1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    II. THÀNH QUẢ CỦA VIỆC LUYỆN NỘI CÔNG

    Cái mộng lớn của mỗi giới trong thiên hạ đều khác nhau, nhưng có chỗ không khác được là khi thành rồi thì thơi thới tấc lòng, hả dạ vui tươi. Sau thời Đế Thuấn, Đế Nghiêu, mộng làm vua khi toại chí thì tấc lòng không được thơi thới chút nào mà còn phải nói quá đỗi khổ sở lo âu là khác, ngành làm giàu cũng chẳng hài lòng khi có của, có của rồi đè lên đầu như núi Ngũ Hành đè Tôn Ngộ Không trong chuyện Tây Du Ký, ăn cơm mà chẳng khác ăn sắt đá, uống nước mà chẳng khác uống dầu hôi? chung qui các hạng cũng tại lòng tham quá nặng, tội nghiệp chất chồng. Xưa nói càng cao danh vọng càng dày gian nan thiệt là đúng lắm thay.

    Có điều trong lãnh vực tu rèn thân xác, thần trí thì không có cái kết quả dày gian nan, buồn thê thảm, lo đến đau thần kinh, mà càng cao danh vọng càng giàu vui tươi. Việc nầy trong đời ai cũng thấy, người tu rèn thân tâm đến chỗ đại thành thân thường an lạc mà người đời khi nhìn thấy cũng lây phần hân hoan. Ví như các cao tăng, tu sĩ, võ gia đến hàng danh vọng thì trong lòng lúc nào cũng cười, môi cũng cười, mặt cũng cười. Cả hai phía đạt đến thành mà thân tâm đều khác là tại bởi người tích của ở ngoài kẻ tích của bên trong. Người có bên trong là thật giàu kẻ có bên ngoài là giàu giả. Giả mới khổ. Ở đời giả làm cái gì cũng nơm nớp sợ, làm giả cái gì cũng khổ đến gần, nay đầy tiền mai tay trắng thần trí hoang mang, nay có quyền mai mất chức tủi nhục ngập lòng tức giận tràn hông. Kẻ vô lại (người bại hoại, xấu, ăn hại xã hội, kẻ dữ, hung ác) thường kết bè đảng như chó hoang hợp đàn, chung đường nhưng cắn nhau, giết nhau thân chẳng khỏe, thần chẳng yên. Người mà khổ nhiều hơn vui thì hơn gì giống súc sinh. Tội thay. Tội nghiệp thay. Bể khổ mênh mông.

    Kẻ ngu để tiền bên ngoài, người khôn để tiền trong đầu. Nhân loại đời nay kẻ khôn không ít, cho con ăn học, lớn tuổi tự rèn?. Là cất của trong đầu, của trong đầu không mất, của trong đầu như đèn. Chữ ít đèn lu chữ nhiều đèn tỏ, ánh sáng là nguồn vui tươi. Của bên ngoài như lấy vách vây người, tới khi vách bít thì hết lối, tối tăm.

    Việc võ gia tu học nội công là cùng đạo lý, của trong đó. Người luyện võ khơi khơi đánh đá bậy bạ năm quyền một cước thì chẳng nói chi, vì ví thành quả cũng đấm đá qua loa, đỡ gạt sơ sài gân cốt chẳng mấy chi co dãn. Còn như người ham mộ võ công thật sự, hằng ngày rèn luyện không ngừng thì thân người, gân xương, da thịt, phế phổi, v?v? sao tránh khỏi hư lao. Xe chạy còn mòn bánh, hư máy, dầu hết, sơn phai? con người lao động tránh sao khỏi luật định. Bởi thế có bậc võ gia than dài, tuổi mới 50 mà gối dùn lưng mỏi? Tội nghiệp, ông ta là người chất phát, suốt đời cũng ham luyện võ công nhưng chỉ biết quơ múa sơ sài, nội công không biết, tuổi 50 mà đòn đánh không đau nổi trai tơ. Nếu như thế thì luyện quyền làm chi? Lại có bậc lão thành tuổi gần 80 mà võ gia cao đẳng, lưng gấu vai hùm bị vỗ một chưởng chân đà tê liệt, chịu trận hết đi. Nội công ngoạn mục, chỉ có thành quả nội công mới giữ sức con người trước giờ tắt thở còn đủ đánh một đòn trí mạng.

    Việc ca ngợi thành quả nội công kể ra không xiết (hết), biểu diễn mới lạ hoài hoài tùy nghi biến chế, tùy trình độ thấp cao, tiểu thành hay đại thành. Cái đó gọi là Nhất thành ứng vạn thành, nghĩa là thành tựu một công phu nội công có thể ứng phó với vạn trường hợp đều thành, suy rộng ra là biến hóa tùy nghi, giống như người biết lội (bơi) thì ở dưới nước muốn bơi kiểu nào cũng được, nào bơi ếch, lội ****, lội sãi, thả ngửa, lặn, v?v? Bởi cái thành nội công đủ biến hóa như thế nên các vị thầy, học giả thành tựu nội công thường bày trò biểu diễn đặt tên đủ kiểu người đời vô học xem qua thấy toát mồ hôi sợ sệt, thoáng nụ cười ngưỡng mộ phục tài? mà ít ai biết đủ trò chung qui có một thành không khác. Khi cỡi được xe đạp rồ bắt qua cỡi xe máy dầu không khó, chỉ thêm mấy động tác vô ga, sang số, rồi tới đi xe hơi (ô-tô) còn khỏe hơn nhiều, thành nội công biến hóa vô lượng là giống như thế. Nhưng nói như thế sao tránh khỏi phiến diện vì cỡi xe, bơi lội, v?v? là các trò đơn giản còn nội công rất đỗi tinh kỳ đặc xảo dày công, nhất cử nhất động đều bao hàm nhiều tình nhiều ý. Phân tách từng chi tiết rất đỗi chi li không hết, nhưng cô đọng tập trung thì nội công hợp được Thân-Tâm duy nhất, người sẽ hóa thần, oai đức, khả năng vô hạn. Do đó người xưa gọi là luyện Thần Công. Thật vậy, chỉ có Thần mới làm nổi những điều người không làm được, có Thánh mới được các đức vị tha và bao dung. Người thành tựu nội công bao gồm các Đức trên nên Thần Thánh không xa người mà đều ở trong lòng phụ trợ, còn quỷ ma (kẻ vô lại với quỷ ma không khác) đều kiêng sợ nên cũng a tòng (theo). Câu xưa Đức trọng Quỷ Thần kinh là chỉ người tu luyện nội công ở mức đại thành. Các bậc danh y cũng đều công nhận vì người thành tựu nội công ngoại tà (ma, loại độc khí) không thể xâm nhập. Người nay hiểu câu trên có chỗ lầm lạc cần sửa lại. Thành tựu nội công thân tâm hợp nhất nên nghĩ tới là động tới, nghĩ cái gì tất được việc đó, ví nghĩ tới chém bể đá bằng cạnh bàn tay là bàn tay đủ lực chém xuống nát đá, nghĩ tới chưởng vỗ bể chum (lu bầu nơi hông) mái (lu lớn bầu nơi hông dùng đựng nước mưa, v?v? còn gọi là Mái vú). Đập nát trái dừa khô, tươi, mũi bàn tay đâm thủng ván, bốc tróc vỏ cây khi nghĩ tới, hàng cao đẳng cho xe cán, búa đánh, dao chem., v?v? đều là dụng ở Ý, vì chỗ hợp nhất vô địch mà tâm vững, tâm định, tâm sáng, tâm bác ái, tâm sanh từ bi thương người ấy là tình. Tình Ý đầy đủ thì không việc gì mà không dễ dàng thông sáng, hạnh phúc? Kết quả thấp của sự luyện nội công là thành tựu Thần Lực, thánh khiết thân tâm, để được mạnh khỏe sức lực vô địch, tránh mọi hư lao, hao mòn tự nhiên của luật trời, phát uy thể lực tới mức tận cùng của con người, tới chỗ Thần. Còn chỗ cao hơn hết trong nội công là tinh thần cô đọng, hợp nhất (định) nên trí hóa cùng mọi năng khiếu phát triển tới mức tối đa, làm việc gì cũng sáng suốt, do sáng suốt mà làm việc gì cũng thành công. Câu Sức khỏe là vàng cũng chỉ để phụ họa, diễn rõ thêm công năng của nội công. Vì thành tựu nội công thì thân tâm mạnh khỏe viên niên, trí hóa minh mẫn trường kỳ thì sự việc tranh đấu trong đời làm ít kết quả nhiều, làm nhiều có lợi vô lượng. Nhưng có điều thành gia nội công vì giác ngộ đạo lý đời nên chỉ để mắt qua loa vài việc rồi ngồi ung dung thảnh thơi vui sống trọn đời. Bởi chỗ đó, cái thiên đàng hằng ngày dùng đủ, là chỗ trẻ mãi không già, tuổi thọ chấm dứt mà hồn nhiên vui tươi. Các mối Đạo, mấy trăm triệu người theo đủ thứ đạo cũng cầu xin được điều đó, nhưng họ quên rằng không thể xin được, mà mình hãy tự giúp mình.

