1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    4. Sự vận hành của khí
    Khí của cơ thể là một động cơ thúc đẩy rất mạnh của tinh vi vật chất, hoạt động không ngừng, lưu hành toàn thân, không chỗ nào mà không tới. Những loại khí có tên khác nhau, là do những tác dụng bất đồng của khí, hình thức cơ bản của khí là ?othăng, giáng, xuất, nhập?. Sách Tố-Vấn thiên Lục-vị chí đại, luận nói ?oLên xuống, ra vào, không chỗ nào mà không có? là để dẫn về các loại khí quản trên cơ thể không chỗ nào mà không có khí ra vào, lên xuống. Sự xuất nhập thăng giáng của khí chính là hoạt động của cơ thể con người. Khi sự thăng giáng xuất nhập của khí đình chỉ, tức là sinh mệnh hoạt động đình chỉ. Cho nên Tố-vấn đã nói:
    ?...Phi xuất nhập, tắc vô dĩ sinh trưởng tráng lão nhĩ.
    Phi thăng giáng, tắc vô dĩ sinh trưởng hoá thu tàng?.
    (Tố-Vấn, thiên Lục-vị chí đại luận).
    Sự thăng giáng xuất nhập, tức là cơ thể hiện ở công năng tạng phủ hoạt động, cho đến sự hiệp điều giữa tạng phủ. Như phế chủ hô hấp, có tuyên, có giáng, thở cũ, hít mới. Phế chủ thổ khí, thận chủ nạp khí. Tâm hỏa giáng xuống, thận khí bốc lên, cho đến tỳ thăng lên, vị giáng xuống.
    Như vậy khí vận hành để chỉ chung sự:
    ?" Phối hợp, hiệp điều công năng tạng phủ toàn thân.
    ?" Sự thăng giáng xuất nhập khí, cơ tạng phủ.
    ?" Duy trì công năng sinh hoạt chính thường cơ thể.
    Nếu như sự vận hành khí của cơ thể bị ngăn trở, ứ đọng hoặc vận hành nghịch loạn hoặc thăng giáng thất điệu, xuất nhập bất lợi, đều ảnh hưởng đến ngũ tạng lục phủ, nội ngoại thượng hạ hiệp điều thống nhất, phát sinh các loại bệnh tật như: can khí đô kết, can khí hoành nghịch, vị khí thượng nghịch, tỳ khí hạ hãm, phế mất tuyên giáng, thận bất nạp khí, tâm thận bất giao.
    5. Thử định nghĩa khí công
    Khí công nghĩa là sự xử dụng khí.
    5.1. Sự xử dụng vô thức
    Khi nằm, lúc ngồi, hoặc khi nhập tĩnh, tư tưởng con người thường tưởng nhớ, suy nghĩ nhiều sự vật trạng huống. Nghĩ gì thì khí tuần lưu theo huyết mạch. Nghĩ đến nguy hiểm, thì tâm đập chậm. Nghĩ đến những điều tức giận thì tim đập mau. Nghĩ đến trời nắng thì cảm thấy ấm, nghĩ đến trời mưa tuyết thì cảm thấy lạnh. Nghĩ đến trượt ngã thì phản ứng tự nhiên nhảy lên cao. Tư tưởng lúc ấy đâu có chủ ý sai bảo chân tay, taị sao giật lên như vậy? Đó chẳng qua là tư tưởng nghĩ tới, khí tuần lưu theo tư tưởng. Tức ý dẫn khí. Chân khí được điều khiển bới tư tưởng.
    5.2. Sự xử dụng ý thức
    Khi sử dụng ngoại công như quyền, cước. Những chiêu đầu tiên thường thấy nặng nề, chậm chạp, phát ra không có lực. Nhưng tập tới lần thứ 500 trở đi, thì chiêu thức trầm mãnh khác thường, tại sao lại có sự kiện đó? Giải thích theo lẽ thường thì đó là tập nhiều nên quen. Nhưng nếu dùng phương pháp đo nội lực thì vẫn thấy không thay đổi. Sự thực giải thích như thế này: Đó là chân khí đã tuần lưu, kinh mạch thông, thành ra khi phát lực, khí tòng tâm tự phát, tòng tâm xử dụng, tòng tâm phản ứng.
    Vì vậy biết xử dụng chân khí, thì lúc nào cũng có thể phát ra tự phản ứng, vệ. Như khi nằm mơ màng thấy ngã, phản ứng chân tay giật lên. Nói theo danh từ khí công là ?otự phát, tự chủ?. Khi thu phát khí tự chủ, thì chân khí, vệ khí dồn ra hết, sức mạnh tăng lên. Cho nên những Khí-công gia tập lâu, Khí-công cao, có thể dùng khí dẫn ra ngoài cơ thể để chịu đòn, để chống ngoại vật làm hại cơ thể, để chống với những ma-nghiệp làm hại tinh thần, lại có thể trị bệnh cho người khác.
    5.3. Ma nghiệp, ma tính
    Ma để chỉ những gì ngược với chính-pháp của Phật-giáo. Sau này trở thành từ ngữ để chỉ những gì trái với đạo lý, trái với luật pháp, đi ngược với qui củ tôn giáo. Sau này, ma tính dần dần thành danh từ được dùng để chỉ những gì ngược với luân lý, đạo lý được công nhận. Mà luân lý, đạo lý của mỗi môn phái đều khác nhau. Như phái Đông-a khi xử dụng võ không cần phải xét đến những chiêu thức có đường đường chính chính hay không, miễn là tiêu diệt được kẻ địch, kể cả cắn, bóp vào những bộ phận sinh dục. Quan niệm này cho rằng: võ công khí công dùng để bảo vệ dân tộc. Nếu cần bảo vệ dân tộc trước kẻ ác, thì hy sinh luôn danh dự cũng được. Phái Thiếu-lâm, Tiêu-sơn thì ngược lại cho rằng dù đối với kẻ địch cũng phải tỏ ra khoan hoà, nhân hậu, dẫn dụ kẻ địch theo mình đi vào chính pháp. Phái Mê-linh, Nga-mi, thung dung hơn ?otiêu diệt ma vương quỉ dữ là có đạo lý?.
    Vậy ma-nghiệp, ma-tính để chỉ con người u mê trong vòng ám tối, hành sự trái với chính đạo, hay trái với luân lý được công nhận. Tỷ như thế kỷ thứ mười chín, đạo Thiên-chúa ở Tây-phương được công nhận là chính đạo, nhưng khi truyền sang Đông-phương thì bị các nho gia miệt thị là ma-giáo. Ma-tính thì nhẹ hơn, để chỉ một phần hành động do ma-nghiệp xúi dục. Ma-nghiệp, ma-tính thường làm cho tâm hồn hỗn loạn, đi xa đạo lý. Muốn trừ ma-nghiệp, phải lấy chính đạo giáo dục, hay tu niệm, mượn chính đạo đuổi ma-nghiệp, thì dùng khí-công. Mỗi môn phái có một phương pháp chuyển ma-nghiệp thành chính pháp khác nhau.
    5.4. Chính đạo, chính khí
    Từ ngữ dùng rất nhiều trong Nho-giáo, Phật-giáo, sau biến thành danh từ chung của tộc Hoa, tộc Việt, tộc Hàn và tộc Thái-dương (Nhật).
    Trong Nho-giáo, lưu truyền bài ?oChính khí ca? của Văn-thiên-Tường, một vị tể tướng cuối đời Tống, đã định nghĩa chính khí như sau:
    Thiên địa hữu chính khí,
    Tạp nhiên phú lưu hình.
    Hạ tắc vi hà lạc,
    Thượng tắc vi nhật tinh.
    Ư nhân viết hạo nhiên...
    Nghĩa là: trong trời đất vốn có chính khí, tự nhiên ơết thành hình. Dưới đất là sông núi. Trên kết thành trăng sao. Ở trong người là hạo nhiên.
    Nguyễn-công-Trứ (1778-1858) trong bài Kẻ-sĩ đã bàn rõ như sau:
    Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
    So chính khí đã đầy trong trời đất.
    Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,
    Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.
    Xe Bồ-luân dù chưa gặp Thang, Văn,
    Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
    Cầm chính đạo, để tịch tà cự bí,
    Hồi cuồng lan chi chướng bách xuyên.
    Chính khí đây là kết quả tất yếu của người học Nho, lấy cái chủ đạo Nho làm căn bản.
    Phật tính để chỉ hành sự, tư duy theo pháp chỉ của nhà Phật. Chính đạo mỗi tông, mỗi phái cũng có sự khác biệt, nhưng đều do môn phái đặt ra. Chính pháp của Thiền-tông lấy ?oTứ đại giai không? làm căn bản. Lấy bỏ ngũ uẩn, lục tặc, tứ đại giai không để đắc pháp. Tịnh-độ tông lấy bỏ tham, sân, si, giữ ngũ-giới là chính pháp. Chính-đạo của người Việt, thường gọi là ?oChủ đạo?. Như chủ đạo đời Trần (1225-1400) thì đặt ?oÁi quốc trước, trung quân sau?, đặt ?ongũ thường? làm cương yếu. Chủ đạo thời Nguyễn (1802-1945) lại đặt "trung quân trước, ái quốc sau."
