được khỏe mạnh, tâm hồn thường được thảnh thơi nên vui thường và cảm ứng được thiên nhiên?.nói cách khác là ?oĐắc đạo giữa đời? (Tu Thiên định đến mức cũng chỉ được như vậy).

    Người xưa nói: ?oThứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa?, chư học giả tâm cơ linh mẫn hẳn đã rõ chỗ Nhất, Nhị, Tam tu đó. Nghĩa là ở nhà tu đắc đạo vui hơn ở chợ, tu ở chợ đắc đạo vui hơn ở chùa, (người chưa đắc đạo chỉ biết nghĩa tu ở nhà khó thành hơn ở chợ và chùa). Thế mà vạn kiếp lưu truyền mấy người đỉnh ngộ.

    Bát Đoạn Cẩm, Nội Công là phép tu thân cho đắc đạo giữa đời chớ không phải chỉ là phép thần phụ trợ làm tăng tiến sức mạnh võ phu thường thức như nhiều bậc phàm phu lầm tưởng.

    Hôm nay Trời mở ra đầy linh khí cho soạn giả nẩy sanh đứa con quí, sanh rồi liền trao cho chư hiền, học giả bốn phương trìu mến dưỡng nuôi làm con chung, sự tốt lành hay không sau nầy tùy nơi nuôi dưỡng mỗi người, còn soạn giả chỉ lưu lại trong lòng một kỷ niệm.

    Nếu đứa con chúng ta lớn lên, nên thân như vầng nhật nguyệt thì soạn giả là người đầu tiên hưởng niềm vui trong sách ấy, mà người dưỡng nuôi đã hóa hợp đạo trời rồi, là đã sánh bạn cùng các bậc vô lâu cổ kim.

    Phép nuôi con (tu luyện) đã sẵn ở trang kế sau đây rồi, mới học giả môn sinh nhẹ tay đỡ lấy. Soạn giả xin có lời thân mến chúc mừng sự hạnh ngộ hôm nay và thành công ngày mai.
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Chương Thứ I

    I. LỊCH SỬ MÔN NỘI CÔNG SƠN ĐÔNG

    Về nguồn gốc lịch sử các môn tuyệt học võ thuật Trung Hoa, các võ gia đương thời cũng như ngày xưa đều có hai khuynh hướng nhận định khác nhau. Một số người cho là mọi môn tuyệt học ngày nay còn lưu truyền đều do ***** Đạt Ma trước tác dùng huấn luyện các tăng tử đệ tử rồi lưu mãi cho đến ngày nay. Nếu có thiếu sót là do người đời quên lạc chánh bổn chớ khởi đầu không chỗ nghĩ bàn. Tức ***** đặt ra là đâu vào đó, đúng nguyên tắc, tinh vi, cao minh tối thượng, v?v? Lớp người nầy hoàn toàn tin nơi chân bổn cổ truyền, coi như giá trị bất di bất dịch.

    Số người khác không tin là ***** trước tác tất cả tuyệt học công phu trong buổi sanh thời. Họ cho rằng một số bài bản và môn học tinh hoa thuộc môn phái Thiếu Lâm đều do các môn đồ ưu tú của ***** và sau nầy trước tác, chế biến. Người ta đưa ra những chứng minh cụ thể về các công trình nghiên cứu giá trị dưới thời vua Càn Long, thời đại võ học cực thịnh cũng như các triều đại trước đó, v..v?

    Nhưng dù bàn cãi sôi nổi đến đâu người ta vẫn để tâm nghiên cứu và luyện tập các môn học cao siêu mà lịch sử của nó còn trong bóng tối.

