1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG THỨ III

    Quý học giả đã luyện hết Bài I của sách nầy hoặc dã đã đọc qua phần căn bản trên có lẽ đã lãnh hội được đầy đủ chân yếu của bài. Là tập cho có lực tụ nơi các phần cổ tay, và chân thì có sức chịu đựng lâu dài. Động tác đơn sơ, lời giảng cũng gọn gàng dễ hiểu, nhằm hướng dẫn các động tác hữu hình rất dễ dàng nhận định, chẳng khác một vài môn thể thao mới ngày nay bên Âu Mỹ La Tinh, nhưng có chỗ khác là ở đây bài học thâm thúy tinh tiết hơn nhiều. Ngoài Hình còn có Ý, Ý dẫn Hình đi. Tập trung mà thành cái mong muốn. Tập trung lâu hóa thần tức có sức lực phi thường không nói được bàn được. Người thường có mắt mà cũng chẳng thể thấy được, có trí mà chẳng phân được nên tôn là Thần. Mà sự việc chẳng có chi là huyền hoặc, học là biết liền, đây là thứ khoa học hòa hợp sức mạnh của châu thân để đạt đến một kỷ lục cao nhất. Cũng một khối đá to, một người nào đó không thể đẩy lăn đi được, nhưng nếu đứng trong tư thế sẵn sàng rồi hô lên một tiếng lớn đồng thời đẩy mạnh thì khối đá lăn đi, v..v? Sự tập trung sơ đẳng của ý chí đã giúp người đẩy đá, ngoài Bắc Việt nước Nam ta hồi xưa kéo gỗ trên rừng có Hò-Dô-Ta, người trưởng toán hô lên hò-dô-ta, liền theo đó đám đông hò theo: Dô-ta nhất tề đồng lúc đẩy tới; thế là cây súc (loại gỗ to) lăn đi nhẹ nhàng. Cái hợp ý nhất tề ấy là một hình thức nội công sơ đẳng. Trong bài một có dạy cách hít thở tùy theo động tác diễn tập nhằm khai thác ưu điểm của ý và khí trong người trong phạm vi thấp.

    Trong bài II soạn giả sẽ trình bày cách điều hợp của khí lực một cách khéo léo hơn.

    I. QUÁN TƯỞNG KHÍ THẦN HÓA LỰC

    Đọc câu nầy (tiết mục trên) nhiều bậc danh Nho không khỏi nực cười, nhiều vị lương y cảm thấy khó chịu, lắm bậc võ gia không khỏi lấy làm lạ? Người ta thường nói: Luyện Tinh hóa Khí rồi tự Khí hóa Thần, chớ có ai nói ngược ngạo như soạn giả đâu? Soạn giả vẫn biết là Luyện Tinh hóa Khí, Khí hóa Thần, cái đó là căn bản ai mà không biết. Nhưng biết như thế nào thì ai dám chắc chưa mấy ai cho thật là biết dù là lương y hay danh Nho. Còn các vị thầy thuốc mới (bác sĩ) không thể hiểu được nếu chỉ chuyên khoa Tây học. Vì xưa ai cũng cố theo học sách thuộc lòng mà ít ai thực nghiệm coi nó ra làm sao nên ít ai hiểu đến chân lý. Đa số chỉ thông lý thuyết nói chơi khi đình đám, giỗ chạp trong nhà, ngoài họ, v?v? chuyện học thuật chân chính giá trị mà hóa ra để nói chơi.

    Soạn giả thì cũng thích nói chơi cho vui ngày tháng, ngày tháng nào cũng vui, nhưng việc hệ trọng như thế nầy thì không thể nói chơi được, phải nói thật mới được. Nhưng ở đời nói thật không dễ mà cũng không gì dễ bằng nói thật. Chỉ có linh mục trong giờ tín đồ xưng tội mới nghe được sự thật. Ở chỗ công đường muốn biết sự thật phải xài tới cụ hình (tra tấn đánh đập) mà thường lâu lắm mới nghe lời nói thật. Trong nhà vợ, con, tôi tớ cũng dối lời v..v? Đời xưa đời nay ít có sự thật, ít có người thật là người?. Việc học hành cũng chí là học giả mà thôi, vì thường chỉ biết cái chẳng cần ích gì, cái gì chẳng cần ích thì học rồi sau đó lại quên. Cái không quên đó mới tạm thật, cái học dùng được tạm thật (đừng hiểu lầm sự việc với Thật Chân như của Đức Phật). Ngay như sách đủ thứ bán ngoài chợ, ngoài đường đủ loại thì đa số là sách giả tức sách viết chưa tới chỗ thân tình. Người kém trí lực làm sao biết được.

    Soạn giả khác hơn thiên hạ là nói thật, nói chân tình dù nói hay, hay chẳng hay cũng chẳng sửa đổi chải chuốt, nói thật là vui rồi. Ngay các sách của soạn giả đã xuất bản dù dở dù hay cũng có chỗ chân thật chí tình. Đề mục Quán Tưởng cho Khí Thần hóa Lực cũng là sự thật, dù mới nghe qua rất đỗi mơ hồ sai từ điển. Nhưng sự thật thì cứ sự thật, lại còn sự thật quá đơn giản nữa là khác, khi soạn giả nói rõ ra để chư học giả học tập chứng nghiệm. Sở dĩ soạn giả dám nói chắc như vậy vì chính bản thân soạn giả đã học qua và chứng nghiệm rồi, thực nghiệm rồi thì nói thật mới thật là thật. Thật là như vậy.

    Thế nào là quán tưởng Khí Thần Hóa Lực?

    Nhóm chữ trên đây đem phân tách giảng giải thì có nhiều đường lối không tránh khỏi rườm rà, dài dòng mà chưa chắc ai cũng hiểu vì phải dùng nhiều chữ chuyên môn, mà sách nầy viết ra cốt phổ biến trong lớp thanh thiếu niên, nên cách giảng giải dài dòng chữ nghĩa là không hợp.

    Vậy, nói vắn tắt là tập trung tư tưởng vào một việc duy nhất bằng cách nín hơi ngưng thở để tạo nên sức mạnh. Chữ Khí ở đây được hiểu là thể hơi mũi hít được vào phổi không cần phân tích, Thần được hiểu là cái điều khiển mọi hoạt động của con người. Nó làm sáng tỏ, giá trị cho từng phần sanh hoạt sống động thân xác, nó mất đi người ta sẽ ngu ngơ. Nó được hiểu như phần trong sáng, quý báu nhất của con người mặc dù không thấy bằng hình tướng rõ rệt, nhưng cũng có thể biết được qua sự hình dung trên các phần nó thường ẩn trú: Thần sắc huy hoàng, chỉ người có sắc mặt sáng sủa phát ra vẻ rực rở chứng tỏ có tu dưỡng, những người có thần sắc như thế dù đứng giữa đám đông vẫn nổi bật dễ nhận ra. Nói cách dễ hình dung, Thần là cây đèn của mỗi người, Thần của người có tu dưỡng thì như cây đèn lớn, Thần của kẻ thường nhân như cây đèn nhỏ. Đèn nhỏ đứng gần đèn lớn thì lu mờ. Thần dễ tụ mà cũng dễ tán. Tinh Khí đầy thì Thần tụ hiện, tinh khí cạn thì Thần tan hay tán. Nhìn khuôn mặt một trang thanh niên sau một đêm giao hoan quá độ thấy mặt tối sầm ấy bởi tại tinh đã cạn giống đèn hết dầu lấy gì mà sáng. Cũng thanh niên đó, cho ăn uống tẩm bổ vài ngày mặt mày tươi sáng lại là Thần đến vì Tinh có đầy. Tinh nuôi Thần, do đó có chữ Tinh Thần, thật ra Tinh muốn nuôi Thần phải hóa thành Khí mới tới được?. Muốn hiểu rõ việc nầy cũng cần một cuốn sách, có dịp soạn giả sẽ bàn đến.

    Tinh, Khí, Thần dễ thấy, dễ biết nhưng vô cùng kỳ diệu, người ta sống hay thác chỉ liên quan ba chữ nầy thôi. Nhưng ở đây ta hiểu Thần trong phạm vi hữu dụng hơn, nghĩa là ta phải dùng cái Thần như một vật thấy được. Ai cũng có thần, trừ người điên khùng và người sắp chết thì Thần tán, để xài được cái Thần ta phải biết cách luyện nó, cách luyện duy nhất mau chóng là tập trung tư tưởng vào một việc duy nhất. Có nhiều phương pháp tập trung tư tưởng vào một việc duy nhất. Có nhiều phương pháp tập trung phát triển Thần trong khoa học thôi miên hoặc các giáo phái lớn dạy cũng đều hay, nhưng võ gia luyện Thần có hiệu quả thích hợp nhất là Quán Tưởng Dẫn Khí trong Vòng Châu Thiên (coi cuốn Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự của soạn giả đã xuất bản), ở đây trình độ nội công thấp hơn, chúng ta có cách luyện khác chút ít là nín hơi đứng tấn Kỵ Mã. Phương pháp đơn giản là đứng tấn Kỵ Mã hai tay thu thành Tang Quyền để hai bên hông, cứ hít đầy hơi dồn xuống bụng dưới rồi trụ tấn đến khi chịu không nổi thì miệng từ từ thổi hơi ra nhẹ nhàng thật cạn kế hít hơi vào bằng mũi từ từ?tập trung mọi ý nghĩ vào sự ra vào của Khí và trụ Thần vào đan điền, khi ngưng thở đừng nghĩ tới việc gì khác. Ban đầu hơi thở ngắn sau hơi thở dài hơn, khi hơi thở dài chừng 3 đến 5 phút thì mạnh lắm rồi. Nên nhớ khi tấn, tay nắm chặc kẹp sát chỏ vào hai bên nách toàn thân bất động, tâm tưởng dồn khí và sức xuống hai chân như bám mặt đất, thủng vô đất?làm như vậy mới khởi đầu độ 3 phút tấn là mồ hôi đổ đầy người, chớ ngại, cứ bình tỉnh luyện độ 10 phút hãy đứng dậy xoa chân thở điều hòa. Thời gian lâu dần tăng lên 15-20 phút? đến 30 phút là khá rồi, tức 30 chỉ thở có 6 hơi, lúc nầy Thần đã ở trong Khí rồi, mỗi đòn đánh ra hội đủ Khí Thần là lực mạnh kinh người. Đây là phép luyện hỗ trợ hai bài Luyện Nội Công Thiết Tuyền trong sách nầy. Người không luyện nội công luyện phép nầy cũng kết quả mạnh khỏe vô cùng.

    Soạn giả đã nói, chuyện nghe thì cao siêu mà biết rõ thì cách luyện thật tầm thường, thế mà cho đến ngày nay vẫn có người khư khư ôm lấy bí quyết đơn giản đó làm bí truyền. Tội nghiệp, thế giới văn minh quá rồi, mà các vị ấy chưa hay.

    Soạn giả nói thêm là khi luyện như vậy sự tăng tiến thời gian đều đều là quan trọng, chớ nên ngừng nghĩ. Tránh sự giao hoan để có đầy Tinh hầu nuôi Thần mà luyện cho mau kết quả. Tinh cạn, Thần kiệt không luyện tăng tiến được, đứng tấn đầu gối run thì có luyện cũng chẳng tới đâu, hoặc có đứng được mà suy nghĩ đâu đâu, Thần không hiệp với hơi thở cũng vô ích.

