1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    PHẦN THỨ TƯ
    Ba phần đầu, đã trình bày những lý thuyết tổng quát về khoa Thiền-công, Khí-công. Sang phần thứ 4 này, bắt đầu trình bày các phương pháp luyện tập thực dụng.
    Phần thực dụng có hai loại, đó là Tĩnh-công và Động-công. Tĩnh-công thì hoàn toàn Tĩnh, nhưng Động-công thì bao gồm cả Tĩnh lẫn Động-công.

    CHƯƠNG THỨ NHẤT
    TĨNH CÔNG
    1. ĐỊNH NGHĨA TĨNH CÔNG
    Gọi là tĩnh công, khi luyện Thiền-công, Khí-công mà ở trong trạng thái như sau:
    ?" Tứ chi bất động.
    ?" Thân thể bất động.
    ?" Ngoại tĩnh, nội động.
    Khi ngồi, đứng, nằm, toàn phần cơ thể không hoạt động. Trông bên ngoài như một pho tượng: chân, tay, đầu, mặt, mũi miệng hoàn toàn tĩnh. Nhưng trong nội thể, chân khí, khí tức chu lưu đi các kinh mạch. Thần lực luân chuyển không ngừng. Bởi vậy trong khoa khí công mới nói là "Tĩnh trung hữu động".
    Một số thư tịch ngoại quốc thường lầm lẫn Tĩnh-công với Tĩnh-tọa. Tĩnh-công là một khoa luyện khí công ở tư thức thân thể bất động. Còn Tĩnh-tọa là một tư thức ngồi luyện công mà thôi. Tĩnh-công gồm có hàng nghìn, hàng vạn thức. Sau hai hơn ba mươi năm giảng dạy, chúng tôi tuyển lấy mấy tư thức hữu hiệu nhất cho sức khoẻ, cho việc luyện thần mà thôi.
    ?" Hồi dương công.
    ?" Hồi sinh công.
    ?" Thiền môn công.
    ?" Tĩnh tâm công v.v...
    2. ĐI VÀO NHẬP TĨNH
    Độc giả sẽ hỏi: làm thế nào để nhập tĩnh? Đây là một vấn đề khó khăn. Kinh nghiệm giảng dạy khí công trên ba chục năm, cho tôi những nhận xét như sau:
    ?" Trẻ con dễ nhập tĩnh hơn người lớn.
    ?" Người hiền lành, thâm trầm dễ nhập tĩnh hơn người khôn ngoan lanh lợi.
    ?" Người ít nói dễ nhập tĩnh hơn người nói nhiều.
    ?" Thi sĩ, họa sĩ dễ nhập tĩnh hơn ký giả, văn sĩ.
    ?" Người Á-châu dễ nhập tĩnh hơn người Âu-châu, Mỹ-châu, Úc-châu.
    ?" Đối với nghười Á-châu, thì nữ nhập tĩnh dễ hơn nam. Ngược lại với người Âu Mỹ Úc thì nam nhập tĩnh dễ hơn nữ.
    ?" Giới y dễ nhập tĩnh hơn giới luật.
    ?" Người theo đạo Phật dễ nhập tĩnh hơn người theo các tôn giáo khác.
    Trước khi Phật-giáo du nhập vào Trung-quốc, Việt-Nam, thì vấn đề nhập tĩnh là một điều khó khăn. Trong tất cả các khoa khí công, thì Thiền sở trường nhất về phương pháp nhập tĩnh. Làm thế nào để ngồi im không động, tư tưởng tập trung, tai không nghe, mũi không ngửi, mắt không thấy trong một hai giờ?
    ***** của khoa nhập tĩnh chính là Phật Thích-Ca Mâu-ni. Phật-giáo sử thuật lại rằng:
    "Trong thời gian ngồi dưới gốc cây bồ đề để suy ngẫm, để tìm ra lẽ giải thoát, ngài đã bị không biết bao nhiêu ma vương, quỷ dữ, mà ngài mắc nghiệp với chúng từ muôn vàn kiếp trước hiện lên quấy phá sự tĩnh tu. Ngài đã dùng thiền tức nhập tĩnh để thắng chúng?.