    Nội công dạy tập mà thành, tùy theo căn cơ, năng khiếu tiểu, đại mà thâu đạt kết quả nhỏ lớn, chớ không dạy cách đi ăn mày, há miệng chờ sung rụng hoặc ôm cây đợi thỏ. Bới thế ai học nội công cũng thành mặt mày tươi sáng tự nhiên, thân thể khang kiện thấy rõ, thần thái uy nghi cao thượng khác thường, nghi biểu đường bệ mà dáng cách ung dung, tâm tính trầm ổn, lương trí thuần hậu, khoáng đạt vui vẻ trọn đời.

    Cái thành quả nội công thật thích nghi cho đời sống hàng ngày trong mọi thời đại, mọi giới. Để tu thân, để kinh doanh, để lãnh đạo chỉ huy, làm thầy? thật là một môn khoa học cần ích và cần yếu cho nhân loại vậy. Từ đầu chương đến giờ soạn giả bàn luận về nhiều khía cạnh của sự thành nội công, dù nhiều trang rồi nhưng vẫn chưa hết được vì nội công là hạt kim cương dưới ánh mặt trời, soạn giả chỉ đứng một chỗ nên chỉ nhìn được vài đốm ánh sáng chớp lòe mà không đủ thấy mọi khía cạnh kỳ khu của toàn diện, sau nầy sẽ có bậc siêu phàm khác trình bày ở vị trí cảm quan khác chắc sẽ đặng đầy đủ hơn.

    Trở lại chủ đề cái thành quả của Nội Công Cấp Tốc khi tập cuốn sách nầy thì không cao minh chi cho lắm mà chỉ đủ giúp một võ gia bạc nhược trở thành cường kiện cấp tốc, giúp võ sư có căn bản vượt hàng thượng thừa cấp tốc, v?v? người thường luyện thì đau yếu lặt vặt biến mất, ăn ngon ngủ được, đầu óc minh mẫn thông sáng tự nhiên, thân thể ốm yếu hóa mạnh mẽ, mập phệ, phù thũng hóa ra cân đối tốt đẹp. Thiếu niên (con nít), thiếu nữ, lớn lớn, sồn sồn, già già, đàn bà, đàn ông tập đều tốt lành. Tập rồi sẽ rõ, sự tăng tiến cấp tốc từ thể chất đến tinh thần không thể ca ngợi tôn vinh cho hết được.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    III. SỰ THIẾU SÓT CỦA VÕ THUẬT NGÀY NAY

    Đáng ra chẳng nên bàn tới chương nầy làm gì vì ai cũng biết võ thuật ngày nay hẳn là có những thiếu sót trầm trọng về mọi mặt. Mà chẳng phải chỉ có thời buổi nầy mới có sự thiếu sót đáng được nêu ra, ngay từ xưa vẫn chẳng hơn gì. Xưa nay vẫn thiếu sót, chẳng hơn gì nhau, mỗi thời có cái đặc biệt riêng của nó; rồi cứ cái đà thiếu thốn nhỏ nhoi ấy, Xưa bầy nay vẽ. Rốt cục mấy ngàn năm thiếu sót vẫn còn thiếu sót.

    Người Việt ta vẫn thường ca ngợi tiền nhân là anh hùng, những bậc tài danh, giòng Tiên Rồng, bốn ngàn năm văn hiến,? kêu thật là kêu, nhưng có lẽ bên Tàu cũng còn dùng chữ kêu hơn. Chữ Rồng ở đây được nhiều thứ dân trên bán đảo Đông Dương nầy dùng, giới buôn bán (con buôn) tại Hồng Kông phân hạng Tàu 7 con rồng, Thái Lan 5 con rồng, Việt Nam 3 con rồng. Như vậy dân chúng quốc tế tại Hồng Kông coi nhẹ dân mình rồi. Sao lại chỉ có 3 con? Hạng bét? Nhưng cũng may thay con rồng đây được hiểu là xạo (gian dối, lưu manh, không đứng đắn, lừa đảo, bất tín). Vậy thời hạng bét hóa ra đỡ hơn, đáng mừng hơn. Thà hạng bét hay chẳng có hạng còn hơn. Nhược tiểu, cái gì cũng nhược tiểu, những tinh hoa xứ sở đã chạy ra nước ngoài hết rồi. Cái xạo của xứ sở ta chỉ có một số nhỏ người bảnh bao thế lực truyền đời đã mang ra ngoại quốc hết rồi, những cái hay họ cũng vô tình mang theo, bị ăn cắp, bị ăn cướp, qua các kỳ bị ngoại nhân xâm chiếm? Thế thì thiếu sót lại càng thiếu sót. May là người mình thấp cổ bé mắt nên chẳng mấy khổ tâm mà vẫn thường an vui giả tạm. Than ôi, con gà bên chảo nước sôi còn gân cổ gáy to, vỗ cánh, búng cựa? Người trí lự thấy thế luống những bùi ngùi, kẻ tu hành nhắm mắt miệng niệm kinh cứu độ. Nam Mô A Di Đà Phật, Cứu Khổ Cứu Nạn?. A Men. Xin Chúa hãy tha tội cho chúng nó vì chúng nó quá ngu dại?

    Rồi cũng chẳng ai làm gì cho lợi nước, giàu nhà, thiếu sót trong mọi lãnh vực vẫn hoàn thiếu sót.

    Về võ học bên Tàu ít ra có 7 môn phái lớn truyền đời từ trên ngàn năm, lan rộng ra tới Ngũ Đại Châu v?v.. Kỹ thuật tuyệt học nhân tài đông như rạ (gốc lúa đã gặt rồi, con nít ở thành thị không biết hỏi cha mẹ cho biết, có đứa tưởng cây lúa như cây cổ thụ trong sở thú hoặc cây me bên đường) như kiến cỏ (loại kiến nhỏ ở dưới gốc cỏ, nhiều lắm), nhờ có đông, có tranh nên nhân tài xuất hiện, nổi bậc nhân tài, sách vở có viết, trường ốc có bày ra? nhiều người thì phải còn tồn tại, còn phát triển. Do đó Tàu xưa mạnh nay cũng hườn mạnh, Việt ta yếu cứ việc yếu. Định luật tiên thiên là như vậy rồi, thiếu sót.

    Nghĩ lại con gà gáy và chảo nước sôi chi xiết đau lòng. Văn hóa mình, võ học mình? Anh hùng, liệt sĩ?! Dân tộc ta nghiêng mình, soạn giả lên liếc mắt nhìn mà rơi lệ? Bao đời rồi ông bà mình học sách Tàu, thi kiểu Tàu, ăn theo Tàu, mặc theo Tàu, phẩm bậc vua quan cứ y như hệt, hết Tàu tới Tây, hết Tây u rồi tới Mỹ? chẳng học cái hay, cái dở ở lại đầy. Tiểu thuyết Tàu, Tân Cổ, văn hóa Tây Mỹ (thứ dở) nhà nước có bài trừ nhưng cứ mọc ra?

    Cái hay không ai hỗ trợ, cảnh chiêu hiền đãi sĩ ngày xưa bây giờ không còn. Buôn bán thì được. Ăn thì được. Chơi thì được. Văn hóa bỏ quên.

    Soạn giả đến một cơ quan hỏi mượn một tài liệu để viết cuốn sách thuộc về văn hóa võ học thì giới chức khó dễ đủ điều. Soạn giả viết gần trăm (100) cuốn sách rồi, ít ra cũng có lợi tối thiểu cho nước nhà dân tộc, nhưng người ta vẫn e dè. Soạn giả bỏ cả đời ra sao lục nghiên cứu văn hóa võ công thế giới, học tập rèn luyện đến ốm thân, mỏi gân, rêm xương?.để chẳng ích gì? Muốn làm việc ích quốc thì người ngăn cản. Đây là trường hợp nhỏ nhoi, còn biết bao nhiêu trường hợp trọng đại hơn bị đình trệ từ nhiều đời rồi. Văn hóa bốn ngàn năm thiếu sót, thiếu sót đã bốn ngàn năm rồi?. Cầu cho quốc thái dân an. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát?

