1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    4.2. Thức thứ nhì
    4.2.1. Thao tác
    Hai tay vịn giường hoặc ghế ngồi :
    ?" Đầu quay mạnh sang bên trái, rồi trở ngược sang bên phải. Làm khoảng 15-100 lần.
    ?" Đầu cúi xuống rồi ngửa ra phía sau. Làm thực mạnh khoảng 10-15 lần.
    ?" Người ngồi yên, giữ thân mình cho chắc, đầu quay xung quanh cổ, thuận 10 lần, nghịch 10 lần. Hình số 9 (nhìn hình bên trái mà thôi, hình bên phải là cho thức thứ ba).

    4.2.2. Biện chứng Trung-y
    Các mạch kinh từ thân mình, chân tay lên đầu, đều qua cổ. Khí huyết thường bế tắc ở đây. Các hoạt động trên nhằm mục đích cho khí huyết tuần lưu lên đầu thuận lợi.
    4.2.3. Chủ trị
    ?" Linh hoạt cổ.
    ?" Điều thông khí huyết khu đầu.
    4.2.4. Kinh nghiệm
    Số đông những vị cao niên luyện thức này thường bị chóng mặt. Đó là phản ứng bình thường, không nên sợ hãi. Chỉ cần nhắm mắt lại, ngồi im một lát là hết chóng mặt ngay. Sau 10-20 ngày luyện, thì phản ứng này không còn nữa.
    4.3. Thức thứ ba
    4.3.1. Thao tác
    Hai tay nắm chặt đè lên ngực, dùng lực nhấc hai cùi chỏ lên cao, rồi hạ xuống. Ghi nhớ là lúc nắm tay nào cũng để sát ngực.
    Làm khoảng 20 lần. Hình số 10.
    [​IMG]
    4.3.2. Biện chứng Trung-y
    Hai tay đưa lên thì ***g ngực được nở lớn, hạ xuống thì ***g ngực trở lại bình thường. Hoạt động này kích động toàn thể khu vai và ***g ngực. Khiến cho, khí huyết chuyển động điều hòa ở khu vai, ***g ngực. Kích và tăng cường công năng tim, phổi.
    4.3.3. Chủ trị
    ?" Kiên cường vai.
    ?" Tăng công năng của Tâm và Phế.
    4.3.4. Kinh nghiệm
    Những người vị chứng bệnh liên quan đến việc tiêu hóa, khi luyện đến đây thường thấy khí nghịch bốc lên, ợ hơi, rất sảng khoái. Cứ tiếp tục luyện thức này cho đến khi hết ợ hơi hãy luyện sang thức thứ tư.
    4.4. Thức thứ tư
    4.4.1. Thao tác (Hình số 11-11a)
    (1) Nắm hai tay lại, chà hai cườm tay phía trong vào nhau. Đến khi nào nóng thì thôi, thường thì vào khoảng 15-20 lần.
    (2) Chà hai cườm tay phía ngoài với nhau, khoảng 20 lần.
    (3) Chà hai nắm đấm phía trong tay vào với nhau, đến khi nóng thì thôi. Thường vào khoảng 20 lần.
    (4) Chà hai nắm đấm phía ngoài bàn tay vào với nhau, đến khi nóng thì thôi. Thường vào khoảng 20 lần.
    (5) Chà hai hổ khẩu bàn tay vào với nhau, khoảng 20 lần.
    (6) Xòe hai bàn tay ra, chắp các ngón lại, rồi kéo ra, khoảng 20-30 lần.
    (7) Nắm bàn tay nọ đấm vào lòng bàn tay kia và ngược lại. Mỗi bên 20 lần.
    [​IMG]
    4.4.2. Biện chứng Trung-y
    (1) Cườm tay là ba nguyên huyệt của Tâm, Tâm-bào và Phế là Đại-lăng, Thần-môn, Thái-uyên. Chà vào nhau, ba nguyên huyệt đều nóng. Kinh khí chuyển vào trong khiến cho Tâm, Tâm-bào và Phế được tăng cường công năng. Linh-khu kinh có nói :
    Tạng phủ hữu bệnh giai thủ kỳ nguyên,
    Nghĩa là tạng phủ có bệnh thì dùng nguyên huyệt. Chà vào 3 nguyên huyệt Tâm, Tâm-bào và Phế để tăng cường, điều hòa ba tạng này.
    (2) Cườm tay phía ngoài gồm có 3 huyệt Dương-trì, Dương-khê, Dương-cốc thuộc kinh Tam-tiêu, Tiểu-trường và Đại-trường. Ba kinh đều thuộc biểu, chà tay phía ngoài để lưu thông kinh khí tại biểu. Dương-khê, Dương-cốc, Dương-trì là kinh huyệt của Đại-trường, Tiểu-trường, và Tam-tiêu. Linh-khu kinh có nói :
    Sở hành, vi kinh,
    Nghĩa là kinh huyệt làm cho khí hành tức là chạy đi được.
    (3) Chà hai nắm tay trong vào nhau, đây là huyệt Hiệp-cốc, thuộc Đại-trường kinh. Huyệt này có hiệu năng lưu thông kinh khí toàn bộ mặt và miệng.
    (4) Chà hai nắm đấm phía ngoài vào nhau, chỗ này có huyệt Hậu-khê thuộc Thủ Thái-dương Tiểu-trường kinh. Hiệu năng dễ thông kinh khí toàn bộ phía lưng cánh tay và phía sau đầu.
    (5.6.7) Là đầu của ba kinh Dương và ba kinh Âm, các ngón tay là chỗ tối quan trọng. Chà các ngón tay vào nhau, khiến cho kinh khí của 6 kinh tay thông với nhau.
    4.4.3. Chủ trị
    Tóm lại công dụng của thức thứ tư này là :
    ?" Điều thông 6 kinh trên tay.
    ?" Giúp cho Tâm, Tâm-bào, Phế, Đại-trường, Tiểu-trường tăng công năng.
    ?" Giúp cho kinh khí tuần lưu trước và sau đầu điều hòa.
    ?" Chống tê, sưng, đau cườm tay, ngón tay, bàn tay.
    ?" An định thần chí.
    4.4.4. Kinh nghiệm
    Theo học thuyết Âm-Dương thì:
    Cực âm sinh dương,
    Cực dương sinh âm,
    Khi luyện thức này sẽ được chứng nghiệm :
    Lúc luyện (1) hai cườm tay đều là mặt âm của tay, sẽ cảm thấy nóng bừng tại cục bộ, và phía sau hai vai, hai mắt ấm áp dễ chịu. Trái lại khi luyện (2) là mặt dương của tay, sẽ cảm thấy mát mẻ trên đỉnh đầu, và vùng ngực. Còn luyện (3-4) là nơi bán âm, bán dương phản ứng ấm, mát lẫn lộn.
    Thức này kết quả rất rộng : Chữa trị toàn bộ các bệnh về bàn tay, nhất là chứng bế tắc tĩnh, động mạch tay, bàn tay vô lực, da tay xù xì, bàn tay chai nứt.
    4.5. Thức thứ năm
    4.5.1. Thao tác
    Hai tay nắm lại, thứ tự một tay co vào, một tay đẩy thẳng ra. Làm như vậy liên tiếp 20 lần. Hình số 12.
    [​IMG]
    4.5.2. Biện chứng Trung-y
    Sau khi thông kinh khí khu đầu, tay, bây giờ hoạt động này để thông khí huyết khu cùi chỏ. Khi chuyển động tay thì cả Tâm, Can, Phế, Đởm đều ảnh hưởng.
    4.5.3. Chủ trị
    ?" Phòng cùi chỏ, vai tê sưng.
    ?" Tăng cường công năng Phế, Tâm, Can, Đởm.
    4.5.4. Kinh nghiệm
    Sau khi luyện khu đầu, khu bàn tay, bây giờ luyện khu cùi chỏ, vai, ngực. Như vậy khí huyết đầu, tay thông được với nhau. Toàn thân cảm thấy ấm áp. Một số người bị bệnh tim, phổi, sẽ cảm thấy dễ chịu, hơi thở thông sướng.
    4.6. Thức thứ sáu
    4.6.1. Thao tác
    Hai tay nắm lại đưa thẳng về phía trước, rồi dùng sức đẩy thẳng về bên phải, sau đó lại vòng trở lại bên trái. Luyện khoảng 20 lần. Hình số 13.
    [​IMG]
    4.6.2. Biện chứng Trung-y
    Sau khi làm xong thức này, người thường nóng ran khắp ***g ngực, đầu. Bởi khí chuyển động làm ảnh hưởng đến Trung-tiêu, gồm Tỳ, Vị.
    4.6.3. Chủ trị
    ?" Làm cho gân, cốt, vai, cùi chỏ mạnh.
    ?" Điều hòa công năng của Tỳ, Vị.
    4.6.4. Kinh nghiệm
    Thức này kích thích công năng tỳ, vị rất tốt cho những người bị bệnh về tiêu hóa : ăn vào đầy hơi, tiện bí, khó tiêu. Nhất là những người cao niên, hay ít hoạt động.
    4.7. Thức thứ bảy
    4.7.1. Thao tác
    Bàn tay ngửa lên trời, theo thứ tự, bàn tay này đưa lên, bàn tay kia hạ xuống. Làm khoảng 15-20 lần. Hình số 14.
    [​IMG]
    4.7.2. Biện chứng Trung-y
    Khi tập xong động tác này, khu dưới ***g ngực nóng ran. Bởi hoạt động đã ảnh hưởng tới Tỳ, Vị.
    4.7.3. Chủ trị
    ?" Tăng cường sức mạnh tay, vai.
    ?" Điều hòa Tỳ, Vị.
    4.7.4. Kinh nghiệm
    Như thức thứ 6.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    4.8. Thức thứ tám
    4.8.1. Thao tác
    Một tay đập lên vai bên kia, một tay dùng cánh tay, nắm tay đánh vào thắt lưng phía sau. Rồi đổi làm ngược lại, tay này sang vai kia, tay kia sang lưng phía bên nọ. Luyện khoảng 20 lần. Hình số 15.
    [​IMG]
    (nhìn hình bên trái mà thôi, hình bên phải là cho thức thứ chín)
    4.8.2. Biện chứng Trung-y
    Ngang lưng là huyệt Thận-du, bờ vai phía trước là cuối cùng của Thận-kinh.
    4.8.3. Chủ trị
    ?" Tăng cường sức lực cho vai và lưng.
    ?" Điều hòa Thận khí.