    Luyện Khí-công để có thể đi vào đường chính đạo, mỗi phái theo cương yếu mà có cơ thức luyện tập riêng biệt.
    5.5. Âm kình, dương kình, kình lực
    Khi vận khí ra toàn cơ thể để chống với ngoại tà, chống với sự tác dụng của ngoại giới thì gọi là kình lực. Kình lực cũng để chỉ vận khí ra tấn công đối thủ. Còn như vận kình lực ra các kinh âm để tấn công, đỡ đòn, truyền khí thì gọi là âm kình. Khi cũng vận khí ra các kinh dương tấn công, phòng vệ, truyền khí, thì gọi là dương kình. Trong võ học, y học vận âm kình hay dương kình rất quan hệ, bởi tác dụng mỗi loại kình lực khác nhau rất xa.
    5.6. Định nghĩa khí công
    Vậy Khí-công là gì?

    [​IMG]
  2. onggiadaukho6569

    onggiadaukho6569 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/01/2006
    Bài viết:
    2.182
    Đã được thích:
    0
    Khí công là sự vận hành khí trong cơ thể để đạt một mục đích nào đó, các bác thấy tôi định nghĩa thế có đúng không?
    VD: Vận khí trong khi thiền, đưa khí đi chắp châu thân, điều hoà cơ thể, làm cơ thể nhẹ nhàng, thoải con gà mái hơn.
    Hoặc hít hơi vào, nhín thở,vận khí xuống đan điền khi buồn ị để ... phọt ra cho nhanh hơn, cái này cũng đòi hỏi phải mất công, mặt đỏ tía tai .... nên cũng được gọi là khí công.
    hihihihi ......
  3. motdikhongtrolai

    motdikhongtrolai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    2.982
    Đã được thích:
    0
    @Hoang_Vien_Anh !
    Một lần nữa_BQT box VT nhắc nhở bạn Hong_Vien_Anh phải tuân thủ qui định: Về việc trích dẫn nguồn của các bài viết mà mình không phải là tác giả... Trích diễn đàn ttvnol.com đã viết:
    "..... II. QUY ĐỊNH VỀ VIỆC GỬI BÀI LÊN TTVNONLINE:
    Về bài viết:
    - Các thành viên của TTVNOnline đều được tự do gửi bài. Bài đã gửi lên nếu là của tác giả khác thì ghi rõ tên tác giả. Trong trường hợp không xác định tên tác giả thì ghi nguồn gốc hoặc sưu tầm.... "

    Mong bạn tôn trọng qui định chung _ Trân trọng !...
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Hà hà hà .....
    Định nghĩa về khí công đây :
    Khí-công là khoa học đứng giữa ngoại công và y học dể:
    ?" Bổ khuyết cho tiên-thiên và hậu-thiên khí đưa thăng bằng cho cơ thể về tinh, thần, khí.
    ?" Loại bộ hủy diệt những tạp khí, độc khí thành phần cơ thể làm cho tâm, thể bất an.
    ?" Đưa chân khí từ yếu về mạnh, tạo thần lực cho tinh, thần, khí, làm cho tinh thần minh mẫn, phán đoán chính trực theo đạo.
    ?" Phát động, chuyền dẫn chân khí vào các chiêu thức ngoại công, vào các cử động, sao cho những chiêu thức, cử động tạo thần-lực.
    ?" Phát động chân khí để chống đối với những ngoại lực làm cho thể bị đau. Điều giải những chỗ đau trong cơ thể. Dẫn độc chất ra ngoài cơ thể.
    6. Kết luận
    Trên đây là định nghĩa tạm về khí-công. Định nghĩa có thể không hợp với những khí-công gia khác. Có thể các khí-công gia khác chỉ biết xử dụng khí-công chống bệnh nên sẽ định nghĩa là ?odùng để trị bệnh?. Nhưng nếu có những khí-công gia khác, áp dụng khí-công rộng rãi hơn, thì họ sẽ định nghĩa rộng hơn. Định nghĩa của chúng tôi sẽ được dùng trong toàn thể các phần nghiên cứu của tập sách mà quý vị đang đọc.
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 21:15 ngày 11/02/2007
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Thanh kiu bạn đã để tâm và nhắc nhở !
    CHƯƠNG THỨ BA
    ĐỐI TƯỢNG CỦA KHÍ CÔNG
    Mục-lục
    1. Phụ trợ trong võ học.
    2. Dùng khí-công trị bệnh.
    2.1. Giúp thân thể kiện khang.
    2.2. Dùng trị bệnh.
    3. Dùng khí-công phù chính.
    4. Kết luận.
    ĐỐI TƯỢNG KHOA KHÍ CÔNG
    Qua định nghĩa trên, thì đối tượng của khoa khí-công rất rộng. Nó bao gồm cả võ học y học, lẫn tôn giáo và đạo lý. Nhưng trong mỗi lĩnh vực, nó chỉ làm một số nhiệm vụ mà thôi, chứ không bao trùm toàn bộ các lĩnh vực đó.
    Khí-công có hai loại là tĩnh-công và động-công. Chương sau sẽ trình bày chi tiết về hai loại này. Dưới đây là những đối tượng của khoa khí-công.
    1. Phụ trợ trong võ học
    Nguyên thủy của khí-công là để luyện tập cho cơ thể khang kiện. Sau được dùng trợ giúp điều hoà hơi thở khi tập võ cho khỏi mệt, rồi tiến tới điều hoà hơi thở trong khi xử dụng võ. Từ khi có sự du nhập của Thiền-công, việc phụ trợ cho võ-học tiến thêm một bước nữa: Dẫn khí tập trung tại điểm này để chịu đòn, vào chỗ kia để điều giải những chỗ bị đánh đau, dẫn khí tích tụ lại chỗ đau đi nơi khác để chống đau.
    Sau khi có sự tổng hợp y-học vào khí-công, thì khí-công trở thành khoa học để kiểm chứng lại những chỗ sai lạc trong võ học. Hơn nữa biết vận khí tùy theo kinh mạch để điều hoà hơi thở.
    Tỷ dụ như khi xử dùng quyền cước. Nếu đánh hư chiêu thì không cần vận khí ra, khi thực chiêu mới cần vận khí cho có sức mạnh. Khi tập võ, thì tạp khí sinh ra , khí-công dùng để tập trung điều giải tạp khí ra ngoài.
    Vậy khí-công dùng trong võ-học là:
    - Giữ cho tinh thần thăng bằng, không rối loạn, không sợ hãi.
    - Điều hoà hơi thở cho cơ thể thăng bằng.
    - Tập trung chân khí, phát lực, chuyển chân khí để tấn công cho có thần lực.
    - Dùng chân khí để chống đỡ đòn khi bị đánh, cho khỏi đau.
    - Dùng để dẫn những chỗ đau, cho khí khỏi tụ lại, ?oThông tắc bất thống? nghĩa là thông thì không đau.
    - Chuyển, dẫn giải trừ những tạp khí do tập võ sinh ra.
    - Luyện cho nội-công mạnh hơn lên.
    Khí-công là khoa tối cần thiết cho võ-học. Không có khí-công thì võ-học cũmg giống như một chiếc phi cơ bị tháo hết máy móc, nó trở thành một đống sắt rất tầm thường. Khí-công giúp cho võ-học tiến triển, bởi không có Khí-công thì võ-học chỉ xử dụng được một số đòn đẳng tầm thường, không có những chiêu thức mãnh liệt, thần tốc và nhất là làm cho cơ thể nhẹ nhàng lâu mệt.
    Đối với cổ-nhân, khí-công có một tầm mức tối quan trọng trong võ-học. Võ-học là một thứ vũ-khí quốc-phòng. Cho nên người ta bắt đầu dậy võ, kí-công cho trẻ nhỏ từ lúc 6 tuổi, ?ovăn ôn vũ luyện? đến khoảng 20 tuổi thì ?otiểu thành?, sau 30 tuổi thì ?okhả thành? sau đến 40 tuổi thì ?ođại thành?. Ngày nay võ-học không quá cần thiết tới trình độ đó, nên ít người ai để cả cuộc đời luyện võ như vậy. Những thức để phụ trợ võ-học tuy thư tịch còn đầy đủ, mà không được dùng tới. Võ-học ngày nay chỉ là môn thể thao, tuy đôi khi cũng có người coi đó là một thứ chuyên nghiệp, nhưng không cần tới trình độ quá cao như ngày xưa.
    2. Dùng khí công trị bệnh
    Vấn đề thực dụng trước mắt là khí-công phục vụ sức khoẻ con người.