    Ma vương quỷ dữ ở đây phải hiểu là những dục vọng, những vọng tâm trong chính cơ thể của ngài.
    Chúng tôi ghi thêm vài tài liệu, để độc giả muốn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
    Một thiếu niên muốn thọ giới sa-di với vị hòa thượng. Vị hòa thượng bảo chú chưa bỏ hết dục vọng thì tu sao được? Chú cương quyết rằng mình đã bỏ được dục vọng lâu rồi. Hòa thượng muốn thử chú, cho chú theo sư phụ trên đường đi khất thực. Tới thôn trang kia, hòa thượng bảo đệ tử:
    ?" Con vào xóm xin cho thầy bát nước uống.
    Chú tiểu vâng dạ lên đường. Chú gõ cổng tòa nhà lớn, chú nghĩ rằng trang chủ ắt hẳn là người giầu có. Một thiếu nữ tuyệt đẹp mở cổng mỉm cười với chú. Nàng hỏi:
    ?" Trời ơi sao lại có một thiếu niên tuấn tú thế kia? Dường như chàng là một tiểu hòa thượng phải không?
    ?" Không... không, tôi không phải là người đi tu. Tôi là một học sinh mà thôi.
    Thế rồi bố mẹ cô gái gả con cho thiếu niên. Chàng sống cực kỳ hạnh phúc với người vợ đẹp trong phú quý, kẻ hầu hàng trăm, tỳ nữ hàng mấy chục. Mấy năm sau, hai người có với nhau ba mặt con. Rồi một ngày nước sông Hằng dâng cao, bão lụt tràn ngập. Dinh thự của chàng bị gió cuốn đi mất. Chàng chỉ còn kịp để con với vợ lên thuyền đi lánh nạn lụt. Trên đường đi, gió thổi mạnh, thuyền lật, vợ và con bị nước trôi mất. Chàng vội dơ tay bám vào mạn thuyền hy vọng thoát nạn. Nhưng chàng bám hụt. Giữa lúc chơi vơi trong giòng nước, chàng chợt nhớ tới sư phụ, bật lên tiếng kêu:
    ?" Thầy ơi, cứu con với.
    Có bàn tay vỗ lên đầu, với giọng đầm ấm:
    ?" Thầy vẫn ở cạnh con đây.
    Chàng mở mắt ra, thì là một giấc mộng.
    Từ đấy chàng bỏ vọng tâm, theo thầy tu đạo.
    Chuyện hậu Tây-du ký chép việc Tề-Thiên tiểu thánh đi qua Âm-Dương sơn.
    Tề-Thiên tiểu thánh phù sư phụ qua Âm-Dương sơn. Núi Dương thì lửa phun lên, núi Âm thì tuyết đóng băng không thể đi được. Tiểu-Thánh lấy Như-ý bổng khoan một lỗ xuyên qua hai núi Âm, Dương. Lập tức âm dương điều hòa, khí hậu dễ chịu.
    Bỗng một cậu bé từ trong núi nhảy ra gọi Tiểu-Thánh mắng là phá thế âm dương của cậu. Hai người đánh nhau. Cậu bé có 72 cái vòng. Mỗi cái tung lên, lại hóa ra một cảnh giới. Khi tung vòng hỏa, thì hóa ra lửa cháy khói mịt mờ. Khi tung vòng sắc, thì hóa ra biết bao gái đẹp. Lúc tung vòng thực ra thì hóa thành những món ăn trân quý. Nhưng Tề-Thiên tiểu thánh không sợ, không thích những thứ đó, nên dùng Như-ý bổng phá tan. Đến ngày thứ 71, Tiểu-Thánh phá vỡ 71 cái vòng, cậu bé có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Ngày thứ 72, Tiểu-Thánh đang dương dương tự đắc, thì cậu bé tung cái vòng cuối cùng lên. Cái vòng bó lấy người Tiểu-Thánh. Tiểu-Thánh biến cho người lớn bằng trời đất, cái vòng cũng lớn theo. Tiểu-Thánh biến thành nhỏ như hạt bụi, cái vòng cũng nhỏ theo. Tiểu-Thánh đau đớn, nhảy lên trời, tìm đến cung Đâu-xuất hỏi Thái-Thượng lão quân về cậu bé và nhờ gỡ cho cái vòng quái ác.