    4.8.4. Kinh nghiệm
    Do kết quả của 7 thức trên, đến thức này thì công năng tạng phủ được kích thích rồi, nên chỉ cần luyện thức này mươi lần đã cảm thấy lưng ấm áp. Nhưng người đau lưng, thận suy, sau khi luyện thức này, cảm thấy chân khí chuyển thông khắp lưng lên đầu, đôi khi buồn tiểu.
    4.9. Thức thứ chín
    4.9.1. Thao tác
    Ngồi vững trên giường hay trên ghế. Hai tay đè lên đùi, người quay tròn theo chiều thuận và ngược lại, mỗi chiều 10 vòng. Hình số 16.
    [​IMG]
    4.9.2. Biện chứng Trung-y
    Hoạt động có tính chất chuyển động toàn bộ xương sống và bụng dưới.
    4.9.3. Chủ trị
    ?" Tăng hiệu năng bụng dưới.
    ?" Điều hòa khí huyết.
    4.9.4. Kinh nghiệm
    Những người làm việc ngồi lâu, ít hoạt động, khí huyết cả khu bụng dưới gồm đại trường, tiểu trường, bàng quang, mông đùi bị ngăn trở, cần luyện thức này càng lâu càng tốt. Nhất là những người bị đau ngang lưng, bàn tọa, bệnh đường tiểu đại tiện, khó khăn trong chuyện phòng the.
    4.10. Thức thứ mười
    4.10.1. Thao tác
    (1) Co chân lại, hai tay vít lấy đầu gối, dùng sức đá mạnh chân lên trời. Luyện mỗi chân 10 lần. Hình số 17.
    [​IMG]
    (2) Cúi xuống, hai tay nắm lấy đầu bàn chân, kéo mạnh, rồi buông ra, nằm ngửa xuống giường. Luyện khoảng 10 lần.
    4.10.2. Biện chứng Trung-y
    Đây là những động tác cuối cùng, mục đích chuyển động các khớp xương chân, khớp xương toàn người. Hai động tác nầy để khí huyết toàn người lưu thông đều.
    4.10.3. Chủ trị
    ?" Trợ tiêu hóa.
    ?" Tăng cường lưng và thận,
    ?" Lưu khí huyết toàn thân,
    4.10.4. Kinh nghiệm
    Đây là thức cuối cùng, bắt chân phải hoạt động. Những người bị bệnh đầu gối, bàn chân, tĩnh động mạch khó khăn, cần luyện thức này nhiều lần.
    5. PHƯƠNG PHÁP THU CÔNG
    Như phần mở đầu đã nói, sau khi luyện TTBKP, phải thu công, trước khi ngừng lại.
    Đầu tiên dùng ý dẫn khí về trung đơn điền, danh từ chuyên môn gọi là khí tức qui nguyên.
    5.1. Phương pháp cho nam
    ?" Đứng thẳng, hoặc ngồi bên giường, trên ghế (Hình TC1)
    [​IMG]
    ?" Dùng ý, dẫn khí cùng một lúc tại hai bàn tay, hai bàn chân lên cùi chỏ, đầu gối ; rồi vai, háng ; đưa vào Trung Đơn-điền (tỳ vị). (Hình TC2)
    [​IMG]
    ?" Dùng phương pháp thổ nạp thông thường.
    ?" Khởi từ trung đơn điền, từ trong ra ngoài theo vòng xoắn trôn ốc, từ vòng nhỏ đến vòng lớn. Theo chiều kim đồng hồ. Đúng 36 vòng.
    ?" Vòng nhỏ nhất là một điểm ở trung đơn điền. Vòng lớn nhất sát tim.
    ?" Sau đó lại dùng ý dẫn khí theo hình trôn ốc từ ngoài vào trong, từ vòng lớn đến vòng nhỏ. 24 vòng, ngược chiều kim đồng hồ.
    Vòng lớn sát tim, vòng nhỏ là một điểm.
    5.2. Phương pháp cho nữ
    ?" Đứng thẳng, hoặc ngồi bên giường, trên ghế (Hình TC1).
    ?" Dùng ý, dẫn khí cùng một lúc tại hai bàn tay, hai bàn chân lên cùi chỏ, đầu gối ; rồi vai, háng ; đưa vào Trung Đơn-điền (tỳ vị). (Hình TC2)
    ?" Dùng phương pháp thổ nạp thông thường.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ trong ra ngoài theo hình trôn ốc, từ vòng nhỏ đến vòng lớn. Vòng nhỏ là một điểm, vòng lớn nhất sát tim. Ngược chiều kim đồng hồ. Đúng 36 vòng.
    ?" Sau đó dùng ý dẫn khí theo hình trôn ốc, từ ngoài vào trong theo chiều kim đồng hồ, từ vòng lớn đến vòng nhỏ, vòng lớn sát tim, vòng nhỏ là một điểm.
    Sau khi thu công mở mắt, đứng dậy sinh hoạt bình thường.
    5.3. Ứng dụng đặc biệt
    Không nhất thiết áp dụng cho thu công mà có thể dùng vào nhiều việc.
    ?" Sau khi tập ngoại công xong, tim đập máu chạy loạn là do công năng hỗn loạn, dùng phương pháp thu công để qui liễm chân khí về trung đơn điền, từ đây sẽ tự động phân phối đi toàn cơ thể.
    ?" Khi chạy mệt, khi xây xẩm mặt mày, khi đầu choáng váng, khi lạnh quá hay nóng quá, cũng có thể áp dụng cho khí tức chuyển nhiệt khắp cơ thể điều hòa.
    ?" Khi mắt máy, ngủ mê mới tỉnh, v.v...
    ?" Những người bị chứng chuột rút, kiến bò (fourmiement), hay bị spasmophilie thì dùng phép thu công để tự trị bệnh.
    ?" Ăn uống tiêu hóa chậm, dùng thu công, khiến công năng ruột tăng tiến, tiêu hóa trở thành tốt.
    (1) Thông thường, nên luyện toàn thể 10 thức. Lúc đầu luyện chưa quen, mất khoảng một giờ. Sau nữa tháng, quen rồi, thì thời gian không quá 30 phút. Quý-vị phải khuyên thân chủ rằng : Mỗi ngày nên bỏ ra nửa giờ tự yêu mình, giữ gìn, bảo kiện cho cơ thể.
    (2) Tùy theo cơ thể, bệnh tật mà luyện những thức cần thiết nhiều hơn các thức khác. Tuy nhiên vẫn phải luyện toàn bộ.
    (3) Bệnh thần kinh thì luyện thức 1-2 nhiều hơn.
    (4) Muốn có làn da đẹp, giảm vết nhăn thì luyện thức 1-2-4 nhiều hơn.
    (5) Như bệnh về tay, muốn có bàn tay đẹp thì luyện thức thứ 4 nhiều hơn.
    (6) Chỉ luyện một vài thức thì không kết quả. Tỷ như bệnh thần kinh mà chỉ luyện thức thứ nhất thì kết quả không đạt.
    (7) Khi đói, khát mà luyện thì kết quả chỉ đạt một phần nhỏ.
    (8) Mặc y phục chật, mang bí tất, đeo nịt chặt mà luyện thì không những vô ích, mà còn nguy hại cơ thể, vì khí huyết bị bế tắc.
    (9) Cũng chẳng nên luyện nhiều quá. Cao nhất là 2 giờ một ngày.
    (10) Khi bị thương, hoặc vết giải phẫu chưa lành, hoặc ăn no quá, hay say rượu thì không nên luyện.
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 09:56 ngày 10/02/2007
  3. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Bác Viên Anh dạo này thay đổi phong cách hay ghê !
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Xin cảm ơn
    KHINH THÂN CÔNG
    Khinh Thân Công là một công phu tập luyện cho thân thể được nhẹ nhàng, như **** lướt cành, như én qua rèm.
    CÁCH LUYỆN
    Giai đoạn 1 :
    Ta dùng một cái ang loại chậu kiểng lớn đổ đầy nước vào, ta nhờ bịt lổ thoát nước dưới đáy, chân buộc những túi vải có đựng chì nặng vài trăm gram, rồi ta bắt đầu đi vòng quanh trên miệng ang đó (xem hình 7). Mới bắt đầu rất khó giữ thăng bằng nên phải bước chậm, sau quen dần có thể bước nhanh và chạy được. Lúc ấy ta múc một ít nước ra và chân mang thêm độ 200 gram chì nữa cứ thế mà tập khi ta di chuyển trên ang một cách nhẹ nhàng không trở ngại ta bớt nước thêm chì mà vẫn chạy quanh được trên ấy thì ta đã thành công.
    Giai đoạn II :
    Thay cái ang bằng một cái chảo lớn loại chảo nấu đường có đít tròn, đổ đầy sắt vụn hoặc đá hòn nhỏ, rồi người mang thêm chì, ta bắt đầu tập y như trên chạy quanh miệng chảo. Lần lần tuần tự ta lấy bớt sắt, đá ra, người mang thêm chì, đến ngày nào ta chạy quanh miệng chảo trống không một cách nhẹ nhàng thì qua giai đoạn ba.
    Giai đoạn III :
    Lấy cát đổ thành một con đường nhỏ dầy độ 2, 3 tấc tây, trên mặt cát lót mấy lớp giấy, rồi ta bắt đầu tập chạy trên đường cát đó. Ban đầu bàn chân ta đạp thủng và có vết trên cát. Nhưng cứ nhẫn nại tập luyện lâu dần giấy không bị thủng nữa. Ta lấy bớt một lớp giấy ra đến khi không còn một.lớp giấy nào và trên cát cũng không cỏ dẩu chân là công phu đã hoàn thành. Bấy giờ ta bỏ hết lớp chì, đá trong người mà chạy trên cỏ, cỏ chẳng hề di động.chạy trên tuyết, tuyết chẳng hề in dấu chân, băng qua nước, nước chẳng hề gợn sóng.
    Được công phu đó ít ra ta cũng mất mười, hay hai mươi năm chuyên luyện. Ta thường đọc chuyện nói về các hiệp khách ngày xưa băng đồng, lướt cỏ, phớt đi trên tuyết trên mặt nước mà cứ cho là chuyện hoang đường chứ chẳng bao giờ có được nhưng công phu tuyệt kỹ ấy. Nhưng ta có biết đâu chuyện ấy vẫn có và khi luyện thành là một công trình lao khổ, biết bao mồ hôi và nước mắt.
    (Trích "Ngũ Đài Trân Tàng Bí Bản" của võ sư Nam Anh, Cơ Sở Đất Việt xuất bản năm 1973 tại SàiGòn)
    PHI HÀNH CÔNG
    Phi Hành Công cũng còn gọi là Dạ Hành Thuật đều cùng một loại với Khinh Thân Công nhưng ngoài sự luyện tập về cách chạy nhảy còn phải tập cho đôi mắt được tinh tường mà người ta gọi là nhãn lực.