    Trong các lãnh vực thực dụng của khí-công thì vấn đề dùng trị bệnh được mỗi thời coi như là cần thiết. Đối với y-học hiện tại, thì khoa khí-công trở thành một nghành trị bệnh quan trọng. Bởi phạm vi trị bệnh của khí-công gần như phụ trợ hẳn cho y-học Tây-phương: Những gì y-học Tây-phương không trị được, thì khoa khí-công trở thành một loại đắc dụng. Như trị bệnh thần kinh, áp huyết cao, có thể suy nhược, tiêu hoá bất lương, tý chứng (phong thấp), và tối quan trọng trong khoa trị liệu thần kinh.
    Dùng khí-công trị bệnh, có hai phần được phân ra rõ rệt:
    ?" Một là bệnh nhân tập để tự trị bệnh, trị ?ovị bệnh? và trị ?odĩ bệnh?. Phần trị vị bệnh tức tập cho cơ thể khỏe mạnh, phòng bệnh. Điều này y học nước nào cũng nói tới ích lợi của nó. Trị dĩ bệnh là trị bệnh đã xẩy ra rồi, điều này thì y học Tây-phương tỏ vẻ nghi ngờ.
    ?" Hai là dùng khí-công tối cao, truyền sang trị bệnh cho người khác. Khoa này còn quá mới lạ đối với Tây-phương. Hiện trên thế giới, đôi khi có những người không hề tập khí-công, mà tự nhiên có chân khí vào tràn đầy, chỉ cần mó vào người khác là truyền khí sang chữa bệnh cho bệnh nhân. Những người này hoặc do thể tố chân khí mạnh hoặc do có cơ duyên ăn những thức ăn kỳ lạ hoặc ở trong vùng khí hậu đặc biệt cấu thành. Họ trở thành những thầy lang đặc biệt. Do những cơ duyên mà họ không giải thích được, nên bị xếp vào loại huyền hoặc, huyền bí, gần như hoang đường. Nhưng khoa khí-công thì có biện chứng luyện tập rõ rệt, dùng hình nào, khí nào chữa bệnh nào.
    Đối với những châm cứu gia, dù chưa luyện khí công, dù cơ thể không có chân khí mạnh, nhưng sau một thời gian hành nghề, chân khí lưu thông trong kinh mạch nhiều lần, khiến kinh mạch đã thông, tự nhiên có chân khí; mỗi khi trị bệnh, chân khí từ cơ thể qua kim, truyền vào cơ thể bệnh nhân. Chính vì vậy, những châm cứu gia luyện khí-công, chân khí mạnh, khi trị bệnh, mau có kết quả hơn.
    Dùng khí-công cao truyền trị bệnh cho người khác, có thể trị ?odĩ bệnh? mà thôi . Vậy bệnh nhân tự luyện tập thì trị được dĩ bệnh và vị bệnh . Còn khí-công gia dùng khí-công trị dĩ bệnh.
    Lịch-đại y-học Á-châu rất chú trọng phương tiện bảo kiện dự phòng bệnh tức trị vị bệnh. Khí-công được dùng để trị cả vị bệnh lẫn dĩ bệnh. Những y thư tối cổ đã từng đề cập tới. Danh y đời nào cũng có người nghiên cứu về khoa khí-công trị bệnh. Đầu tiên trong bộ Hoàng-Đế Nội-kinh Tố-Vấn các chương:
    - Thượng cổ thông thiên luận.
    - Tứ khí điều thân đại luận.
    - Sinh khí thông thiên luận.
    - Kim quĩ trấn ngôn luận.
    Qua các chương trên, đủ thấy sự chú trọng vào vấn đề dùng khí-công trị bệnh của cổ nhân đến như thế nào.
    ?...Tâm an mà không sợ hãi.
    Hình tươi thì không mệt mỏi.
    Khí theo đó mà thuận,
    Tất cả đều đạt đến như ý muốn?.
    Bốn câu trên kết luận rằng Khí-công có tác dụng tốt, làm cho lực của não kiện toàn, gân cốt kiên-cường. Đồng thời cổ nhân lại chú trọng vào luyện công phối hợp với thiên nhiên, thích ứng với hoàn cảnh trong vấn đề ẩm-thực. Đó là nói về tối cổ y gia chú trọng vào Khí-công trị bệnh vậy.
    Bên Trung-quốc, Đại-hàn, Nhật-bản thì các Đạo-gia, Phật-gia, và Y-gia đồng thời chú ý vào khí-công trị bệnh. Mỗi nhà đều có những sở trường sở đoản riêng biệt. Nhưng tại Việt-Nam thì khác hẳn: Dù Đạo-gia, Y-gia, Phật-gia hay võ-học-gia đều qui vào những sự tổng hợp giống nhau, thái dụng lẫn của nhau. Trong thời gian 1945-1990 khoa Khí-công dường như tê liệt.. Khi tôi viết những giòng này (1993) dường như đã có sự phục sinh. Nhưng biết bao giờ mới được như xưa?
    Vậy bản chất trị bệnh của khí-công là gì?
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    2.1. Giúp thân thể kiện khang
    Giúp thân thể kiện khang, tinh thần minh mẫn, để trị vị bệnh, tức là luyện tập cho thân thể thăng bằng sức khoẻ điều hoà đó là ở trình độ thấp. Còn luyện đến sức lực vượt hẳn thông thường, thì không bệnh tật nào làm hại cơ thể được. Khí-công luyện cao thì vệ khí càng mạnh, lục dâm không tác dụng vào thân. Mà công năng khí huyết tạng phủ mạnh, không có bất thường sinh bệnh.
    2.2. Dùng trị bệnh
    Tức trị dĩ bệnh. Bệnh có thực có hư! Thực bệnh thì tập để đưa ngoại tà (vi trùng, ý nghĩ đen tối, lo sợ vô lý) ra ngoài và bồi dưỡng chính khí bị tà khí làm hại. Hư bệnh thì phải dùng biện chứng để biết rõ tạng phủ cơ phận nào hư, để tập những loại khí-công nào bồi dưỡng chỗ hư đó.
    Đây là đại cương, nhưng trên thực tế, hiện nay khí-công dùng trong lãnh vực y khoa như thế nào? Nếu tổng hợp y học Âu-Á mà trị, thì khoa khí-công ít được xử dụng đến. Bởi những thiếu sót của Âu được Á phù trợ, thiếu sót của Á được Âu phù trợ. Nhưng vấn đề trị vị bệnh thì dù y-học Á hay Âu cũng phải cần dùng đến cả.
    3. Dùng khí công phù chính
    Đây là một vấn đề có tính cách tôn giáo nhiều hơn. Mỗi gia mỗi phái quan niệm về ma-nghiệp khác nhau, chính đạo khác nhau. Nhưng tựu chung, luyện khí-công để cho:
    ?" Tinh, thần, khí vững mạnh.
    ?" Cơ thể khang kiện, giữ được bản ngã,
    ?" Khắc kỷ mạnh để giữ được những luật lệ qui tắc từng phái từng gia.
    ?" Tức là luyện khí-công để đi đến tinh, thần, khí được sung thịnh.
    ?" Tinh ở đây phải hiểu là cơ thể khang kiện, hoặc tinh-khí.
    ?" Thần tức để chỉ sinh hoạt của linh hồn và khí thì là chân khí vậy.
    Nguyên lý căn bản khí-công làm sao cho ba lực lượng tinh, thần, khí thăng bằng. Khi tinh, thần, khí thăng bằng tinh tiến, thì có thể giữ được chính khí, đuổi tà kiến. Như phương pháp của phái Thiếu-lâm, Tiêu-sơn lấy ?obỏ vọng tâm? làm căn bản, mà bỏ vọng tâm thì lại đặt cơ sở ở Thiền-công. Thiền-công chủ yếu là kinh Kim-cương, lấy tĩnh công tọa thiền làm khởi đầu để đi đến ?onhân ngã tương thông, tứ đại giai không? và đi vào kiến tính để ?ođắc pháp? tức là đắc đạo vào Vô-thượng Bồ-Đề. Chính pháp của Thiếu-lâm, Tiêu-sơn là dứt bỏ thất tình: Hỷ (vui), nộ (giận), ưu (lo), tư (suy nghĩ), bi (buồn sầu), khủng (sợ hãi), kinh (Hoảng hốt). Khi buồn sầu nhiều quá, không dứt được thì đi vào ma-nghiệp, muốn dứt ma-nghiệp phải nhờ khí-công. Sau thất tình đến tham, sân, si, ba ma-nghiệp đó cũng làm hại chính pháp. Ngoài ra còn nhiều giới khác cần kiêng cữ nữa.