    Có ngày nào đó soạn giả đối diện với người lớn nhất nước sẽ nói rõ cảnh tình khó dễ nầy, đố khỏi có người liên miên đọc kinh cứu khổ. Soạn giả vì việc lớn làm như thế chớ tuyệt không vì lợi riêng nên lòng vẫn thảnh thơi. Các vị nên biết cho là nếu các vị cản trở thì soạn giả chẳng những không soạn thêm mà con mang hàng trăm bản thảo ra chỗ công cộng mà đốt thì thử hỏi ai mang tiếng với thế giới. Các vị chớ lo cho cái bụng của soạn giả, vì lâu rồi soạn giả chỉ ăn ngày hai bữa cơm rau, ở chùa cũng được mà ở đình miếu cũng xong một đời mà. Không có sách con cháu quí vị như kẻ bị bịt mắt, người mù lòa, dẫu cho quí vị để lại kho tàng của cải, chúng ăn no mập xác cũng chẳng sướng gì. Mong quí vị thấy việc tệ hại, là tất cả người viết sách nhất tế đốt hết sách, bản thảo chỉ vì quí vị bóp chẹt thì quốc gia nó sẽ ra làm sao?

    Kính chúc quí vị có thẩm quyền sáng suốt.

    Qua một vài khía cạnh nho nhỏ mà soạn giả trình bày như trên nên thuở xa xưa cho đến ngày nay võ học Việt Nam ta (ở VN) chịu một thiếu sót trầm trọng. Soạn giả nhớ mấy mươi năm trước đây, khi mà soạn giả và một vài soạn giả khác chưa viết cuốn nào về bộ môn võ học thì quê hương VN ta thật nghèo nàn. Quí học giả môn sinh cả nước chẳng có tài liệu nào để tìm hiểu để so đo. Giờ đây trong tủ sách võ thuật đã có một số tác phẩm, nhưng vẫn còn thiếu sót rất nhiều, các môn võ mới du nhập thành phong trào, các môn cổ cựu bộc phát, các môn của ông bà xưa mới rụt rịt?nếu không có quốc sách thì rồi cũng mau tàn như chiếc nấm rơm.

    Bên Tây Phương có câu: ?oĐể lại cho con một kho vàng không bằng một cuốn sách?, người ta đã làm như thế và ngày nay quí vị đã thấy địa vị của họ như thế nào trên hoàn cầu và khi họ bước chân đến xứ ta, trong mọi lãnh vực.

    Thư viện càng ngày có nhiều học giả đến, có thêm nhiều sách lành mạnh, có thêm nhiều tác giả mới là thứ ngân hàng giá trị vĩnh cửu; đối với học giả xa phố chợ, sách vẫn là niềm an ủi, nguồn vui sống trong đời. Thế nhưng trong mọi lãnh vực đều thiếu sót, riêng ngành võ thuật lại càng thiếu sót hơn. Giờ đứng trước sự thiếu sót đó người có trách nhiệm phải làm sao, phải làm gì? Hay chỉ đứng thỏng tay chờ, lỏ con mắt ngó, than thở cầu xin?

    Ca ngợi một huyền thoại anh hùng của tổ tiên không bằng bắt tay cầm viên gạch xây một bức tường làm căn nhà nhỏ. Hãy làm căn nhà nhỏ với tất cả nhiệt tâm, hãy hăng say xây dựng một thực tại huy hoàng, dù huy hoàng nhỏ bé. Hãy chớ nhìn quá xa vời một lời hứa hẹn ban ơn. Chớ sợ hãi, và mặc cảm nhược tiểu bằng lời đại ngôn văn hiến, tiên rồng? Thực tế, sung sướng hay đói khổ, mạnh hay yếu, cây có nẩy mầm chăng hay cằn cỗi, tư tưởng ta có phát kiến tân kỳ, có nghiên tập các điều cổ nhân ghi lại? Tất cả những ý ấy làm được là khỏi nói, khỏi gáy VN vẫn có địa vị lắm rồi, dân mình không bị người ta ăn hiếp trên khắp thế giới.

    Soạn giả nghĩ rằng nhà nước phải có một tổ chức đứng đắn để chọn những tác phẩm có ích của các tác giả Việt Nam mà giúp đỡ một cách tận tình trong việc in ra cũng như phổ biến, để làm sống các tài năng và lợi ích quốc dân. Chớ trong tình cảnh tác giả vay tiền Tàu in sách, bị phát hành bóp chẹt v..v?thì tác giả cùn mằn tư tưởng, quốc gia ta rồi con cháu cứ gáy vang 4.000 năm? 5.000 năm văn hiến, con rồng cháu tiên? cũng đều y hệt thuở ban đầu: Thiếu sót. Thê thảm.

    Trước tình thế sách vở thiếu sót thê thảm, soạn giả dù có nhiệt tâm đến đâu cũng chẳng thể đơn côi làm được việc gì, nay viết nên lời nầy không khỏi mất nhiều tâm lực, sự an tâm của việc tịnh tu, thật cũng chỉ vọng tâm muốn cho nhà nước đoái hoài tới những tinh hoa của xứ sở, linh hồn của dân tộc ?" những người cầm bút (viết) ?" mà có sự dễ dãi trong việc phát triển tư tưởng của họ.

    Được như thế thì trong tương lai rất gần sẽ giảm bớt sự thiếu sót, nghèo nàn văn hóa, hầu có dịp bình đẳng với thế giới, nhân loại?. Và các bậc kỳ tài, những tâm hồn lớn của dân tộc tránh được sự phí thì giờ đối phó những chi tiết thường thức nhỏ mọn làm giảm tinh thần sáng tác hữu ích cho thế hệ mai sau.

    Đối với giai cấp võ gia, việc luyện tập, nghiên cứu là cần dù hiện nay có thiếu sót sách vở nhưng so với mấy mươi năm trước vẫn còn hơn, vậy cũng chớ nên phiền muộn. Mà nên nhớ việc tập luyện mới thật là điều tối cần thiết.

    Còn chư võ gia, học giả môn sinh của soạn giả chớ vì nghe lời soạn giả đòi đốt trăm cuốn sách tài liệu trân quý đã sưu tầm được?.mà buồn phiền hay đâm xao lãng việc rèn luyện cá nhân. Soạn giả sẽ không đốt các tài liệu ấy đâu, nếu có đốt sẽ giữ mấy bản gởi ra ngoại quốc lưu trữ trong các thư viện vĩ đại thì cũng chẳng mất hết được. Học giả nào có điều kiện tham cứu thì soạn giả cho biết tên các thư viện đó không lo gì. Ngày nay văn minh, sự đi lại cũng dễ, có tiền nhiều đi lại càng dễ hơn, nếu không đi được thì thư từ cũng đi lại dễ. Biết là tất có chìa khóa trong tay rồi.

    Soạn giả xin chúc chư học giả, môn sinh thành công và nghiên cứu sâu rộng để góp phần xây dựng xứ sở, làm của hồi môn cho con cháu chúng ta sau nầy.
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG THỨ II

    I. MƯỜI KHẨU QUYẾT GHI TÂM

    Mỗi môn nội công đều có tâm pháp riêng biệt, tùy sự cao siêu hay tầm thường, đủ thích hợp với sự diệu dụng các động tác hướng dẫn nguồn lực lượng (khí lực) của châu thân để thi triển (làm cho được) các đòn thế hoặc các động tác trong việc huấn luyện thành công. Nói một cách dễ hiểu hơn là 10 chữ tích chứa các ý nghĩa về sự luyện tập nội công. Muốn tập nội công cần phải nhớ 10 chữ nầy, không nhớ là không thành công. Nhưng nhớ không cũng chưa đủ, mà phải hiểu rõ mỗi chữ ý nghĩa ra làm sao, và khi thi hành đúng như khẩu quyết thì mới có kết quả?

    Trong môn Nội Công Thiết Tuyến (vòng sắt, tập bằng vòng sắt, soạn giả có chỉ cách chế vòng sắt để tập ở Mục Ba, Chương Ba) có 10 khẩu quyết cần được ghi nhớ. Đây cũng là bài học đầu tiên bằng lý thuyết về khoa nội công nầy. Mười chữ khẩu quyết lại chia làm hai hành (hai cách làm) là Thức Hành và Ý Hành. Thức thì làm thành hình thức thấy được qua các động tác tay, chân, hơi thở, v?v? còn Ý thì chỉ tưởng tượng mà không biểu diễn được, nhưng sự điều khiển ý lâu dần làm quen thành hợp với Thức mà hóa ra mỗi động tác diễn tập Nội Công Thiết Tuyến đều bao gồm cả Thức lẫn Ý, nhiều Thức nhiều Ý. Khi đã thuần thục muốn sao thành vậy thì nội công đã thành tựu rồi vậy. Sau đây là 10 khẩu quyết:

    Năm khẩu quyết thấy được:

    1. Tiêu; 2. Câu; 3. Định; 4. Cổ; 5. Trầm.

    Tiêu là đâm, xỉa, ra với mũi bàn tay hay các đầu ngón tay bằng nhiều cách và nhiều chiều hướng khác nhau.

    Câu là các đầu ngón tay chum lại rồi co cổ tay cho mũi các ngón tay chum câu vào phía cổ tay, câu đủ hướng trước sau, trên dưới và ngang.

    Định là đẩy chưởng tới, xuống có gằn và giữ yên.

    Cổ là lấy sức ở ngực điều khiển cánh tay ôm vào hoặc đẩy ra gọi là Cổ Nhập và Cổ Xuất.