    Thái-Thượng lão quân nói:
    ?" Con khỉ kia! Mi sinh sau, đẻ muộn nên không biết đó thôi. Vũ trụ này là một khối biến động không ngừng. Nếu vũ trụ không biến đổi thì là vũ trụ chết. Cho nên sau khi Thượng-Đế an bài vũ trụ rồi, mới sai Trẻ-Tạo quấy động cho vũ trụ biến động. Cậu bé đánh nhau với mày đó là Trẻ-Tạo tức ông trời con đó.
    Tiểu-Thánh hiểu ra than:
    ?" Ôi, thì ra tôi đánh nhau với ông trời con, hèn gì tôi thua là phải.
    Đến đó cái vòng bó người Tiểu-Thánh biến mất. Tiểu-Thánh kinh ngạc:
    ?" Thưa Lão-quân, cái vòng đâu mất rồi?
    Lão-quân mắng:
    ?" Làm gì có cái vòng nào đâu? Đó chẳng qua là mi tự buộc mi mà thôi. Này ta giảng cho mi biết, bẩy mươi hai cái vòng đó đều là vô hình, là không không là như như cả. Cái vòng hóa ra sắc đẹp, vì mi không hiếu sắc nên vòng bị phá vỡ. Bẩy mươi mốt cái sắc tướng đều không làm gì được mi. Còn cái thứ bẩy mươi hai tượng trưng cho tính hiếu thắng. Mi đang dương dương tự đắc, thì chính các hiếu thắng trong người mi đang vô hình, vô sắc, bỗng biến thành hình sắc trói buộc mi. Rồi khi nghe ta giảng, mi tự nhận thua ông trời con, như vậy là cái tính hiếu thắng biến mất, nên cái vòng cũng không còn.
    3. PHƯƠNG PHÁP NHẬP TĨNH
    Có rất nhiều phương pháp nhập tĩnh. Trong những phương pháp nhập tĩnh, thì phương pháp của Thiền, tinh diệu dễ dàng nhất. Tôi xin trình bầy phương pháp nhập tĩnh của Thiền dưới đây. Phương pháp này bản sư Nam-Hải Diệu-Quang đã truyền cho tôi vào thời thơ ấu. Suốt 45 năm qua, tôi đã dùng để dạy Thiền, dạy Khí-công cho tất cả những vị đã theo học với tôi.
    Phương pháp nhập tĩnh của Thiền, đặt căn bản trên kinh Kim-cương, Lăng-già và Bát-nhã. Nhiều người thích chẻ sợi tóc làm tư, bảo rằng khó, không thể nào thấu đáo được tinh nghĩa. Thấu đáo để nhập vào cửa Bồ-Đề là điều mà các thiền-sư mong đạt tới để đắc qủa A-la-hán (1) hay Bồ-tát (2). Còn thiền biến thành khí-công chỉ với mục đích trị bệnh, bảo kiện, luyện lực, luyện cho tâm an, thần tĩnh thì dễ dàng vô cùng.
    Nếu đem kinh Kim-cương, Lăng-già (3), Bát-nhã (4) ra đọc, hiếm người hiểu được. Nhưng nếu nắm được yếu chỉ, tức cái chìa khóa, thì sau đó đọc các kinh trên sẽ hiểu ngay. Ở đây tôi xin trình bầy cái chìa khóa đó. Trước hết nói sơ về yếu chỉ kinh Bát-nhã áp dụng cho khí công.