    Ngày nay văn minh khoa học tiến bộ đến nỗi các khoa học gia có thể khám phá ra những điều mà bộ óc con người thuở xa xưa không thể nghĩ tới và cũng khám phá được một vài điều để thẩm định thời đại phát triển những ngành học thuật, tư tưởng một cách chính xác nhờ dựa vào những dữ kiện lịch sử, tranh ảnh điêu khắc, v?v? mà ngành khảo cổ học đã khai quật được. Những di vật tìm thấy được đưa vào các máy điện tử phân tích và người ta tìm được câu trả lời, dù cho 5-10 ngàn năm máy vẫn trả lời được huống hồ có hơn ngàn năm từ ngày Tổ Đạt Ma trụ trì chùa Thiếu Lâm (sau năm 520 Tây Lịch, sau khi từ Ấn Độ vượt biển sang Quảng Châu được quan đầu tỉnh Quảng Châu đón tiếp rồi được vua Lương Võ Đế mời về triều hỏi đạo lý? nhưng vua nhà Lương không hạp nên ***** sang nước Ngụy ở Lạc Dương nhằm đời vui Hậu Ngụy Hiếu Minh Đế niên hiệu Chánh Quang, lúc bấy giờ đã 23 tháng 11 năm 520. Khi ***** đặt chân lên Tung Sơn chùa Thiếu Lâm thì chắc đã sang đầu năm 521 rồi).

    Những tài liệu, di vật còn rất nhiều nhưng hiện chưa có khoa học gia nào nghiên cứu nên chưa thẩm định rõ rệt. Các sử gia thì lờ mờ biên chép cho có lệ, còn các hệ phái Thiền Học thì thêm vào dư vị thần bí cho thêm phần long trọng, hậu học thì dốt nát dị đoan nên cũng không truy cứu được những gì chân thật của ***** để lại. Người hiếu sự và con buôn khai thác thị hiếu quần chúng bằng cách bày vẽ hoang đường, nhiều thiên cố sự về đời ***** được bày ra, v?v? để bán sách. Rốt cuộc đến đời nay mọi việc chúng ta đều phải suy nghĩ lại. Điều nầy không dễ, chắc chắn là không dễ khi đang thiếu nhiều phương tiện cần thiết để khảo cứu. Vỉệc nầy để rồi có dịp sẽ tính tới, bàn lại cho chánh lý, vì cuộc đời ***** là cả một huyền thoại ly kỳ nhất thời đâu dễ bàn suông.

    Riêng trong ngành võ học, quyền thế về Quyền Luận đã có lắm sự bày vẽ rất nhiều? Trong khoa Nội Công tu dưỡng Thần Lực cũng không thiếu sự vẽ vời: nào là Dịch Cân Kinh, Tẩy Tủy Kinh, Nội Công Đạt Ma, Kim Cang Nội Công, Kim Cang Thần Công, v?v? đủ thứ sách đều gán cho ***** trước tác, kể cả sách bậy bạ viết bừa về nội công không có căn bản gì cả như cái gì là Kim Cang Nội Công, Kim Cang Thần Công, v?v? người đời nghe danh từ Kim Cang (cương) là loại đá quý bán được nhiều tiền nên tưởng đặt tên là bán chạy, mà quả sách đó cũng bán chạy thiệt. Ở trình độ cao hơn có người trí tuệ xem qua bộ Kinh Kim Cang (tên Ấn Độ Va-j-ra Pra-j-na Paramita Su-tờ-ra, là bộ kinh do ngài A Nan Phật, đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca chép lại lời Phật giảng về cách loại bỏ phiền não một cách cấp tốc để thành Phật) nhận thấy sự hay quý của lời giảng dạy và sự tôn kính của nhiều chúng đệ tử của Phật mới đặt ra một loại phép luyện công gán cho tên Kim Cang. Kết quả sách bán chạy và được lưu truyền, sự luyện có thành công hay không đều chưa ai kiểm chứng nhưng vì tôn kính Phật nên người ta nễ luôn chữ Kim Cang, v?v? đó là trường hợp dựa hơi Phật của bọn buôn thần bán thánh đời nào cũng có rất nhiều. Kỳ dư sách dạy luyện Nội Công của ***** chắc chắn không có nhiều bộ như thế, nhiều lắm là một bộ. Với sự giác ngộ thành Phật của một vị ***** (ngài là học trò đời thứ 28 của Phật Tổ Thích Ca đã thành Phật tại Ấn Độ, nói theo võ học, ngài Bồ Đề Đạt Ma là sư điệt đời thứ 28 của ***** Thích Ca) thì ngài có thể viết một cuốn sách dạy về cách luyện cho thân tâm cường kiện linh mẫn tâm hồn hầu mau tinh tấn trong đường tu luyện giác ngộ chánh đạo thành Phật, sách dạy tu luyện thân tâm đó gọi là Nội Công được chia làm nhiều bậc, lớp tùy theo trình độ trí hóa mỗi người học trò, cái đó gọi là tùy duyên giáo hóa. Có khi nội công ẩn trong quyền thế, có khi trong động tác thể thao dạy cho các kẻ sĩ không thích luyện quyền, và phép tĩnh luyện dùng dạy cho các cao tăng không còn thích vọng động múa máy tay chân?Trong ba giới trên có thể viết riêng rẽ mỗi người một cuốn sách tùy theo sở học của mình, việc này như thể người mù sờ voi, người sờ (rờ) đựng đuôi thì nói lên cái đuôi, chỉ biết có cái đuôi, người khác rờ chân voi chỉ biết được chân, kẻ rờ đụng vòi biết vòi voi?. Rồi theo ý kiến riêng mà biên thành sách để đời. Sau có kẻ thông minh đọc cả ba sách mới tổng hợp, phân tích, v..v? rồi viết ra sách mới, v?v? sách mới ra vô số làm người kém trí hóa đâm ra như kẻ ở chợ lạc vào rừng sâu không khỏi ngơ ngác. Nhưng với người trí lực tất đã có chỗ suy nghĩ, có chỗ thấu lý. Chữ Tùy Duyên Giáo Hóa của Phật là ngọn đuốc cho bậc trí giả thượng thừa.