    Trầm là dồn sức xuống hai cánh tay đưa ra chưởng nén xuống thảng tay, hai hoặc một cánh tay, mũi bàn tay hướng lên.

    Trên là 5 hình thức thấy được qua cách biểu diễn bằng động tác. Khi luyện tới bài tập chính thì còn thêm nhiều động tác phụ khác không được coi như khẩu quyết.

    Năm khẩu quyết không thấy được:

    Đây là cách vận dụng tâm hợp với ý.

    1. Bách; 2. Nhu; 3. Chế; 4. Cương; 5. Cường.

    Bách là (Ý) nhanh, lẹ cấp kỳ (tùy theo động tác có chỉ rõ trong bài).

    Nhu: Mềm dịu, chậm đều.

    Chế: Biến đổi theo?(để kiềm chế đối thủ).

    Cương: Cứng mạnh, gồng cứng.

    Cường: Mạnh, dụng lực.

    Trên là 5 khẩu quyết hay 5 yếu quyết dùng áp dụng thích nghi với từng động tác bài tập sẽ học tới. Tùy thế mà có sự biến hóa thay đổi khẩu quyết, dụng ý mà điều khiển đôi tay và phát uy toàn bộ nội lực. Khi đã được như ý mà biến hóa thì gọi là thành công. Các ý niệm nầy phải phối hợp với 5 động tác hữu hình trên và các động tác phụ sẽ học sau để tạo nên những động tác liên tục: đẩy ra, ôm vào, trầm xuống, định lại, câu lên, đâm tới, v?v? với tốc độ gấp rút, chậm đều, khi gồng khi buông, lúc mạnh lúc yếu, biến đổi cấp kỳ? hơi thở điều hòa khi hô khi hấp đúng pháp đúng môn, tập lâu thành tựu nội lực không thể đo lường được. Khi thành công mỗi diêu động của quyền chưởng lanh lợi khôn ngoan mà lực phát không cần lấy trớn đánh tới như các quyền thế thông thường. Do đó quyền gia nội công đánh người dễ trúng, trúng dễ mà chịu nổi đòn thật không dễ có người. Ví như thông thường một quyền đánh ngay be sườn đối thủ chưa chắc thọ thượng, nhưng thành gia nội công để bàn tay áp nhẹ trên sườn rồi lắc cạnh bàn tay một cái rụp là sườn gãy lìa rồi. Bởi vậy khi giao đấu với những người già cả, cao niên hoặc những võ gia điềm đạm, tay chân chậm chạp rù rờ như mỏi như mệt, làm biếng cử động thì hẫy coi chừng kẻo hung hăng mà họa vào thân. Ông bà xưa bảo con cháu học võ bệnh chết là có ý rầy bọn trẻ học lóm mấy miếng võ rồi đâm hung hăng gặp người lớn giáo huấn mà khổ thân, chuyện ấy không phải là vô lý. Xưa nay không khác coi đó làm gương. Câu Nghé con không biết sợ cọp là để chỉ hạng trai tơ đời nay đó. Liệu hồn.
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    I. BÀI TẬP THỨ NHẤT: LUYỆN THÂN THỦ

    Tưởng không cần hướng dẫn phần nầy, vì đa số học giả môn sinh bây giờ đã biết qua các thế tấn cùng các đòn thuộc bộ tay gọi là Thủ Pháp, nhưng để lập lại cũng như giúp người chưa biết võ luyện tập ngay nội công trước khi bắt đầu học quyền nên soạn giả trình bày đủ bộ thân thủ cần thiết cho bài học nội công trong sách nầy. Vì là bài luyện Động Nội Công nên phải có di chuyển, mà di chuyển thì phải biết cách đi cho đúng mới hô hấp đúng, hô hấp đúng thì khí lực thu phát mới vẹn toàn. Biết được như thế thì coi như đi gần phân nửa đoạn đường rồi?

    A/ Ngũ Bộ Tấn:

    Để có đủ chân đứng diễn tập hết bài Nội Công Thiết Tuyến, học giả phải thực hành đúng nguyên tắc 5 thế tấn sau: Lập Bộ, Kỵ Mã, Đinh Bộ, Chảo Mã, Xà Tự Mã Bộ. Học giả phải đứng đúng nguyên tắc từng bộ một, sau biến đổi theo thứ tự từ trên xuống rồi đảo ngược lại, sau hết là tùy nghi từ thế nào biến qua thế nào cũng được. Khi động thì nín hơi, khi tịnh bộ thì hô hấp.

    (Xem 5 hình: 1-2-3-4-5)

    Lập Bộ: Thân người đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên hông, đoạn thu tay lên nắm lại thành quyền hai bên hông.

    Kỵ Mã Bộ: Hai chân nhảy banh sang hai bên cho hai bàn chân cách nhau một khoảng cách bằng 6 tấc Tây, người to con phải 7 tấc, kế rùn gối xuống, lưng vẫn thẳng, hai chỏ vẫn kẹp sát hai bên nách sau. Mắt nhín thẳng.

    Đinh Bộ: Bàn chân phải khép mũi bàn chân vô cho ngay giữa bàn chân trái, uốn gối chân phải cho thẳng lên như cây trụ chịu vách tường sắp đổ vậy, hông cũng xoay theo với bàn chân khép, mắt nhìn về hướng trái.

    Chảo Mã Bộ: Bàn chân phải mở mũi về bên phải trong khi hông xoay theo về bên phải, đồng thời chân phải rút về gần chân trái bằng một vai và chân phải co lên chỉ có mũi bàn chân chạm mặt đất.

    Xà Từ Mã Bộ: Đặt bàn chân phải xuống và mũi bàn chân xoay qua cho hai bàn chân song song nhau, đoạn chân trái bước qua trước chân phải và đặt bên kia chân phải, hai chân tréo nhau.
    [​IMG]
    Tập đủ bộ rồi đặt chân trái về vị trí sát bàn chân phải, hai bàn chân khít nhau, thân thẳng đứng là thế Lập Bộ Tấn như ban đầu. Để sau đó tập lại 1 ?" 2 ?" 3 ?" 4 ?" 5. Và khi nào thành thục liền tập nghịch lại.
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    B/ Thập Bát Thế Thủ Tụ Lực:

    Thập Bát Thế Thủ Tụ Lực là 18 thế diễn tập căn bản để biết cách phát huy sức lực trong người sẵn có vào các bộ phận theo ý muốn hầu có ứng dụng lợi ích tối đa khi muốn sử dụng đòn thế áp chế đối phương khi dụng võ. Thông thường một người luyện thuần thục một vài bài quyền cũng có đôi chút sức lực khi khởi động quyền thế, nhưng nói là có đủ sức hạ thủ trong một đòn thì chuyện đó ít có được, ngay như các võ gia, võ sư ngày nay khi muốn đánh bại đối phương còn phải tháo mồ hôi và tốn nhiều thì giờ? (coi võ đài thì biết). Đối với các hạng, môn võ khác cũng không khác gì, ngày nay ít ai luyện nội công, một sức mạnh tiềm ẩn trong người, nên khi lâm trận tốn nhiều đòn nhiều thế, người xưa không luyện quyền suông như ngày nay. Cái ngày nay nầy dùng chỉ các nước nhược tiểu vùng Đông Nam Á, Mên, Mọi Thái Lan, Lào, Việt Nam, v?v? chớ người Nhật Bổn đã biết áp dụng phương pháp luyện nội công sơ đẳng trong cách phình bụng cho đối thủ vô đòn ngay từ khi học đòn thế thứ nhất, nên dù nội công người Nhật Nhỉ Man không cao thâm cho lắm nhưng Nhu Đạo (tại Nhật) mà lên tới 7-8 đẳng rất là đáng ngại. Các nước nhỏ nhỏ thiếu uy tín dù có mang đẳng cấp nào, tước hiệu gì cũng chỉ là vẽ bùa cho nhau đeo hưởng chút danh dự địa phương mà thôi. Đường có đi mới biết. Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Ra nước ngoài mới thấy người ta luyện tập mà ham, mà tủi cho thân phận mình. Mọi lãnh vực, nói hoài không hết? sách nầy in ra, ngày mai kia hy vọng có nhiều nhân tài phát hiện trong lớp thiếu niên văn võ song toàn mới mong nở mặt nở mày với các nước tiền tiến. Soạn giả viết tới đây cảm thấy buồn quá vì nghĩ rằng ông bà mình hồi xưa hay quá, số một trong Bách Việt khi còn ở bên Tàu, sau di dân tới Việt Nam cũng còn uy tín võ công hàng ngàn năm: nào đánh bại nhà Hán, nhà Thanh, nhà Minh, quân Hung Nô Mông Cổ, các nước phên dậu Mên, Mọi Thái Lan, Lào v?v? phải chầu hầu triều cống cây chuối Sứ, con voi bằng đồng trong sở thú là chứng tích còn lại. Thế mà bây giờ cái gì cũng còn lu mờ cũng thua sút người ta. Có những thằng mọi ông bà nó ngày xưa quì gối tung hô ông bà mình mà giờ nầy chúng cũng oai hơn mình, phương tiện hơn mình?