    3.1. Lục căn, lục trần, lục tặc
    Trong phép luyện Thiền thì sao bỏ lục căn mới nhập tĩnh được. Muốn bỏ lục căn thì phải bỏ lục trần. Vậy lục trần là gì? Lục trần tiếng sanscrit là visaya, dịch sang tiếng Pháp là six objets des sens. Nghĩa đen của lục trần là sáu cảnh bụi bặm, đôi khi còn gọi là lục tặc (six brigands). Lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
    Sau khi bỏ được lục tặc thì tiến tới bỏ lục căn.
    Lục căn tiếng Phạn (sanscrit) là ayatana, tạm dịch sang tiếng Pháp là six organes, six sens. Lục là sáu, căn là gốc rễ có sức nảy sinh.
    ?" Nhãn căn (yeux) là căn của sự nhìn thấy.
    ?" Nhĩ căn (oreilles) là căn của sự nghe biết.
    ?" Tỵ căn (nez) là căn của sự ngửi, cảm biết.
    ?" Thiệt căn (langue) là căn của sự biệt mùi vị.
    ?" Thân căn (corps) là căn của toàn cơ thể.
    ?" Ý căn (conscienne) là căn của sự suy tư.
    Trong thuật ngữ gọi lục tặc là lục ngoại nhập. Còn lục căn là lục nội nhập. Trong lục tặc, chỉ cần bỏ được một tặc là lập tức bọ được cả năm tặc kia. Kinh Thủ-lăng-nghiêm (Suramgama) nói:
    Nhất căn ký phản nguyên,
    Lục căn thành giải thoát.
    Nghĩa là khi một bỏ được một căn, thì cả sáu căn đều biến mất, tức giải thoát.
    3.2. Xa lìa lục tặc
    Trong phép luyện Thiền, muốn lìa tặc nào trong sáu tặc trước cũng được cả. Kinh Bát-nhã nói: vô nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Nghĩa là làm biến đi, không còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và không suy tư. Nhưng làm sao mà biến đi được?
    3.2.1. Vô nhãn
    Muốn vô nhãn, thì phải vô sắc. Làm sao vô nhãn? Nhắm mắt lại ư? Nhưng nhắm mắt thì những ảo giác vẫn sinh ra. Tỷ như đang ngồi trong phòng, những đồ vật tại chỗ như tranh ảnh, bàn ghế, dường nệm đầy xung quanh. Nhắm mắt để không thấy gì, nhưng hình ảnh những vật đó vẫn còn trong tư tưởng. Cố gắng quét đi các hình ảnh đó, thì muôn vạn hình ảnh trong cuộc sống đã trải qua lại hiện lên. Nào hình ảnh người thân, nào hình ảnh kẻ thù, nào hình ảnh nơi làm việc, nào hình ảnh vui, buồn
    3.2.2. Vô ý
    Vậy muốn vô nhãn thì phải vô ý. Ý đây là suy tư, là tưởng tượng. Nhưng làm sao để tập trung tư tưởng, rồi buông lỏng, hầu quét hết ý nghĩ trong tâm. Khó! Thực khó, nhất là đối với người thông minh, linh lợi, giầu tưởng tượng. Về điểm này tôi đã có kinh nghiệm:
    ?" Trẻ con ?ovô ý? dễ hơn người lớn
    ?" Người chân thực dễ ?ovô ý? hơn người tháo vát.
    ?" Người chậm chạp dễ ?ovô ý? hơn người nhanh nhẹn.
    Nhưng nếu tập trung tư tưởng, để ?ovô ý? thì tai vẫn nghe âm thanh, mắt vẫn thấy hình vật, mũi vẫn thấy hương, lưỡi vẫn thấy vị, thân vẫn cảm thấy nóng, lạnh... bằng ấy thứ khiến cho tư tưởng không thể tập trung.