    4. Kết luận
    Phạm vi và đối tượng của khí-công đại lược có ba. Đó là phụ trợ cho võ-học ngoại-công, được xưa dùng rất nhiều, hiện nay ít dùng. Thứ đến là dùng dể trị bệnh thì đời nào cũng cần thiết cả. Còn kKhí-công dùng để đi vào chính pháp đắc đạo, thì mỗi tôn giáo, mỗi địa phương có một quan niệm khác nhau, nhưng mục đích tối thượng vẫn là làm cho tinh, thần, khí tăng tiến, cơ thể khoẻ mạnh thông sướng, thì dứt bỏ được mọi phiền tạp thất tình, hầu khắc kỷ, giữ bản ngã khỏi đi vào ma-nghiệp.
    Khí-công dùng để áp dụng vào ba vấn đề trên các gia các phái đều có những phương pháp đặc biệt, nếu biên tập vào thì không biết bao giờ mới hết. Bởi vậy trong sách này chúng tôi chỉ trình bày những phần lý thuyết tổng cương. Còn phần thực hành thì thu lại một vài điển hình mà thôi.
    Như về động-công, tại Việt-Nam không mấy người mà không biết đến Thập-thức bảo kiện pháp, Yên-tử ngọa công bát pháp, Đông-hải thập nhị thủ. Bên Trung-Quốc (1948-1985), trên khắp giải lục địa võ thuật bị nghi ngờ, không được khuyến khích, gần như bị diệt hẳn, nhưng vấn đề tập khí-công đã được đưa vào đại học y khoa, nhất là tập Thái-cực-quyền để bảo kiện và trị bệnh được các y gia coi rất trọng và phổ biến.
    Người ta thường quan niệm rằng khí-công xuất từ Phật-gia, Đạo-gia nên các tôn giáo khác thường kỳ thị, đó chẳng qua là không hiểu thực sự bản chất mà thôi. Qua những năm dạy học chúng tôi thấy áp dụng vào Hồi-giáo, Thiên-chúa-giáo còn dễ dàng hơn cả đối với Đạo-giáo, Phật-giáo. Tu-sĩ Thiên-chúa-giáo thường phải ngồi tập trung tinh thần, suy ngẫm về Chúa Cứu-thế, nếu tu sĩ biết khí-công, trấn nhiếp tâm thần thu liễm mọi phiền tạp bỏ ra ngoài, ý thủ vào Chúa, thì thực còn gì tốt đẹp hơn? Như một tu sĩ khoẻ mạnh bị ******** đòi hỏi, thì dùng ?oTiêu-sơn hoá tinh pháp? để đốt tinh khí, dùng ngũ-khí triều nguyên để xóa bỏ sự cám dỗ của ngoại cảnh thực vừa dễ vừa tốt đẹp.
    Bởi vậy kết lại khí-công là khoa học vừa có tính chất y-khoa vừa có tính chất của thể thao lại có tính chất luyện tập trấn nhiếp tâm thần rất tốt.
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    PHẦN THỨ NHÌ
    PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU KHÍ
    Điều khí là gì? Điều khí gồm có hai phần:
    ?" Một là sự hướng dẫn khí xuất, nhập cơ thể theo ý muốn.
    ?" Hai là vận nội khí trong cơ thể tuần hành theo những nguyên tắc nhất định.
    Trong phần này sẽ bao gồm hai vấn đề chính yếu đó.

    CHƯƠNG THỨ NHẤT
    NGUYÊN TẮC THỔ NẠP
    Mục lục
    1. Định nghĩa điều khí
    2. Phương pháp thổ nạp
    2.1. Thổ
    2.2. Nạp
    2.3. Đình
    2.4. Tốc độ thổ nạp
    2.5. Khối lượng thổ nạp
    2.6. Phối hợp thổ nạp đình
    3. Thổ, nạp, đình đối về phương diện y học.
    3.1. Về phương diện y học
    3.2. Đối với học thuyết âm-dương.
    4. Tổng luận về thổ nạp.
    s >
    NGUYÊN TẮC THỔ NẠP
    1. ĐỊNH NGHĨA ĐIỀU KHÍ
    Điều khí là sự tiến hành hô hấp theo ý muốn, trong một nguyên tắc cần thiết. Trong quá khứ điều khí dùng hỗn độn với các danh từ sau đây:
    HÔ-HẤP. Là sự thổ nạp vô ý thức của người không biết khí công.
    THỔ-NẠP. Thổ là nhả khí ra. Nạp là thu khí vào.
    Cổ nhân gọi là ?oThổ cố nạp tân? nghĩa là nhả cái cũ, thu cái mới. Thổ nạp là phương pháp hô hấp trong khoa Khí-công, để phân biệt với thông thường thổ nạp là hô hấp vô thức.
    Điều khí là sự thổ nạp theo một qui tắc nhất định bằng sự điều khiển. Hoặc khi những người đã tập Khí-công cao, trong lúc vô thức, gặp hoàn cảnh, tòng tâm thổ nạp theo qui tắc, thích hợp với hoàn cảnh.
    Tóm lại thổ-nạp có qui định khi hữu thức hoặc khi vô thức nhưng có qui định của người tập Khí-công.
    2. PHƯƠNG PHÁP THỔ NẠP
    2.1. THỔ
    Thổ là nhả khí ra. Thông thường người ta thổ không hết khí lưu trữ trong phế, cho nên sự thổ cố không đi đến tuyệt đối mở rộng, đến khi nạp khối lượng cũng ít, bởi vậy sự khí hóa cơ thể không được nhiều. Chân khí bao gồm 4 loại khí, mà Đại-khí là một yếu tố quan trọng. Nếu thổ không nhiều thì nạp cũng không nhiều, chân khí do vậy không tăng tiến. Nếu thổ hết lượng khí trong phế, khí nạp sẽ được nhiều, khí hóa tăng, do đó chân khí tăng lên.
    Trong khoa khí-công, cứ một thổ một nạp gọi là một tức.
    2.2. NẠP
    Nạp là hấp khí vào. Khí vào phế, được phế tuyên phát khắp các kinh theo vòng Đại-chu-thiên tuần lưu khắp cơ thể. Thông thường người ta nạp khí không hết thể tích của phế, thành ra thiên khí vào phế không nhiều, sự khí hóa không mấy mạnh. Trong khoa Khí-công nhiều thức tập bắt người ta phải nạp khí thực sâu, để thiên khí nhập phế mạnh ứng hợp với hoàn cảnh nào đó. Khi thiên-khí mạnh nhập cơ thể phối với địa-khí và nguyên-khí, tinh-khí làm cho chân-khí tăng lên. Khi thổ nạp có thể ngắt làm nhiều nhịp, hoặc một hơi.
    2.3. ĐÌNH
    Đình có nghĩa là sự ngưng thở. Thông thường vô thức, ít khi đình thổ nạp. Nhưng trong khí-công và võ học, đình thổ nạp là một hiện tượng thông thường. Có thể nạp rồi đình, thường gọi là nạp-đình hoặc thổ rồi đình gọi là thổ-đình. Có khi, nạp hết hơi hoặc thổ hết hơi rồi đình cũng có khi nạp, thổ nửa hơi, hay một phân nửa hơi rồi đình gọi là bán-nạp-đình hoặc bán-thổ-đình. Đình trong khí-công thường gọi là qui-tức nghĩa là thu hơi trở lại không hoạt động nữa.
    2.4. TỐC ĐỘ THỔ NẠP
    Tốc độ khi thổ-nạp trong khoa khí-công được ấn định:
    TRÌ. Từ 9 giây đến 15 giây.
    TRUNG. Từ 4 giây tới 8 giây.
    KHẨN. Từ 1/5 giây tới 3 giây.
    Đây là tính cho tốc độ của một thổ, một nạp hoặc một đình, chứ không phải tốc-độ một tức. Tốc độ là nhịp điệu khác với khối lượng. Một nhịp thổ như vậy không nhất thiết đầy phổi hay được mấy phần phổi.
    2.5. KHỐI LƯỢNG
    Khối lượng khi thổ nạp vào phế trong khoa khí-công ấn định:
    THÂM. Thổ hay nạp đến đầy ắp hoặc nhả đến hết khí trong phế.
    TRUNG. Thổ hay nạp tương đối sâu, không đầy hay hết khối lượng.
    THIỂN. Thổ hay nạp thông thường.
    Trong khoa khí-công sự ước tính khối-lượng và tốc-độ rất quan trọng, nhất là ứng dụng vào võ học để tấn công hay chịu đòn.
    2.6. PHỐI HỢP THỔ NẠP-ĐÌNH
    ?" Khí-công hay võ học bắt đầu từ thổ nạp thông thường trước.
    ?" Bao giờ cũng bắt đầu bằng Thổ hết tất cả khí ra, và rồi hành thổ nạp theo qui định.
    ?" Bao giờ cũng bằng mũi nạp hoặc mũi miệng đồng nạp, chứ tuyệt đối không bao giờ dùng miệng nạp. Bởi bụi, vi trùng theo miệng vào cơ thể qua đường phế.
    ?" Mũi miệng đồng nạp: tiến hành mũi thổ, miệng thổ hoặc mũi miệng đồng thổ.