    Thế thì tới đây chắc học giả cũng giảm phần thắc mắc về lịch sử của môn Nội Công. Những phương pháp luyện không có nhiều, sở dĩ có ba phép là đều chỗ tùy duyên, tùy sở thích năng khiếu của người đệ tử mà bậc thầy dạy cho cách luyện vậy thôi. Cách nào cũng tới chỗ hiểu thấu lẽ đạo, tinh thần linh mẫn thân thể cương kiện?

    Nhưng học giả hỏi thêm là do đâu mà có ba phép luyện đó để ngài Đạt Ma huấn dạy đệ tử thì soạn giả xin thưa:

    - Tất cả ba phép luyện Nội Công đều nằm trong giáo lý của Phật Tổ, tiếng nói đời nay gọi là Phép Tu Thiền Định, nhưng có sự biến hóa một chút xíu để thích nghi duyên, đó là điều mà bậc Giác Ngộ Đạt Ma ***** đã mở ra một kỷ nguyên mới mẻ trong lãnh vực Thiền Học, cũng do sự sáng tạo tùy duyên đối cảnh đó mà ngài được tôn xưng là vị Thiền Tổ đời thứ nhất hay là vị Sáng Tổ Thiền Tông Trung Hoa trong khi tại Ấn Độ ngài đứng số 28.

    - Dù vậy cho đến nay những môn đồ Thiền Học của ***** đa số quên hết những giáo lý về Thiền Định cho thành Phật, cũng ít người biết cách luyện Nội Công. Nếu có người biết Thiền Định thì cũng chỉ biết thiền suông chớ không biết cách xài cái Thiền Công (công năng của Thiền định, tức sự kết quả do Thiền định mà có). Người luyện võ cho sự luyện Thiền là môn khác biệt xa vời, kẻ sĩ nhìn về hai phía cũng có chỗ ngờ vực?. cũng đều là ngu si ám chướng che lấp trí tuệ, việc nầy xưa kia Phật gọi là u mê, vô minh che lấp. Trong cuốn Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự soạn giả có viết người cao tăng đã đủ quả Thiền định được chỉ sơ yếu lý là thành quả nội công thường thừa, cái lý ấy là đây vậy. Nhưng tiếc thay đời nay ít ai luyện thiền cho đúng sách vở, mà đa số luyện theo sách Yoga tầm bậy bán ngoài chợ nên ai cố luyện đều bị bệnh trầm trọng mà chẳng thành được gì, soạn giả mất công chữa trị cho nhiều người bị trường hợp nầy có nói tới trong các mục trả lời thơ.