    3.2.3. Vô nhĩ
    Nhĩ là tai. Vô nhĩ không khó như vô nhãn, vô ý, nhưng cũng không dễ dàng gì. Có nhiều người cho rằng tìm một phòng kín, không tiếng động là đủ. Lý luận thì thực là dễ, nhưng khi nhập tĩnh, thì những ảo thanh trong trí nhớ lập tức hiện ra với muôn nghìn âm giai, trăm vạn độ lớn nhỏ khác nhau, làm sao có thể bỏ ra?
    3.2.4. Vô tỵ
    Vô tỵ tương đối dễ hơn. Miễn sao khi luyện khí công nên tìm nơi không có hương thơm, hoặc mùi xú uế, thì có theå tập trung tinh thần, để mũi không cảm thấy gì.
    3.2.5. Vô thiệt
    Vô thiệt cũng không có, chỉ cần trước khi luyện đánh răng cho sạch, uống nước cho vừa đủ, thì tập trung tinh thần lại, sẽ không biết miệng chua, cay, ngọt, đắng, mặn nữa. Cần nhất là tịnh khẩu, không nói nữa.
    3.2.6. Vô thân
    Thân là toàn cơ thể, gần như toàn vẹn cả nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, ý, còn thêm cảm giác nóng, lạnh, đau, buốt, rát nữa, cho nên lúc mới luyện, không nên bỏ thân trước. Nhưng ngược lại, khi đã quen rồi, thì lúc nhập tĩnh thì vào thẳng vô thân cho mau.
    3.3. Yếu chỉ nhập tĩnh
    Yếu chỉ nhập tĩnh, đôi khi còn gọi là giải trừ tạp niệm. Tùy theo tình trạng trí tuệ, tình trạng cơ thể, tình trạng bệnh lý, người luyện có thể nhập tĩnh bằng cái ý niệm gợi ý sau đây:
    3.3.1. Chuẩn bị
    Để chuẩn bị cho việc nhập tĩnh, cần phải:
    ?" Chọn nơi vắng vẻ, thoáng khí, không có tiếng động.
    ?" Ăn vừa đủ no, đừng luyện trong lúc ăn no quá, hoặc đói quá, có thể gây trở ngại cho việc tập trung tinh thần.
    ?" Mặc quần áo rộng, để khí luân lưu dễ dàng.
    ?" Nhiệt độ nơi tập không nên nóng quá, không nên lạnh quá.
    ?" Sau đó nhập tĩnh.
    3.3.2. Giải trừ lục tặc
    TĨNH TRÍ. (Vô ý). Vô ý rất khó, phần Ý-thủ chương sau sẽ giảng kỹ về pháp này. Tuy nhiên để chuẩn bị phải qua các giai đoạn:
    ?" Khai thủy: chọn tư thức đứng? Nằm? Ngồi?
    ?" Nhập tĩnh: ngừng hoạt động của chân, tay, đầu, thân mình.
    ?" Điều tức: điều hòa hơi thở để đi tới thở bình thường.
    ?" Ninh thần: ngừng suy nghĩ, buông lỏng tâm tư.
    ?" Giáng khí: thổ khí từ từ, rồi hấp khí, khí trầm trung đơn điền.
    ?" Giải trừ tạp niệm: bỏ ra ngoài lục tặc.
    THÍNH NHI BẤT VĂN (Vô nhĩ)
    Nghe mà không biết.
    Khi nhập tĩnh luyện công, tập trung tư tưởng vào nơi ý tưởng, nhẹ nhàng ru hồn vào cõi tĩnh, lánh xa các tiếng động. Tai nghe tiếng động, nhưng không phân biệt đó là tiếng nhạc, tiếng xe hay tiếng ồn ào, không biệt đó là tiếng thanh hay trầm, lớn hay nhỏ.