    Nên luyện phép nầy trước mỗi buổi tập bài nội công; khi luyện trước mặt có để đồng hồ để xem giờ phút tăng tiến hơi thở, sau quen khỏi cần đồng hồ.

    Quán Tưởng Khí Thần Hóa Lực là như vậy, rất dễ hiểu, dễ tập và dễ thành, ai tập cũng có kết quả. Học giả xem qua luyện tập chắc chắn sẽ thành công, ngày mai thần thái rạng rỡ, mặt mày sáng sủa tinh anh, ai nhìn qua cũng đều ngưỡng mộ, chẳng những nữ nhân, thanh niên mà thiếu phụ, bô lão cũng đều có cảm tình. Điều chắc chắn dễ thấy hơn hết là học giỏi, mau thuộc bài và lúc nào cũng lành mạnh vui tươi.

    Tập vài tháng mới thấy lời soạn giả là đúng sự thật.

    II. THIẾT TUYẾN VIÊN HÌNH QUYỀN

    Đây là bài luyện nội công thứ hai và cũng là bài cuối cùng của môn nội công tập bằng vòng sắt đeo ở tay.

    Phần bài I học giả đã trải qua, nghiễm nhiên đã thâu đạt được kết quả khích lệ đủ khởi hứng dẫn đường đến bài này. Kỹ thuật bài hai này biến hóa hơn đủ huấn luyện học giả đạt trình độ hữu dụng trong đấu trường hàng ngày. Nghĩa là khi học xong bài nầy có thể đấu với võ gia thiên hạ mà không có chỗ thất bại.

    Học tới đây học giả đã lãnh hội được nhiều điều hay rồi, tưởng không cần nói thêm về các đấu pháp nghề võ nữa, cũng chẳng phải bàn luận phương thức? vì ai cũng thông thạo nhiều môn phái và bài bản?

    Có điều cần nên nhắc lại là bài tập nầy đủ ứng dụng cho mọi đòn thế của bất cứ bài bản nào. Tức trước khi chưa học nội công dù thuộc bài bản đủ thứ nhưng đánh không đau người, nay đánh người chịu không nổi, ấy bài nội công nầy chủ huấn luyện học giả được như thế. Đơn giản và chắc chắn như vậy.

    Về kỹ thuật đòn thế toàn bài cũng do 18 thế căn bản mà kết hợp nhưng có biến hóa tùy nghi với bộ thủ pháp chiến đấu và cước pháp di chuyển cho đặng sự linh hoạt thích hợp với cuộc giao đấu trong đời. Gồm 36 thức liên hợp với các tấn pháp lập tấn, Kỵ Mã, Đinh Tấn và Chảo Mã, cùng tọa bộ.

    Cách luyện cũng điều hợp động tác và hơi thở theo từng bước chân đi, từng diêu động của tay quyền, chỉ, chưởng, v?v? hợp nhất Thần Khí phát triển lực lượng tới mức tối đa. Cả hai bài mỗi ngày chỉ nên tập hai lượt trong một buổi tập, và tập buổi sáng sớm hoặc chiều tối mát trời là tốt nhất. Nên chọn sân rộng, thoáng khí, mát mà tập, nếu không được như thế thì tập trong phòng mở cửa sổ cũng hay. Quan trọng là tập đúng và tập đều.

    Sau ba tháng tập bài một với 1-2 vòng sắt (mỗi tay từ 2 đến 4 ký lô 4) thì tay đã mạnh khá lắm rồi, đánh đau lắm rồi, tay gồng chuyển đã có đường nét thấy rõ. Bây giờ tập tới bài thứ nhì cũng chỉ mang hai vòng vì số động tác của bài 2 dài hơn bài một. Tập độ một tháng thì tăng lên thêm mỗi tay một vòng. Ở trình độ nầy tập cho đến khi thuần thục, mỗi bài đi hai lượt thì cũng đến 6 tháng luyện tập. Tới đây sức mạnh đáng kể, bắp thịt, gân đã lộ ra, tay chân cứng cáp, đỡ đòn đấu thủ đã thấy đau rồi, đau lắm là khác. Tập đến một năm tăng lên bốn vòng mỗi tay thì mỗi tay gần 9 ký lô, hai tay 18 ký luyện hai lượt mỗi bài trong buổi tập không biết mệt thì đánh người chịu không nổi. Đánh trúng là bị thương phải uống thuốc rồi đó. Bắt đầu từ đây đấu với bạn phải thận trọng lắm mới khỏi gây tai nạn.

    Người thanh niên có sức vóc và có trình độ võ công kha khá thì chỉ trong vòng 3 đến 4 năm có thể tập đến 9 vòng là mức tối đa của môn học. Trình độ nầy hai tay mang trọng lượng gần 40 ký lô mà thu phát kình lực nhẹ nhàng như ý thì đòn đánh ra bò, ngựa cũng gảy sườn dập bụng huống hồ da thịt người ta.

    Biết nhiều mà không tập chỉ giỏi miệng mà chẳng lợi thân, vậy mời học giả thực hành bài tập sau cho được vẹn toàn.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    THIẾT TUYẾN VIÊN HÌNH QUYỀN

    TANG QUYỀN, BÁI TỔ

    Động tác 1:? Đứng thẳng người, hai bàn chân khít nhau, hai nắm tay thu lại hai bên hông, chỏ khép vào, mắt nhìn thẳng tới trước.

    Động tác 2:?. Chân trái đưa tới trước, mũi bàn chân chạm nhẹ mặt đất, gót nhón lên, chân sau co gối, quyền trái mở thành chưởng từ hông đưa lên trước ngực, ngang vai, chưởng tâm chiếu tới trước, quyền phải đưa vòng lên, quyền tâm úp xuống mặt đất, đầu quyền đối ngón cái bàn tay trái và cách nhau độ 5 phân Tây. Mắt nhìn thẳng tới như hình 49-50.

    Lúc đưa chưởng và quyền lên đồng đưa một lượt, từ từ, hơi thở được hít vào từ từ, đến khi tay vừa làm xong thì bụng đầy hơi, ngưng thở.

    SONG THỦ HẬU PHAO (Hai tay ném ra sau)

    Động tác:? Đang ở thế Bái Tổ, quyền phải mở ra thành chưởng dựng lên như tay trái, kế rút chân trước về khít bàn chân phải sau, hai tay cùng lúc ném ngược về sau. Hình 51. (Hình 52 thế Song Thủ Hậu Phao nhìn từ một bên).

    YẾU LÝ: Ném về sau, các ngón tay phải mở ra để các vòng khỏi tuột khỏi tay, đồng thời chưởng câu lên, mắt nhìn thẳng tới trước, thân trên hơi chồm tới trước giữ thăng bằng. Động tác nầy khi ném phải hít hơi cùng lúc với tay ném ra, khi hơi đầy thì tay ném hết sức rồi, lúc đó hai tay dừng ở đó chịu đựng trong vài giây đồng hồ. Lúc nầy nếu rờ cánh tay thấy cứng, mà phần bụng cũng cứng. Như vậy động tác nầy chủ tập lực sức hai cánh tay phần phía sau và toàn bộ phận bụng trước. Tập lâu ngày bụng để người đấm chẳng ăn nhằm gì, mà tay ném ra sau lực sức cũng tăng tiến quan trọng. Cần nhất là nín hơi giữ cho tay ở độ ném lâu chừng nào tốt chừng nấy. Giữ càng lâu chứng tỏ vai càng mạnh, khí lực tích chứa có nhiều.

    SONG CHƯỞNG PHÂN THỦY

    Động tác: Tiếp theo động tác trước, chân trái bước tới, song chưởng đưa tới theo chân bước tới trước gối trái, thân khom tới trước. Hình 53, tiếp tục đưa đưa vào cho hai chưởng chạm nhau mới xoay cổ tay cho lòng chưởng xoay ra ngoài hai bên rồi vừa hít đầy hơi vừa banh song chưởng ra hai bên như hình 54.

    YẾU LÝ: Lúc chân bước tới, đưa song chưởng tới trước thì thở ra, khi banh song chưởng thì hít vào, chân trước gập, chân sau thẳng, người cúi xuống.

    PHÁP THỦ VIÊN HÌNH

    Động tác: Đứng thẳng dậy, song chưởng đưa vào trước gối, tréo nhau, chưởng trái ngoài, phải trong rồi theo động tác lưng thẳng dậy đưa tréo hai tay lên đỉnh đầu thành chưởng tâm song chưởng chiếu thẳng tới trước và chưởng phải ngoài chưởng trái trong. Hình 55. Kế gạt thẳng hai cánh tay thành vòng cung từ trên xuống hai bên đùi?

    YẾU LÝ: Từ động tác phân thủy, khi chuyển thân đứng lên thời song chưởng đưa lên theo với động tác đứng và quay thành vòng tròn liền. Đứng lên thì thở ra, nhưng khi quay thì hít vào. Chuyển động uyển chuyển khi quay thì dịu dàng, hai tay như hai cánh quạt. Quay tự nhiên không được gồng bất cứ phần nào trong cơ thể.

    SONG CHƯỞNG BỔNG NGƯU

    Động tác 1:? Tọa thấp tấn xuống, song chưởng vẫn đưa sang hai bên như hình 56. Kế câu chưởng vào như ôm lấy trâu con, đoạn đạp chân sau đứng dậy, như hình 57-58. Mắt cúi xuống nhìn khoảng giữ mũi song chưởng.

    YẾU LÝ: Động tác tọa chân xuống thì thở ra, khi song chưởng xúc vào đứng lên thì hít vào, trí tưởng tượng như đang ôm con trâu lên vậy. Vai mềm mà cánh tay ngoài thời thật cứng chắc.

    Động tác 2: Đứng thẳng lưng dậy thì song chưởng đưa ra như bồng (bổng) con trâu lên. Hình 59.

    SONG ĐỊNH CHƯỞNG

    Động tác:? Thở ra, kế xoay cổ tay cho song chưởng hướng tâm ra ngoài rồi hít hơi đầy đẩy song chưởng thẳng tới, thẳng cánh tay, song song nhau giữ yên trong vài giây đồng hồ. Hình 60.

    YẾU LÝ: Động tác xoay cổ tay phải giữ cánh tay bất động chỉ có phần cổ tay xoay mà thôi. Tới khi đẩy chưởng tới thì cùi chỏ mới thẳng, bàn tay phải dựng đứng, các ngón khít nhau.

    SONG TIÊU THỦ

    Động tác:? Chân phải bước tới, cổ tay đập xuống, song chưởng biến thành song tiêu đâm tới, khí vẫn giữ đầy trong bụng. Hình 61.

    YẾU LÝ: Thở ra lúc đập chưởng xuống, khi bước chân lên đâm tới thì hít hơi đầy, mũi tiêu cũng vận cứng lên.

    SONG TRẦM CHƯỞNG

    Động tác:? Thở ra, lùi chân phải về sau, song chưởng trầm (đè) xuống trước hai bên gối, mũi chưởng cất lên trong lúc hít đầy hơi dồn xuống đan điền. Hình 62.