    Giờ đây chư học giả và quân tử, trí giả đều đã rõ chỗ tùy duyên của Tổ thì sự luyện nội công không còn chỗ ngi ngờ phân biệt nông cạn như kẻ mù sờ voi. Khi đã sáng trí thì tất biết, biết thì luyện được thành mà không có chỗ thất bại. Hiện nay nhiều vị Tăng Sĩ và Tu Sĩ, Linh Mục xin nghiên cứu nơi soạn giả bí quyết luyện nội công nầy, chắc chắn rồi đây sở học của các vị ấy sẽ tinh tiến không ít. Đạo lành mạnh thể chất linh mẫn tinh thần, sống vui giác ngộ sẽ lan rộng mãi ra không còn là bí truyền, số người chuyên bày vẽ hoang đường vì thiếu hiểu biết phải có dịp suy nghĩ lại. Chắc chắn họ phải suy nghĩ lại vì xưa nay họ nói hoang đường nhiều quá mà tự ngẫm lại bản thân thấy chẳng có thành quả gì ngoài mớ lý thuyết học thuộc lòng trong sách thánh hiền. Đến như tấm thân mang đầy bệnh tật, đau khổ thường xuyên mà cũng không biết làm sao cho được lành mạnh, khổ đầy trong bụng ăn ngủ chẳng vui mà làm sao mơ được lên thiên đàng, niết bàn để thường an lạc, bình an?. Các vị nầy thường thì có tâm cầu tiến nhưng vì không có ai giác ngộ để hướng dẫn nên gặp nẻo cùng đường rồi đâm ra tự lừa mình và thường tự hối, tự trách khi thần trí tịch mịch. Nếu quí vị có đọc qua sách nầy, suy nghĩ kỹ chắc sẽ tìm được lối sáng mà thân thường an vui cực lạc. Thiên đàng tại thế, đắc đạo giữa đời là chỉ cho người sống tại hiện tiền mà thân thường vô bệnh, thần trí thảnh thơi, vui tươi chân chánh. Ai còn câu nệ nầy, khác là chưa biết chỗ thiên đàng?. Dù cho chết đi cũng chẳng thấy được.

    Nói thì dông dài quả thật ra lịch sử môn Nội Công chẳng có gì xa vời huyền bí khó hiểu khó tìm. Nó là sở học bắt nguồn từ môn học Thiền Định của Phật học tại Ấn Độ, do sự sáng kiến tùy duyên của ngài Đạt Ma mà lập ra ba phép truyền dạy cho thiền chúng và cư sĩ ngoại đồ khi ngài trụ trì tại chùa Thiếu Lâm bên Tàu. Khoảng thời gian năm 521 sau Tây Lịch trở đi chưa rõ đích xác là năm nào ngài viết sách, nhưng môn Nội Công do ngài truyền ra là chánh lý. Từ đó về sau nhiều học giả sao chép, sáng tác thêm bớt, mãi cho đến nay hơn 14 thế kỷ rồi. Nhiều bản nội công được bày bán ngoài chợ không chắc chắn là nguyên tác của *****, nhưng có thể cũng dùng luyện tập có kết quả được không nhiều thì ít. Có điều có lẽ khó tập luyện cho đặng thành công vì sự sao chép của người đời là những người chưa biết gì về nội công thì không tránh khỏi có chỗ sai trật, tối nghĩa, phải thông minh lắm mới học được các sách đó.