    Võ công là phương tiện rèn đúc chí khí của người nam tử, trượng phu, kẻ sĩ, văn công là phương tiện mở mang trí hóa, tài thao lược trị bình, v?v? nếu người thanh niên không chịu học luyện thì biết bao giờ mới giữ được tiếng thơm danh dự của tổ tiên mình vốn là giống tinh hoa nhất hồi xưa (sách sử bên Tàu cũng ghi chép như vậy). Tới đây soạn giả xin quí vị võ sư vui lòng nghĩ ngợi chút ít, xa xăm? để huấn luyện cho em cháu của mình ngoài các miếng võ cường thân, thêm được đôi phần tư tưởng lành mạnh hầu sau nầy chúng có dịp phụng sự nước nhà cho đặng đắc lực tao nên vẻ vang xứ sở. Có như thế tiếng thơm của quí vị không nhỏ.

    Đời mình lớn tuổi rồi, đã hỏng, thì cố gắng đào tạo cho học trò tài giỏi hơn mình thời hậu lai mới có sự ghi ơn rạng rỡ. Chớ nên tự mãn với vốn hiểu biết sơ sài, địa phương rồi cứ ngồi bó gối cười đời tự mãn trong gian nhà lá vách đất của mình, hoặc ấm ức cứ nhè hạ, dìm lũ trẻ con cháu đương lên. Người phu xích lô có con cho ăn học thành luật sư (hồi xưa gọi là Quan Trạng Sư), bà bán chè đậu đen, bán cá, rau hàng bông ngoài chợ nuôi con cho ăn học đậu bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, cử nhân (nhơn), tiến sĩ, người nông dân (làm ruộng rẫy) cho con ăn học tới nơi tới chốn làm thầy người ta ngày nay là chuyện ai cũng thấy. Đó là điều đáng ca ngợi. Con sãi sẽ hết quét lá đa. Nước sẽ tiến?. Các vị võ gia quân tử biết nâng đỡ phát triển học trò của mình cho được thành tài thì mới là một ông thầy biết tự trọng, là một ông thầy đáng được ca ngợi, chết mới nhắm mắt.

    Trở về với bài học?. 18 thế căn bản làm thành một bài diễn tập liên tục ngừng nghỉ đều theo phép tắc, hít thở cũng có nhịp điệu cho hòa hợp với các động tác hầu có mang lại kết quả mong muốn, tạo dựng một sức mạnh tối đa. Bài tập theo nguyên tắc vận động (đòn đang diễn) thì hô hấp, đòn ngưng thì hơi ngưng. Nói rõ ràng cho đặng dễ hiểu thì hễ đòn phát ra (lưu ra), tức trong ý muốn đánh, đỡ thì Hấp tức là hít hơi từ từ vào theo tay lưu ra tới chỗ tay phải dừng lại thì ngưng hơi, và khi tay thu về bên hông hoặc hậu thân, tức động tác thu tay về để làm động tác khác thì Hô tức thở ra từ từ, khi tay về tới chỗ thì hơi vừa cạn trong phổi. Kế lại lưu ra hơi được hít vào? hít vào thì trầm hơi xuống bụng dưới (dưới rún), thở ra thì thóp bụng chút xíu cho uế khí ra nhiều, đồng thời ngực cũng thóp. Tập lâu thành quen làm rất dễ. Hễ hai tay cùng vận động ra trước ra sau thì khí để bình (phân nửa) trong bụng, mũi miệng ngậm kín. Các động tác khác đã chỉ rõ trong bài. Điều nên nhớ là khi vận động đòn thế tới đây hơi thở phải đúng như sách dạy và sức vận (tưởng tượng) tập trung tại đó. Nhờ có vòng động nặng nên vận sức dễ dàng. Khi đã vận động đúng nguyên tắc, sức muốn tới đã tới, từ vai, chỏ, cánh tay trong, tay ngoài, cườm tay, cổ tay, khuỷu tay, gang bàn tay, cạnh bàn tay, mũi bàn tay, toàn cánh tay, v?v? thì gọi là kết quả.

    Nếu nói phương pháp nầy dùng luyện Khí Công cũng đúng, nhưng người đời hay mơ hồ, bậc sơ căn chưa lãnh hội ý Đạo Võ hay hiểu tầm bậy lời giảng dạy của bậc thầy nên soạn giả khỏi nói dài dòng, luận cứ phân tách, v?v? mà nói là dồn sức nội công tới chỗ muốn tập, nhờ vòng đồng làm nặng chỗ đó tùy động tác tay chúc xuống, bật lên, dang ra,?.mà sức lực trong người được vận động đối phó thích ứng. Sư nín hơi tưởng (tập trung tư tưởng) vào động tác là vận khí đó. Tập quen khi nghĩ tới thì sức đã tới, đánh trúng thì thọ thương liền, cái đó thành quen không còn tưởng tượng lâu lắc gì, ví như ăn cơm, đũa gắp theo ý muốn, cá, thịt, đậu, khoai, rau, dưa v?v? trăm gắp trăm trúng không miếng nào trật, đũa đưa miệng hả, hàm nhai cổ nuốt, bao tử tiêu hóa nào ai có để ý vận động gì. Đó là nhờ quen rồi, Nội Công nầy phép tắc cũng như ăn cơm rất dễ hiểu, dễ làm. Soạn giả nói chỉ có người mất trí thì mới không luyện được nội công nầy mà thôi, kỳ dư ai cũng luyện thành, mà luyện thành mau chóng, vì ai cũng biết ăn cơm, gắp đồ ăn thiệt lẹ.

    Gắp cao lương mỹ vị lẹ làng thì gắp Nội Công cũng phải được như vậy. Học giả thử gắp coi. Nếu có sự chậm chạp thì vị tất phải lo vì chưa quen đũa đó thôi, đũa bằng xương, ngà trơn láng nên mới trơn tuột khó gắp, gắp vài lần quen tay. Ai cũng vậy đừng mắc cở, cái bụng mình mới chính là nguồn hạnh phúc chân chính của mình.

    Khởi đầu thực hành món cao lương 18 vị xem sao; Mời:
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    LẬP BỘ

    Hai chân đứng thẳng, bàn chân khít nhau, thân thẳng, hai nắm tay thu về hai bên hông.

    (Xem hình 7)

    SONG ĐỊNH CHƯỞNG:

    Động tác: Chân trái bỏ sang trái xuống tấn Kỵ Mã, song quyền từ từ xoay vào trong cho úp xuống rồi từ từ đẩy song tới đồng thời mở nắm tay ra thành song chưởng dựng đứng. Mũi hít từ từ theo chưởng đẩy ra tới khi hai tay thẳng thì phổi đã đầy hơi.

    (Xem hình 8)

    PHÂN THỦY CHƯỞNG:
    [​IMG]
    Động tác: Tiếp theo thức thứ nhất?.

    Song chưởng từ từ đưa tréo qua, chưởng trái trong chưởng phải ngoài rồi hít hơi vào đè song chưởng xuống trước hạ bộ, xong gạt ra hai bên, đoạn thở ra bằng miệng. Xem hình 9. Tấn bộ xuống thấp, cằm cúi xuống.

    YẾU LÝ: Động tác đua tréo chưởng là thở ra, kế hít vào đè xuống trước hạ bộ, banh hai tay ra cũng còn hơi hít vào vận khí xuống bụng dưới, tới khi thu tay vào mới thở ra bằng miệng? trước khi bắt đầu động tác thứ ba, hay thức thứ ba. Ban đầu mới tập tập một vòng đồng mỗi tay sau tăng dần trọng lượng tới mỗi tay 4 ?" 5 vòng là đã tới hàng cao đẳng rồi. Ở trình độ thượng đẳng như trong hình, (9 vòng mỗi vòng 2 ký 2) thì mỗi tay mang một trọng lượng tới 20 ký lô coi như không thể tiến bộ hơn được nữa vì cánh tay đã đầy vòng rồi. Quan trọng là ở chỗ các vòng linh động gây chấn động trên tay, vòng như quả cân trên cây cân đòn. Các võ sư giỏi bên Hồng Kông hiện nay chỉ tập mỗi tay 4 vòng.

    TẢ ĐỊNH CHƯỞNG:

    Động tác: Song chưởng xoay vào trong cho chưởng tâm (lòng bàn tay) ngửa lên trời rồi thu về hai bên hông đồng thời nắm lại thành quyền và thở ra từ từ bằng miệng như thổi hơi. Kế chưởng trái từ quyền biến ra đẩy thẳng tới ngang vai, đẩy chậm chậm, miệng ngậm, mũi hít vào từ từ? chân không đổi tấn. Xem hình 10.