  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    SONG CÂU THỦ

    Động tác:? Thở ra, đưa tay lên đồng thời hít hơi vào, chưởng co lại thành câu, hai tay song song nhau và song song mặt đất. Mắt nhìn thẳng. Hình 63.

    YẾU LÝ: Đưa song chưởng lên dịu dàng, hai tay như hai cây đòn có treo hai quả cân. Không nên đưa giựt lên.

    SONG CỔ NHẬP (Ôm vào)

    Động tác:? Thở ra, song câu xoay vào bật mũi bàn tay lên, hít vào và chân phải bước tới đồng thời co chỏ lại thành tư thế ôm vật. Hình 64.

    YẾU LÝ: Lúc xả hơi ra thì cổ tay mềm để xoay mũi bàn tay lên, nhưng xoay xong thì hít hơi vào, cổ tay vận sức cứng co chỏ đồng thời bước tới như hứng lấy vật người ta quăng tới vậy. Co chỏ ít tí thôi.

    TANG QUYỀN (Thu quyền)

    Động tác:? Thở ra, co chỏ lại thu quyền về hai bên hông sau khi chưởng biến thành song quyền. Chân phải rút về sát chân trái đứng lập tấn hơi thở điều hòa. Hình 65-66.

    YẾU LÝ: Động tác Tang Quyền là tạm nghỉ ngơi để xuất thức khác kế tiếp. Khi mới tập chỉ nên tập tới đây rồi nghỉ. Khi nào thuộc thuần thục hãy tập thêm.

    SONG KHẤU THỦ

    Động tác:? Hít hơi đầy, chân phải tiến lên, song quyền từ hai bên hông đấm tới nhưng hai chỏ kẹp sát hai bên hông, hai cánh tay song song với mặt đất. Mắt nhìn xuống song quyền. Hình 67.

    TẢ HỮU CỔ NHẬP
    [​IMG]
    Động tác 1:? Thở ra, chân trái bước sang trái ngang chân phải một khoảng rộng xuống tấn Kỵ Mã, quyền phải rút về hông, hít vào, quyền trái biến thành câu ôm vào ngang trước ngực. Hình 68.

    Động tác 2:?Thở ra. Hít hơi vào đưa chân phải về sau đồng thời rút quyền trái về bên hông trái, quyền phải biến thành câu đưa tới trước ôm vào như hình 69.

    YẾU LÝ: Lúc chuyển tấn bộ từ Đinh tấn sang Trung bình (Kỵ Mã), và từ Kỵ Mã về Đinh bộ cao không thay đổi, tức không được nhấp nhô. Nhịp thở ra khi lui bước hoặc theo các động tác lui về, thu lại của quyền chưởng. Hít vào khi vận lực ra thế.

    TẢ HỮU SONG TIÊU CHỈ
    [​IMG]
    Động tác 1:? Thu câu thủ phải về thở ra, quyền trái biến thành song chỉ rồi hít hơi vào đâm tới (xoay cổ tay), vai mềm mà tay ngoài cùng chỉ thì cứng. Hình 70.

    Động tác 2:? Xòe các ngón tay trái ra thành chưởng, quyền phải biến thành song chưởng đưa lên phóng tới, chưởng thủ trái nằm bên trong tiêu thủ. Hình 71: chân phải theo tay xỉa tiến bước lên.

    YẾU LÝ: Tả hữu tiến làm mau trong một nhịp thở, Hữu Tiêu thì giữ tả chưởng yểm trong để tiếp theo thức Long Trảo.

    TẢ LONG TRẢO

    Động tác:? Thở ra, thu chỉ thành quyền về bên hông phải, chưởng trái xoay cổ tay biến thành trảo chụp tới trước vừa hít hơi vào, chân sau chuyển thẳng cứng. Hình 72.

    YẾU LÝ: Long Trảo nầy dùng chụp vào mặt đối thủ, nên cánh tay phải xiên.

    CƯƠNG ĐAO THỦ

    Động tác 1:? Thở ra, chân phải lui về sau, trảo trái biến thành cương đao xắt xuống trước gối trái, hít hơi vào, trong lúc quyền phải từ hông phải cũng mở ra thành cương đao đưa lên ngang mang tai rồi chém vét về sau, cạnh bàn tay thẳng đứng. Mắt nhìn thẳng tới hưởng trước. Hình 73. Chân tấn Chảo Mã.

    Động tác 2:? Thở ra, chân trái lùi về sau tấn Chảo Mã chân phải trước, kế hít hơi vào, bàn tay phải từ trên chém vạt xuống trên cánh tay trái dừng lại trên gối phải. Đồng thời chưởng trái chém vét thẳng đứng về hướng sau như Hình 74. Mắt nhìn tới trước. Khí giữ bình trong bụng.

    YẾU LÝ: Hai động tác chém tiền trảm hậu này thực hiện như quơ nghĩa là đều tốc độ.

    TRẮC XUYÊN THỦ (Dấm nghiêng một bên)

    Động tác:? Thở ra. Xoay cổ tay phải nắm thành quyền, quyền tâm hướng lên đồng thời hít vào đấm ngửa nắm tay tới hướng trước thẳng cánh tay, thân nghiêng theo, tấn chuyển thành Kỵ Mã. Cương đao trái biến thành quyền thu về bên hông trái. Mắt nhìn theo quyền phải. Hình 75-76. Nín thở giữ yên vài giây đồng hồ trước khi diễn tới thế sau.

    SONG THỦ HẬU PHAO


    Động tác:? Thở ra, đồng thời xoay lưng lại, song quyền biến thành song câu ném về sau, chân chuyển thành Đinh tấn chân trái trước. Hình 77. Thân khom về trước (tức hướng sau của thức 16).

    HỔ TRẢO

    Động tác:? Thở ra. Xoay người trở lại hướng tiến ban đầu, thuận chiều kim đồng hồ, câu phải biến thành quyền đưa úp trước ngực, câu trái biến thành trảo đưa ngoài quyền phải. Chân đứng tấn Đinh, chân phải trước (thế trung gian của Hổ Trảo), lúc nầy vẫn còn thở ra. Hình 78.

    Quyền phải thu về bên hông phải, hít hơi vào, chưởng trái biến thành Hổ Trảo chụp từ trên xuống (chụp trên đỉnh đầu đối thủ). Hình 79. Chụp thẳng cánh tay.

    TẢ ĐƠN CÂU

    Động tác:? Thở ra. Hít hơi vào trảo biến thành Câu câu xuống (gập cổ tay xuống) Hình 80.

    TẢ HỮU ĐỊNH CHƯỞNG

    Động tác 1:? Giữ nguyên hơi thở trong bụng, bật cổ tay lên biến Câu thành Chưởng. Hình 81.

    Động tác 2:? Thở ra chưởng biến thành quyền thu về bên hông trái, đồng thời xoay hông biến thành Kỵ Mã tấn, quyền phải biến thành chưởng đẩy tới thẳng cánh tay thế Hữu Định Chưởng. Hình 82. Mắt nhìn theo chưởng.

    TẢ ĐƠN CỔ NHẬP
    [​IMG]
    Động tác:? Thở ra. Xoay hông thuận chiều kim đồng hồ về hướng tiến lên thành Đinh tấn chân phải trước, chưởng phải biến thành quyền thu về bên hông phải, quyền trái đồng thời biến thành chưởng đưa lên ngang ngoài trước ngực ôm vào, hình 83. Hít hơi vào vừa ra sức ôm vào cánh tay sát vào trước ngực. Hình 84.

    YẾU LÝ: Động tác xoay trở thân eo phải giữ mềm dẻo tự nhiên, tay quyền chưởng mềm dẻo linh động không nên làm cứng bật ra bật vào như người máy. Lúc nào thở ra là tay buông lỏng không có lực, lúc nào hít hơi vào thì lực vận lên vừa đủ, chỉ khi nín hơi bất động thì phần chủ định phải vận lực cho cứng mà thôi. Mọi thức trong bài luyện tập nội công nầy đều phải theo nguyên tắc nầy mà tập. Tập đúng thì sự tăng tiến mau theo từng buổi tập, nhược bằng tập sai thì sự tiến bộ sẽ đến chậm chạp. Vậy chư học giả, võ sư, võ sinh khá tự lưu ý cho đúng phép tắc.
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    SONG PHÁCH CHƯỞNG

    Động tác:? Thở ra, đưa song quyền ra sau trong lúc chân trái bước tới trước. Hình 85. Hít hơi đầy bụng, mở rộng quyền thành song chưởng rồi vỗ xuống trước, hai bàn tay song song nhau, mắt nhìn thẳng. Hình 86.

    YẾU LÝ: Từ thức Cổ Nhập, chân bước lên, cây biến thành quyền rồi song quyền đưa ra sau, hơi thở nhẹ nhàng. Đến khi thân đã vững bộ thì hơi được hít vào và tay quyền biến thành chưởng từ sau vỗ tới ngang bằng vai. Giữ tay ngang (lực treo), hơi thở ngưng để khí trầm trong bụng.

    SONG CỔ XUẤT

    Động tác:? Thở ra. Hai tay đưa tréo nhau trước ngực, xoay cổ tay cho lòng song chưởng úp vào, chưởng trái trong, chưởng phải ngoài. Hình 87. Hít hơi đầy, đẩy song chưởng sang hai bên tả hữu, mũi chưởng dựng đứng, hai cánh tay thẳng ngang, thân người thẳng đứng. Hình 88.

    YẾU LÝ: Hai tay đang ở thức Phách chưởng, co chỏ là tự nhiên song chưởng úp vào tréo nhau. Kế đẩy sang hai bên. Sức đẩy chưởng ra giống như hai bàn tay cầm sợi dây rồi giăng ra vậy, khí trầm, ý tưởng đặt tại đan điền. Một nội gia khi luyện công đã đến hàng khá khá thì trong khi luyện ý tưởng lúc nào cũng đặt tại đan điền nên dù ai đi gần cũng không hay biết. Ở trình độ thấp thì dễ phân tâm, ở trình độ cao hơn đang luyện có thể biết mọi động tịnh chung quanh mà hơi thở và lực đạo vẫn không bị gián đoạn.

    ĐỀ KHÍ
    [​IMG]
    Động tác:? Thở ra từ từ, trong lúc đưa tay vào giữa như động tác hình 86, kế xoay cổ tay cho chưởng tâm song chưởng ngửa lên trời. Đoạn hít hơi vào từ từ và thóp bụng thu tay vào, cùi chỏ ngang bụng. Tưởng tượng khí ở ngực trên, thân nhẹ nhàng muốn bay lên. Hình 89.

    TRẦM KHÍ

    Động tác: Thở ra rồi lại hít vào trong khi song chưởng tiếp tục thu vào sát ngang hai bên hông, vẫn ngửa, đầu gối sau mở ngang, gối trước gập xuống thành Chảo Mã. Nín hơi, dồn khí xuống bụng dưới (đan điền). Tưởng hai bàn chân lún xuống đất. Hình 90.