    CÁCH LUYỆN
    Giai đoạn I :
    Dùng tủi vải có đựng chì buộc vào chân, mỗi bên chừng 1 kí lô, rồi tập chạy trên các đường vắng (xem hình bên). Cách một tuần lễ thì thêm vào mỗi chân 300 gr chì, cứ như thế mà tập đến khi mỗi chân mang nặng 3 kí lô thì ngừng. Ban đầu ta tập thấy khó nhọc nhưng càng về sau chẳng thấy gì khó cả khi mỗi chân mang nặng lố 3 kí lô và ta có thể đi cả 100 dậm đường (lối 40km). Bấy giờ ta lại tìm những con đường đá gồ ghề, những bãi cát mà tập. Luyện lập thêm vài năm nữa, sức chẳng hề mệt và chạy nhanh chẳng ai bì kịp. Lúc này nếu ta cởi bỏ những túi chì ra thì chạy nhanh như ngựa sự lanh lẹ thật kỳ diệu.
    Giai đoạn II :
    Dùng giấy màu xanh lợt, lấy hồ (keo) kết thành một cái chụp đèn, bốn bề kín mít, trong để một ngọn đèn dầu. Ban đêm, thắp đèn lên ta ngồi xa cách 5 trượng (lối 10 mét) trong một căn phòng tối, mắt nhìn chăm chú vào đèn, không nháy mắt, cho đến lúc nào mắt mỏi, lờ mờ không thấy gì nữa thì nhắm mắt lại, nghỉ, 5, 10 phút rồi lặp lại, cứ thế độ 15 lần thì ngừng. Lúc đầu ta để đèn gần, và thắp sáng, dần dần để đèn xa và vặn lu bớt. Cho đến lúc quá xa đèn chỉ còn lờ mờ một vòm ánh sáng nho nhỏ, xanh xanh mà ta vẫn trông thấy thì ta thay đèn bằng một cây nhang. Ta cũng thấp nhang trong chụp đèn mà tập như trên tới khi nào để nhang xa tới 10 trượng vẫn thấy được, và trong 15 phút mắt không chớp là đã thành công.
    Lúc này, dù chạy trong đêm tối mù mịt, đôi mắt ta vẫn thấy rõ mọi vật như ban ngày. Tuy nhiên lúc luyện tập ta phải kiên nhẫn, đừng nóng nảy, và nếu không theo đúng phương pháp thì khó mà thành công lại còn mang hại có khi mù lòa là đàng khác.
    Khinh Hành Căn Bản cho Trẻ Em
    1. Khinh Hành (KH) là gì?
    2. Tại sao lại dạy KH cho trẻ em?
    3. Các nguyên tắc khi tập KH
    4. Các phương pháp luyện tập
    5. Lợi Ích và Nguy Hiểm
    Khinh Hành (KH) là gì?
    KH là cách đi đứng nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, uyển chuyển và vững chắc của người có tập luyện khí công và võ thuật. KH là kết quả tự nhiên có được sau nhiều năm luyện tập. Những người có căn bản võ học có thể nhìn các thế ngồi, đi, đứng của người khác mà đoán được phần nào công phu luyện tập của người đó.
    Thời xưa có thể KH được dạy có bài bản, là một phần của khinh công (KC). Các môn phái xuất phát từ những vùng núi non hiểm trở cần tập luyện KC để di chuyển an toàn.
    Thời nay một số môn phái tại Trung Hoa và Nhật Bản vẫn còn dạy KC, thường là gia truyền hoặc cho các môn sinh cao cấp ăn ở luôn tại võ đường (như các phái Aiki Jitsu hoặc Ninjitsu). Ở Tây phương chắc khó tìm được thầy dạy.
    Phương pháp luyện khinh hành trình bày ở đây do một ông thầy võ soạn sơ lược hơn 20 năm về trước để dạy cho con cháu trong nhà, không dạy cho môn sinh ngoại quốc. Tôi may mắn có chút duyên gặp được ông thầy vài tháng ngắn ngủi lúc đó. Giờ đây cộng thêm kinh nghiệm bản thân để viết bài này hầu dạy lại con cháu trong nhà, vì chúng đã đến tuổi có thể dạy dỗ được, đồng thời chia xẻ với các bằng hữu có con em nhỏ thích học võ.
    (Ông thầy tôi từng là huấn luyện viên cận chiến cho biệt kích dù, thuở nhỏ học thiếu lâm, khi trưởng thành mới học thêm aikido và Taijiquan. Vì vậy các nguyên tắc KH do ông đặt ra phần lớn rút từ hai môn aikido và Taijiquan. Ông giải thích cho tôi, chứ đối với các em nhỏ thì biểu sao làm vậy, không giải thích.)
    Tại sao lại dạy KH cho trẻ em?
    Ông thầy tôi dạy KH cho con em vì các lý do sau:
    Con cháu trong nhà không phải đứa nào cũng thích học võ. Ðối với trẻ em bắt ngồi một chỗ mà tập khí công rất khó. Các bài quyền và binh khí tập đi tập lại nhiều khi các em cũng chán. Trong khi đó học KH thì lại như chơi dỡn, các em sẽ thích thú hơn.
    Thầy tôi toàn con gái, không có con trai. Ông thấy các thiếu nữ Âu Mỹ, cũng như các thiếu nữ Á châu sinh đẻ bên này, rất ít người có được dáng đi đẹp vì từ nhỏ đã đi đứng rất mạnh bạo như con trai, lớn lên không sửa lại được nữa. Các em gái, dù không học võ đi nữa, nếu tập KH được 1,2 năm ở tuổi thiếu niên trước khi dậy thì, thì lớn lên đến tuổi thanh nữ sẽ tự nhiên có dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển. Sau này lập gia đình có con và về già cũng tránh được một số bệnh tật thông thường của phụ nữ. (sẽ giải thích sau khi đi vào phương pháp và lợi ích.)
    C. Thầy tôi lý luận rằng nếu KH là kết quả tự nhiên đạt được của người tập khí công và võ thuật lâu năm, thì các em nhỏ tập KH thành thạo sẽ rút ngắn được thời gian, hỗ trợ rất lớn cho các em khi tập binh khí, quyền cước và cả khí công sau này. Một khi các em đã có bộ pháp nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, uyển chuyển và vững chắc rồi thì đương nhiên học binh khí và quyền cước phải mau lẹ hơn. (Học trò nhập môn bao giờ ông cũng cho học trường côn trước khi học quyền, vì khi múa côn thì tay ra tay vào, tức là lúc nào công thủ cũng đi song song).
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    3. Các nguyên tắc khi luyện Khinh Hành
    Nhu thượng thân:Thân trên thả lỏng, lưng thẳng tự nhiên, đầu giống như được cột một sợi dây đặt trên cổ, mắt nhìn thẳng. Từ eo trở lên thân mình được thả lỏng giống như đang ngồi ở tư thế seiza (ngồi trên hai gót chân).
    Nhi tức: Thở tự nhiên bằng mũi, miệng khép kín, lưỡi chạm răng hoặc cong lên chạm vòm miệng. Hít thở sâu vào bụng dưới, tự nhiên như trẻ thơ.
    Tấn trọng bộ khinh: hãy quan sát bước đi của cọp hoặc sư tử: dánh điệu uyển chuyển vững vàng mà bước chân thật nhẹ, không gây tiếng động. Khi KH hãy tưởng tượng mình là cọp hay sư tử.
    Thị giác (mắt), thính giác (tai), khứu giác (mũi) và xúc giác (da thịt + giác quan thứ sáu) phải linh mẫn, theo dõi và cảm nhận những gì xảy ra ở chung quanh khi KH; tập trung vào khoảng không gian bán cầu có tâm điểm là chân mình với đường bán kính từ 2-3 mét (tức là khoảng cách địch thủ có thể tấn công bằng binh khí dài như thương, côn, đao, kiếm).
    Lực xuất đan điền: Khi KH phải tưởng tượng khí lực của mình tụ ở bụng dưới (nhất điểm theo Aikido), rồi từ đó phát ra cho hai chân di chuyển.
    Kiên bình: hai vai bằng nhau, không bên cao bên thấp. Khi KH theo quán tính thì thân mình có thể hơi ngiêng về phía trước nhưng hai vai vẫn phải bằng nhau. Kiên bình còn có nghĩa là hai vai không lên xuống khi KH, cả thân trên di chuyển trên một mặt phẳng ngang với mặt đất. Ðây là khác biệt lớn nhất giữa KH và chạy bộ thông thường. Mục đích chính của kiên bình là giữ cho trái tim không bị nhồi lên nhồi xuống, không tăng nhịp đập qúa mức. (Kiên bình là một nguyên tắc chiến đấu đặt ra trong một số môn phái kiếm thuật và Taijiquan. Thời xưa các cao thủ khi giao tranh mắt không lúc nào rời mắt và hai đầu vai địch thủ, chỉ nhìn chuyển động của đầu vai để biết đối thủ xuất chiêu lúc nào, bên nào và về hướng nào. Dĩ nhiên trong cuộc chiến đấu sống chết thì mới cần luyện tới mức đó, còn thời nay học võ với tính cách thể thao và binh khí ít được xử dụng thành ra cũng ít thầy dạy.)
    Không đổ mồ hôi: tập KH mà mồ hôi vã ra và thở hồng hộc là tập sai. KH đúng cách thì mặt không hề đổ mồ hôi, thân mình chỉ hơi rịn mồ hôi dù đã KH hơn ½ tiếng đồng hồ. Ngừng lại thì hơn thở vẫn đều hòa và nhịp tim nhanh chóng trở lại bình thường. Chạy bộ bình thường khoảng 1 giờ cơ thể đã mất rất nhiều nước, trong khi KH thì mất rất ít.
    4. Phương Pháp Luyện Tập
    Thích hợp cho trẻ em từ 7 tuổi trở lên, cơ thể bình thường không bị khiếm khuyết hoặc béo phì.
    Dụng cụ:
    Tại sân nhà hoặc võ đường: hai cây ván kích thước 2?x6?x10?T, nối dài thành 20 feet, muốn dài hơn thì xài 3 cây 8?T. Ván phải bắt ốc hoặc chắn nẹp cố định sát trên mặt sân, sàn tập. Mặt ván phải nhẵn để không làm trầy sướt da chân khi tập chân trần. Khi đến trình độ trung cấp, đường ván được nâng cao từ 1?T đến 2?T khỏi mặt đất, phải làm đủ số ngựa gỗ bắt ốc cố định dưới ván để bảo đảm an toàn.