    ?" Mũi nạp, mũi thổ hoặc mũi miệng đồng thổ hoặc miệng thổ.
    ?" Phối hợp thổ nạp đình thì:
    Nạp-đình-thổ.
    Nạp-thổ -đình.
    3. THỔ NẠP ĐÌNH
    Về phương diện y học
    3.1. ĐỐI VỚI HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
    Về phương diện học thuyết âm-dương thì:
    ?" Thổ có tính cách phát ra, tiến ra ngoài rộng rãi nên là dương.
    ?" Nạp có tính cách thu vào, tóm vào nên thuộc âm.
    ?" Còn đình thì coi như hiện tượng âm-dương giao nhau.
    ?" Trong khi thổ nạp, bất cứ lúc nào ta cũng ứng dụng đình hơi giữa thổ nạp, nhưng sự đình hơi đó quá ngắn thành ra không chú ý.
    Điều hòa thổ nạp tức điều hòa âm dương, khi tống hết hơi thở ra, thì cơ thể mất đi một số thán khí, phế hoàn toàn trống rỗng. Cổ nhân gọi là ?oVô trung sinh hữu? nghĩa là trong cái không có khí ở phổi, là lúc thanh khí thoát ra ngoài cơ thể, thì chân khí phát triển khắp người, gọi là không mà hóa có là thế.
    3.2. VỀ PHƯƠNG DIỆN Y HỌC
    Về phương diện y học, thì:
    ?" Khi thổ ra tức nhả khí ra thì là tả. Bởi vậy khi những người bị nhiệt chứng, can khí đô kết tình chí uất ức thường thích thở dài. Hoặc trong người nóng quá , đầy ứ ở bao tử thích thổ, thích ợ hơi.
    ?" Khi hít khí vào, tức là bổ. Khí vào cơ thể mạnh, nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
    Lâm sàn ứng dụng trị bệnh, dùng châm cứu cũng như vận sức chống đối thủ, thông thường hít khí vào để chống trả, vệ khí mạnh lên.
    4. TỔNG LUẬN VỀ THỔ NẠP
    Thổ nạp đình là nguyên tắc căn bản để đi vào khoa khí-công. Trong khoa khí-công thì nhất thiết chú ý đến :
    ?" Thổ-nạp-đình
    ?" Tốc độ,
    ?" Khối lượng thổ nạp.
    Về danh từ chuyên môn thì :

    1 Thổ +1 Nạp +1 Đình = 1 Tức
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU KHÍ
    Mục lục
    1. Phương pháp thông thường
    1.1. Nhu hòa
    1.11. Tốc độ
    1.12. Nhịp điệu
    1.13. Khối lượng
    1.14. Công dụng
    1.2. Hoãn viên
    1.21. Tốc độ
    1.22. Nhịp điệu
    1.23. Khối lượng
    1.24. Công dụng
    1.3. Thâm trường
    1.31. Tốc độ
    1.32. Nhịp điệu
    1.33. Khối lượng
    1.34. Công dụng
    2. Phương pháp ý khí hợp nhất.
    2.1. Phương pháp minh tâm
    2.11. Tốc độ
    2.12. Nhịp điệu
    2.13. Khối lượng
    2.14. Công dụng
    2.2. Phương pháp kiên lực
    2.21. Tốc độ
    2.22. Nhịp điệu
    2.23. Khối lượng
    2.24. Công dụng
    2.3. Phương pháp kiên thể
    2.31. Tốc độ
    2.32. Nhịp điệu
    2.33. Khối lượng
    2.34. Công dụng
    3. Phương pháp đạo gia
    3.1. Phương pháp thái cực
    3.11. Tốc độ
    3.12. Nhịp điệu
    3.13. Khối lượng
    3.14. Công dụng
    3.2. Phương pháp lưỡng nghi
    3.21. Tốc độ
    3.22. Nhịp điệu
    3.23. Khối lượng
    3.24. Công dụng
    3.3. Phương pháp tứ tượng
    3.31. Phương pháp tứ tượng dương
    3.31.1. Tốc độ
    3.31.2. Nhịp điệu
    3.31.3. Khối lượng
    3.31.4. Công dụng
    3.32. Phương pháp tứ tượng âm
    3.32.1. Tốc độ
    3.32.2. Nhịp điệu
    3.32.3. Khối lượng
    3.32.4. Công dụng
    4. Phương pháp ảo thổ nạp
    4.1. Phương pháp ảo thượng thức
    4.11. Tốc độ
    4.12. Nhịp điệu
    4.13. Khối lượng
    4.14. Công dụng
    4.2. Phương pháp ảo trung thức
    4.21. Tốc độ
    4.22. Nhịp điệu
    4.23. Khối lượng
    4.24. Công dụng
    4.3. Phương pháp ảo hạ thức
    4.31. Tốc độ
    4.32. Nhịp điệu
    4.33. Khối lượng
    4.34. Công dụng
    5. Kết luận

    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU KHÍ
    1. PHƯƠNG PHÁP THÔNG THƯỜNG (1)
    Thông thường nghĩa là Thổ-nap tự nhiên, không cần chú ý. Bốn phương pháp thông thường là:
    - Nhu hòa.
    - Hoãn viên.
    - Quân bình.
    - Thâm trường.
    Đây là 4 phương pháp điều khí rất thông thường trong khoa khí công học. Khi thổ nạp, thản nhiên không chú ý tới mũi hay miệng thổ nạp, nghĩa là bộ vị thổ nạp tự nhiên.
    1.1. NHU HÒA
    Thổ nạp nhẹ nhàng như tằm nhả tơ, trong giấc ngủ ngon.
    1.11. TỐC ĐỘ : Trung.
    1.12. NHỊP ĐIỆU : Liên tục khi nạp cũng như thổ liên miên bất đoạn.
    1.13. KHỐI LƯỢNG : Trung.
    Đây là phương pháp thổ nạp cho những người mới tập để điều hòa hơi thở, hay lúc mới tập nhập tĩnh, để không bị ước thúc ràng buộc.
    1.14. CÔNG DỤNG : Rất rộng:
    ?" Dùng làm căn bản lúc khởi đầu luyện khí công cho người mới tập.
    ?" Có thể dùng cho tất cả mọi tư thức, mọi loại khí công.
    ?" Dùng để điều hòa hơi thở sau khi chạy, nhảy, luyện võ.
    1.15. CHỦ TRỊ :
    ?" Hạ huyết áp cao.
    ?" Tim đập quá mau.
    ?" Trấn tĩnh cơn cáu giận, súc động.
    1.2. HOÃN VIÊN
    Thổ nạp chậm chạp, cắt đứt thành từng nhịp một, nạp nhiều nhịp, thổ cũng nhiều nhịp, nhưng không đình thổ nạp.
    1.21. TỐC ĐỘ : Trì.
    1.22. NHỊP ĐIỆU : Gián đoạn, thổ cũng như nạp cắt thành nhiều nhịp ngắn.
    1.23. KHỐI LƯỢNG : Trung.
    1.24. CÔNG DỤNG : Như phương pháp Nhu-hòa.
    1.25. CHỦ TRỊ : Như phương pháp Nhu-hòa.
    1.3. QUÂN BÌNH
    Thổ nạp trung bình, độ dài tốc độ đều trung bình. Chia thành nhiều nhịp trong một thổ hay nạp.
    1.31.TỐC ĐỘ : Trung.
    1.32. NHỊP ĐIỆU : Gián đoạn. Thổ cũng như nạp cắt đứt thành nhiều nhịp. Số nhịp trong một tức không giới hạn. Ít nhất là hai, nhiều nhất có thể tới cả trăm.
    1.33. KHỐI LƯỢNG : Trung.
    1.34. CÔNG DỤNG :
    ?" Dùng cho tất cả các thức Khí-công, Thiền-công.
    ?" Dùng để trị bệnh phổi.
    ?" Dùng cho những người mới luyện.
    1.35. CHỦ TRỊ : Tùy nghi các thức Khí-công, Thiền-công.
    1.4. THÂM TRƯỜNG
    Thổ nạp nhẹ nhàng. Khi thổ cũng như khi nạp kéo một hơi dài cho đến khi đầy ắp mới thôi.
    1.41. TỐC ĐỘ : Trì.
    1.42. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    1.43. KHỐI LƯỢNG : Thâm.
    1.44. CÔNG DỤNG : Như phương pháp Quân-bình.
    1.45. CHỦ TRỊ : Tùy theo các thức Khí-công, Thiền-công.
    1.5. KẾT LUẬN
    Phương pháp thông thường là phương pháp xuất xứ từ thiền-công Phật-gia. Phương pháp của thiền-công Phật-gia nguyên thủy là: Thổ nạp chậm chạp, điều hòa, ý khí hợp nhất, không phân biệt mũi hay miệng thổ nạp. Các khí công sư đã từ thiền-công Phật-gia biến đổi đi thành 4 phương pháp khác nhau. Công dụng như sau:
    ?" Dùng làm khởi đầu cho mỗi phương pháp thổ nạp. Hầu như bắt đầu các phương pháp điều khí nào cũng khởi từ phương pháp thông thường cả.