    YẾU LÝ: Hai thức Đề Trầm đi liền với nhau, tay còn ngoài xa thì khí nhẹ lâng lâng, khi rút tay về sát bên hông thì khí nén xuống nặng trầm trọng. Hơi thở được nối tiếp nhẹ nhàng: hít vào thở ra lại hít vào trầm xuống.

    KỴ MÃ SONG ĐỊNH CHƯỞNG

    Động tác:? Chân trái bỏ sang trái thần tấn bộ Kỵ Mã, mở hai mũi bàn chân ra trong lúc thở ra. Hít vào trầm khí xuống đan điền, vận lực xuống hai gót chân (nhờ mở mũi bàn chân nên khí dễ xuống tới gót), song chưởng ở bên hông từ từ xoay úp xuống rồi bật chưởng đứng thẳng, đẩy tới song song nhau, khoảng cách giữa song chưởng rộng hơn vai. Cánh tay thẳng mắt nhìn thẳng mà thấy đan điền (quán tưởng nơi đan điền). Hình 91.

    THÁP THỦ VIÊN HÌNH (Hai tay quay thành vòng tròn)

    Động tác:? Thở ra, hạ song chưởng xuống trước hạ bộ, lòng chưởng úp vào, lòng chưởng trái úp trên lưng chưởng phải, cằm cúi xuống, mắt thấy đan điền. Kế hít hơi vào, hai tay khoát lên thành vòng tròn, rồi hoành về vị trí cũ. Hình 92.

    YẾU LÝ: Khi hít hơi thì đưa song chưởng sát ngực mà lên, lòng chưởng úp vào, hai cánh tay tréo nhau. Đưa lên tréo nhau nơi cổ tay, thẳng cánh tay rồi mới quay vòng trở xuống. Khi quay thì ngước mắt nhìn theo lên, lúc tay xuống mắt theo nhìn xuống như cũ. Khi đưa tay lên thì gót hơi nhón, khi tay xuống thì gót đã trầm sát đất.

    KHẤU THỦ TẢ BIÊN (Đấm móc về bên trái)

    Động tác:? Thở ra, hít vào từ từ song chưởng biến thành song quyền, quyền trái thu về hông trái, quyền phải co lên đấm móc qua hướng trái, nắm tay úp vào trước ngực, đồng thời chuyển sức nặng thân mình tới chân trái bằng cách mở đầu gối chân nầy sang hướng trái. Hình 93. Vai phải nghiêng tới.

    TẢ KHAI CUNG THỦ

    Động tác:? Thở ra, hít vào, mở mũi bàn chân trái sang trái thành tấn bộ Chảo Mã chân trái trước, quyền trái đồng thời dương thẳng tới hướng trái, quyền phải kéo về hướng phải sau. Hai tay thẳng hàng. Cả hai nắm tay đều úp xuống đất. Nín hơi khí trầm. Tưởng tượng đang dùng sức hai tay kéo sợi dây cung có lắp tên. Hình 94.

    HỮU KHAI CUNG THỦ

    Động tác:? Thở ra, hít vào trong lúc xoay mặt về hướng phải tấn Chảo Mã chân phải trước, tay phải giương thẳng về hướng phải, trong lúc quyền trái co lại dương ra hướng sau nín hơi. Mắt nhìn theo quyền phải. Hình 95.

    YẾU LÝ: Hai thức Khai Cung thực hiện liền lạc nhau, quay qua trái kế qua phải. Tưởng tượng thấy con chim bay ở hướng trái dương cung bắn thì nó bay tới hướng phải rồi nên phải lắp tên bắn qua hướng phải. Khi dương cung hơi thở thở hít phải đúng tư cách, mới lặp tên thì thở ra, hít vào thì dương cung, bắn thì nín hơi. Làm đúng như thế, từ tư thế đến ý tưởng thì động tác mới có giá trị. Khi dương cung phải vận sức ở hai cánh tay như thể có cây cung thật chớ không phải chí dương hời hợt lấy có.

    TRẦM SONG CHƯỞNG
    [​IMG]
    Động tác:? Thở ra, xoay mặt về chánh diện, song quyền biến thành song chưởng, chưởng phải co vào đối diện chưởng trái rồi xuống tấn Kỵ Mã (hai mũi bàn chân khép vào, sức dồn tới các đầu ngón chân), đẩy song chưởng trầm xuống, hai tay song song, thẳng ức bàn tay (chưởng căn) nặng trĩu bàn tay bật lên, nín hơi dồn khí xuống đan điền. Hình 96.

    SONG TIÊU THỦ

    Động tác:? Thở ra, nhón lên cao hai tấc tây, song chưởng lật nghiêng thành song tiêu. Hít hơi vài khí lực vận vào tay (gồng mũi bàn tay) theo đà nhỏm đít lên, song tiêu từ dưới cất mũi lên đấm tới thẳng cánh tay, hai bàn tay cách nhau khoảng cách bằng một vai. Mắt nhìn thẳng. Nín hơi. Hình 97.

    YẾU LÝ: Thức song tiêu làm liền theo Trầm chưởng, nhóm đít lên là song tiêu theo liền đâm tới. Mũi tiêu linh động, cất lên như đầu hai con rắn mổ tới. Nghĩa là đi theo đường gợn sóng chớ không vuông góc.

    TẢ HỮU ĐƠN TIÊU

    Động tác 1:? Thở ra, hít vào, tiêu thủ trái biến thành quyền thu về bên hông trái, tiêu thủ phải đang nghiêng lật úp vào, đồng thời chân phải bước tới. Mắt nhìn theo tiêu. Hình 98.

    Động tác 2:? Tiếp theo, tiêu thủ phải thu lại thành quyền bên hông phải, quyền trái mở ra thành tiêu đâm tới úp, vừa đâm vừa xoay cổ tay. Mắt nhìn theo tiêu, chân không đổi tấn. Hình 99.

    YẾU LÝ: Hai thức đơn tiêu nầy làm nhanh như con thoi, mà tay lưu ra đề như quăng một sợi dây, làm cùng một hơi thở.

    TIẾN CHƯỞNG HẬU CÂU THỦ

    Động tác:? Thở ra, hít hơi vào, lùi chân trái về hướng trái tấn Đinh chân phải trước, tiêu trái đồng thời biến thành Câu câu về sau song song với chân sau, quyền phải biến thành chưởng đưa lên trước ngực rồi xoay cổ tay đẩy cạnh chưởng lên khỏi trán, cánh tay nghiêng 45 độ. Mắt nhìn thẳng tới. Nín hơi. Hình 100.

    TIỀN CHƯỞNG HẬU CÂU THỦ

    Động tác:? Thở ra, xoay trở qua trái nghịch chiều kim đồng hồ thành Đinh tấn chân trái trước, câu thủ trái co lên trước ngực rồi biến thành chưởng gạt lên trước trán. Chưởng phải từ trên cao biến thành Câu thủ câu sát bên hông xuống song song với đùi chân sau. Mũi câu hướng lên. Ngưng thở, mắt nhìn thẳng tới trước. Hình 101.

    YẾU LÝ: Hai thức nầy giống nhau, xoay qua trái, qua phải chân không nhấp nhô, lực phát đều trước sau hai hướng. Đỡ trên câu ra sau. Hơi đầy ở ngực.

    TANG QUYỀN
    [​IMG]
    Động tác:? Thở ra, chân sau bước lên sát chân trước hai bàn chân khít nhau lập tấn đứng thẳng, chưởng câu đều biến thành quyền thu về hai bên hông. Mắt nhìn hướng về hướng trái. Hơi thở điều hòa. Kế xoay về hướng chánh diện (hướng tiến lên ban đầu) Hình 102-104.

    TANG CHƯỞNG (Thâu Thức)

    Động tác:? Song quyền mở ra thành song chưởng, mũi song chưởng hướng sang hai hướng trái phải, hít hơi đầy nén xuống bụng dưới đồng thời đẩy song chưởng từ từ xuống hai bên đùi thẳng cánh tay. Giữ yên vài giây đồng hồ, kế thu chưởng lên thở ra nhè nhẹ. Chấm dứt bài luyện thứ hai. Hình 104.
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    I. THÉP CHẾ VÒNG THIẾT TUYẾN

    Dùng chữ Phép Chế nghe qua tưởng như ghê gớm lắm, cầu kỳ và công phu như luyện phép luyện kiếm đời xưa hoặc giả khó khổ như luyện linh đơn (chế thuốc) của các đạo gia, v..v?

    Thật ra không có gì khó khăn đến như thế, ở đây, dụng cụ của môn học rất là đơn giản: chỉ có một chiếc vòng làm bằng kim loại (sắt đồng, gang, kẽm, chì, v..v..) đường kính 10 phân tây và cân nặng tùy sự chế luyện có thể từ 1 ký lô rưỡi đến 2 ký rưỡi mỗi vòng. Điều quan trọng hơn hết là vòng phải tròn, láng, cạnh ít gợn sóng càng tốt vì tránh được sự xây xát cổ tay khi luyện. Và nếu có thể được thì dùng loại kim loại có tánh nặng nhất mà chế vòng thì đõ phải cồng kềnh. Thường người ta chế vòng bằng đồng hay thao, cũng có thể hợp kim đồng và kim loại khác. Gang và sắt đều nhẹ hơn đồng, thao. Chì là kim loại nặng hơn đồng nhưng mềm quá lại có chất độc làm mất máu. Nếu có dùng chì đúc vòng tập thì nên phải thêm kim loại khác như kẽm, nhôm. Và khi tập thì vòng chì phải bọc vải hoặc da láng để tránh chất phóng xạ của chì cũng ngừa trầy da tay, đời nay văn minh có băng cao su dùng quấn chung quanh vòng chì rất tốt (loại băng vẫn thường quấn tay cầm xe gắn máy). Người xưa, các nhà phú hộ thường đúc vòng bằng bạc hoặc vàng để luyện tập cho tăng sự quý phái. Vàng thì có pha bạc cho cứng thêm. Tưởng ngày nay ít ai có đủ tiền mua vàng 14K để đúc mươi vòng luyện tập dù người võ gia là một tỷ phú trong nước. Thế mới biết đường ăn chơi, đường thao luyện xưa nay tuy giống mà có khác vậy. Sự giàu sang ngày nay chỉ có cái vẻ bên ngoài chớ thật sự chẳng thể so sánh ngày xưa, càng văn minh con người càng hời hợt, càng hời hợt thì càng chẳng còn giá trị gì. Các tư tưởng gia như Phật, Chúa, Lão Tử, Khổng Tử cũng cách nay tới mấy ngàn năm rồi, đến nay chẳng có ai theo kịp nói chi chuyện vượt qua.