    Trò: mỗi em cần một bao găng tay da đủ dầy (loại biking chẳng hạn) , một bộ đệm đầu gối và cùi trỏ (biking hoặc roller skating), một cây mây dài ngang đầu cỡ đốt ngón tay (không có mây dùng tạm tre cũng được), và một đôi giầy kung-fu (giầy thể thao nhẹ cũng được, nhưng đế phải bằng, mỏng và thật dẻo để uốn theo bàn chân). Tập lên trình độ trung cấp, KH trên đường dốc, sỏi đá gồ gề, thì nên có nón an toàn (roller skating helmet, có biking helmet rồi thì dùng cũng được).
    Thầy: một cây mây dài ngang đầu cỡ đốt ngón tay (không có mây dùng tạm tre cũng được).
    Bước chân Khinh Hành:
    Trẻ em trước khi chạy được thì phải đi đứng vững vàng đã. Tương tự như vậy, trước khi KH thì phải tập bước đúng tư thế cho thuần thục đã. Tập vội cơ thể thành thói quen xấu, sau này khó sửa lại. Khi tập bước chân KH, phải đi đất, không đi giầy, để tập nhạy bén cho hai bàn chân.
    Ðứng ở một đầu ván, chân trước chân sau, sửa thế đứng cho đúng các nguyên tắc khinh hành. Giở chân trước lên hơi hổng khỏi mặt đất, thả lỏng cổ chân và bắp chuối, chỉ có khớp gối giữ cho chân ở trên không, làm 10 lần cho quen với cảm giác. Ðổi chân sau ra trước, làm 10 lần.
    Bước KH: Chân trước đang ở trên không đặt xuống chạm ván bằng gót chân. Phát lực từ hông lăn chân từ gót đến mũi, chân sau giở lên cũng dùng lực từ hông đưa theo đường vòng cung về phía trước. Đầu gối sẽ hơi cong lại tự nhiên khi chân thả lỏng. Người lướt về phía trước. (Mới tập đường vòng cung có thể cong nhiều, thuần thục rồi thì đường vòng cung ít đi, độ cong chỉ vừa đủ cho bàn chân lướt trên mặt đất). Nếu tưởng tượng chân là cây côn hai khúc: hông đầu trên, gót chân đầu dưới, khớp gối là chỗ nối, thì chỉ cần đầu trên chuyển động một góc độ nhỏ, thì đầu dưới đã chuyển động được một bước rồi. Bước KH là bước tự nhiên, không gượng ép. Biên độ KH (chiều dài mỗi bước) tùy thuộc vào thể tạng mỗi người và tốc độ KH.
    Chương trình sơ cấp (1-6 tháng)
    Tập tại sân nhà/võ đường:
    Tháng 1: Bước KH từ đầu ván đến cuối ván, làm thế nào sau một tháng có thể nhắm mắt bước từ đầu đến cuối ván (20?T) mà không nghiêng ngả bước lọt ra ngoài, giữ được các nguyên tắc KH. Tập chân trần.
    Tháng 2: Bước từ đầu đến cuối ván, rồi bước ngược, làm thế nào nhắm mắt bước ngược mà không lọt ra ngoài. Ðồng thời nếu chưa biết té ngã thì bắt đầu tập các cách té của aikido,vovinam hoặc gymnastic. (Cách té nhu đạo đập tay xuống sàn để giảm lực không nên tập, thực tế nếu té trên xi măng mà đập tay xuống cũng ê ẩm lắm.)
    Tháng 3: Chạy KH từ đầu đến cuối ván, tốc độ tăng nhanh dần. Lúc nào cũng phải giữ đúng các nguyên tắc KH. Ðừng ham chạy lẹ, nếu sai nguyên tắc KH, cơ thể thành tật xấu rất khó sửa. Khi chạy nhanh được rồi thì nên đeo găng tay và bộ đệm đầu gối, cùi trỏ nếu té còn vụng về. Tiếp tục tập té ngã. Tập chân trần.
    Tháng 4: Em nào đã học qua binh khí rồi (kiếm, đao, côn, v.v...) thì mang binh khí khi KH. Chưa có binh khí thì cầm cây mây/tre. Binh khí phải giữ ở tư thế phòng thủ, sẵn sàng ứng chiến. Khi KH nên giữ binh khí sát người, tránh vung vẩy. Chỉ mang vũ khí gỗ, đừng dùng vũ khí thật - sắc nhọn, nếu lỡ té trúng vũ khí thì không bị thương. Tập đến tháng thứ 4 rồi thì bước chân không được phép gây tiếng động lớn nữa. Tiếp tục tập té ngã. Tập cả chân trần và mang giầy kung-fu.
    Tháng 5: Người thầy hoặc bạn cùng tập đứng ở gần cuối đường ván. Khi người tập KH ngang qua chỗ đứng thì dùng cây mây/tre điểm nhanh vào những nơi trọng yếu trên cơ thể (tránh mặt và cổ - dành cho trình độ trung cấp). Người KH có thể ngừng, lùi lại, né tránh hoặc dùng binh khí đỡ gạt, miễn sao không rớt ra khỏi ván. Người KH lúc nào cũng phải cảnh giác vì không phải lúc nào cũng bị tấn công. Em nào có trình độ võ thuật khá rồi thì có thể tung/lộn mình trên không để tránh đòn đánh vào đầu gối/mắt cá, lúc rớt xuống chân đúng vào ván được thì tốt. Tiếp tục tập té ngã. Tập cả chân trần và mang giầy kung-fu.
    Tháng 6: Học trò KH bị tấn công từ nhiều phía khi KH. Ván được nâng lên 1?T đến 2?T khỏi mặt đất tùy khả năng té ngã của học trò. Nhớ đội nón an toàn khi tập trên mặt ván nâng cao. Nên mang giầy kung-fu.
    Tập tại bãi cát mịn bờ sông/bờ biển bằng phẳng:
    Tập chân trần. Bắt đầu vào tháng thứ 3 của chương trình trên trở đi, khi các em KH khá vững vàng trên ván. Tập ở bờ sông/bờ biển để luyện sức bền KH. Tập tối thiểu 15 phút rồi tăng từ từ đến 1 giờ, tùy thể tạng và sức khỏe học trò. KH trên bờ cát ướt trước rồi KH dưới nước mấp mé cổ chân. Sở dĩ tập ở bãi cát vì an toàn, té ngã không có vấn đề gì, và bãi cát mềm có độ lún, chạy bình thường sẽ lún nhiều, KH thì lún ít hơn. Có thể nhìn độ lún của gót chân khi KH tạo ra trên mặt cát để thẩm định mức tiến bộ của học trò. Nếu có nhiều em cùng tập chung với nhau, thỉnh thoảng cho các em chạy đua trên bãi cát trong vòng 20 phút đến nửa tiếng. Chia làm hai nhóm, một nhóm chạy bình thường, một nhóm chạy KH. Nhóm chạy bình thường lúc đầu sẽ bỏ xa nhóm KH, nhưng khoảng cách sẽ được rút ngắn lại khi gần về đích. Có thể cho song đấu ngay lập tức sau khi chạy để các em ý thức được chạy bộ bình thường mất sức và ảnh hưởng đến phản xạ giao đấu như thế nào.
    Tháng thứ 4 trở đi: có thể KH trên đường mòn (trail), từ bằng phẳng đến đường dốc, từ đường thẳng đến cong queo, từ đất mềm đến đất lẫn sỏi đá. Tùy mức tiến bộ của học trò mà chọn đường mòn cho các em tập. Ðường núi nhiều dốc lên xuống, sỏi đá lồi lõm nguy hiểm, nên dành cho trình độ trung cấp.
    Ghi chú quan trọng: Ðừng bao giờ cho các em KH trên đường xi măng/tráng nhựa ở trình độ sơ cấp.
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    PHẦN THỨ NHẤT
    DẪN NHẬP VỀ KHOA KHÍ CÔNG
    Ai cũng có thể luyện khí công. Nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn nhất thì không giới hạn. Khí-công có trăm nghìn hình dạng, trình độ. Người ngộ tính cao, thì luyện thành công nhiều. Người ngộ tính thấp thì luyện thành công ít. Ít thì đưa người tập đến đỗ kiện khang, tâm an, thần tĩnh. Còn ngộ tính nhiều thì trị được bệnh, tăng tuổi thọ, và nhất là khỏe mạnh, tâm thần thư thái.
    Trong phần thứ nhất này, chia làm hai chương rõ rệt:
    Chương thứ nhất
    Dẫn nhập vào khoa khí công
    biện biệt rõ khí công với các khoa anh em của nó như thiền, yoga, thể dục, võ nghệ, cùng đưa ra định nghiã.
    Chương thứ nhì
    Học thuyết về khí
    ấn định rõ phạm vi khí công, làm cương mục cho bộ sách này.
    CHƯƠNG THỨ NHẤT
    DẪN NHẬP VÀO KHOA KHÍ CÔNG
    Mục lục
    1. Hô hấp
    2. Nhập thiền
    3. Luyện công, nội lực
    4. Luyện võ công.
    5. Yoga.
    6. Kết luận.
    s >
    CHƯƠNG THỨ NHẤT
    DẪN NHẬP VÀO KHOA KHÍ CÔNG
    Trước khi đi đến một định nghĩa chân xác rõ ràng cho khoa khí-công, cần phải nói qua về những khoa học anh em với nó, để tránh khỏi sự ngộ nhận. Nguyên thủy, trong tất cả thư tịch cổ điển, không có định nghĩa rõ ràng về khoa này. Ngay đối tượng cũng không đặt hẳn thành đường lối, cùng giới hạn. Dưới đây, chúng tôi thử đưa ra một định nghĩa giản lược, để định rõ phương hướng cho tập sách này.
    Đầu tiên hãy tìm hiểu một vài vấn đề liên quan đến khí-công.
    1. Hô hấp
    Nghĩa là thở hít. Hô là thở ra, hấp là hít vào. Hô hấp là sự thở hít. Nhiều người thường lầm lẫn hô hấp với khí-công. Trong khí-công, trong võ học thì hô hấp để chỉ sự thở hít thông thường. Còn khi tập võ, tập khí-công mà thở hít được gọi là thổ nạp thì có nghĩa thổ cố nạp tân tức thở cái cũ, nạp cái mới. Phàm thở hít không chủ định, cứ để cho tự nhiên làm việc, gọi là hô hấp.