    Riêng sách nầy, cuốn sách do soạn giả biên soạn và quí vị đang cầm trên tay đây mang tên là Nội Công Sơn Đông cũng chắc chắn không phải là chân bổn của *****. Có lẽ do một bậc học giả uyên thâm về Võ Học và Đạo Lý Thiền Định sáng tác truyền đời. Mặc dù có nhiều huyền thuyết ám chỉ nầy nọ nhưng soạn giả không tin nên cũng không biên vô đây làm bận mắt học giả và đôi khi còn có người để tâm huyền hoặc có hại cho tư tưởng chánh đạo chánh kiến. Chỉ biết đây là phép luyện Nội Công bằng quyền thế, gọi là động luyện, khác hơn tĩnh luyện của các cao tăng trong chùa, (các Thượng Tọa Đại Đức, tiểu nhỏ nhỏ cũng luyện môn nầy tức động luyện cho có sức khỏe và sự linh hoạt thân thể) dùng huấn luyện cho hạng ham võ tăng tiến thể chất sức mạnh đạt đến kinh người, khi khai hợp quyền thế kình lực phát ra không một đối thủ nào chịu nổi, cọp beo, trâu ngựa mà bị một đòn của bậc đại thánh cũng dập xương, nát ruột, tim, gan, tỳ, phế, v?v? là thứ nội công có sức phá hoại ghê gớm. Chính các võ gia bên Tàu thuở trước rất ham luyện tập môn nầy để biểu diễn trong các đoàn hát dạo bán thuốc mà người mình quen gọi là Sơn Đông Mãi Võ. Ngày nay bên Tàu, kể cả Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Nam Dương quần đảo đều có nhiều võ gia chuyên luyện và truyền bá sâu rộng. Tại Việt Nam mấy chục năm trước cũng có vài vị võ gia nổi danh ngoài Chợ Lớn có sức mạnh vô địch có luyện tập, nay vị ấy qua đời, các dụng cụ được con cháu chất đống coi chơi. Có lần soạn giả ghé thăm cố nhân không khỏi thương tâm phút giây, người hay như thế suốt đời cũng chỉ tạo dựng được một mái nhà trong con hẻm chật chội, chết đi tài năng tiêu tan, còn lại chỉ là tấm ảnh lọng kiếng trên bàn thờ sau bóng đèn điện đỏ lờ mờ? Quí vị võ sư cao niên đọc tới đây chắc động tâm nhớ tới vị bằng hữu tài danh nầy. Còn hiện nay không mấy người nghiên cứu rèn luyện ngoài soạn giả ra, cho nên phương pháp vẫn còn được coi như bí truyền.

    Vì chỗ dễ tập, dễ thành, dễ biểu diễn nên các võ gia thuộc ngành bán thuốc dạo ham mộ trình bày, mà người đời biết đến. Do đó soạn giả lấy tên là Nội Công Sơn Đông cho dễ hiểu, cho đại chúng hóa môn học. Kỳ dư cái tựa không thể đủ mang nội ý của sách, mà sách cũng không mang hết được ý của môn học.

    Nhưng dù sao thì cho tới câu nầy, học giả cũng đã biết được nguồn gốc môn học mà chúng ta sắp nghiên cứu tới một cách không có gì mơ hồ xa cách. Mời quí vị sang mục kế tiếp.
    Back to top

  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    I. AI LÀ NGƯỜI CÓ THỂ LUYỆN NỘI CÔNG

    Khác hơn môn nội công tỉnh luyện cần các điều kiện tuyệt đối về tâm trí và sinh lý, v?v? môn Nội Công Sơn Đông nầy ai tập cũng thành công và thành công một cách chắc chắn, mau chóng. Có thể nói đây là môn nội công đại chúng và cấp tốc, thực dụng. Đây là thứ nội công trung đẳng đủ thích nghi cho mọi môn sinh tục gia tuổi từ 15 cho đến cụ già 85, gái trai, thiếu phụ con cái đùm đề, trung niên rượu thịt yến ẩm thường luyện tập môn nầy để có sức mạnh hơn người, nhà sư hổ mang, sư rượu Lỗ Trí Thâm, sư phá giới cùng các bậc tăng sĩ dõng lực đều cũng học phép nầy.