    Ngay như môn học vòng đồng nầy có đã lâu rồi mà nay cũng chẳng có gì tân tiến hơn để luyện tập con người. May thay soạn giả trong nhiều năm tham khảo và rèn luyện nội công vừa tìm được phương pháp tổng hợp có thể huấn luyện nội công cấp tốc cho học giả đạt đến kết quả trong vòng ba năm thay vì 10 năm khổ luyện như ngày xưa. Âu đây cũng là điều hạnh ngộ trời cho. Với phương pháp phối hợp mới dựa vào căn bản khoa học, soạn giả huấn luyện môn sinh đủ sức chịu đựng cho xe hơi cán, búa đánh, dao chém, nằm trên hầm chông, v?v? mà không phương hại gì đến sức khỏe mà mỗi ngày sức lực càng gia tăng. Điều nầy có thể chứng minh qua sự thành công của soạn giả, năm 1972, 73 cho đủ loại xe hơi cán qua đủ chỗ trong mình, năm 1974 đã đủ nội lực chịu đựng cho xe tăng hạng nặng cán qua (soạn giả sẽ phối hợp tổ chức biểu diễn chung với một Bộ, Phủ thuộc văn hóa thành quả nầy để lấy tiền cứu giúp đồng bào nghèo trong những ngày tới đây, công việc đang tiến hành. Quý học giả ở Sài Gòn Gia Định nhớ đón coi chơi cho biết. Có đài truyền hình ngoại quốc quay phim).

    Ở đời, người không học thấy cái gì cũng ghê gớm nhưng khi đã học qua thì mọi sự chỉ là trò chơi giải trí, kiếm tiền hoặc lợi thân đạt đạo, khôn và dốt chỉ cách nhau tờ giấy mỏng.

    Trở lại cách tạo cái vòng đồng thì, ngày nay có đủ máy móc tối tân ở các tiệm tiện, đúc, rèn học giả có tiền thì đến đó bảo họ làm cho cái gì cũng được. Vẽ kiểu đưa ra bữa sau có liền, mang về tập vài tháng thấy đời vui đẹp hơn xưa, ăn ngon ngủ được, làm việc gì cũng mau cũng vui ấy là sức khỏe tăng tiến rồi đó. Nếu không có tiệm điện, đúc, rèn thì nhờ các tiệm làm đồ sắt, hàn cửa sổ, cửa sắt uốn các vòng sắt cũng đều tốt. Các học giả ở nhà quê có thể dùng sợi dây sắt bằng chiếc đũa ăn uốn thành vòng rồi lấy kẽm nhỏ quấn chung quanh cho đều, lớn dần đến khi đủ trọng lượng mong muốn. Hoặc dùng chì nấu chảy làm khuôn tròn dưới đất mà đổ, rồi dùng dũa mà dũa cho tròn, sau đó dùng kẽm quấn chung quanh thật đều khít thì cũng có vòng Thiết Tuyến để luyện tập.

    Trên đây là cách tạo chiếc vòng đồng, sắt, v?v? để luyện nội công, từ cách làm bằng máy móc đến cách chế biến thô sơ, cách nào cũng tốt. Quan trọng không phải hoàn toàn ở chiếc vòng đẹp, quí mà ở chỗ biết cách tập luyện. Biết tập luyện thì có hạnh phúc rồi vậy.

    Soạn giả viết cuốn sách nầy dành cho người trẻ, tuổi đang lên nhưng không hẳn vì thế mà người có tuổi không tìm thấy điều thích hợp trong sách nầy. Mà ngược lại người có tuổi sẽ tìm thấy ý nghĩa về đời sống nhiều hơn, thấy phấn khởi hơn trong nhịp sống hàng ngày khi bắt tay rèn luyện môn quyền thuật nầy. Bởi ý ấy mà chữ hạnh phúc mới được nói đến, còn trẻ tuổi chỉ đúng nghĩa với từ ngữ vui tươi mà thôi.

    ?oSức khỏe là vàng?. Quý vị đều có kho vàng vô tận, tại sao cứ mãi chịu nghèo nàn. Cuốn sách quý vị đang cầm trên tay đây là bí quyết giúp quý vị hưởng kho vàng của quý vị một cách trọn vẹn. Chúc quý vị hạnh phúc và vui tươi.