    2. Nhập Thiền
    Thiền là một pháp môn của nhà Phật, tiếng Phạn là thiền-na, để chỉ sự yên tĩnh, nhập tĩnh. Luyện thiền là một hình thức tu niệm tinh thần bằng các thức rất gần với khí-công. Chính khoa khí-công đã thu thái từ thiền-công rất nhiều. Các khí-công gia Việt-Hoa đã thái dụng phương pháp của thiền-công nhà Phật, hợp với khoa khí-công có sẵn, thành hệ thống mới, rồi biến hoá đi, thành ra khoa khí-công siêu việt mà chúng ta khảo cứu trong sách này. Thiền có nhiều ý nghĩa đạo đức, bản chất khoa thiền cũng mang đầy Phật tính:
    "Ngồi tĩnh tọa, minh tâm, giải bỏ hết ngoại vật sắc giới, để đi vào cõi vô thượng bồ đề. Thiền là khoa học rất gần với khí-công, nó chính là bản thể đạo đức của khí-công. Thiền để đuổi dục vọng, sắc giới, xua đuổi ma-nghiệp trong người."
    Ghi chú,
    Gần đây, một vài Thiền-sư, những vị này là người dạy Thiền, cũng có vợ, có nhiều con, lại ăn mặn, làm chính trị, trang phục như tăng sĩ, đi diễn giảng về Thiền. Thính chúng tưởng các vị ấy là những tu sĩ Phật-giáo, các vị này dạy những phương pháp:
    ?" Thiền sao cho *** khỏe,
    ?" Thiền sao cho *** lâu,
    ?" Khi *** cảm giác tăng cao.
    Đó là Khí-công, chứ không phải Thiền.
    Thiền có lẽ ra đời trước Phật Thích-Ca, nhưng đến ngài thì mới đặt thành hệ thống. Khoa thiền phổ biến rất rộng khắp thế giới, nhưng chỉ giới hạn trong việc luyện thần, chứ ít đi vào tinh và khí. Khí công thì luyện cả tinh, thần, khí, sao cho thăng bằng.
    Bản thể của thiền, lấy yếu chỉ trong kinh Bát-nhã, Kim-cương, Lăng-già, mục đích gạt bỏ ra ngoài ?onhân ngã tứ tướng?, để đi đến minh trí, giác ngộ, đắc pháp. Trong các khoa tu của nhà Phật thì thiền là lối tu tối cao. Kết quả về phương diện luyện lực, trị bệnh của thiền tuy không được như khí-công, song về đạo đức thì vượt xa khí-công. Có lẽ bậc nhất thế gian.
    Nếu cụ thể so sánh về phương diện trị-bệnh, luyện lực, thiền cũng như một chiếc xe ngựa mộc mạc. Còn khí-công cũng như một chiếc xe hơi tối tân. Từ chiếc xe ngựa, đã biến thể bao lần để đi tới chiếc xe tối tân, bởi thiền được y-học, võ học hoá thành khí-công.
    3. Luyện công, nội lực
    Trong võ học còn nói đến luyện nội-công, bản chất khoa này là gì? Có những tương đồng nào với khí-công. Khoa luyện nội-công trái với ngoại-công. Ngoại-công là các kỹ thuật đánh, đấm, sao cho tinh vi, khắc chế địch. Nhưng ngoại-công xử dụng có mạnh hay không, phải nhờ nội-công. Như cùng một đòn đấm thẳng. Người nào cũng làm được cả. Người có nội-công cao, thì đấm có tiếng gió, có sức mạnh. Người nội-công thấp thì đấm không có lực.
    Nội-công còn để chỉ sự mềm dẻo, uyển chuyển của cơ thể. Như bảo một người dùng cước đá thẳng vào mặt đối thủ. Người nội-công thấp, thì chỉ đá cao tới ngực đối thủ. Trong khi người có nội-công cao, thì đá tới đầu đối thủ dễ dàng.
    Nội-công hay nội lực cũng gần tương đương với sức khỏe. Luyện nội-công, nếu có khí-công phụ trợ, thì không sợ những sai lạc làm bệnh hoạn, cũng không sợ luyện quá sức đến đau đớn, và làm cho nội-công tăng tiến hơn.
    4. Luyện võ công
    Võ-công là danh xưng để chỉ sự phối hợp giữa nội-công và ngoại-công. Võ-công không phải là khí-công. Tuy nhiên võ-công có tính tiến, có thể phát triển, khi giao đấu sức có bền vững hay không, đều nhờ khí-công cả.
    5. Yoga
    Khoa học này cũng gần với khí-công và thiền-công của Phật-gia. Một giả thuyết cho rằng Yoga ra đời trước thiền-công. Thiền-công đã mô phỏng theo Yoga rồi phát triển đi vào triết học vô thường Bồ-đề thành ra thiền-công. Cũng có thuyết nói rằng Yoga mô phỏng từ thiền-công, có sau thiền-công. Do những người tập thiền giản lược hoá đi. Dù thuyết nào chăng nữa thì cũng đi đến kết luận rằng Yoga là một thứ thiền giản dị. Hoặc thiền là một thứ Yoga đi vào vô thượng Bồ-Đề.
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    HỌC THUYẾT VỀ KHÍ
    Mục-lục
    1. Khí về phương diện y-học
    2. Phân loại sinh thành của khí
    2.1. Nguyên khí
    2.2. Tông khí
    2.3. Lao khí
    2.4. Vệ khí
    3. Công năng của khí
    3.1. Tác dụng thúc đẩy
    3.2. Tác dụng làm nóng
    3.3. Tác dụng phòng ngự
    3.4. Tác dụng giữ chắc cơ thể
    3.5. Tác dụng khí hóa
    4. Sự vận hành của khí
    5. Một định nghĩa khí công
    5.1. Sự xử dụng vô thức
    5.2. Sự xử dụng tri thức
    5.3. Ma nghiệp, ma tính
    5.4. Chính đạo, chính khí
    5.5. Âm-kình, dương kình, kình lực
    5.6. Định nghĩa khí công
    6. Kết luận
    s >
    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    HỌC THUYẾT VỀ KHÍ
    1. Khí về phương diện y khoa
    Khí là danh từ để chỉ hiện tượng cổ đại về một thể tố của vũ trụ. Khí là cơ sở vật chất tối cơ bản cấu thành thế giới, vũ trụ, mọi sự trong vũ trụ do khí vận hoá sản sinh. Trong lĩnh vực y học, võ học, khí là nguyên tố cơ bản cấu thành cơ thể, khí vận động biến hoá mọi hoạt động của sinh mệnh. Bộ y thư tối cổ, Hoàng-Đế Nội-kinh Tố-Vấn nói:
    "Nhân dĩ thiên địa chi sinh khí,
    Thiên địa hợp khí, mệnh chi viết nhân?
    (Tố-Vấn, thiên Bảo-mệnh toàn bình luận).
    Nghĩa là: Con người do khí của trời đất mà sống. Khí thiên địa hợp lại gọi là con người.
    Tức là chỉ vật chất của nhân-thể, do khí của trời đất nuôi sống.
    Lại nói:
    "Khí hoá nhi sinh, tân dịch tương thành, thân nãi tự sinh?.
    (Tố-Vấn, thiên Lục-tiết tạng tượng luận).
    Nghĩa là: Khí hoá thì sống, tân dịch được sinh ra, thân cũng từ đó mà sống.
    Tức là để chỉ cơ cấu vật chất, hoạt động sinh mệnh do khí mà có. Theo những dẫn chứng trên, thì trong võ học, y học dùng danh xưng khí để chỉ hai loại:
    Một là để chỉ: sự cấu thành nhân thể, duy trì tinh vi vật chất của mọi hoạt động sinh mệnh. Như thủy cốc khí, hô hấp khí.
    Hai là chỉ công năng sinh lý của tạng phủ. Như khí của tạng phủ, khí của kinh mạch.
    Hai loại khí đều hỗ tương quan hệ, loại thứ nhất do loại thứ nhì trợ giúp và loại thứ nhì do loại thứ nhất trợ giúp. Loại thứ nhì là cơ cấu của vật chất. Loại thứ thứ nhất là biểu hiệu công năng. Tóm lại, sự phân loại, sinh thành, công năng của khí như sau.
    2. Phân loại, sinh thành khí
    Do ở khí của cơ thể phân phối ra những bộ phận không giống nhau, nguyên lai công năng bất đồng, cho nên có nhiều danh xưng khác nhau như: nguyên-khí, tông khí, lao-khí, vệ-khí v.v.
    2.1. Nguyên khí
    Nguyên-khí còn gọi là chân khí. Đây là một loại tối trọng yếu của nhân thể, tối cơ bản của sinh mệnh. Nguyên-khí do tinh của tiên thiên hoá sinh. Sau khi ra đời, lại được tinh vi thủy cốc tư-dưỡng, bổ xung. Được thông qua tam-tiêu, phân phối toàn thân, trong thì tạng phủ, ngoài thì ở da thịt. Cổ y học đã nói:
    ?... Chân khí giả, sở thọ vu thiên, vi cốc khí tinh nhi sung thân giả dã?.
    (Linh-khu-kinh, thiên Chế tiết trấn tà luận)
    Nghĩa là: Chân khí được thọ lĩnh ở trời, hợp với khí của thủy cốc nuôi thân.
    Tạng phủ của nhân thể nhờ có nguyên khí mà hoạt động, tự phát huy công năng mỗi loại khác nhau. Như vậy nguyên-khí là sự hoạt động của sinh mệnh. Nhân vậy, nguyên-khí sung dưỡng tổ chức công năng tạng phủ kiên vượng, thân thể kiện khang không có bệnh. Ngược lại, nếu như tiên thiên, hậu thiên bất túc hoặc bệnh lâu thương tổn, xuất hiện nguyên-khí suy yếu mà thành bệnh.
    Tóm lại định nghĩa về nguyên-khí, chân-khí sau này được phân rõ như sau:
    "...Khởi điểm con người là tinh khí của cha, gieo vào mẹ. Được bào cung bà mẹ nuôi dưỡng, thành thai nhi. Những gì mà bào cung nuôi dưỡng được gọi là nguyên- khí. Tinh-khí hợp với nguyên-khí thành tiên-thiên-khí. Sau khi ra đời, thai nhi thở hít khí trời gọi là thiên khí hay đại-khí. Ăn uống vật chất là địa-khí. Khi tiên-khí, địa-khí hợp lại là hậu-thiên-khí. Tiên-thiên-khí, hậu-thiên-khí lại hợp với nhau thành chân-khí."
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    2.2. Tông khí
    Tông-khí tức là thanh-khí do phế hút vào, cùng với khí của thủy cốc do tỳ vị vận hoá mà thành, tụ tập trong ngực. Cổ y học nói:
    ?...Tông khí tích vu hung trung, xuất vu hầu lung, dĩ quán tâm mạch, nhi hành hô hấp yên?.
    (Linh-khu-kinh, thiên tà khách).
    Nghĩa là: Tông-khí tích tụ ở ***g ngực, xuất ở hầu, để điều khiển tâm mạch, mà điều khiển hô hấp.