    HỮU ĐỊNH CHƯỞNG:

    Động tác: Chưởng trái xoay ra phía ngoài trong khi cánh tay không di động, chỉ vận dụng cổ, tay, đến khi bàn tay ngửa lên thì thở ra trong lúc rút chưởng từ từ về biến thành quyền bên hông chưởng phải đẩy ra, mũi hít vào? Hình 11. Khi động tác tới đích dừng lại một thời gian vài giây đồng hố trước khi thu về hoặc diễn tiếp động tác kế.
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    BỔNG CHƯỞNG:

    Động tác: Chưởng phải xoay ra ngoài rồi đưa vòng xuống trước hạ bộ, lật ngửa chưởng tâm lên, trong lúc chưởng trái từ quyền biến thành chưởng từ hông trái đưa ra trước xoay lên cho chưởng tâm hướng lên rồi cả hai chưởng đồng nâng lên, co chỏ, cúi cằm vận lực tụ khí đầy bụng. Tấn bộ cũng nhón lên từ từ, tưởng tượng như hai tay nâng bao gạo lên vậy. Xem hình 12. Hai cánh tay song song nhau và song song với mặt đất.

    ĐƠN CỔ CHƯỞNG (Hữu):

    Động tác: Chưởng trái nắm lại thành quyền từ từ thu vào bên hông, thở ra, kế hít vào, chưởng phải co nơi chỏ gạt vào trước ngực. Mắt nhìn xuống cổ tay. Hình 13.

    ĐƠN CỔ CHƯỞNG (Tả):

    Động tác:? Chưởng phải gạt từ từ cho về vị trí thẳng ra rồi thu về bên hông phải nắm lại thành quyền, thở ra. Kế chưởng trái từ quyền mở ra đưa thẳng tới ôm ngang vào trước ngực vừa hít vào. Hình 14.

    SONG CỔ CHƯỞNG:

    Động tác:? Xoay cổ tay trái đẩy chưởng ra thẳng cánh tay rồi thu về bên hông trái biến thành quyền, thở ra. Kế song quyền biến thành song chưởng xoay ngược xuống đẩy từ trong ra, chưởng tâm chiếu tới, hai mũi bàn tay giao nhau, lưng hai bàn tay chiếu vào trước ngực (gọi là Cổ xuất tức đẩy ra), kế xoay cho lòng bàn tay úp vào phía ngực đoạn từ từ kéo chưởng vào, hít hơi vào. Tưởng tượng đang ôm chặt cái lu lớn vừa nặng lại vừa trơn? Hình 15. Cuối cùng thở ra.

    ĐƠN TRẦM CHƯỞNG (Hữu):

    Động tác: Xoay người qua bên trái chân chuyển thành tấn Chảo Mã chân trái trước, chưởng trái biến thành quyền thu về bên hông trái chưởng phải xoay úp lòng chưởng xuống đẩy xuống mặt đất trước gối trái, trong lúc hít hơi đầy bụng dưới? Hình 16.

    10. ĐƠN CHƯỞNG (Tả):

    Động tác:? Chuyển thành Chảo Mã Tấn chân phải trước về bên phải, loa tròn cổ tay phải thu chưởng thành quyền về bên hông phải, thở ra. Kế chưởng trái từ quyền trái biến thành bên hông trái đẩy xuống bên gối phải, hít đầy hơi, mắt nhìn theo? Hình 17.

    YẾU LÝ: Động tác Song Cổ Xuất và Nhập làm đều tay và hơi thở cũng giữ đều đặn, đẩy ra và ôm vào sức treo ở cổ tay giữ cho thăng bằng không lay động. Trầm chưởng tả hữu. Chuyển tấn từ từ, chân tới hướng nào thì chưởng chiếu hướng nấy không chút chậm trễ hay gián đoạn thở, hít. Làm được như thế thì đúng yếu lý của bài tập rồi vậy.
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    SONG TRẦM CHƯỞNG:

    Động tác:?. Xoay hông chuyển thành Kỵ Mã Tấn như trước, đồng thời chưởng trái thu về bên hông trái, thở ra. Kế song quyền từ hai bên hông biến thành song chưởng đẩy xuống trước hai gối, tay thẳng, chưởng tâm song chưởng úp xuống mặt đất, hít vào, mắt nhìn theo giữa hai chưởng, khí trầm xuống bụng dưới, cằm cúi xuống, lực tụ nơi hai gốc bàn tay (Chưởng căn). Hình 18.

    GIAO TRẦM CHƯỞNG:

    Động tác:? xoay cổ tay cho song chưởng giao nhau vào trước hạ bộ, chưởng trái trên phải dưới, hơi co tay nơi chỏ, kế đẩy thẳng cánh tay mà hai chưởng vẫn chồng lên nhau, sức tụ nơi bên ngoài hai cánh tay. Đẩy ra thì hít vào, buông lỏng thì thở ra. Mắt nhìn trên lưng hai bàn tay. Hình 19.

    LUÂN CHƯỞNG TRẦM THIÊN ĐỊA:

    Động tác 1: Chưởng phải xoay úp lòng chưởng xuống mặt đất, kế đưa sang phải xuyên vòng lên khi tới ngang đầu thì lật ngửa lòng chưởng lên trời, đâm mũi chưởng về bên trái, trong lúc chưởng trái vẫn để ở vị trí cũ. Lúc tay xuyên đi thì hít hơi vào, tới nơi thở ra. Hình 20.

    CHÚ Ý: Lực lượng tập trung nơi cổ tay, treo lên như đòn cân và trái cân, bàn tay dưới phải xòe ra cho các vòng khỏi rơi khỏi tay. Mắt phân ra nhìn trên dưới.

    Động tác 2: Chưởng trái xoay ngửa lên rồi đưa ra bên trái đoạn xuyên vòng lên đỉnh đầu, lên tới ngang đầu thì xoay ngửa chưởng tâm lên trời rồi mới đẩy mũi chưởng sang bên phải. Trong lúc chưởng phải lăn cổ tay (xoay cổ tay) vừa gặt xuống trước mặt theo chiều thẳng đứng rồi đẩy chưởng xuống trước hạ bộ. Hình 21 và 22.

    Động tác 3: Kế, lại xuyên chưởng phải lên như động tác 1, chưởng trái gạt xuống rồi đẩy xuống trước hạ bộ như động tác hai? hình 23.

    YẾU LÝ: Thức nầy luân đảo bốn lần, tức mỗi tay hai lần xuyên lên và hai lần đẩy xuống. Khi trên đường đi chưa hoàn tất thì hít hơi vào, khi tới tử điểm (đích) thì thở ra. Trọng lực trên hai cánh treo lúc nào cũng như cây cầu treo, vòng đồng xoay tròn quanh cổ tay tạo những va chạm nhẹ nhưng chấn động phần cổ tay ngoài. Do đó ngoài phần tạo sức treo của đôi tay, mạnh gang bàn tay, còn làm cứng cổ tay ngoài cùng cánh tay ngoài làm sự va chạm khi đấu luyện hoặc chiến đấu rất tốt đẹp. Các môn võ khác không có cách nào luyện cho tốt hơn, dù luyện với các trụ tập vẫn không thể đều hơn và hợp lý hơn phương pháp nầy.

    Có người luyện nội công nầy nhiều năm mà chưa có dịp giao đấu với ai, ngày kia vô tình chạm trán với đối thủ, qua một đòn đỡ của nội gia, đấu thủ bỏ ngang cuộc đấu vì bị hư tay, ông ta nói lại với soạn giả điều nầy coi như một việc lạ, nhưng soạn giả đã giảng rõ cho ông? chẳng có chi là lạ cả. Còn về sức mạnh của gang bàn tay, ngay soạn giả vào một chiều nọ đưa tay cho một quan viên trong Tòa Đại Sứ ngoại quốc bắt trong dịp gặp gỡ? ông ta tỏ vẻ nhiệt tình nên cố bắt mạnh, nồng nhiệt, soạn giả phản ứng tự nhiên tăng thêm ba phần cân lực mà chẳng hề bóp bàn tay lại. Nhưng sau đó vị quan viên bị sưng bàn tay và rêu rao rằng soạn giả chơi khâm?. Thật tình soạn giả chẳng hề có ý ti tiện như thế. Việc nầy có một võ gia biết chớ chẳng phải bày đặt vui chơi.

    Ngay việc vô tình như thế mà người đời còn chưa hiểu tìm chuyện phao vu thì nghĩ làm sao có sự thông cảm với nhau ở trình độ thấp hơn trong nhơn loại. Than ôi là than ôi. Soạn giả tôi đôi khi đành ngửa cổ cười dài. Đời xưa, đời nay, đời sau, đời sau nữa mấy người hiểu được nhau để tạo nên hòa khí xây dựng cuộc hòa bình?.
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    SONG CHƯỞNG KHAI MÔN:

    Động tác:? Như hình 22, thu hai tay về hai bên hông, rồi từ hông quyền biến thành chưởng, xuyên thẳng lên trước mặt, vừa hít vào như hình 24, kế xoay cổ tay cho chưởng tâm xoay ra phía ngoài, đoạn gạt băng sang hai bên phải ?" trái, lực tự hai vai, hơi chứa ở ngực trên. Mắt nhìn thẳng tới trước. Hình 25. Thở ra.