    # HẾT #
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    72 THẾ CĂN BẢN NỘI DUNG
    QUA CÁC BỘ MÔN NHƯ SAU:

    Dù là nghề võ có Bát Bộ Pháp Môn như đã nói ở phần trước, nhưng trước phải tập qua tam pháp qui môn rồi sau mới tập các bài võ.
    Tam pháp là ba pháp qui lại nhiều môn như là:
    A- Bộ pháp có 3 bộ 12 môn gọi Tam Tấn.
    B- Thủ pháp có 6 bộ 42 môn gọi là Lục quyền.
    C- Cước pháp có 4 bộ 18 môn gọi là Tức Cước.
    BỘ PHÁP:
    Thượng bộ 3 môn:
    1) Lập tấn
    2) Hạc tấn
    3) Ðộc hành vũ tấn.
    Trung bộ có 5 môn:
    1) Trung bình tấn
    2) Ðịnh tấn
    3) Chảo mã tấn
    4) Xà tự tấn
    5) Âm dương tấn
    Hạ bộ 4 môn:
    1) Qui tấn
    2) Hạ mã tấn
    3) Tọa tấn
    4) Ngọa tấn
    THỦ PHÁP:
    I/ Bộ thủ có 5 môn
    1) Tứ chỉ dương hầu
    2) Song chỉ thu châu
    3) Tam chỉ thần ưng
    4) Ðộc chỉ cương dương
    5) Ngũ chỉ thu đào
    II/ Bộ hùng chưởng có 5 môn:
    1) Thần thông thượng chưởng
    2) Mãnh công độc chưởng
    3) Aâm dương pháp chưởng
    4) Song long thần chưởng
    5) Lôi công hạ chưởng
    III/ Bộ cương đao có 9 môn:
    1) Cương đao trãm thạch
    2) Cương đạo phạt mộc
    3) Cương đao lia cành
    4) Cương đao khai vị
    5) Cương đao sát thích
    6) Cương đao diệt khí
    7) Cương đao khai môn
    8) Cương đao phạt thảo
    9) Cương đao trãm xà
    IV/ Bộ Thôi Sơn có 8 môn:
    1) Thoi sơn cổn cầu
    2) Thoi sơn tả chi
    3) Thoi sơn hữu vực
    4) Thoi sơn ưng trảo
    5) Thoi sơn lộng tiền
    6) Thoi sơn khắc thủ
    7) Thoi sơn khóa hậu
    8) Thoi sơn bán hạ
    V/ Bộ phương dực có 7 môn:
    1) Phương dực ẩn long
    2) Phương dực loan đài
    3) Phương dực thần xà
    4) Phương dực kim chung
    5) Phương dực bạt hổ
    6) Phương dực bạt phong
    7) Phương dực hoành phong
    VI/ Bộ bát tuyệt môn quyền có 8 môn:
    1) Hoặch xa hạ quyền
    2) Bình phong hạt quyền
    3) Ðiểm thủy thủ quyền
    4) Aâm dương song quyền
    5) Xà hành nhuyễn quyền
    6) Kim báo đảo quyền
    7) Hổ trảo giáng quyền
    8) Giao long quyền
    CƯỚC PHÁP:
    I/ Tiền cước có 9 môn:
    1) Ðộc tiêu cước
    2) Kim tiêu cước
    3) Thiết tiêu cước
    4) Tảo địa cước
    5) Tảo phong cước
    6) Ðảo sơn cước
    7) Long thăng cước
    8) Bàng long cước
    9) Lôi long cước
    II/ Hậu cước có 3 môn:
    1) Hổ vĩ cước
    2) Câu liêm cước
    3) Nghịch mã cước
    III/ Hoành cước có 3 môn:
    1) Liên hoàn cước
    2) Lưu vân cước
    3) Tảo ngoặc cước
    IV/ Phi cước có 3 môn:
    1) Ðồng tước song phi
    2) Hồ điệp song phi
    3) Thăng thiên độc cước
    Ðó là 72 thế căn bản theo như đã nói ở trên. Tất cả cái quơ, cái múa nào trong các bài võ chánh tông không ngoài 72 thế này.
    TRÍCH TRONG ?oLA HÁN QUYỀN?
    (Thất thập nhị huyền công và Thập bát)
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Về môn tập Dưỡng Sinh Phàm bất cứ vật gì trong vũ trụ đều phải tuân theo định luật Sinh, Trụ, Hoại, Diệt. Có điều diễn trình sinh, trụ, hoại, diệt của từng vật sẽ mau chậm, dài ngắn khác nhau tùy theo các yếu tố duyên sing, duyên khởi. Khi những yếu tố kết thành của sự vật hội đủ và gặp hoàn cảnh, môi trường thích hợp (đủ duyên) thì sự vật đó phát sinh ra. Rồi nó phát triển, tồn tại và sau cùng bị hủi diệt đi cũng tùy thuộc vào từng hoàn cảnh môi trường khác nhau và luôn luôn chịu sự chi phối của các định luật âm dương, ngũ hành, tương sinh, tương khắc v.v... của vũ trụ. Con người ta cũng vậy, không ai thoát khỏi định luật này nên đều phải trải qua 4 giai đoạn Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Mỗi giai đoạn dài, ngắn là tùy theo duyên, nghiệp, số mạng của mỗi người. Vậy duyên, nghiệp, số mạng là gì nếu không phải là những nguyên nhân tạo nên sự bền lâu, hạnh phúc, buồn khổ và chấm dứt cuộc đời của từng người. Những nguyên nhân này khách quan cũng có, mà chủ quan củng nhiều. Nói theo cụ Nguyễn Du thì : ; ; Có Trời mà cũng có Ta, ; tu là cõi phúc, Tình là dây oan. Tu đay không phải chỉ là ăn chay, niệm Phật mà phải hiểu theo nghĩa rộng là giữ gìn, sữa đổi không những tánh nết, ý nghĩ cho ngay, chính, mà cả về thể xác cũng phải được luôn luôn săn sóc, điều chỉnh để nó khỏe mạnh, bền lâu, có đủ khả năng vận chuyển tư tưởng và biểu hiện qua hành động tốt lành. Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể cường tráng! Chúng ta từ tinh cha, huyết mẹ cấu thành, dù muốn dù không, ngay lúc ban sơ đã mang tính di truyền không tránh được từ 46 nhiễm sắc thể (chromosomes) mang những di thể (genes) của mẹ cha, lại chịu ảnh hưởng của môi trường, hoàn cảnh cùng sự dinh dưỡng của người mẹ để lớn dần từ phôi thai (embryon) thành bào thai (foetus), rồi lọt lòng mẹ. Sự chi phối này làm cho thai nhi tốt hay xấu cho đến khi sinh ra được mạnh khỏe hay yếu đuối, bệnh tật là hoàn toàn khách quan đối với đứa trẻ, nếu nói theo duy vật. Nhưng nếu theo duy tâm thì cũng có thể bảo rằng đó là ngiệp quả của đứa trẻ phải chịu do việc làm của nó từ những kiếp trước huân tập lại. ; ; ; Thoạt sinh ra thì đã khóc chóe! ; ; ; Đời có vui sao chẳng cười khì? Từ cổ lai đến giờ, có đứa trẻ nào mới ra chào đời đã cười ngay đâu ? Nó đều khóc cả ! Biểu tượng của sự bất mản ? đau khổ ? Ai đời, nằm trong bụng mẹ êm ấm, có đủ sinh khí và chất dinh dưỡng rút tỉa từ khí huyết của mẹ, tha hồ vung tay, đạp chân, xoay ngang, xoay dọc. Nay vừa bị đẩy ra ngoài đời, đã phải chịu đủ cảnh nóng, lạnh, ẩm thấp, ngột ngạt, ô nhiễm ở xung quanh, thì khóc để phản đối là phải lắm ! Rồi mỗi ngày còn phải đòi ăn, đòi ngủ, đòi bài tiết. Tất cả đều lệ thuộc vào người mẹ và những người chung quanh. Nhưng say này lớn dần, đứa trẻ nhận biết được mình có khả năng tự túc, tự tồn và biết được việc mình làm mang lại kết quả tốt hay xấu cho mình chịu. Cho đến khi tư tưởng trưởng thành, đứa trẻ sẽ giác ngộ mình là một sinh vật sống trong vũ trụ bao la với những định luật khắc khe mà mìnhbị chi phối và lệ thuộc. Nhưng ngược lại, lúc đó con người cũng ý thức rằng thân mình là một tiểu vũ trụ mà mình là chủ nhân ông do đầy đủ tứ đại (đất, nước, gió, lửa) cấu thành giống như ở ngoài đại vũ trụ. Muốn cho tiểu vũ trụ của mình tốt đẹp, phát triển điều hòa, chủ nhân ông phải hướng dẩn nó sinh hoạt theo đúng quy luật của ngoài đại vũ trụ : quy luật thiên nhiên. "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" là vậy. Đến lúc này, con người tuy chịu ảnh hưởng khách quan liên hệ đến sự sinh tồn của mình, nhưng cũng có thể chủ quan tạo nên nhiều yếu tố làm cho sự sinh tồn đó tốt, xấu, dài lâu hay ngắn ngủi. Các yếu tố khách quan có thể sẽ ảnh hưởng thuận lợi hay bất lợi đến sinh mệnh mình là do mình có biết tuân theo, lợi dụng hay đi ngược lại mà thôi. Nói rõ hơn, sự vui buồn, sướng khổ, mạnh yếu, phần lớn là do CHÍNH MÌNH tạo nên, nếu mình có biết thực hành một nghệ thuật sống thích đáng hay không. Nghệ thuật ở đây rất rộng lớn, bao hàm mọi lảnh vực, từ tinh thần đến thể xác, thay đổi theo thời gian và không gian và khác biệt theo từng triết thuyết, sắc dân, phong tục, tập quán v.v... Cũng như bên Phật giáo người ta nói có tới 84,000 pháp môn, nghĩa là hằng hà sa số pháp môn tu. Pháp môn nào cũng dẫn người ta tới giác ngộ, niết bàn. Không có pháp môn nào hơn pháp môn nào. Gặp được và đạt được hay không là tùy căn cơ, duyên phần của mổi người. Mặt khác, có người tu tiên để trở nên trường sinh bất lão, thong dong tự tại. Có người tu hạnh để có cuộc sống an hòa, lạc đạo. Có người tu đức để thăng hoa tinh thần. Có người tập luyện thân thể để sống hùng sống mạnh, vô tư, yêu đời. Ngược lại cũng có những người luôn luôn lo âu, buồn thảm, yếu đuối, bịnh tật v.v... Đến đây, thay vì bàn ngang, tán dọc, nói dông dài thì xin hạn chế đi vào địa hạt của môn tập Dưỡng Sing, một môn tập để rèn luyện thân thể, cải thiện sức khỏe cho chính mình. Xin có vài lời giáo đầu trước đế tránh ngộ nhận. Môn Dưỡng Sing sắp được nói tới đây cũng như 100, 1000 môn tập luyện thân thể khác như thể dục, thể thao, võ thuật v.v... đương được áp dụng trong khắp cõi ta bà thế giới này, không có thể nói là hay hơn, trội hơn các môn kia. Sở dĩ được đề cập đến vì môn Dưỡng Sing này đương được một số người Việt thực hành tại Montréal, Canada và vùng phụ cận với một số kết quả cụ thể đã được ghi nhận và có mòi phát triển trong cộng đồng chúng ta. Nói đến Dưỡng Sinh phải nói sơ qua về Thái Cực vì môn Dưỡng Sinh đặt cơ sở trên các nguyên lý Thái Cực, áp dụng các nguyên tắc của môn Khí Công và Thái Cực Quyền, cũng như phối hợp hài hòa các triết thuyết, y lý Đông phương và Tây Phương vào các động tác căn bản thể dục thể thao và đường thế của võ thuật cổ truyền Việt Nam. Theo định nghĩa, Thái là rất lớn lao, Cực là vô cùng, tột bực. Thái Cực là đơn vị tối thượng, nguyên lý cùng tột của tạo hóa trước khi phân chia ra trời đất. Danh từ này còn được gọi là "tối thượng đỉnh" vì chữ Cực còn nghĩa là nóc của một ngôi nhà. Thái Cực tạo cho ta thấy hình ảnh một cái nóc vĩ đại có khả năng dung chứa vạn vật trong vũ trụ. Ở đây còn có nghĩa là một trung tâm điểm, từ đấy, vạn vật biến chuyển không ngừng trong vòng trật tự, khởi đầu là sự biến hóa của Âm Dương. Thái Cực chuyển động sinh ra Dương. Động đến tột cùng là Tĩnh. Tĩnh là Âm. Tĩnh đến tột độ lại trở về Động, tức là Dương. Tĩnh và Động luân phiên là nguồn gốc phát sinh ra lẫn nhau, liên tục hết Động đến Tĩnh, hết Tĩnh lại Động. Trong Động có sẵn Tĩnh, trong Tĩnh đã có mầm mống của Động. Cũng như Âm và Dương là hai thái cực có sẵn trong vạn vật dù hữu tình hay vô tình, hoặc nhiều hoặc ít, tuy chống đối nhau nhưng không thể tách rời riêng rẽ mà luôn luôn gắn chặt, bổ túc cho nhau để duy trì sự sống và giữ được sự quân bình trong vũ trụ. Sự quân bình này không phải cố định mà luôn luôn linh động để sinh hóa, phát triển. Trong Âm có Dương, trong Dương đã có sẵn