    Đó là nói về tông-khí thịnh hay suy. Tông-khí không hẳn tác dụng vào hô hấp, mà còn biểu hiện ra ở các loại cơ năng khác. Cho nên tông-khí còn gọi là động khí.
    2.3. Lao khí
    Tông-khí do tinh vi của thủy cốc được tỳ vị hoá sinh, chính là sự lao dưỡng vật chất thủy cốc. Lao-khí phân phối vào huyết mạch, tố thành huyết dịch, lao vận toàn thân, phát huy sự lao dưỡng. Tố-Vấn nói:
    ?...Lao giả, thủy cốc chi tinh khí dã,
    Hoà điều vu ngũ tạng, sái trấn lục phủ,
    Nãi năng nhập vu mạch dã,
    Cố tuần mạch thượng hạ, quán ngũ tạng, lạc phủ dã...?
    Nghĩa là: Lao-khí là tinh-khí của thủy cốc, hoà điều ngũ tạng, tẩy rửa lục phủ có thể nhập vào mạch, cho nên theo mạch mà lên mà xuống, bao trùm ngũ tạng, chuyển qua lục phủ.
    Do ở lao-khí và huyết cùng chạy trong mạch, cho nên lao-khí và huyết cùng quan hệ với nhau, cơ thể phân biệt công năng để gọi, nhưng không thể ly khai hai thứ cho nên thường gọi lao huyết vậy.
    2.4. Vệ khí
    Vệ-khí là do khí của thủy cốc hoá sinh, là một bộ phận dương khí của cơ thể. Cho nên còn gọi là vệ dương. Tính chất của nó là lật tật hoạt lợi tức là năng lực hoạt động rất mạnh. Cho nên Tố-Vấn, thiên Lý-luận học nói:
    "Vệ giả thủy cốc chi hãn khí giã?
    Nghĩa là: Vệ-khí không bị ước thúc trong mạch, vận hành phía ngoài kinh mạch, ngoại là bì phu, cơ nhục, nội là ngực, bụng, tạng phủ, khắp thân.
    Công năng chính của vệ-khí là:
    ?" Bảo vệ cơ biểu, kháng cự ngoại tà xâm nhập.
    ?" Khống chế sự mở đóng của các lỗ mồ hôi, làm điều hoà sự nóng cơ thể.
    ?" Làm ấm tạng phủ, làm tưới ướt da lông.
    Linh-khu kinh nói:
    ?...Vệ khí giả, sở dĩ ôn thân nhục, sung bì phu.
    Ba thấu lý, tư khai hợp giả dã?.
    (Linh-khu-kinh, thiên bản tạng luận).
    Nghĩa là: Vệ-khí, để làm nóng thịt, bồi dưỡng da, bảo vệ thấu lý, coi việc mở đóng.
    Đều là nói khai quát công năng vệ-khí.
    Trên đây đã nói về những loaị khí chung của cơ thể, nguyên do sinh thành, cũng
    như công năng khác nhau. Nhưng sự thực đều không ngoài:
    ?" Tinh khí của thân.
    ?" Khí của thủy cốc.
    ?" Khí của trời hít vào.
    Tinh-khí của thân do phụ mẫu, chứa ở trong thận, đó là tiên-thiên-khí. Khí của thủy cốc thì do tỳ vị tiêu hoá, hấp thụ thực vật, đó là khí hậu-thiên. Thanh-khí, tồn tại ở thiên nhiên, do phế nhập cơ thể. Tóm lại sự sinh thành của khí ít nhiều do tiên thiên sung túc, ẩm thực lao dưỡng phong phú, phế tỳ thận có công năng chính thường, mật thiết quan hệ. Trong đó tỳ vị thổ nạp vận hoá trọng yếu. Cho nên Linh-khu kinh, thiên Ngũ vị nói: Khi cốc khí không nhập nửa ngày, thì khí thiếu ngay.
    3. Công năng của khí
    Khí có rất nhiều tác dụng đối với cơ thể. Như Nạn-kinh nói:
    ?...Khí giả, nhân chi căn bản dã?.
    (Nạn kinh, thiên Bát-nạn).
    Nghĩa là: Khí là phần căn bản của thân.
    Khí phân phối vào nhiều bộ vị của cơ thể, mỗi cơ một công năng riêng, khái quát có năm công năng chính sau:
    3.1. Tác dụng thúc đẩy (Suy động)
    Các hoạt động của cơ thể như:
    ?" Sinh dục, tăng trưởng.
    ?" Sinh lý hoạt động kinh lạc, tạng phủ.
    ?" Huyết lưu thông.
    ?" Tân dịch phân phối trên cơ thể.
    Khi khí hư, thì tác dụng thúc đẩy giảm, phát dục sinh trưởng chậm, công năng kinh lạc, tạng phủ giảm thoái, hoặc huyết đình lưu, thủy dịch đình lưu.
    3.2. Tác dụng làm nóng
    Cơ thể duy trì được sức nóng bình thường, là do nhiệm vụ làm ẩm của khí. Nạn-kinh, chương 22 nạn nói khí chủ làm nóng cơ thể đều để chỉ công năng khí làm nóng cơ thể bộ, phận trên người. Khi nhiệm vụ làm nóng cơ thể không bình hoà, mất điều tiết, đa số xuất hiện sợ lạnh, chân tay không nóng.
    3.3. Tác dụng phòng
    Khí có khả năng bao phủ ngoài cơ-biểu để phòng ngự ngoại tà xâm nhập. Tố-Vấn nói:
    ?...Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư...?
    (Tố-Vấn, thiên Bình nhiệt bệnh luận).
    Nghĩa là khi tà khí hội lại được, thì khí phải hư.
    Đó là chỉ sự phòng ngự của khí. Ngoại tà theo kinh, sau khi phạm vào cơ biểu, khí cùng với tà đấu tranh, đuổi tà xuất ra ngoài, giữ cho cơ thể kiện khang. Linh-khu-kinh nói:
    ?...Hư tà nhập chi vu thận dã thâm,...hữu sơ kết,
    Khí qui chi,...hữu sơ kết,
    Thâm trung cốt, khí nhân vu cốt?.
    Nghĩa là: Khi hư tà nhập sâu vào thận, khí tích tụ, khi nhập sâu vào cốt, khí cũng tụ tập vào.
    Đó đều để chỉ khí tích tụ, chống lại tà khí từ ngoài vào.
    3.4. Tác dụng giữ chắc cơ thể
    Cố nhiếp tức là giữ chắc, điều khiển, và cai quản. Khí cố-nhiếp:
    ?" Huyết dịch không cho chảy ra ngoài mạch, không cho xuất ra bất thường.
    ?" Huyết dịch không cho xuất ra bất thường ngoài cơ thể.
    ?" Nước tiểu, không xuất ra hỗn loạn.
    ?" Tinh khí không xuất ra sớm, hay trễ.
    Cố là giữ chắc, nhiếp là làm cho xuất điều hoà, bình thường.
    Tác dụng thúc đẩy và cố nhiếp là hai tác dụng tương phản nhau, giữ sao cho điều hoà. Cũng như tác dụng của khí đối với huyết, một bên thì thúc đẩy huyết lưu hành, một bên thì cai quản không cho huyết lưu hành hỗn loạn. Khi khí hư, nhiệm vụ suy động giảm thoái, đưa đến huyết lưu hành bất lợi, sinh ra huyết ô. Khí hư thì nhiệm vụ cố nhiếp giảm đi, đưa đến xuất huyết.
    3.5. Nhiệm vụ khí hóa
    Khí hoá có hai ý nghĩa: Một là để chỉ tinh, khí, tân, huyết hỗ tương biến hoá sinh ra nhau. Tố-Vấn nói:
    ?...Tinh hoá vi khí?.
    (Tố-Vấn, Âm-dương ứng tượng đại luận).
    Nghĩa là tinh hóa ra khí.
    Đó chỉ là hiện tượng tinh và khí hỗ tương sinh ra nhau. Hai là công năng hoạt động của mỗi loại tạng phủ, như bàng quang ?okhí hoá? có nghĩa là bài xuất nước tiểu.
    Trên đây trình bày 5 nhiệm vụ của khí, hỗ tương mật thiết phối hợp khiến cho cơ thể điều hoà, hoạt động, chống bệnh tật.
    4. Sự vận hành của khí
    Khí của cơ thể là một động cơ thúc đẩy rất mạnh của tinh vi vật chất, hoạt động không ngừng, lưu hành toàn thân, không chỗ nào mà không tới. Những loại khí có tên khác nhau, là do những tác dụng bất đồng của khí, hình thức cơ bản của khí là ?othăng, giáng, xuất, nhập?. Sách Tố-Vấn thiên Lục-vị chí đại, luận nói ?oLên xuống, ra vào, không chỗ nào mà không có? là để dẫn về các loại khí quản trên cơ thể không chỗ nào mà không có khí ra vào, lên xuống. Sự xuất nhập thăng giáng của khí chính là hoạt động của cơ thể con người. Khi sự thăng giáng xuất nhập của khí đình chỉ, tức là sinh mệnh hoạt động đình chỉ. Cho nên Tố-vấn đã nói:
    ?...Phi xuất nhập, tắc vô dĩ sinh trưởng tráng lão nhĩ.
    Phi thăng giáng, tắc vô dĩ sinh trưởng hoá thu tàng?.
    (Tố-Vấn, thiên Lục-vị chí đại luận).
    Sự thăng giáng xuất nhập, tức là cơ thể hiện ở công năng tạng phủ hoạt động, cho đến sự hiệp điều giữa tạng phủ. Như phế chủ hô hấp, có tuyên, có giáng, thở cũ, hít mới. Phế chủ thổ khí, thận chủ nạp khí. Tâm hỏa giáng xuống, thận khí bốc lên, cho đến tỳ thăng lên, vị giáng xuống.
    Như vậy khí vận hành để chỉ chung sự:
    ?" Phối hợp, hiệp điều công năng tạng phủ toàn thân.
    ?" Sự thăng giáng xuất nhập khí, cơ tạng phủ.
    ?" Duy trì công năng sinh hoạt chính thường cơ thể.
    Nếu như sự vận hành khí của cơ thể bị ngăn trở, ứ đọng hoặc vận hành nghịch loạn hoặc thăng giáng thất điệu, xuất nhập bất lợi, đều ảnh hưởng đến ngũ tạng lục phủ, nội ngoại thượng hạ hiệp điều thống nhất, phát sinh các loại bệnh tật như: can khí đô kết, can khí hoành nghịch, vị khí thượng nghịch, tỳ khí hạ hãm, phế mất tuyên giáng, thận bất nạp khí, tâm thận bất giao.