    ?" Dùng trong các loại tĩnh công, tập điều hòa tinh, thần, khí.
    ?" Dùng trong các thức khí công để chữa bệnh bảo kiện.
    ?" Dùng trong các thức khí công để đi vào luyện thần.
    ?" Ít dùng trong võ học.
    2. PHƯƠNG PHÁP Ý KHÍ HỢP NHẤT (2)
    Phương pháp này rất nhiều, tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ tuyển chọn ba phương pháp hữu ích nhất:
    ?" Phương pháp minh-tâm, để luyện thần.
    ?" Phương pháp kiên-lực, để luyện lực.
    ?" Phương pháp kiên-thể, để luyện tổng hợp thần, lực.
    2.1. MINH-TÂM
    Xuất phát từ thiền tuệ. Các khí-công sư đã nhân phương pháp Tham- thiền thổ nạp là phương pháp của Phật-gia, rồi biến đổi đi. Nguyên phương pháp Tham-thiền, do các thiền sư dùng để ngồi tập Thiền-công và đọc kinh. Phương pháp lấy tự nhiên, thổ nạp điều hòa, không chú ý đến thổ hay nạp. Nếu chú ý đến thì mất hẳn tự nhiên. Khi thổ nạp, thân thể buông lỏng, tâm thần ninh tĩnh, để mặc cho hơi thở đưa đến nhu-hòa, hoãn-viên, quân-bình hay thâm-trường tức là tiến tới ?oý khí hợp nhất?.
    Kinh nghiệm
    Đầu tiên dùng phương pháp thông thường ở trên. Sau khoảng mười tức, hơi đã điều hoà, rồi biến sang minh-tâm, kiên-lực, kiên-thể thì dễ dàng hơn.
    2.11. TỐC ĐỘ : Trung.
    2.12. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    2.13. KHỐI LƯỢNG : Trung.
    2.14. CÔNG DỤNG : Dùng làm căn bản cho các phương pháp điều khí khác. Phàm điều khí cần phải lấy minh-tâm thổ nạp làm khởi đầu.
    ?" Dùng để luyện Khí-công, và tập Thiền của Phật-gia.
    ?" Dùng trong các thức tập Khí-công luyện thần, trị bệnh thần kinh:
    ?" Giải trừ ma nghiệp, ma tính trong người.
    ?" Giải trừ nhiệt khí.
    ?" Bỏ thất tình là hỷ (vui), nộ giận) , ai (đau đớn), cụ sợ hãi), ái yêu), ố (ghét), dục (muốn).
    ?" Xua đuổi lục-tặc (six brigands) tức sáu kẻ cướp. Bao gồm ngoại lục tặc và nội lục tặc. Ngoại lục tặc là sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp. Nội lục tặc là nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỵ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (con người), ý (suy tư). Sẽ nói rất kỳ trong phần giảng về Tĩnh-công.
    ?" Dùng để nhập tĩnh, tập trung tinh thần hầu nghiên cứu, đọc sách, tụng kinh, cho mau hiểu, để thu nạp tư tưởng.
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    2.15 CHỦ TRỊ :
    Dùng để trị tất cả các bệnh thần kinh.
    ?" Đầu óc mệt mỏi làm việc trí thức nhiều, cần thở hít để giải trừ tất cả những ngoại giới làm bận tâm.
    ?" Mất ngủ (insomnies), mất trí nhớ.
    ?" Bệnh ảo tưởng (Schizophrénie).
    ?" Tinh thần thất thường, thần kinh suy nhược (neurasthénies).
    ?" Lo-âu sợ sệt (anxiété).
    ?" Mệt mỏi (asthénies psychiques).
    ?" Hạ huyết áp.
    ?" Tim đập mau (>90 lần một phút).
    ?" Hạ nhiệt độ.
    2.2. PHƯƠNG PHÁP KIÊN LỰC
    Dùng để luyện lực, hay để phát lực, như khi cần đẩy, kéo, vác nặng.
    ?" Phương pháp khởi đầu bằng minh-tâm thổ-nạp.
    ?" Rồi tiến tới thâm-trường như tầm nhả tơ, liên miên bất tuyệt, nạp từ từ thật dài, thổ từ từ thật dài.
    2.21. TỐC ĐỘ : Trì hay Trung.
    2.22. NHỊP ĐIỆU : Liên tục như tằm nhả tơ liên miên bất tuyệt.
    2.23. KHỐI LƯỢNG : Thâm.
    2.24. CÔNG DỤNG :
    Dùng để luyện lực, khuân vác nặng, làm việc nặng. Từ đó áp dụng rộng ra khi tập các thức:
    ?" Cần dùng sức để đẩy mạnh, dùng sức kéo mạnh. Khi đẩy thì thổ, khi kéo thì nạp.
    ?" Dùng rất nhiều trong các thức tập động công, luyện lực, ít dùng để luyện thần.
    ?" Dùng để phụ trợ ngoại công và tập võ.
    ?" Ứng dụng võ học, dùng để tấn công: Khi bóp, khi kéo, khi lui thì nạp, khi đẩy, khi đánh, khi tiến thì thổ.
    2.25. CHỦ TRỊ :
    ?" Trong khí công trị bệnh dùng để trị các chứng hư và chứng bị hàn.
    ?" Khi vận khí chữa bệnh cho người khác phải dùng phương pháp này. Nạp khí rồi vận khí ra tay hay chân, khi truyền thì thổ.
    ?" Phạm vi áp dụng rất rộng rãi: dùng để chạy đường trường cho khỏi mệt.
    ?" Trẻ con chậm lớn.
    ?" Người bệnh mới khỏi.
    ?" Trong thời kỳ dưỡng bệnh.
    ?" Phụ nữ sau khi sinh đẻ.
    ?" Người lạnh, sợ lạnh.
    ?" Tất cả các chứng suy nhược cơ thể (asthénies physiques).
    ?" Tim đập chậm (<60 lần một phút).
    ?" Huyết áp thấp.
    2. 3. PHƯƠNG PHÁP KIÊN THỂ
    Các vị khí công gia trước đây thường là những y-gia bởi vậy khi lên núi hái thuốc, hay bị mệt mỏi. Vì vậy mới đề xướng ra một phương pháp leo núi cho khỏi mệt, đặt tên là ?oThượng sơn thái dược?. Nghĩa là lên núi hái thuốc.
    ?" Phương pháp khởi từ minh-tâm thổ nạp.
    ?" Nạp khí bằng mũi thành nhiều nhịp ngắn buông lỏng không chú ý đến bước chân đi. Nếu nạp bằng mũi miệng, thì miệng sẽ khô, mau mệt, phản lại phương pháp.
    ?" Nhẩm đọc chữ ?othổ? khi thổ, không buông lỏng nữa. Phải nhớ là chỉ chú ý chữ ?othổ? mà không chú ý chữ ?onạp?. Khi nạp ý thức buông lỏng. Thổ bằng miệng, mũi.
    2.31. TỐC ĐỘ : Trung, hay trì.
    2.32. NHỊP ĐIỆU : Chia thành nhiều nhịp, ngắn thì nạp. Lúc thổ có thể thổ một hơi nhưng cũng có thể thổ làm nhiều nhịp.
    2.33. KHỐI LƯỢNG : Trung hay thâm.
    2.34. CÔNG DỤNG :
    Dùng để leo lên cao cho khỏi mệt.
    ?" Phạm vi áp dụng rộng ra: Đi bộ cho khỏi mệt, lội dưới sình, bơi dưới nước khỏi mệt.
    ?" Khi đi bộ, leo cao xách vật nặng thở cho khỏi mệt.
    ?" Dùng trong khi tập động công để lâu mệt.
    ?" Dùng trong võ học để điều hòa khí khi xử dụng võ.
    ?" Dùng trong khi làm việc, giữ được chân khí khỏi mệt.
    Phương pháp này vừa để luyện thần, vừa để luyện lực. Nó là tổng hợp của hai phương pháp Minh-tâm, Kiên-lực.
    2.35. CHỦ TRỊ : Rất rộng.
    ?" Mệt mỏi thể xác hoặc tinh thần (Asthénies physiques ou Psychiques).
    ?" Sau khi làm việc mệt mỏi.
    ?" Bần huyết (Anémies).
    ?" Thiếu hồng huyết cầu.
    ?" Bị vọp bẻ (Cramps).
    ?" Cơ thể bị kiến bò (Spasmophilies).
    3. PHƯƠNG PHÁP ĐẠO GIA
    Các phương pháp của đạo gia rất nhiều, song chúng tôi chỉ ghi chép vào đây ba phương pháp chính, giản dị, dễ luyên tập nhất.
    ?" Thái cực thổ nạp.