    Sở dĩ ai tập cũng được cũng dễ thành mới truyền bá được rộng rãi, rộng rãi và dễ thì thường không được cao minh. Nhưng ở đây có điều khác hơn sự thường. Đạo lý của môn công phu nầy trong vòng 10 năm luyện tập trở lại không thể có môn khác sánh bì. Mười năm trở lên có thể sút kém hơn nội công chính tông thượng thừa, nhưng thời nay có ai luyện được 10 năm? Còn như luyện tập 3 tháng, một năm thì sức mạnh hiện rõ, lấn lướt người thường, bỏ xa quyền sư chuyên luyện quyền lực dù loại quyền gì cũng không tăng tiến bằng. Soạn giả dám đoán chắc như thế, ai có luyện qua cũng đồng ý như thế, học giả luyện vài tháng cũng thấy đúng như thế.

    Nói qua như thế nghe thật ngọt tai nhưng khi bắt tay vào việc luyện cũng phải tránh bớt vài điều: Chẳng hạn khi rượu thịt no thì không nên luyện tập, giao hoan với phụ nữ một đêm quá ba (3) lần sáng ra không nên luyện tập, thời tiết bất thường sanh bệnh thì không nên luyện tập phải đợi hết rồi một hai ngày sau mới luyện tập (người tập thành, cở sáu tháng trở lên không bị bệnh được dù thời tiết ra sao cũng chẳng sao), con gái trước ngày có kinh kỳ một (1) ngày nghỉ tập cho đến một ngày sau khi dứt kinh mới được tập, đàn bà có chửa tởi tháng thứ sáu thì nghỉ tập, sanh đẻ xong hai tháng sau thì tập được, đặc biệt là đàn bà dù giao hoan 3 lần một đêm sáng ra vẫn tập được, đó cũng là luật bù trừ của tạo hóa đặt để để bù lại những ngày kinh kỳ sanh đẻ của họ. Nhưng khi có chửa đến tháng thứ tư trước khi tập phải dùng tấm vải lớn rộng ba (3) tấc Tây quấn chung quanh bụng làm nhiều lần vừa vặn (đừng chặc quá) rồi mới tập, tập xong mở vải ra đem phơi. Nếu nhà giàu dùng vải lụa mềm êm xông (ủ) trầm để buộc bụng mà tập thì sau sanh con thông minh, mạnh khỏe không có đóng cái gì dơ trên đầu đứa con nít. Nhà nghèo thì phải giặt tấm vải cho sạch sẽ (vải trắng hay màu hồng) phơi khô, chớ để thấm mồ hôi lâu ngày dơ bẩn. Gút đai (tấm vải) để xéo bên hông trái, nếu chửa dạ dưới thì quấn đàng trước thấp sau lưng cao cho miếng vải nâng cái bụng lên hơi hơi đừng để cho thòng. Đàn bà chửa tập phải khoan thai (chậm chậm, nhẹ nhàng) hơn thời còn con gái hay đã sanh rồi.

    - Người già 65 tuổi đến 85 tuổi tập nhẹ như đàn bà chửa.
    - Trẻ con 15 đến 20 tuổi tập như thiếu nữ đồng tuổi và đàn bà không có mang.
    - Thanh niên 21 đến 45 tuổi tập nặng theo sự tinh tiến.
    - Tuổi còn sồn sồn từ 46 đến 64 giảm bớt trọng lượng và lần tập tùy theo sức khỏe tiêu hao.