    5. Thử định nghĩa khí công
    Khí công nghĩa là sự xử dụng khí.
    5.1. Sự xử dụng vô thức
    Khi nằm, lúc ngồi, hoặc khi nhập tĩnh, tư tưởng con người thường tưởng nhớ, suy nghĩ nhiều sự vật trạng huống. Nghĩ gì thì khí tuần lưu theo huyết mạch. Nghĩ đến nguy hiểm, thì tâm đập chậm. Nghĩ đến những điều tức giận thì tim đập mau. Nghĩ đến trời nắng thì cảm thấy ấm, nghĩ đến trời mưa tuyết thì cảm thấy lạnh. Nghĩ đến trượt ngã thì phản ứng tự nhiên nhảy lên cao. Tư tưởng lúc ấy đâu có chủ ý sai bảo chân tay, taị sao giật lên như vậy? Đó chẳng qua là tư tưởng nghĩ tới, khí tuần lưu theo tư tưởng. Tức ý dẫn khí. Chân khí được điều khiển bới tư tưởng.
    5.2. Sự xử dụng ý thức
    Khi sử dụng ngoại công như quyền, cước. Những chiêu đầu tiên thường thấy nặng nề, chậm chạp, phát ra không có lực. Nhưng tập tới lần thứ 500 trở đi, thì chiêu thức trầm mãnh khác thường, tại sao lại có sự kiện đó? Giải thích theo lẽ thường thì đó là tập nhiều nên quen. Nhưng nếu dùng phương pháp đo nội lực thì vẫn thấy không thay đổi. Sự thực giải thích như thế này: Đó là chân khí đã tuần lưu, kinh mạch thông, thành ra khi phát lực, khí tòng tâm tự phát, tòng tâm xử dụng, tòng tâm phản ứng.
    Vì vậy biết xử dụng chân khí, thì lúc nào cũng có thể phát ra tự phản ứng, vệ. Như khi nằm mơ màng thấy ngã, phản ứng chân tay giật lên. Nói theo danh từ khí công là ?otự phát, tự chủ?. Khi thu phát khí tự chủ, thì chân khí, vệ khí dồn ra hết, sức mạnh tăng lên. Cho nên những Khí-công gia tập lâu, Khí-công cao, có thể dùng khí dẫn ra ngoài cơ thể để chịu đòn, để chống ngoại vật làm hại cơ thể, để chống với những ma-nghiệp làm hại tinh thần, lại có thể trị bệnh cho người khác.
    5.3. Ma nghiệp, ma tính
    Ma để chỉ những gì ngược với chính-pháp của Phật-giáo. Sau này trở thành từ ngữ để chỉ những gì trái với đạo lý, trái với luật pháp, đi ngược với qui củ tôn giáo. Sau này, ma tính dần dần thành danh từ được dùng để chỉ những gì ngược với luân lý, đạo lý được công nhận. Mà luân lý, đạo lý của mỗi môn phái đều khác nhau. Như phái Đông-a khi xử dụng võ không cần phải xét đến những chiêu thức có đường đường chính chính hay không, miễn là tiêu diệt được kẻ địch, kể cả cắn, bóp vào những bộ phận sinh dục. Quan niệm này cho rằng: võ công khí công dùng để bảo vệ dân tộc. Nếu cần bảo vệ dân tộc trước kẻ ác, thì hy sinh luôn danh dự cũng được. Phái Thiếu-lâm, Tiêu-sơn thì ngược lại cho rằng dù đối với kẻ địch cũng phải tỏ ra khoan hoà, nhân hậu, dẫn dụ kẻ địch theo mình đi vào chính pháp. Phái Mê-linh, Nga-mi, thung dung hơn ?otiêu diệt ma vương quỉ dữ là có đạo lý?.
    Vậy ma-nghiệp, ma-tính để chỉ con người u mê trong vòng ám tối, hành sự trái với chính đạo, hay trái với luân lý được công nhận. Tỷ như thế kỷ thứ mười chín, đạo Thiên-chúa ở Tây-phương được công nhận là chính đạo, nhưng khi truyền sang Đông-phương thì bị các nho gia miệt thị là ma-giáo. Ma-tính thì nhẹ hơn, để chỉ một phần hành động do ma-nghiệp xúi dục. Ma-nghiệp, ma-tính thường làm cho tâm hồn hỗn loạn, đi xa đạo lý. Muốn trừ ma-nghiệp, phải lấy chính đạo giáo dục, hay tu niệm, mượn chính đạo đuổi ma-nghiệp, thì dùng khí-công. Mỗi môn phái có một phương pháp chuyển ma-nghiệp thành chính pháp khác nhau.
    5.4. Chính đạo, chính khí
    Từ ngữ dùng rất nhiều trong Nho-giáo, Phật-giáo, sau biến thành danh từ chung của tộc Hoa, tộc Việt, tộc Hàn và tộc Thái-dương (Nhật).
    Trong Nho-giáo, lưu truyền bài ?oChính khí ca? của Văn-thiên-Tường, một vị tể tướng cuối đời Tống, đã định nghĩa chính khí như sau:
    Thiên địa hữu chính khí,
    Tạp nhiên phú lưu hình.
    Hạ tắc vi hà lạc,
    Thượng tắc vi nhật tinh.
    Ư nhân viết hạo nhiên...
    Nghĩa là: trong trời đất vốn có chính khí, tự nhiên ơết thành hình. Dưới đất là sông núi. Trên kết thành trăng sao. Ở trong người là hạo nhiên.
    Nguyễn-công-Trứ (1778-1858) trong bài Kẻ-sĩ đã bàn rõ như sau:
    Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
    So chính khí đã đầy trong trời đất.
    Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,
    Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.
    Xe Bồ-luân dù chưa gặp Thang, Văn,
    Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
    Cầm chính đạo, để tịch tà cự bí,
    Hồi cuồng lan chi chướng bách xuyên.
    Chính khí đây là kết quả tất yếu của người học Nho, lấy cái chủ đạo Nho làm căn bản.
    Phật tính để chỉ hành sự, tư duy theo pháp chỉ của nhà Phật. Chính đạo mỗi tông, mỗi phái cũng có sự khác biệt, nhưng đều do môn phái đặt ra. Chính pháp của Thiền-tông lấy ?oTứ đại giai không? làm căn bản. Lấy bỏ ngũ uẩn, lục tặc, tứ đại giai không để đắc pháp. Tịnh-độ tông lấy bỏ tham, sân, si, giữ ngũ-giới là chính pháp. Chính-đạo của người Việt, thường gọi là ?oChủ đạo?. Như chủ đạo đời Trần (1225-1400) thì đặt ?oÁi quốc trước, trung quân sau?, đặt ?ongũ thường? làm cương yếu. Chủ đạo thời Nguyễn (1802-1945) lại đặt "trung quân trước, ái quốc sau."
    Luyện Khí-công để có thể đi vào đường chính đạo, mỗi phái theo cương yếu mà có cơ thức luyện tập riêng biệt.
    Posted: Tue Feb 07, 2006 4:58 am Post subject:
    --------------------------------------------------------------------------------

    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    HỌC THUYẾT VỀ KHÍ
    Mục-lục
    1. Khí về phương diện y-học
    2. Phân loại sinh thành của khí
    2.1. Nguyên khí
    2.2. Tông khí
    2.3. Lao khí
    2.4. Vệ khí
    3. Công năng của khí
    3.1. Tác dụng thúc đẩy
    3.2. Tác dụng làm nóng
    3.3. Tác dụng phòng ngự
    3.4. Tác dụng giữ chắc cơ thể
    3.5. Tác dụng khí hóa
    4. Sự vận hành của khí
    5. Một định nghĩa khí công
    5.1. Sự xử dụng vô thức
    5.2. Sự xử dụng tri thức
    5.3. Ma nghiệp, ma tính
    5.4. Chính đạo, chính khí
    5.5. Âm-kình, dương kình, kình lực
    5.6. Định nghĩa khí công
    6. Kết luận
    s >

  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    s >
    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    HỌC THUYẾT VỀ KHÍ
    1. Khí về phương diện y khoa
    Khí là danh từ để chỉ hiện tượng cổ đại về một thể tố của vũ trụ. Khí là cơ sở vật chất tối cơ bản cấu thành thế giới, vũ trụ, mọi sự trong vũ trụ do khí vận hoá sản sinh. Trong lĩnh vực y học, võ học, khí là nguyên tố cơ bản cấu thành cơ thể, khí vận động biến hoá mọi hoạt động của sinh mệnh. Bộ y thư tối cổ, Hoàng-Đế Nội-kinh Tố-Vấn nói:
    "Nhân dĩ thiên địa chi sinh khí,
    Thiên địa hợp khí, mệnh chi viết nhân?
    (Tố-Vấn, thiên Bảo-mệnh toàn bình luận).
    Nghĩa là: Con người do khí của trời đất mà sống. Khí thiên địa hợp lại gọi là con người.
    Tức là chỉ vật chất của nhân-thể, do khí của trời đất nuôi sống.
    Lại nói:
    "Khí hoá nhi sinh, tân dịch tương thành, thân nãi tự sinh?.
    (Tố-Vấn, thiên Lục-tiết tạng tượng luận).
    Nghĩa là: Khí hoá thì sống, tân dịch được sinh ra, thân cũng từ đó mà sống.
    Tức là để chỉ cơ cấu vật chất, hoạt động sinh mệnh do khí mà có. Theo những dẫn chứng trên, thì trong võ học, y học dùng danh xưng khí để chỉ hai loại:
    Một là để chỉ: sự cấu thành nhân thể, duy trì tinh vi vật chất của mọi hoạt động sinh mệnh. Như thủy cốc khí, hô hấp khí.
    Hai là chỉ công năng sinh lý của tạng phủ. Như khí của tạng phủ, khí của kinh mạch.
    Hai loại khí đều hỗ tương quan hệ, loại thứ nhất do loại thứ nhì trợ giúp và loại thứ nhì do loại thứ nhất trợ giúp. Loại thứ nhì là cơ cấu của vật chất. Loại thứ thứ nhất là biểu hiệu công năng. Tóm lại, sự phân loại, sinh thành, công năng của khí như sau.
    2. Phân loại, sinh thành khí
    Do ở khí của cơ thể phân phối ra những bộ phận không giống nhau, nguyên lai công năng bất đồng, cho nên có nhiều danh xưng khác nhau như: nguyên-khí, tông khí, lao-khí, vệ-khí v.v.