    ?" Lưỡng nghi thổ nạp.
    ?" Tứ tượng thổ nạp.
    (Nhắc lại phần học thuyết Âm-Dương: Theo học thuyết Âm-Dương của Á-châu thì vũ trụ, cũng như con người phân ra làm Âm và Dương gọi là Lưỡng-nghi. Nhưng trong Âm cũng phân ra Âm-Dương. Trong Dương cũng phân ra Âm-Dương. Vì vậy Lưỡng-nghi lại sinh ra Tứ-tượng. Rồi Tứ-tượng cũng phân ra nữa thành Bát-quái. Xin đọc lại phần Học thuyết Âm-Dương ở trên).
    Phương pháp thổ nạp của đạo gia xuất hiện vào thế kỷ thứ mười hai, nên thu thái kinh nghiệm của:
    ?" Thiền-công của Phật-gia.
    ?" Thêm yếu quyết về y học để kiểm chứng tác dụng.
    ?" Lấy căn bản biến hóa âm dương vũ trụ dịch lý học: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng.
    3.1. THÁI CỰC THỔ NẠP
    Tức là mỗi hành động thuận lý, khi nạp khí, thì bụng ngực nở ra, ý chỉ tròn như vòng Thái-cực. Khi thổ thì ép bụng ngực lại. Phương pháp như sau:
    ?" Dùng mũi nạp hoặc mũi miệng đồng nạp.
    ?" Khi thổ thì dùng miệng thổ.
    ?" Lấy cơ sở là phương pháp thông thường, và minh-tâm thổ nạp ở trên.
    ?" Khi nạp thì miệng răng hơi hé mở, lưỡi tự nhiên. Dùng ý dẫn khí theo hơi thở qua Thượng-tiêu tới Trung-tiêu ngừng lại.
    ?" Bụng từ từ lớn ra để khí nạp vào. Nghĩa là bụng vừa mở ra khí vừa nạp.
    ?" Khi thổ thì bụng từ từ ép lại cho khí ra.
    ?" Không nên cưỡng ép bụng mở ra quá ép vào quá.
    Hình dưới:
    ?" Thượng-tiêu bao gồm: Tâm (tim), Phế (phổi)
    ?" Trung tiêu bao gồm: Tỳ (lá lách), Vị (Bao-tử, dạ dày), Can (gan)
    ?" Hạ tiêu bao gồm: Thận, Bàng-quang, Đại-trường, Tiểu-trường
    3.11. TỐC ĐỘ : Trung, Trì.
    3.12. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    3.13. KHỐI LƯỢNG : Trung hoặc thiển.
    3.14. CÔNG DỤNG :
    ?" Dùng để chuyển khí từ lý ra biểu, từ âm ra dương. Nghĩa là từ trong cơ thể ra ngoài da.
    ?" Từ dưới lên trên. Nghĩa là dẫn khí từ trong nội tạng ra ngoài thân mình.
    ?" Dùng để chuyển chân khí ra ngoài đỡ đòn, chịu đòn.
    ?" Dẫn khí từ lý (trong cơ thệ) ra các đầu ngón chân tay tấn công hoặc truyền khí chữa bệnh.
    ?" Dùng để luyện khí, luyện tinh, luyện thần riêng biệt.
    3.15. CHỦ TRỊ : Rất rộng.
    ?" Những người dễ bị cảm cúm.
    ?" Khí bế tắc đưa đến nội nhiệt ngoại hàn (trong nội tạng thì nóng, mà ngoài thân thì lạnh).
    ?" Dùng để trị các chứng bệnh thuộc thực chứng.
    ?" Máu lưu thông không bình thường đưa đến nhức đầu, cáu giận, lo sợ viển vông.
    ?" Tim đập thất thường.
    ?" Bàn chân, bàn tay lạnh.
    ?" Khó khăn về sinh lý.
    Lưu ý quý vị Bác-sĩ, Đông y sĩ, các vị Võ-sư, Thiền-sư.
    Khi giảng dạy phải tìm hiểu, tránh dạy phương pháp này cho chư vị tu sĩ Phật-giáo, Thiên-chúa giáo. Vì phương pháp dễ đưa đến ********, làm cho người tập dễ bị phá giới thể mà chính mình cũng là người mang tội.
    3.2. LƯỠNG NGHI THỔ NẠP
    Trên là Thái-cực tức thổ nạp thuần nhất. Lưỡng nghi là phương pháp chi tiết hơn Thái-cực, bởi phân ra âm-dương, tức là trái ngược với nhất thể, động tác trái ngược với Thái-cực thổ nạp.
    ?" Dùng mũi nạp hoặc mũi miệng đồng nạp.
    ?" Miệng răng hé mở.
    ?" Dùng ý dẫn khí qua thượng-tiêu tới trung-tiêu vào trung-đơn-điền. Bụng từ từ ép lại trong khi khí vẫn nạp vào.
    ?" Từ từ mở bụng ra, trong khi thổ khí. Thổ bằng mũi miệng hoặc bằng miệng.
    3.21. TỐC ĐỘ : Trì, trung.
    3.22. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    3.23. KHỐI LƯỢNG : Trung hoặc thâm.
    3.24. CÔNG DỤNG :
    Dùng nhiều trong động công và võ học, ít dùng trong tĩnh công.
    ?" Xử dụng trong nguyên tắc võ học ?ovô trung sinh hữu?. Nghĩa là rõ ràng thổ khí nhưng bên trong đầy khí. Ngược lại rõ ràng nạp vào mà bụng lại ép. Phàm khi dùng nguyên tắc ?odĩ nhu khắc cương? thổ ra, nhưng bụng mở ra, địch dùng cương đánh vào thì đánh vào chỗ nhu, trong ngực không có khí, khoảng trống tam tiêu không bị căng ép, chịu đòn cương tốt.
    ?" Vô-trung sinh hữu là khi ép bụng vào dụ địch đánh đòn nhu hay cương đều không đáng sợ, bởi khối lượng khí đầy ắp, mà ngực bụng ép lại, chịu đòn chắc chắn.
    ?" Dùng trong các thức động công cho thăng bằng cơ thể lâu mệt.
    ?" Dùng chuyển dần chân khí để đánh đòn hoặc trị bệnh.
    3.25. CHỦ TRỊ : Rất rộng.
    ?" Dương hư, tim đập chậm.
    ?" Làm nóng cơ thể, dùng để chống lạnh.
    ?" Mệt thể xác, tinh thần.
    ?" Aên khó tiêu.
    ?" Phụ nữ huyết trắng.
    ?" Nam khó khăn sinh lý.
    ?" Huyết áp thấp.
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    3.3. TỨ TƯỢNG THỔ NẠP
    Có hai thứ Tứ-tượng-dương và Tứ-tượng-âm.
    3.31. TỨ TƯỢNG DƯƠNG
    Áp dụng nạp thổ và ngưng.
    ?" Dùng mũi nạp, mũi thổ hoặc mũi miệng đồng dụng.
    ?" Khi nạp dùng ý dẫn khí từ thượng-tiêu, qua trung-tiêu, xuống hạ-tiêu ở huyệt khí-hải (VC 6). Bụng từ từ nở ra nạp khí vào.
    ?" Thổ khí, bụng từ từ khép lại.
    ?" Đình thổ nạp. Ý niệm hoạt động tập trung vào chữ ?otĩnh?.
    3.31.1. TỐC ĐỘ : Khẩn, trung, trì tùy theo trình độ khí-công cao thấp. Mới thì khẩn, sau dần dần tới trung, trì không nên cưỡng quá, có hại.
    3.31.2. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    3.31.3. KHỐI LƯỢNG : Thiển, trung, thâm đều được. Lúc mới tập thì thiển, sau từ từ tiến tới trung và thâm.
    3.31.4. CÔNG DỤNG : Dùng cả trong tĩnh-công, động-công, phụ trợ ngoại công và y khoa. Công dụng như Thái-cực thổ nạp. Nhưng khoảng thời gian đình thổ nạp , để có thời giờ chuyển sang thổ nạp khác. Khi truyền khí được mạnh hơn đúng vào lúc đình.
    3.31.5. CHỦ TRỊ : Như Lưỡng-nghi. Nhưng dành cho người đã có kinh nghiệm Khí-công. Kết quả mau hơn.
    3.32. TỨ TƯỢNG ÂM
    Áp dụng nạp, đình, thổ.
    ?" Dùng mũi nạp, mũi thổ, hoặc mũi miệng đồng dụng nhưng hơn hết là mũi nạp miệng thổ ra.
    ?" Khi nạp mặc niệm chữ ?otĩnh?. Dùng ý dẫn khí qua thượng, trung, hạ tiêu đến huyệt khí-hải (VC6). Bụng theo khí mà nở dần ra.
    ?" Đình thổ nạp, mặc niệm chữ ?otĩnh?.
    ?" Từ từ cho khí thổ ra, bằng miệng, bụng từ từ ép vào.