    Người luyện võ và nội công đúng mức tuổi 65 hãy còn sung mạnh như tuổi 40 của người thường nói về các cơ quan sanh lý trong mình, chớ sức đánh đòn thì người thường đang tuổi trai tơ nằm mơ cũng không dám sánh với hàng bô lão, ngay như hạng có luyện tập mà thiếu kinh nghiệm nóng nảy cũng đều bị đòn khi nhảy lăn quăn trước mặt cụ già. Đời nay ít có được cụ già đáng giá như thế vì bảy tám chục năm rồi võ thuật bị bỏ quên phần giặc giả nên cái ăn chưa đủ còn giờ đâu luyện tập, cũng chẳng trách gì. Nhưng nếu người ta biết nghĩ nghèo mà có sức khỏe, sống lâu có phải là vui tươi hơn giàu mà chết yểu, bệnh hoạn như mấy ông tỷ phú đời nay thì tối tối thay vì uống rượu đế, nói dóc, cãi nhau, v?v? người ta tập vài miếng võ có phải đời thêm tươi đẹp không. Trăm sự cũng tại làm biếng, thiếu người dẫn dắt. Nay thì đời đổi khác rồi, dù 7-80 tuổi vẫn còn thích học hỏi thêm, vì người ta biết rằng càng học thì càng thấy đời tươi đẹp, đáng sống đáng yêu, càng học thì tuổi già chạy mất, gần với trẻ, biết vui cái vui tuổi trẻ tức là sống lại tuổi xuân và ngày mai chết cũng sướng rồi đâu có như thuở trước người mới 60 tuổi đã lo làm lễ Lục Tuần rồi sau đó tự coi như mình đã chết, quanh năm suốt tháng ngồi bó gối chờ chết, ăn hại rầy rà làm phiền con cháu, cản trở sự tiến bộ của đám trẻ đang vươn lên. Mấy tháng trước có tin một bô lão 89 tuổi, vị cha già của một dân tộc đông dân nhất thế giới khởi sự học Anh Văn nhằm ngày sinh nhật của ông ta, thay vì ngày đó yến ẩm linh đình? Gạt bỏ màu sắc chánh trị qua một bên ta thấy vị lão thành đó đáng cho thanh niên, bô lão thế giới kính phục cái tinh thần cầu học ấy. Sống mà như thế thì nên sống.

    Hạng đau yếu trầm kha nên tập Hô Hấp (điều tức) theo sách Nội Công Thiếu Lâm Tự. Cơ thể bạc nhược yếu như con gái thì tập như con gái.

    Con nít chưa tới 15 tuổi xương tay còn non lắm không thể tập được, vì cưỡng tập sẽ bị cong xương tay như càng con tôm hay sanh ra cán vá xấu lắm, mất oai phong. Người chân cong càng tôm tay cán vá, hay chân đi chữ bát chàng hảng chê hê, xấp xa xấp xảy hoặc vừa đi vừa nhún nhảy vừa bơi thì không thể là người học võ hay được, cũng không thể có oai. Trong kinh Phật có nói tới 32 tướng tốt của Phật mà chưa nói tới 32 tướng xấu của phàm phu, tưởng các tướng vừa nói tới trên nằm trong tam thập nhị xú tướng.

    Nói là nói như vậy nhưng dù có xấu tướng đến đâu mà chịu khó tập luyện cũng thay đổi tướng lần lần, không tốt như người căn số nhưng cũng hay hơn chính mình rồi vậy. Ai có tướng xấu chớ buồn, rán tu kiếp sau sẽ khá hơn lo gì.

    Soạn giả vui ý viết lung tung học giả theo dõi chắc hơi lan man, nhưng tựu chung soạn giả cốt trình bày các hạng tuổi, hạng người luyện tập được môn học nội công cho đặng đúng sách. Người ta nói làm chánh trị sai lầm làm hại một chế độ, một thế hệ, nhưng viết sách bậy bạ di hại tới mấy mươi thế hệ. Do đó soạn giả tự mình rất đỗi lưu tâm không khi nào dám khinh xuất hay ngẫu hứng nói càn, dù ví dụ vui chơi cũng không thiếu phân lượng cần thiết.

    Điều nầy thiệt tình đã lâu soạn giả vẫn giữ đúng y như thế. Ngay trong việc sống hàng ngày soạn giả vẫn không thể tự lừa mình thì việc bàn luận cùng bằng hữu, chư học giả, soạn giả nhất nhất giữ nguyên đạo lý. Có ai vì chỗ vô tình rổng bụng của soạn giả mà buồn soạn giả thì xin cho biết, soạn giả nhất định sẽ sửa đổi cho đặng như sự mong muốn chánh đáng của mọi người, nhưng phải chánh đáng mới sửa, sửa tầm bậy thì chắc là chẳng sửa đặng đâu.