    TẢ HỮU ĐƠN PHÁCH CHƯỞNG:

    Động tác 1:?. Thu tay trái về bên hông trái, tay phải co vào ngang mang tai, lòng bàn tay ngửa lên trời. Hình 26.

    Động tác 2:? Chưởng phải vỗ bằng ngang xuống ngang vai, vỗ chậm chậm và giữ treo trọng lượng trong vài giây đồng hồ mới chuyển sang động tác khác? Mắt nhìn theo tay vỗ, hơi giữ đầy ngực. Hình 27.

    Động tác 3: Đưa tay phải xuống hông phải, trong lúc co chưởng trái lên ngang mang tai, bàn tay úp xuống phía vai. Hình 28 ?" Mắt quay nhìn sang hướng trái.

    Động tác 4: Tay trái vỗ lưng bàn tay xuống thẳng ngang vai lòng bàn tay ngữa lên trời, tay thẳng. Mắt nhìn lòng bàn tay. Hình 29.

    YẾU LÝ: Từ thức Song Chưởng Khai Môn đến thức Tả Hữu Phách Chưởng, hai tay liên động (động tác liên tục) như một sợi dây, luồn lỏi, uốn nắn cho thật khéo léo. Giữ treo tay ngang bằng, từ từ uyển chuyển không nên làm mau. Hơi thở nhịp nhàng nhẹ và đầy theo từng cử động. Thức Khai Môn chú trọng luyện lực cánh tay trong và phần vai, đến thức Phách thì cả cánh tay phải chịu đựng trọng lực kéo xuống chẳng khác cây cầu, cùi chỏ là chỗ nặng nề nhất, vai tụ lực như chỗ tiếp giáp của cây và nhánh. Hơi không giữ đầy trong phổi và bụng thì thức nầy coi như chưa đúng yếu lý. Đặc biệt thức nầy tay không đặt bên hông mà hơi buông xuống để cân bằng cơ thể. Phần trọng lượng lưu giữ ngay cổ tay lên đến 20 ký lô như thế thì khi dụng võ, phất trái xuống đỉnh đầu đối phương khi hắn tọa thấp bộ để hở thượng đỉnh, thì đỉnh đầu hắn sẽ dập nát rồi. Khi luyện thành tựu sức mạnh vượt bực, học giả chớ bạ đâu thử đó vô tình gây nhiều phiền toái có hại cho đường giao thiệp hàng ngày. Ngay như soạn giả là người khoáng đạt chẳng thường để ý tiểu tâm thế mà vẫn bị người đời hiểu lầm như thế huống hồ. Người đời ngoại giao hay nghi kỵ lắm thay.

    TẢ HỮU KHẤU THỦ:

    Động tác 1:? Thu chưởng trái về bên hông trái nắm lại thành quyền, quyền phải đấm móc ngửa tới trước. Đấm cũng từ từ thôi. Mắt nhìn theo đòn đấm tay phải. Hình 30.

    Động tác 2:? Thở ra, thu quyền phải về, quyền trái móc tới, hít vào. Đánh chậm chậm mà thôi. Lúc đánh hơi nghiêng vai tới. Hình 31.

    YẾU LÝ: Đánh tới thì nghiêng vai tới, cánh tay trong kẹp sát nách, cánh tay ngoài ngửa lên và ngang bằng với mặt đất. Hơi dồn đẩy xuống bụng dưới, mắt nhìn theo tay quyền, nắm tay nắm thật chặc.

    TẢ HỮU XUYÊN THỦ:

    Động tác 1:? Quyền trái xoay cổ tay xuống đất, mở chưởng ra đưa xéo lên về hướng trái, quyền phải từ hông đâm xéo lên trên cổ tay trái. Mắt nhìn thẳng tới ngang bằng. Động thì hít vào, ngưng thở ra. Kế hai tay đều từ từ rút về hai bên hông. Hình 32.

    Động tác 2:? Cả hai tay đều rút về bên hông rồi kế tiếp quyền phải đưa lên xéo qua trái, quyền trái đấm xiên lên trên cổ tay phải, gọi là Tả Xuyên Thủ. Thở hít theo phương pháp đã học ở trên. Hình 33.

    TẢ HỮU CƯƠNG ĐAO TRẢM CHÁNH DIỆN:

    Động tác 1:? Tiếp theo động tác trên, quyền trái thu về bên hông trái, quyền phải biến thành cương đao chém đứng cánh tay tới, cùi chỏ tạo góc 90 độ thì dừng, vai phải nghiêng tới hướng chém, chân phải chuyển theo vai nghiêng về trước mà không phải đổi tấn. Hình 34.

    Động tác 2:? Chưởng phải nắm lại thành quyền thu về bên hông phải thở ra, quyền trái mở ra thành chưởng xuyên xéo lên hướng bên phải vai rồi chém cắt ra, vai nghiêng tới theo bộ xoay của chân trái trong lúc hít khí vào đầy bụng. Mắt nhìn theo tay chém ra. Hình 35.

    YẾU LÝ: Hai động tác Xuyên Thủ, hai tay quyền đấm ra và rút về phải thực hiện đều đều tốc độ, hết tay phải rồi tới tay trái không cho đứt quãng, hơi thở không dứt trong phổi, phần dưới bụng phải tụ khí cho đầy. Tả Hữu Cương Đao, phải làm liền theo động tác trước cánh tay Xuyên Thủ, chém tới phải nghiêng vai tới, hông xoay theo mà chân ứng phó liền. Như thế thì chẳng những bàn tay chém mà cả thân mình hỗ trợ, đổ dồn lực lượng tới trên bàn tay, coi như cả sức nặng thân người dồn lên cạnh bàn tay vậy. Tay phải chém xong liền theo như sợi dây dùn (không thẳng) tay trái xiên lên chém ra. Chém thì vai nghiêng theo tức thời, vai tay, thân eo và chân như liền một khối chớ không phải chỉ có bàn tay bổ ra mà thôi đâu. Nếu phải ví dụ cho dễ hiểu thì giốg như động tác ấn lò xo, hễ tay ấn lò xo vừa buông ra thì lò xo theo liền với tay. Thì ở đây, tay trước làm xong liền theo tay sau không cho có thời gian cách biệt mà động tác phải đều đều không được cà giựt cà giựt, hơi thở cũng đều.
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    TẢ HỮU LONG TRẢO THỦ:

    Động tác 1:?. Tiếp theo trên, cương đao trái nắm lại thành quyền thu về bên trái, thở ra thì liền theo, quyền phải từ hông phải mở ra thành trảo (móng rồng trong nghề võ ưa dùng móng rồng, móng cọp, móng chim ưng và các loài có bộ móng khéo léo mạnh mẽ nhất) rồi xoay cổ tay vừa đưa lên ngang mặt chụp tới, cánh tay đứng thẳng (không chụp thẳng). Hình 36.

    Động tác 2: Long Trảo phải thu về bên hông phải thì liền theo Long Trảo trái đưa lên chụp tới?.Hình 37.

    YẾU LÝ: Động tác 1 và 2 Long Trảo có thể giữ nguyên bộ tấn Kỵ Mã hoặc có thể di động biến hóa như trên thức cương đao, nghĩa là khi trảo bấu tới thì vai nghiêng theo, hông xoay, chân chuyển tới? Cách nào cũng được, miễn thở hút cho đúng, đòn thế ra liên miên tròn gọn là được. Khi tập mà thấy tay lưu ra có chỗ ngập ngừng (sượng) là không đúng rồi cần luyện lại chỗ đó. Đến khi toàn bài đánh ra một mạch không vấp không quên thì coi như thuộc rồi. Khi thuộc thì thường xuyên luyện tập, ý tứ tập trung tìm hiểu từng cái chuyển động của chân tay. Khi thấu đáo lý của toàn bài là thành công rồi, có thể đứng ra dạy lại cho người khác.

    SONG CHỈ TIÊU THỦ:

    Động tác:?. Thu Long Trảo trái về hông trái, trảo phải biến thành song chỉ (co các ngón lại chừa hai ngón trỏ và giữa chỉa ra như hình chữ V) xuyên lên phía vai trái, tới ngang vai thì xoay cổ tay ra ngoài đâm song chỉ thẳng ra như hình 38-39.

    SONG SUẤT THỦ (Thác Thiên Phách Thủ)

    Động tác:? Song chỉ phải thu lại thành quyền rồi cùng với quyền trái đưa ra sau như hình 40, quyền tâm (lòng nắm tay) ngửa lên trời. Kế đập tới trước vừa xoay cổ tay cho đến khi xuống tới ngang vai thì lưng nắm tay chiếu xuống đất. Hai cánh tay song song nhau. Hình 41.