    3.32.1. TỐC ĐỘ : Khẩn, trung, trì tùy theo trình độ. Mới thì khẩn sau quen rồi có thể tiến sang trung hay trì.
    3.32.2. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    3.32.3. KHỐI LƯỢNG : Thiển, trung, thâm đều được. Tùy theo trình độ, lúc mới tập thì thiển, sau dần dần tới trung và thâm.
    3.32.4. CÔNG DỤNG :
    ?" Dùng nhiều trong động-công, tĩnh công và cả ngoại công.
    ?" Ngoại-công dùng để tấn công vận dương kình.
    ?" Dùng để vận dương kình chịu đòn.
    ?" Vận dương khí chữa bệnh.
    3.32.5. CHỦ TRỊ :
    ?" Làm tăng dương khí.
    ?" Kích thích bộ máy tiêu hóa.
    ?" Aên khó tiêu.
    ?" Ợ chua, nấc cục.
    ?" Tiện bí hư chứng.
    ?" Chân tay lạnh.
    ?" Huyết áp thấp.
    ?" Tim đập chậm.
    ?" Mệt mỏi.
    3. PHƯƠNG PHÁP ẢO THỔ NẠP
    Phương pháp này xuất hiện vào thể kỷ thứ mười hai, mười ba. Phương pháp rất hữu hiệu, nhưng người mới tập không nên luyện, vì dễ đưa đến loạn khí. Chỉ nên luyện khi đã đả thông vòng Tiểu-chu-thiên. Ảo thổ nạp là thức thổ nạp bằng ý-thức, chứ không có trên thực tế. Tức là không dùng ngoại khí thổ nạp, mà chị dùng nội khí luân lưu trong cơ thể. Phương pháp này người mới tập khí công không nên xử dụng. Chỉ có những khí-công gia đã có thời gian luyện tập lâu mới dùng được.
    Có ba thức:
    ?" Ảo thượng thức
    ?" Ảo trung thức
    ?" Ảo hạ thức
    4.1. ẢO THƯỢNG THỨC
    Nguyên tắc như sau:
    ?" Đi từ căn bản phương pháp thông thường hoặc minh-tâm.
    ?" Dùng ý dẫn khí vào trung-đơn-điền qua thượng-tiêu.
    ?" Ngưng thổ nạp.
    ?" Dùng ý tưởng nạp khí vào trung-đơn-điền, đầy mới thôi.
    ?" Ngưng lại cũng bằng ý thức.
    ?" Thổ khí, dùng ý dẫn khí từ trung-đơn-điền ra, rồi ngưng, thổ nạp như thường.
    Như vậy một thổ một nạp, ý tưởng ở trung-đơn-điền, một khai một hợp.
    4.11. TỐC ĐỘ : Trung, khẩn.
    4.12. NHỊP ĐIỆU : Liên tục hoặc gián đoạn.
    4.13. KHỐI LƯỢNG : Trung, thâm.
    4.14. CÔNG DỤNG : Dùng nhiều trong tĩnh-công, ít dùng trong động-công.
    4.15. CHỦ TRỊ : Dùng trong chữa bệnh hư nhược chứng tại thượng, trung tiêu. Các bệnh tâm, phế.
    4.2. ẢO TRUNG THỨC
    ?" Dùng kiên-lực thổ nạp bằng ý thức.
    ?" Khi nạp, thổ dẫn khí bằng ý tưởng tới huyệt dũng-tuyền (R1)
    ?" Khởi đầu bằng phương pháp thông-thường hoặc Minh-tâm hoặc Kiên-thể, Kiên-lực.
    ?" Ngưng thổ nạp.
    ?" Nạp bằng khí, dùng ý dẫn khí tới trung-đơn-điền.
    ?" Ngưng thổ nạp, sau đó dùng ý thổ khí.
    ?" Khi thổ khí, dùng ý dẫn khí từ huyệt Dũng-tuyền (R1) tới âm-bộ (bộ phận sinh dục), theo Đốc-mạch tới Mệnh-môn (VG4) rồi vào thận, từ thận ngược theo hạ, trung, tiêu ngưng lại ở trung-đơn-điền.
    4.21. TỐC ĐỘ : Khẩn.
    4.22. NHỊP ĐIỆU :. Liên tục.
    4.23. KHỐI LƯỢNG : Thiển, trung.
    4.24. CÔNG DỤNG :
    ?" Về y học dùng để trị các bệnh về trung hạ tiêu. Các bệnh về bộ phận sinh dục, và các bệnh về chân.
    ?" Về ngoại công ít dùng.
    ?" Về tĩnh công dùng nhiều.
    ?" Về luyện khí và tinh nhiều hơn luyện thần.
    4.25. CHỦ TRỊ :
    ?" Trị tất cả các bệnh tâm, phế hư.
    ?" Tỳ vị hư nhược : Aên không tiêu, khó tiêu, ợ hơi, nấc cục.
    ?" Chữa bệnh tiền liệt tuyến hư nhược (Prostatite) : Tiệu vặt, tiểu đêm.
    ?" Khó khăn sinh lý. Nữ lãnh cảm.
    ?" Các vị Tu-sĩ Phật-giáo, Thiên-chúa giáo không nên dùng, vì loại này có tính cách kich dục mạnh.
    4.3. ẢO HẠ THỨC
    Lấy thượng thức làm cơ sở.
    ?" Khởi đầu bằng phương pháp Thông-thường hoặc Minh-tâm, Kiên-lực, Kiên-thể.
    ?" Nạp bằng ý tưởng, dùng ý dẫn khí vào trung-đơn-điền.
    ?" Ngưng một lát.
    ?" Sau đó thổ khí bằng ý tưởng, dùng ý dẫn khí từ trung-đơn-điền, tỏa ra toàn thân ở các lỗ chân lông.
    ?" Nạp khí bằng ý tưởng từ các lỗ chân lông về trung-đơn-điền.
    ?" Như vậy các lỗ chân lông toàn thân một lần thổ một lần nạp.
    4.31. TỐC ĐỘ : Trung, khẩn.
    4.32. NHỊP ĐIỆU : Liên tục.
    4.33. KHỐI LƯỢNG : Thiển, trung, thâm.
    4.34. CÔNG DỤNG : Điều hòa khí nội ngoại. Dùng trị bệnh nhiều hơn. Ít dùng trong động công và võ học mà dùng trong tĩnh công.
    4.35. CHỦ TRỊ :
    ?" Dễ bị cảm.
    ?" Người bần thần khó chịu.
    ?" Bắp thịt co dật.
    ?" Khí huyết lưu thông không đều.
    5. KẾT LUẬN
    Phương pháp thổ nạp còn rất nhiều, nhưng ở đây chúng tôi chỉ đưa ra những phương pháp thông dụng dùng trong khoa khí công mà thôi. Như những phương pháp phụ trợ ngoại công của võ học nhưng ngày nay ít dùng đến, bởi nó chỉ dùng trong khi tấn công đối thủ. Như nạp thì rất chậm, hoặc thông thường, nhưng khi thổ thì bật một tiếng thật mạnh ra như sét nổ, để tấn công đối thủ. Lối nầy thì đấu võ mới xử dụng, và chỉ thổ một tức để sát địch sau đó lại trở lại thổ nạp như thường bằng các phương pháp khác. Thổ nạp trong khoa khí công trị bệnh thì thường dùng nhiều nhất phương pháp Thông-thường và Minh-tâm, Kiên-lực, Kiên-thể. Còn các phương pháp khác thì dùng cho võ học, vận khí tấn công. Khi luyện tập thổ nạp, cần nhất luyện xong từng loại, rồi mới luyện sang loại khác, đừng luyện liên tiếp nhiều loại một lúc. Mau thì kết quả không đạt được.
    Chú giải
    (1). Phương pháp này do Vô-Ngại thượng nhân sáng tạo. Ngài là một hòa thượng đắc pháp Bồ-Tát thuộc giòng thiền Tỳ-ni Đa-lưu-chi . Không rõ ngài sinh và viên tịch năm nào. Chỉ biết ngài sống đồng thời với Bồ-tát La Quý-An, mà ngài La Quý-An viên tịch năm 936. Ngài là một đại thiền sư, một đại khí công gia. Tương truyền các phương pháp thông thường thổ nạp là do người dùng để dạy đệ tử, cùng luyện thiền. Về tiểu sử, xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn quyển 2, hồi thứ 13, của Trần-Đại-Sỹ,.
    (2). Phương pháp này do Vạn-Hạnh thiền sư (929-1025), một vị bồ tát có tài tiên tri. Ngài thuộc giòng thiền Tỳ-ni Đa-lưu-chi của Việt-Nam. Ngài là thầy của vua Lê Đại-Hành và Lý Thái-tổ, chính ngài đã dựng lên triều Tiền Lê và triều Lý. Về hành trạng của ngài, xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử của Trần-Đại-Sỹ.
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này