    THỊ NHI BẤT GIÁC (Vô nhãn)
    Trông mà không thấy.
    Nhập tĩnh luyện công, mắt nhìn bình thường về phía trước. Từ từ nhắm lại đến khi còn một vệt nhỏ, rồi nhắm hẳn, tinh thần nhập tĩnh, thì xóa bỏ tất cả hình ảnh trên võng mô còn lưu lại. Phải tập trung tư tưởng vào nơi ý thủ, để không thấy sự diễn biến sự vật dù là trước mặt hay là tưởng nhớ. Như vậy tư tưởng đi vào chỗ tĩnh được hai giác quan.
    SÚC NHI BẤT CẢM (Vô thân)
    Cảm giác vẫn còn mà không thấy nóng hay lạnh.
    Luyện tĩnh công phải chọn nơi nhiệt khí vừa đủ, đừng nóng quá, đừng lạnh quá. Nhập tĩnh, ý thủ rồi lãng xa dần cảm giác xung quanh, nóng hay lạnh.
    KHỨU NHI BẤT HƯƠNG (Vô tỵ)
    Ngửi mà không thấy mùi.
    Lúc nhập tĩnh đôi khi xung quanh có mùi hương. Ý thủ đưa tư tưởng xa mùi hương . Tư tưởng tập trung, mũi hít thở, mà không còn phân biệt mùi thơm, hắc, khó chịu là gì nữa.
    VỊ NHI BẤT THỨC (Vô thiệt)
    Nếm mà không biết vị.
    Khi nhập tĩnh, ý thủ, tư tưởng tập trung dần dần không biết tình trạng trong miệng ra sao. Nhất là khi tập tĩnh công chữa bệnh, xóa bỏ mọi cảm giác khó chịu miệng đắng đi.
    4. KẾT LUẬN
    Nhập tĩnh tuy khó, nhưng nếu từ từ luyện, mỗi ngày một giờ thì chậm nhất là trong năm ngày sẽ thành công. Khi nhập tĩnh hoàn thành, không cần luyện gì thêm, cũng đưa đến kết quả:
    ?" Trị bệnh tâm thần, khiến tâm thần thư thái (Détendu).
    ?" Trị cáu giận (Nervositées).
    ?" Trị thần tổn (asthénies pschysiques).
    ?" Hạ huyết áp cao.(Hypertension artérielle).
    ?" Trị chứng mất ngủ. (Insomnies).
    Tuy nhiên, muốn hoàn toàn nhập tĩnh phải biết ý thủ. Chương sau sẽ giải về ý thủ.
    Chú giải
    (1) A-la-hán
    Tức người đắc quả thuộc loại thứ tư. La-Hán có ba nghĩa: Sát-tặc, ứng cúng , bất sinh. Tiếng Phạn (sanscrit) là Arhat, tiếng Pali là Arahat.
    - A-la là giặc. Hán là giết. Tức tất cả giặc phiền não đều bị giết sạch.
    - Bậc A-la-hán dứt sạch các lỗi lầm.
    - A là không. La-hán là sinh. Tức không còn sinh ra ở cõi đời nữa.
    Chư Bồ-tát nếu giáng sinh ở cõi thế, phải ngồi thiền định, mới đắc quả A-la-hán.
    (2) Bồ-tát tiếng Phạn (sanscrit) là Bodhisattva, tiếng Pali là Bodhisatta. Người Nhật phiên âm là Basatsu, dịch theo Pháp-văn là Héros d''Esprit d''Éveil. Theo kinh Phật thì Bồ-tát là những vị đắc quả, nhưng các ngài còn ở lại đời để độ chúng sinh. Từ xưa đến nay, có vô số Bồ-tát. Hiện tại trong đời có biết bao Bồ-tát, mà chúng sinh không biết.