Âm. Âm Dương tương thôi, tương khắc, tương sinh, sinh sinh, hoá hoá vô cùng tận. Thái Cực và lý Âm Dương được tượng trưng bằng cái vòng tròn trong đó cặp cá một trắng một đen xoắn xuýt nhau quay tròn không ngừng. Như thế, môn Dưỡng Sinh nhằm điều hòa thân thể chúng ta như một tiểu vũ trụ bằng cách hòa hợp với đại vũ trụ bên ngoài. Con người ta sống ở trong vũ trụ, trên là Trời (Dương), dưới là Đất (Âm), giữa là người. Theo thuyết Tam Hợp THIÊN, ĐỊA, NHÂN thì Người giữ vị trí môi giới giữ Trời và Đất. Nhờ Trời, Người hấp thụ khí qua sự hô hấp. Nhờ Đất, Người thu hút khí lực qua thức ăn, thức uống. Trong cuộc sống, Người là nơi tiếp nhận một cách điều hòa các năng lực của Trời Đất, là nơi hội tụ của vũ trụ. Thân người là một tiểu vũ trụ, một phần nhỏ của vũ trụ, vì thế cũng chịu ảnh hưởng, sự chi phối của các định luật Âm Dương, Ngũ Hành của Trời Đất. Sự biến đổi của Âm Dương, Ngũ Hành uốn nắn đời sống con người và ảnh hưởng tới sức khỏe vật chất, tinh thần nhân sinh. Ngoài ra, môn Dưỡng sinh chú trọng đặc biệt đến sự hít thở. Ý thức rằng con người ta có thể nhịn đói 3 ngày mà không ăn không uống cũng không chết, nhưng không thể nhịn thở quá 3 phút được. Hơi thở là căn bản của sự sống. Hít vào là "Nạp", thu nhận dưỡng khí vào phổi, có hiệu năng tăng cường hệ thống thần kinh giao cảm, kích thích toàn thân (système nerveux sympathique) là một động tác thuộc Âm. Thở ra là "Thổ", có hiệu năng phân tán, kìm hãm, tăng cường hệ thống thần kinh đối giao cảm (système nerveux paráympathique), là động tác thuộc Dương. Trong một người bình thường, CHÂN KHÍ (soufle central, véritable) lưu thông không ngừng khắp cơ thể qua hệ thống KINH MẠCH (méridiens et canaux) chằng chịt đến tậ mỗi tế bào để nuôi dưỡng và thúc đẩy chất sống hoạt động điều hòa. Cần nhấn mạnh Chân Khí gọi tắt là KHÍ. là sinh khí (soufle vital) của con người, khác với dưỡng khí (oxygène), chỉ là một thành phần tạo nên Chân Khí. Còn Kinh Mạch là những con đường lưu thông của Khí nhưng không phải là những thành phần vật chất có hình dáng nhìn thấy trong cơ thể như các đường kinh (nerfs) và mạch máu (vaisseaux sanguins). Đó là những hệ thống của mạng lưói nội mạc (système réticulo-endothélial) của mô tiếp hợp (tissu conjonctif) trong đó Khí truyền qua một cách ưu tiên. Nếu Khí bị bế tắc ở một chỗ nào thì chỗ đó bắt đầu bệnh trạng về công năng (maladie fonctionnelle), trầm trọng hơn biến thành bệnh có chứng tích (maladie organique). Cái sức mạnh đẩy Khí lưu thông chính là hơi thở. Một người bình thường lúc nghỉ ngơi, trong một phút hít thở 12 lần, có mức hoán khí (ventilation alvéolaire/minute) là 350ml x 12 = 4200ml. Đúng ra, người này một lần hít vào được 500ml dưỡng khí, nhưng khối lượng khí thực sự được trao đổi trong buồn phổi chỉ là 350ml, vì 150ml nằm bất khiển dụng trong các ống khí(espace mort anatomique). Trong cuộc sống vất vả (stress) hàng ngày, con người ta còn hít thở ngắn và nhiều lần hơn tức là sức đẩy ít hơn mà số lượng khí trao đổi trong buồng phổi cũng thấp hơn, làm cho cơ thể bị mệt và yếu đi. Có người nào thở quá dồn dập đến 40 lần trong 1 phút thì một lần hít vào chỉ được có 150 ml dưỡng khí. Số khí này trải dọc theo các ống khí quản, chưa vào được bên trong phổi đã trở ra hết. Người này sẽ phải bất tỉnh trong vòng vài phút. Trong khi đó, khả năng của buồng phổi có thể chứa từ 2500ml tới 3000ml khí. Vì thế môn Dưỡng Sinh nhằm hướng dẩn người tập thở ít lần hơn nhưng sâu hơn, dài hơn, sức đẩy mạnh hơn và thâu nạp dưỡng khí cùng thải ra thán khí nhiều hơn. Với những nhận định nêu trên, môn Dưỡng Sinh có các đặc điểm như sau:
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    1. Về diễn tiến một buổi tập : gồm 3 phần theo thứ tự rõ ràng, áp dụng phối hợp các phương pháp vừa bổ túc cho nhau vừa nhắm làm cho diễn trình tập dượt không đều đều buồn chán : - phần làm nóng cơ thể : có những động tác thể dục, thể thao để đánh thức, vận động tất cả mọi bộ phận trong cơ thể từ đầu tới chân. - phần Khí Công : tập các bài Dịch Cân Kinh và Bát đoạn Cẩm để điều hòa gân cốt và đả thông các Kinh Mạch. - phần đi Quyền : các bài quyền ở đây không phải là những bài Thái Cực quyền của người Trung Hoa thuộc 3 hệ phái Dương gia, Ngô gia hay Vũ gia mà là những bài quyền rút tỉa trong võ thuật cổ truyền Việt Nam, thích hợp với người Việt hơn. 2. về phương diện hình thức : thủ pháp của các bài quyền thường tròn trịa như đồ hình Thái Cực. Từ khai thức đến thâu thức hoàn toàn liên tục, không chỗ nào đứt đoạn, phối hợp không ngừng nghỉ giữa Âm và Dương như một chuỗi động tác vô cùng tận không thể tách riêng biệt ra cái này với cái khác giống như một vòng tròn hoàn chỉnh không thể nào tìm được đầu mối. Đó chính là cái lẽ ''Thái Cực vốn Vô Cực'' (Thái Cực bản Vô Cực), và ''Vô cực là Thái Cực'' (Vô cực nhi Thái Cực) và nguyên lý ''động nhi tắc phân, tĩnh nhi tắc hợp'' khi động thì tách ra, khi tĩnh thì hợp lại. 3. về thể thức vận động : khi đi quyền, các động tác phải mềm mại, buông lơi, thong thả (nhu hòa, hoãn mạn, dụng ý bất dụng lực), tuyệt đối tránh gồng cứng các cơ (vận kình như kéo tơ), bước chân nhẹ nhàng chậm rãi như mèo đi (mai bộ như miêu hành) để cho máu luân lưu đều hòa và thông suốt. Động tác nào cũng là hoạt động của toàn thân. Hễ động chỗ nào thì không chỗ nào không động. Khi tĩnh chỗ nào thì khắp nơi đều tĩnh. ''Thượng hạ tương tùy, nội ngoại tương hợp''. Mỗi động tác được kết hợp một cách tự nhiên với hô hấp và sắp theo Âm Dương, có chuẩn tắc nhất địng như cất mình đứng lên, co cánh tay vào là hít vào (hấp) thuộc Âm, hạ mình xuống, ruỗi tay hay đánh quyền ra là thở ra (hô) thuộc Dương v.v.... 4. về sự hô hấp : phải đạt đến tình trạng sâu, dài, đều, im và thoải mái tự nhiên (thẩm, trường, quân, tĩnh, khai thoát tự nhiên). Được như vậy, phổi sẽ nở ra, dung lượng khí trao đổi gia tăng nhiều mà số lần hô hấp không gia tăng, tim không cần đập nhanh và mạnh khiến người không bị mệt, bị thở hổn hển. Số lượng dưỡng dưỡng khí dồi dào, tất cả các bộ phận trong thân thể đều được hấp thụ một cách sung túc, nhất là não, đại não được ngỉ ngơi làm cho thần khí thanh sáng (tinh thần và ý chí trong lành và khoan khoái) đạt được mục đích ''hấp khí dưỡng thần''. Tim khỏe khoắn làm cho máu tuần hoàn nhanh, dẫn máu đầy đủ đến khắp nơi khiến cho các cơ năng khác như tiêu hóa, bài tiết... đều hoạt động tốt đẹp. 5. về tác phong lúc vận động : đối với TÂM, phải giữ cho tư tưởng tập trung cao độ, nghĩa là chăm chú vào các động tác, miệt mài theo dõi từng cử chỉ từ tay, mắt, thân đến bước chân, phải hết sức thực hiện một cách thật chính xác, không được suy nghĩ mông lung (tâm viên ý mã). Muốn được như vậy là phải giữ cho hơi thở bình ổn, dài và sâu. Đối với THÂN, phải giữ đầu cho ngay, không lắc lư nhưng cổ phải linh hoạt thoải mái chớ không cứng ngắc (đỉnh đầu huyền), xương sống ngay ngắn (vĩ lư trung chính), ngực hơi thâu vào, lưng mở ra (hàm hung bạt bối), hai vai xuôi tự nhiên. Tất cả giúp cho trung khu thần kinh thông lợi, làm cho người tập có cảm giác nhẹ nhàng trong toàn thân. 6. áp dụng phối hợp hai nguyên tắc ''động trung cầu tĩnh'' trong lúc đi Quyền với ''tĩng trung cầu động'' của Khí Công. ''Động trung cầu tĩnh'' là trong động tìm tĩnh bằng các động tác nhẹ nhàng, mềm mại không làm mệt cơ thể và tập trung tư tưởng khi vận động, giúp ổn định tinh thần, tạo sự điềm tĩnh. ''Tĩnh trung cầu động'' là trong tĩnh tìm động bằng cách vận dụng hơi thở kích thích sự tuần hoàn của máu, làm cho hiện tượng chuyển hóa sinh lý ''métabolisme'' (tân trần đại tạ) thay cũ đổi mới diễn ra tốt đẹp. Nói theo Đông y là vận khí để đả thông các Kinh Mạch khiến Chân Khí được lưu thông đều khắp thì người được khỏe mạnh, không bịnh tật. Như thế, môn Dưỡng Sinh đã thực hiện được phương châm ''tương phụ tương thành'', làm cho 2 phần Khí công và đi Quyền bổ túc cho nhau và mang lại nhiều kết quả cho người tập. 7. chú trọng vào các động tác đặc biệt như vận động cổ, vai, khuỷu tay, cổ tay, ngón tay, cột xương sống, đầu gối, cổ chân, ngón chân là những bộ phận mấu chốt cho sự lưu thông bình hòa của Khí trong các Kinh Mạch. Sự vận động eo lưng cũng được thường xuyên chú ý tới để cường thân, kích thích tuyến thượng thận gia tăng hiệu năng cho hệ miễn nhiễm. 8. áp dụng tối đa các phương pháp thở điều chỉnh theo Khí công sau mỗi thế tập để tái lập sự quân bình trong cơ thể, khiến cho người tập không bị mệt. Qua chương trình huấn luyện và với các đặc điễm nêu trên, môn Dưỡng Sing đã mang lại những kết quả thiết thực được nhiều học viên ghi nhận như : - làm chậm lại hiện tượng lão hóa : các bộ phận trong ngưòi hoạt động điều hòa, các hạch nội tiết làm đầy đủ chức năng, khí huyết sung mãn, da dẻ hồng hào nhuận sắc, bớt nhăn, thân thể linh hoạt hơn. - hệ thống miễn nhiễm được tăng cường : ngăn ngừa các chứng cảm, cúm, đau nhức mình mẩy, ít bị bịnh tật, đem lại tinh thần lạc quan vui sống. - cải thiện hệ thống hô hấp : cách thức thở trong buổi tập phối hợp cùng động tác nhu hòa hoãn mạn làm cho sự hô hấp của phổi sâu và dài, học viên cảm thấy khỏe khoắn, lấy lại sức lực bị tiêu hao trong ngày làm việc vất vả, hết căng thẳng thần kinh, đỡ chứng nhức đầu, chóng mặt. - giảm cholestérol, hạ áp huyết : làm cho người nhẹ nhàng, thanh thoát, bớt trì trệ, béo mập. - hạ mức đường trong máu người bị bịnh tiểu đường. - dễ ngủ, không còn tạp niệm, suy nghĩ vẩn vơ, tìm lại giấc ngù an bình, không bị thức giấc nửa đêm. - v.v...
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    12 khẩu quyết dưỡng sinh :
    " Dưỡng thân tại động
    Dưỡng tâm tại tĩnh
    Ẩm thực hữu tiết
    Khởi sự hữu thời
    Vật nhục thuỷ thực
    Thuỷ phi thuỷ âm
    Đa thực quả thái
    Tiểu thực nhục loại
    Đầu bộ nghi lãnh
    Túc bộ nghi nhiệt
    Tri túc thuờng lạc
    Vô cầu thường an. "