    Khác hơn thiên hạ ưa bày vẽ điều nầy việc nọ cao minh, chải chuốt lời văn, từng câu từng chữ, soạn giả viết theo sách thường dụng ý, ý soạn giả đúng ý của chư học giả là vui rồi. Từng đoạn từng chương là cuộc bàn luận vừa vui chơi vừa mang lại vài ý kiến bổ khuyết cho học giả nào chưa nghĩ kịp. Do đó chư học giả đọc sách của soạn giả tức là đang nói chuyện chơi với soạn giả đó. Soạn giả suốt đời cũng chỉ muốn vui chơi với học giả để bổ khuyết cho nhau những điều lành mạnh, làm đời sống thật sự có ý nghĩa đáng sống đáng yêu, dù trong cảnh ngộ nào. Soạn giả lòng thảnh thơi nói chuyện thảnh thơi cùng chư học giả thảnh thơi thì mình đều ở chỗ thiên đàng, niết bàn rồi vậy. Võ học là con thuyền (ghe) đưa ta đến chỗ thảnh thơi giống hệt các triết lý tôn giáo lớn trên thế giới chớ chẳng phải quơ múa loạn xạ, đập nhau chảy máu mũi. Động tác đánh đập đá, v?v? chỉ là các động tác bơi thuyền, mà ý, thần tập trung toàn thiện là người ngồi khỏe trên thuyền. Việc luyện thành suốt đời vui tươi lành mạnh hay hóa ra hung ác cũng thể giống như cùng đi trên thuyền mà mỗi người một ý, có đứa định cắt túi ăn cắp tiền người, có đứa định qua sông tìm hại người, v..v? cũng có người ngắm dòng nước chảy, cây xanh in bóng bên bờ lòng phiêu diêu hồn xác thảnh thơi. Người được như thế thì không có gì xấu làm ấn tượng trong tâm, bậc thánh hiền xưa thường được như vậy. Tập luyện võ thuật, nội công ý dẫn khí triền miên vận lực, tâm hồn quên mọi ưu phiền, nghiệp ác, nghiệp tham, nghiệp sân si, v?v? đều bỏ đi tìm người khác mà tá túc. Thường luyện thường quán luyện thì đắc đạo vui tươi giữa đời là như vậy đó. Soạn giả được vui tươi như ngày nay cũng nhờ phép đó.

    Nay nói lại để hậu học có dịp suy gẫm. Xưa nay không khác đạo lý, có khác cách vận dụng biến hóa mà thôi. Khoa học có tiến nhưng tư tưởng đến chỗ cùng tột vui tươi thì hết rồi. Tới chỗ đó khỏi học gì thêm nữa, nói xưa nay cũng vậy thôi là ý như thế. Phật nói trước Phật có Cổ Phật (Phật xưa) đời Phật là Hiện Đại Phật, sau Phật có Tương Lai Phật, cộng lại từ vô thỉ (từ hồi tạo thiên lập địa) có hằng hà sa số Phật (tức Phật đông như cát sông Hằng bên Ấn Độ, nếu ở VN có thể nói Phật đông như cát biển Nha Trang, cát sông Đồng Nai) nghĩa là ai cũng rồi sẽ thành Phật nếu có tu luyện. Trong đạo nội công cũng vậy, ai cũng thành tựu công phu và an nhiên tự tại vui đẹp thảnh thơi trước sau không khác, từ vô thỉ đến đời hậu lai cũng vậy. Chư học giả biết như thế thì còn lo gì việc có tập mà không thành, người buồn khổ lo gì không có ngày vui. Tập đi rồi thấy kết quả hiện ra trước mắt.

    Sách nầy ra, soạn giả hy vọng được nhiều người đọc, đọc rồi vui tươi, hằng hà sa số vui tươi, vui tươi trong mọi cảnh ngộ cuộc đời.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này