    YẾU LÝ: Khác hơn các động tác trước, riêng động tác nầy cố súc tích lực treo ở cườm tay, nên khi đập (suất) hai nắm tay xuống thì đập nhanh và dừng mau chính xác. Khi dừng thì dừng liền tay không rung động. Kịp đến lúc mở bàn tay ra thì lấy gân mà mở từ từ chớ không phải mở đại một cách hời hợt mà được. Nói cho dễ hiểu hơn là khi mở bàn tay ra thì gồng các ngón tay, nói theo võ nghệ thì khi mở các ngón ra phải tụ lực. Hơi thở đã bế từ trước giữ đầy trong bụng không khinh mà cũng không trầm, miệng ngậm chặc, mũi nín kín không cho thoát hơi ra. Ở độ tập thứ hai, tức là khi nào thuần rồi thì khi đánh tới thế nầy, lúc bàn tay mở ra thì lún bộ xuống (xuống bộ thấp thêm) độ một tấc Tây, bàn tay vừa mở vừa gắn. Nói tới chỗ phân thế thì ví như ta đang đánh đối thủ đòn Suất Song Thủ, đối thủ bắt được hai cổ tay ta mà giằng co, ta bèn lún bộ xuống đem cả lực lượng toàn thân đè lên hai hổ khẩu hắn tức hắn chịu không nổi té khuỵu xuống, nếu hắn buông tay tức thì hai bàn tay ta lật úp vào theo cái lún thân xuống mà cắt trên hai bên xương quay sanh của đối thủ thì nhất định phải gảy lìa. Đòn nầy chỉ dùng khoảng cách có một tấc Tây. Khi gặp đấu thủ hay giằng co nắm áo như môn vật Nhật Bổn, đòn nấy rất thích dụng. Nhưng tập giao hữu chớ dùng đòn nhiệt nầy, vì dùng tới là đại họa tới cho bạn mình rồi vậy.

    TẢ HỮU KHAI CUNG THỦ:
    [​IMG]
    Động tác 1:?. Tiếp theo thế trên, hai bàn tay nắm lại thành quyền, xoay chân qua phải chuyển chân thành tấn Chảo Mã chân phải trước, nắm tay phải xoay lật úp xuống vừa gạt ra hướng bên phải, cánh tay trái co về hướng sau lưng. Tay gạt ra và tay co phải cực lực và tự nhiên như động tác dương cung vậy. Mắt nhìn theo tay phải. Nín hơi. Hình 43.

    Động tác 2:? Thở ra bằng miệng đồng thời co cánh tay phải ngang trước ngực, chuyển chân, xoay hông về hướng trái nghịch chiều kim đồng hồ thành tấn Chảo Mã chân trái trước. Hít hơi vào đầy rồi tay trái gạt về bên trái, tay phải kéo ra sau như lên dây cung. Mắt nhìn theo quyền trái. Hình 44.

    YẾU LÝ: Khi dương cung nín hơi và giữ yên trong vài giây đồng hồ. Tay trước tay sau phải thẳng.

    ĐỀ KHÍ:

    Động tác:? Tiếp theo động tác trên, song quyền mở ra thành song chưởng các ngón thẳng tự nhiên, xoay về chánh diện, chân trái đưa về sát chân phải, hai bàn chân song song nhau đứng thẳng dậy, hai tay hơi khuỳnh nơi chỏ mà lòng chưởng thì úp xuống đất, ngang bằng với vai. Thóp bụng, nín hơi, khí dồn lên phần trên phổi. Phần dưới chân bây giờ coi hư không, hễ hai bàn tay nhích lên là thân muốn bay lên theo (tưởng tượng như thế) Hình 45. Khi bàn tay kéo lên gót chân lên theo.

    YẾU LÝ: Trong suốt bài tập, ngoài phần chú trọng vận lực nơi tay và các phần, chân là phần trụ chịu đựng, dù không nói tới nhưng sự thật đã có sự mỏi mệt nặng nhọc, nên sau cùng phải có động tác làm cho đôi chân thảnh thơi. Các bắp thịt chân trở lại điều hòa.

    TRẦM KHÍ:

    Động tác:? Xoay hai cổ tay cho lòng song chưởng trở lên, hai cùi chỏ ép vô hai bên nách, hít đầy hơi trầm xuống bụng dưới. Tưởng tượng phần dưới chân nặng hơn bán thân trên. Lún gót chân xuống tưởng tượng thủng sâu xuống đất, hai tay đè xuống, bụng dưới phình ra. Hình 45. Kế thở ra bằng mũi nhẹ nhàng.

    TANG QUYỀN, THU THỨC

    Động tác: Thu hai chưởng về hai bên hông nắm lại thành quyền. Thở hít đều hoà tự nhiên, rồi buông xuôi hai bàn tay ra song song hai bên đùi. Hình 47-48.


    YẾU LÝ: Đây là bài tập nội công thứ nhất, chủ luyện Tụ Lực nơi các phần của tay, xoay hông, vai, cách trầm và đề khí. Đồng thời cũng luyện cho đôi chân có sức chịu đựng mạnh mẽ, bởi thế chỉ dùng đại khái có một thế tấn duy nhất là Kỵ Mã, đôi lần có đổi thành Chảo Mã nhưng ít thôi. Đó là dụng ý của bài tập chớ không phải sự nghèo nàn biến hóa. Người tập võ thường ít chú trọng tới tôn pháp luyện cước lực, tưởng chỉ có giỏi quyền thế là đủ rồi, thật ra nghĩ như vậy là rất đỗi sai lầm. Tấn ví như gốc rễ cây, quyền thế như cành tàng cây, phần trên tươi tốt rợp bóng mà gốc không vững thì gió mạnh thổi qua cây đã đổ nhào. Một người trình độ võ công cao trước nhất tấn pháp phải vững vàng. Luyện tấn không gì khác hơn đứng tấn Kỵ Mã mà dồn trọng lực xuống chân. Người xưa có bậc đã đứng dạng chân cho mươi người xô đẩy không nhúc nhích, nay ngẫm hạng ấy có được là bao.

    Xưa nay có cái tiến có cái lùi không nói không biết, nói ra đã rõ lắm thay. Hậu học đọc sách nầy nhất định luyện tập là không thể dở được. Đọc mà không luyện thì cái miệng cũng giỏi rồi.

    Có học giả lanh trí vừa học tới đây đã có ý kiến ngay, là tại sao đề Thập Bát Thế lại tới 24 thức? mà lại có thức không có tên trong bản mục lục, lại Thức có tên trong bản mục lục lại chưa thấy trình bày?

    Hay lắm, học giả nầy thật là thông minh, có óc nhận xét mau lẹ, nhất định trong tương lai sẽ là người trí lực. Thành quả nội công không có gì xa vời?

    Soạn giả xin nói rõ về điểm nầy, mục lục chẳng sai mà bài tập số một cũng cứ đúng. Nguyên mục lục ghi thứ tự của mỗi tên thế căn bản cần tập luyện, các thế chánh yếu. Các số là số đánh cho biết là có 18 thế chớ chẳng theo thứ tự đó. Trong bài 24 thức là tại có nhiều thức biến hóa mà thành nhiều, kỳ dư còn Câu, Phao, Tháp Thủ Viên Hình cùng Tang Chưởng chưa tập đến mà phải tới bài thứ hai mới có cơ hội. Cái đó không có gì là sai với đề mục mà tại chưa tới đó thôi. Học tới bài II thì có đủ.

    Học giả cũng cần hiểu thêm trong mọi môn võ, ngoài các thế căn bản cần học thường xuyên luyện tập, một số đòn phụ bổ túc cho đòn căn bản cũng được luyện tập xen kẽ trong các bài quyền. Việc nầy ví như cây lớn có nhánh lớn, nhánh nhỏ đều được coi là chánh, chồi tược ít ai nói tới bao giờ, mà chồi tược đôi khi làm tăng thêm phần thẩm mỹ của cây. Thậm đến sự xanh tốt của cây cũng đều do chồi tược lá hoa tô điểm. Trong xã hội cũng thế, người lớn được nhắc đến luôn coi như căn bản, kẻ nhỏ đâu ai nói tới, nhưng sự thịnh suy của một nước chính nhờ những người vô danh trong bóng tối vậy. Bài võ cũng thế, thế phụ thường tô điểm cho bài quyền được nổi bật cũng như sự hùng mạnh của một quốc gia.

    Người học võ giác ngộ, biết việc Đời việc Đạo nên chi việc gì, nơi mô (đâu) cũng thích dụng (ứng dụng được), không ham lớn bỏ nhỏ, không kính lớn khinh trẻ hay thái quá bất cập mà luôn luôn có công tâm nhìn nhận mọi sự ở đời. Hay thay.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này