    THẬP THỨC
    BẢO KIỆN PHÁP
    KHÍ CÔNG THỰC HÀNH
    Giữ tuổi xuân lâu dài,
    Bảo kiện, tăng cường sức khỏe,
    Trị các bệnh thần kinh :
    Mất ngủ, Thần kinh suy nhược, Hồi hộp lo âu

    1. XUẤT XỨ
    Thập thức bảo kiện pháp (TTBKP) là một lộ khí công gồm 10 thức, xuất xứ từ thế kỷ thứ 12, được dùng để :
    ?" Bảo kiện (bảo vệ sức khỏe),
    ?" Trị các bệnh thần kinh,
    ?" Giữ tuổi xuân,
    ?" Chống lão hóa,
    ?" Trị mệt mỏi.
    Cho đến nay, sau hơn nghìn năm kinh nghiệm luyện tập, điều trị, giảng huấn, rồi sửa đổi, được xử dụng rộng rãi. Sang thế kỷ thứ 15, các y sư biến cải thành Đào-hoa trường xuân thập nhị thức, dùng cho phụ nữ để trị bệnh, để giữ gìn nhan sắc và kéo dài tuổi xuân.
    TTBKP được giảng dạy tại trường ARMA, dành cho các Bác-sĩ đã tốt nghiệp đại học y khoa. Lần đầu tiên được giảng dạy trong niên khóa 1979-1980. Sau đó các vị tham dự đem về giảng dạy cho thân chủ, kết quả rất tốt. Rồi mãi tới niên khóa 1986-1987 mới được giảng tại IFA. Trong suốt 24 năm giảng dạy tại Âu-châu, chúng tôi đã rút kinh nghiệm, sửa đổi, để rồi hôm nay đem trình bày tại đây. Năm 1980, đặc san của người cao niên tại Pháp, ăn cắp nguyên văn, không sai một dấu chấm, dấu phẩy ; in lên, đề tên tác giả là một nữ bác sĩ Việt-Nam tại Paris. Mà than ôi, bà không biết một chút về Y-khí-công Á-châu. ARMA định mang ra tòa, nhưng sau số ấy, thì đặc san chết vĩnh viễn.
    1.1. Hiệu năng
    Điều thông khí huyết,
    Phục hồi sinh lực,
    Bảo kiện, gia tăng tuổi thọ.
    1.2. Chủ trị
    Trị các bệnh thần kinh :
    Mất ngủ, hay cáu, trầm cảm, thần kinh suy nhược, khủng hoảng tinh thần.
    Phục hồi sức khỏe :
    Sau khi bệnh nặng. Sau khi giải phẫu, sau khi sinh đẻ.
    Trợ điều trị :
    Trợ giúp bệnh nhân chịu được phản ứng của thuốc, của phóng xạ khi điều trị ung thư, siêu vi gan, SIDA-AIDS.
    Bảo kiện :
    Giữ tuổi xuân lâu dài.
    Phương pháp luyện tập rất giản dị, rất dễ. Nhiều người thấy dễ coi thường. Thực tế rất hữu hiệu, đem lại kết quả rất tốt, rất mau. Chỉ cần luyện trong một giờ đầu tiên, đã có kết quả ngay.
    2. ĐIỀU KIỆN LUYỆN
    2.1. Thời gian luyện
    Vậy nên luyện vào lúc nào ? Luyện bao lâu ? Xin thưa nên luyện vào buổi sáng, lúc vừa thức dậy và vào lúc sắp đi ngủ.
    ?" Sáng thức dậy (sau khi làm vệ sinh).
    ?" Trước khi đi ngủ (sau khi làm vệ sinh).
    ?" Luyện một hay hai lần mỗi ngày.
    Tuy nhiên đối với những vị có nhiều thời gian rảnh rỗi, thì luyện vào lúc nào cũng được, miễn là không quá 2 giờ một ngày. Luyện nhiều quá kết quả cũng không hơn.
    2.2. Tuổi nên luyện
    Bất cứ tuổi nào, loại người nào cũng có thể luyện. Nhỏ nhất 6 tuổi, còn già nhất thì không giới hạn.
    3. CHUẨN BỊ LUYỆN
    3.1. Nơi luyện
    Nơi luyện cần :
    ?" Thoáng khí, không có tiếng động.
    ?" Nhiệt độ không nóng quá, không lạnh quá (20-25 độ C).
    3.2. Tư thức
    ?" Ngồi trên giường, trên ghế, bỏ thõng chân xuống.
    ?" Trước khi luyện cần giải khai đại tiểu tiện.
    ?" Không nên vừa luyện vừa nghe nhạc, xem TV, đọc sách, nói chuyện hay điện thoại.
    ?" Y phục rộng. Nếu cần cởi bỏ y phục quá chật. Y phục chật làm nghẽn kinh khí.
    ?" Rửa tay, mặt thực sạch. Nếu là các bà, các cô nên lau sạch son phấn trên mặt.
    3.3. Nguyên tắc điều khí
    Điều khí có nghĩa là điều hòa hơi thở (thở ra và hít vô) khi luyện. Trong khoa khí công thở hít còn gọi là Thổ và Nạp. Thổ nghĩa là thở ra hoặc gọi theo sách cổ Thổ cố (nhả cái cũ ra). Nạp nghĩa là hít vào, theo sách cổ gọi là Nạp tân, nghĩa là thu cái mới vào. Cứ mỗi hồi một thở ra, một hít vào, thì gọi là một tức.
    Có hai phương pháp thổ nạp được áp dụng :
    3.3.1. Thổ nạp thông thường
    ?" Thổ, hay nạp kéo một hơi dài, không ngắt đoạn.
    ?" Dùng mũi nạp, hay mũi miệng cùng nạp.
    ?" Thổ bằng cả mũi, hay miệng riêng biệt, hay bằng cả hai.
    ?" Cứ thản nhiên thổ nạp, không cần phân biệt mũi thổ nạp hay miệng thổ nạp. Khi nạp không khí theo khí quản vào phổi. Phương pháp này có bốn biến thức khác nhau, tùy ý chọn mà tập :
    1. Nhu hòa, thổ nạp nhẹ nhàng, đều đặn như trong giấc mơ, giấc ngủ ngon. Hơi thở trung bình.
    2. Hoãn viên, thổ nạp chậm chạp cắt đứt thành từng nhịp một. Nạp nhiều nhịp, thổ nhiều nhịp,
    3. Quân bình, thổ trung bình, hơi trầm, độ dài trung bình. Nạp cũng như thở chia làm nhiều nhịp.
    4. Thâm trường, thổ nạp nhẹ nhàng, khi thổ cũng như khi nạp, kéo một hơi dài, Thổ một hơi dài không cần cắt ngắn.
    3.3.2. Thổ nạp Thái cực
    ?" Lưỡi đụng lợi nhẹ,
    ?" Miệng răng hé mở,
    ?" Bụng từ từ nở ra để nạp khí vào,
    ?" Khi đầy thì bụng từ từ ép vào thở khí ra,
    ?" Lưỡi từ từ hạ xuống,
    ?" Không nên cưỡng ép thổ cũng như nạp thành hơi dài quá.
    3.3.3. Điều hòa khí huyết
    Chọn một trong hai phương pháp thổ nạp trên :
    ?" Trước khi tập, ngồi yên trên giường, thổ nạp từ 10 đến 20 tức để đảm bảo đủ để khí nuôi tạng phủ.
    ?" Những người yếu, phổi làm việc không đủ, hơi thở ngắn nhả thán khí ra không hết, nên khí không đủ cung dưỡng cơ thể. Cần phải áp dụng phương pháp thổ nạp dài, để khí vào đầy đủ, tống thán khí trong phổi ra hết.
    ?" Khí vào đầy đủ thì tạng phủ cũng hoạt động mạnh hơn lên. Bấy giờ mới bắt đầu các động tác, thì chân khí tuần lưu trong tạng phủ, các thức mới hữu ích.
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    3.3.4. Thu công
    Kính thưa Quý-vị,
    Kinh nghiệm giảng huấn Khí-công mà chúng tôi thu được là :
    ?" Dù tuổi trẻ, dù cao niên,
    ?" Dù tư chất cực thông minh hay bình thường,
    ?" Dù người mới tự luyện,
    ?" Dù những vị Bác-sĩ thâm cứu Trung-y, dù các vị lương y,
    ?" Dù các võ sư, hay huấn luyện viên võ thuật.
    Sau khi tập ngoại công, luyện nội công, luyện khí công xong, thì chân khí nảy sinh. Chân khí nảy sinh, cần quy liễm lại, thì mới không bị chạy hỗn loạn. Vì vậy Quý-vị cần hướng dẫn cho thân chủ thu công. Đây là kinh nghiệm đặc biệt của chúng tôi, sau nhiều năm giảng dạy y học, võ học, thiền công và khí công.
    Phương pháp thu công, chúng tôi chép vào cuối tập tài liệu này.
    4. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    4.1. Thức thứ nhất
    4.1.1. Thao tác
    Đoạn 1,
    Dùng hai bàn tay chà sát thành từng vết dài từ mí tóc, qua thái dương xuống đến quai hàm. Chà liên tiếp, thực mạnh, cho đến khi mặt nóng bừng mới thôi. Luyện 15-25 lần. Hình số 1.

    Đoạn 2,
    Dùng 3 ngón tay chà từ hai mí mắt trong, vòng qua trán đến góc trán thì ngừng lại. Cứ thế chà đi, chà lại cho đến khi trán nóng bừng lên mới thôi. Trung bình chỉ cần 15-20 lần là đủ. Hình số 2.
    Đoạn 3,
    Dùng ngón tay chỏ, chà từ khóe dưới phía trong con mắt, dọc theo sống mũi, xuống đến ngang mép. Chà đến khi nóng bừng mặt mới thôi. Trung bình mất khoảng từ 10-20 lần. Hình số 3.

    Đoạn 4,
    Ngậm miệng, nghiến chặt hai hàm răng vào nhau. Khi nghiến, nước miếng chảy ra, cứ nuốt luôn. Nghiến 20-30 lần.
    Đoạn 5,
    Dùng ngón tay cái và chỏ, nắm lấy ngăn giữa hai lỗ mũi giật ra. Không nên nắm chặt quá, sẽ gây đau mũi. Giật khoảng 15-20 lần. Hình số 4.
    Đoạn 6,
    Dùng ngón tay chỏ điểm vào môi trên (nhân trung) khoảng giữa hai lỗ mũi, dùng sức day tròn thật mạnh, khoảng 30-50 vòng. Hình số 5.

    Đoạn 7,
    Dùng hai bàn tay xòe ra như cái bồ cào, chà lên mái tóc từ trán ra tới sau gáy thì dừng lại. Chà thực mạnh khoảng 30-50 lần. Hình số 6.
    Đoạn 8,
    Hai bàn tay xòe ra chà từ quai hàm trở lên. Ngón tay cái và trỏ ở sau tai, 3 ngón còn lại ở trước tai. Chà tới khi trái tai chạm kẽ ngón chỏ và giữa thì thôi. Chà khoảng 20-30 lần. Hình số 7.
    [​IMG]
    Đoạn 9,
    Hai bàn tay xòe ra, chà từ dưới cằm qua cổ, xuống tới ngực. Chà cho tới khi nóng bừng mới thôi. Trung bình khoảng 20 lần. Hình số 8.
    [​IMG]
    Đoạn 10,
    Dùng hai bàn tay chà từ phía sau cổ ra tới trước, liên tục với bàn tay phải, rồi bàn tay trái. Trung bình 15-20 lần.
    4.1.2. Biện chứng Trung-y
    Theo y-học Á-châu, đầu là nơi tụ hội tất cả kinh dương. Đó là :
    Thủ tam dương kinh :
    ?" Thủ Thái-dương Tiểu-trường kinh.
    ?" Thủ Thiếu-dương Tam-tiêu kinh.
    ?" Thủ Dương-minh Đại-trường kinh.
    Túc tam dương kinh :
    ?" Túc Thái-dương Bàng-quang kinh.
    ?" Túc Thiếu-dương Đởm kinh.
    ?" Túc Dương-minh Vị kinh.
    Các mạch dương :
    ?" Đốc mạch.
    ?" Dương-kiêu mạch.
    ?" Dương-duy mạch.
    Qua 10 đoạn trên, tất cả các đầu kinh dương được khích động, khai thông những bế tắc khu đầu. Thông kinh, giúp kinh khí khu đầu được thông sướng.
    Đoạn 1 là chỗ khởi đầu của Vị-kinh, Tam-tiêu kinh, để điều hòa dương khí ba kinh này.
    Đoạn 2 để thông Đốc-mạch và Bàng-quang kinh.
    Đoạn 3 làm thông Vị-kinh và Đại-trường kinh, cũng thông Âm-kiêu và Dương-kiêu mạch.
    Đoạn 4 có tính cách khích động phía trong của tai, thần kinh tai.
    Đoạn 5 và 6 kích động Đốc-mạch, bởi môi trên, chính giữa là khởi đầu Đốc-mạch.
    Đoạn 7 mục đích làm luân chuyển kinh khí giữ cho tóc được bền chặt.
    Đoạn 8 làm thông chân khí ngoài tai. Kích thích công năng tai.
    Đoạn 9 và 10 kích thích công năng giáp trạng tuyến, khai thông khí huyết cổ, giúp cho khí huyết tuần lưu lên đầu dễ dàng.
    4.1.3. Chủ trị
    ?" Tăng cường thị lực, thính lực.
    ?" Cải thiện công năng ngũ quan.
    ?" Kiện khang da mặt.
    ?" Kích động công năng não bộ.
    ?" Bảo kiện da mặt, đầu, giúp chống bệnh.
    ?" Trị tất cả các bệnh thần kinh : Tinh thần khủng hoảng, hoang tưởng, mất ngủ, hay cáu vặt.
    ?" Kích thích công năng giáp trạng tuyến.
    4.1.4. Kinh nghiệm
    Sau khi luyện thức này, người luyện sẽ cảm thấy :
    ?" Khí, huyết trên đầu tuần lưu, thông sướng.
    ?" Da mặt tươi hồng.
    ?" Toàn khu đầu nóng bừng lên.
    ?" Tinh thần sảng khoái.
    Nếu cảm thấy thích thú, không cần luyện thức thứ nhì ngay, có thể luyện một lúc 5-10 thức thứ nhất. Đa số các bà, các cô thích luyện thức này, mỗi buổi hàng chục lần.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này