    2.1. Nguyên khí
    Nguyên-khí còn gọi là chân khí. Đây là một loại tối trọng yếu của nhân thể, tối cơ bản của sinh mệnh. Nguyên-khí do tinh của tiên thiên hoá sinh. Sau khi ra đời, lại được tinh vi thủy cốc tư-dưỡng, bổ xung. Được thông qua tam-tiêu, phân phối toàn thân, trong thì tạng phủ, ngoài thì ở da thịt. Cổ y học đã nói:
    ?... Chân khí giả, sở thọ vu thiên, vi cốc khí tinh nhi sung thân giả dã?.
    (Linh-khu-kinh, thiên Chế tiết trấn tà luận)
    Nghĩa là: Chân khí được thọ lĩnh ở trời, hợp với khí của thủy cốc nuôi thân.
    Tạng phủ của nhân thể nhờ có nguyên khí mà hoạt động, tự phát huy công năng mỗi loại khác nhau. Như vậy nguyên-khí là sự hoạt động của sinh mệnh. Nhân vậy, nguyên-khí sung dưỡng tổ chức công năng tạng phủ kiên vượng, thân thể kiện khang không có bệnh. Ngược lại, nếu như tiên thiên, hậu thiên bất túc hoặc bệnh lâu thương tổn, xuất hiện nguyên-khí suy yếu mà thành bệnh.
    Tóm lại định nghĩa về nguyên-khí, chân-khí sau này được phân rõ như sau:
    "...Khởi điểm con người là tinh khí của cha, gieo vào mẹ. Được bào cung bà mẹ nuôi dưỡng, thành thai nhi. Những gì mà bào cung nuôi dưỡng được gọi là nguyên- khí. Tinh-khí hợp với nguyên-khí thành tiên-thiên-khí. Sau khi ra đời, thai nhi thở hít khí trời gọi là thiên khí hay đại-khí. Ăn uống vật chất là địa-khí. Khi tiên-khí, địa-khí hợp lại là hậu-thiên-khí. Tiên-thiên-khí, hậu-thiên-khí lại hợp với nhau thành chân-khí."
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    2.2. Tông khí
    Tông-khí tức là thanh-khí do phế hút vào, cùng với khí của thủy cốc do tỳ vị vận hoá mà thành, tụ tập trong ngực. Cổ y học nói:
    ?...Tông khí tích vu hung trung, xuất vu hầu lung, dĩ quán tâm mạch, nhi hành hô hấp yên?.
    (Linh-khu-kinh, thiên tà khách).
    Nghĩa là: Tông-khí tích tụ ở ***g ngực, xuất ở hầu, để điều khiển tâm mạch, mà điều khiển hô hấp.
    Đó là nói về tông-khí thịnh hay suy. Tông-khí không hẳn tác dụng vào hô hấp, mà còn biểu hiện ra ở các loại cơ năng khác. Cho nên tông-khí còn gọi là động khí.
    2.3. Lao khí
    Tông-khí do tinh vi của thủy cốc được tỳ vị hoá sinh, chính là sự lao dưỡng vật chất thủy cốc. Lao-khí phân phối vào huyết mạch, tố thành huyết dịch, lao vận toàn thân, phát huy sự lao dưỡng. Tố-Vấn nói:
    ?...Lao giả, thủy cốc chi tinh khí dã,
    Hoà điều vu ngũ tạng, sái trấn lục phủ,
    Nãi năng nhập vu mạch dã,
    Cố tuần mạch thượng hạ, quán ngũ tạng, lạc phủ dã...?
    Nghĩa là: Lao-khí là tinh-khí của thủy cốc, hoà điều ngũ tạng, tẩy rửa lục phủ có thể nhập vào mạch, cho nên theo mạch mà lên mà xuống, bao trùm ngũ tạng, chuyển qua lục phủ.
    Do ở lao-khí và huyết cùng chạy trong mạch, cho nên lao-khí và huyết cùng quan hệ với nhau, cơ thể phân biệt công năng để gọi, nhưng không thể ly khai hai thứ cho nên thường gọi lao huyết vậy.
    2.4. Vệ khí
    Vệ-khí là do khí của thủy cốc hoá sinh, là một bộ phận dương khí của cơ thể. Cho nên còn gọi là vệ dương. Tính chất của nó là lật tật hoạt lợi tức là năng lực hoạt động rất mạnh. Cho nên Tố-Vấn, thiên Lý-luận học nói:
    "Vệ giả thủy cốc chi hãn khí giã?
    Nghĩa là: Vệ-khí không bị ước thúc trong mạch, vận hành phía ngoài kinh mạch, ngoại là bì phu, cơ nhục, nội là ngực, bụng, tạng phủ, khắp thân.
    Công năng chính của vệ-khí là:
    ?" Bảo vệ cơ biểu, kháng cự ngoại tà xâm nhập.
    ?" Khống chế sự mở đóng của các lỗ mồ hôi, làm điều hoà sự nóng cơ thể.
    ?" Làm ấm tạng phủ, làm tưới ướt da lông.
    Linh-khu kinh nói:
    ?...Vệ khí giả, sở dĩ ôn thân nhục, sung bì phu.
    Ba thấu lý, tư khai hợp giả dã?.
    (Linh-khu-kinh, thiên bản tạng luận).
    Nghĩa là: Vệ-khí, để làm nóng thịt, bồi dưỡng da, bảo vệ thấu lý, coi việc mở đóng.
    Đều là nói khai quát công năng vệ-khí.
    Trên đây đã nói về những loaị khí chung của cơ thể, nguyên do sinh thành, cũng
    như công năng khác nhau. Nhưng sự thực đều không ngoài:
    ?" Tinh khí của thân.
    ?" Khí của thủy cốc.
    ?" Khí của trời hít vào.
    Tinh-khí của thân do phụ mẫu, chứa ở trong thận, đó là tiên-thiên-khí. Khí của thủy cốc thì do tỳ vị tiêu hoá, hấp thụ thực vật, đó là khí hậu-thiên. Thanh-khí, tồn tại ở thiên nhiên, do phế nhập cơ thể. Tóm lại sự sinh thành của khí ít nhiều do tiên thiên sung túc, ẩm thực lao dưỡng phong phú, phế tỳ thận có công năng chính thường, mật thiết quan hệ. Trong đó tỳ vị thổ nạp vận hoá trọng yếu. Cho nên Linh-khu kinh, thiên Ngũ vị nói: Khi cốc khí không nhập nửa ngày, thì khí thiếu ngay.
    3. Công năng của khí
    Khí có rất nhiều tác dụng đối với cơ thể. Như Nạn-kinh nói:
    ?...Khí giả, nhân chi căn bản dã?.
    (Nạn kinh, thiên Bát-nạn).
    Nghĩa là: Khí là phần căn bản của thân.
    Khí phân phối vào nhiều bộ vị của cơ thể, mỗi cơ một công năng riêng, khái quát có năm công năng chính sau:
    3.1. Tác dụng thúc đẩy (Suy động)
    Các hoạt động của cơ thể như:
    ?" Sinh dục, tăng trưởng.
    ?" Sinh lý hoạt động kinh lạc, tạng phủ.
    ?" Huyết lưu thông.
    ?" Tân dịch phân phối trên cơ thể.
    Khi khí hư, thì tác dụng thúc đẩy giảm, phát dục sinh trưởng chậm, công năng kinh lạc, tạng phủ giảm thoái, hoặc huyết đình lưu, thủy dịch đình lưu.
    3.2. Tác dụng làm nóng
    Cơ thể duy trì được sức nóng bình thường, là do nhiệm vụ làm ẩm của khí. Nạn-kinh, chương 22 nạn nói khí chủ làm nóng cơ thể đều để chỉ công năng khí làm nóng cơ thể bộ, phận trên người. Khi nhiệm vụ làm nóng cơ thể không bình hoà, mất điều tiết, đa số xuất hiện sợ lạnh, chân tay không nóng.
    3.3. Tác dụng phòng
    Khí có khả năng bao phủ ngoài cơ-biểu để phòng ngự ngoại tà xâm nhập. Tố-Vấn nói:
    ?...Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư...?
    (Tố-Vấn, thiên Bình nhiệt bệnh luận).
    Nghĩa là khi tà khí hội lại được, thì khí phải hư.
    Đó là chỉ sự phòng ngự của khí. Ngoại tà theo kinh, sau khi phạm vào cơ biểu, khí cùng với tà đấu tranh, đuổi tà xuất ra ngoài, giữ cho cơ thể kiện khang. Linh-khu-kinh nói:
    ?...Hư tà nhập chi vu thận dã thâm,...hữu sơ kết,
    Khí qui chi,...hữu sơ kết,
    Thâm trung cốt, khí nhân vu cốt?.
    Nghĩa là: Khi hư tà nhập sâu vào thận, khí tích tụ, khi nhập sâu vào cốt, khí cũng tụ tập vào.
    Đó đều để chỉ khí tích tụ, chống lại tà khí từ ngoài vào.
    3.4. Tác dụng giữ chắc cơ thể
    Cố nhiếp tức là giữ chắc, điều khiển, và cai quản. Khí cố-nhiếp:
    ?" Huyết dịch không cho chảy ra ngoài mạch, không cho xuất ra bất thường.
    ?" Huyết dịch không cho xuất ra bất thường ngoài cơ thể.
    ?" Nước tiểu, không xuất ra hỗn loạn.
    ?" Tinh khí không xuất ra sớm, hay trễ.
    Cố là giữ chắc, nhiếp là làm cho xuất điều hoà, bình thường.
    Tác dụng thúc đẩy và cố nhiếp là hai tác dụng tương phản nhau, giữ sao cho điều hoà. Cũng như tác dụng của khí đối với huyết, một bên thì thúc đẩy huyết lưu hành, một bên thì cai quản không cho huyết lưu hành hỗn loạn. Khi khí hư, nhiệm vụ suy động giảm thoái, đưa đến huyết lưu hành bất lợi, sinh ra huyết ô. Khí hư thì nhiệm vụ cố nhiếp giảm đi, đưa đến xuất huyết.
    3.5. Nhiệm vụ khí hóa
    Khí hoá có hai ý nghĩa: Một là để chỉ tinh, khí, tân, huyết hỗ tương biến hoá sinh ra nhau. Tố-Vấn nói:
    ?...Tinh hoá vi khí?.
    (Tố-Vấn, Âm-dương ứng tượng đại luận).
    Nghĩa là tinh hóa ra khí.
    Đó chỉ là hiện tượng tinh và khí hỗ tương sinh ra nhau. Hai là công năng hoạt động của mỗi loại tạng phủ, như bàng quang ?okhí hoá? có nghĩa là bài xuất nước tiểu.
    Trên đây trình bày 5 nhiệm vụ của khí, hỗ tương mật thiết phối hợp khiến cho cơ thể điều hoà, hoạt động, chống bệnh tật.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này