    (3) Để giảng giải yếu chỉ kinh Kim-cương, Lăng-già cho mọi người hiểu, tôi đã mượn tiểu thuyết để trình bầy. Độc giả có thể tìm hiểu rộng hơn trong bộ Động-đình hồ ngoại sử, Nam-á Paris xuất bản, và Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anh-hùng Bắc-cương, Anh-linh thần võ tộc Việt và Nam-quốc sơn hà.
  2. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    CHƯƠNG THỨ NHÌ
    BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
    Dưới đây chúng tôi xin dịch nguyên bản bài kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh, và ?omạn phép? lạm bàn. Nếu có gì sai trái, là do ngộ tính của chúng tôi còn u mê, dốt nát, chứ không phải bản sư của chúng tôi dạy như vậy. Tôi xin tường thuật lại kỷ niệm hồi thơ ấu, khi được giảng bài kinh này.
    Bấy giờ tôi vừa đầy sáu tuổi (bẩy tuổi ta), học chữ Nho đã xong bộ ?oẤu học ngũ ngôn thi?; vì học sau, mà lại vượt lên trước các anh lớn hơn hàng chục tuổi, nên hơi có kiêu khí. Ông tôi biết thế, cho tôi quy y tam bảo. Sau khi quy y rồi, bản sư hỏi tôi:
    ?" Con có biết tại sao, ngoại tổ là người sùng Nho, lại xin cho con được quy y không?
    Tôi đáp không do dự:
    ?" Vì ông muốn con được đức Phật phù hộ cho khỏi bị ma, quỷ hại.
    ?" Con có thấy ma quỷ bao giờ chưa?
    ?" Bạch, chưa ạ.
    ?" Con thấy rồi, thấy nhiều rồi mà con không biết đấy thôi.
    Nói rồi người chỉ vào tôi:
    ?" Con xem người đi câu, muốn họ câu được cá, như thế là ác quỷ, sát quỷ nhập vào con. Con mới học được mấy chữ Nho, hơn các anh, đã có kiêu khí là quỷ trong tâm sinh ra...
    Cứ thế người cử ra hàng trăm tỷ dụ. Tôi kinh hoàng hỏi:
    ?" Như vậy, con quy y để nhờ sức Phật giúp con đuổi quỷ phải không?
    ?" Không, Phật không giúp con đâu.
    ?" Vậy sư phụ giúp con ư?
    ?" Cũng không nốt.
    ?" Vậy thì???
    ?" Ma, quỷ trong tâm con nảy sinh, thì chỉ mình con mới xua đuổi chúng được. Bà dạy con bài kinh Bát-nhã, rồi chính con sẽ dùng kinh này đuổi quỷ. Phương pháp của Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh là sao cho ma, quỷ không hiện, chứ chẳng phải đuổi ma. Ma, quỷ trong tâm con đấy !
    ?" Dạ thưa sư phụ, kinh này con thuộc rồi.
    ?" Con đọc bà nghe nào?
    Tôi ngồi ngay ngắn lại đọc thuộc làu như con vẹt. Sư phụ hỏi:
    ?" Tại sao sắc lại là không? Không lại là sắc?
    Tôi ngây người ra. Nhưng tôi được học lễ của Nho gia đã một năm, hơi biết tiến, lùi, vội cung tay:
    ?" Con ngu tối, xin sư phụ thương xót dạy cho.
    Thế rồi tôi được giảng bài kinh này.
    1.ĐI TIM NGUỒN GỐC
    1.1. NGUYÊN VĂN
    Bát-nhã tâm-kinh là bản văn ngắn nhất của Bát-nhã Ba-la-mật, bản này ngài Huyền-Trang dịch năm 649, gồm 262 chữ. Nguyên văn như sau:
    Quán-Tự-Tại bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời,
    chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ-ách.
    Xá-lợi-tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc;
    sắc tức thị không, không tức thị sắc.
    Thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
    Xá-lợi-tử! Thị chư pháp không tướng,
    bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
    Thị cố không trung vô sắc; vô thụ, tưởng, hành, thức;
    vô nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý;
    vô sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp.
    Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới,
    vô vô minh diệt vô vô minh tận.
    Vô khổ, tập, diệt đạo.
    Vô trí diệt vô đắc, dĩ vô sở đắc cố,
    Bồ-đề tát-đóa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố,
    tâm vô quải ngại,
    vô quải ngại cố,
    vô hữu khủng bố,
    viễn ly điên đảo mộng tưởng,
    cứu cánh Niết-bàn, Tam-thế chư Phật,
    y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố,
    đắc a-lốc-đa-na tam-diểu tam Bồ-đề,
    cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa,
    thị đại thần chú, thị đại-minh chú,
    thị vô thượng chú, thị vô-đẳng đẳng chú,
    năng trừ nhất-thiết khổ, chân thực bất hư.
    Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú,
    tức thuyết chú viết:
    Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ-đề tát bà ha.
    Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
    1.2.Tạm dịch
    Ngài bồ-tát Quán-tự-tại (Avalokitévara) (1) thực hành Bát-nhã Ba-la-mật (2) sâu sa, soi kính thấy rằng có ngũ-uẩn (3), nhưng năm uẩn đó đều không có tự tính.
    Này Xá-lợi-phất (Sàriputra) (4) sắc ở đây là không, không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức đều thế cả.
    Này Xá-lợi-phất, hết thẩy các pháp ở đây đều biểu thị là không: chúng không sinh, không diệt, không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vậy này Xá-lợi-phất, trong không không có sắc; không thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giới, cũng không có ý thức giới. Không có minh, không có vô minh, không có minh diệt, không có vô minh diệt, bởi vậy không có tuổi già và cái chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng, bởi không có đắc.
    Trong tâm của bồ-tát an trụ trên Bát-nhã Ba-la-mật không có những chướng ngại; bởi không có những chướng ngại đó trong tâm, nên không sợ hãi, vượt ra tà kiến điên đảo, đạt tới Niết-bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.
    Vì vậy, nên biết rằng Bát-nhã ba-la mật là đại thần chú (mantram), là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, trừ diệt hết mọi đau khổ; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật: Này bồ-tát, tự độ lấy mình, độ cho người, độ đến bờ bên kia, độ khắp chúng sinh đến bờ bên kia, để giác ngộ tận gốc.
    1.3. Chú giải
    (1) Quán-tự-tại (Avalokitésvara) tức là ngài Quán-thế-âm bồ tát. Bồ-tát thường được người Hoa, Việt tôn thờ theo hình bà. Hình này vẽ theo truyền khẩu nói rằng ngài thị hiện ở đảo Phổ-đà (ngoài khơi Thượng-hải). Tôi đã hành hương đảo Phổ-đà nhiều lần. Trên đảo có rất nhiều miếu, am, đền thờ Phật bà cùng chư linh thần khác. Nhưng người Tây-tạng lại thờ theo hình ông, chính ngài là đức Đạt-lai lạt-ma chuyển thế liên tiếp.
    (2) Bát-nhã ba-la-mật đa (Prajnâparamita). Người Pháp dịch là la sagesse, vertu cardinale, gồm có hai chữ Bát-nhã (Prajnâ) và Ba-la-mật-đa (Paramita). Bát-nhã là trí-huệ, hay là sức học cao xa của nhà tu Phật. Ba-la-mật-đa là vượt qua mé bên kia (Niết-bàn) và cùng đưa người tới. Bát-nhã ba-la-mật-đa dịch ra Hán-Việt là trí-huệ đáo bỉ ngạn, huệ độ dữ tha nhân đáo bỉ ngạn. Vì ý nghĩa hàm súc như vậy, nên các dịch giả xưa để nguyên Phạn-tự.
    (3) Ngũ-uẩn là năm uẩn, năm thứ hòa hợp cấu tạo ra con người, chúng che khuất chân lý khiến cho con người đi vào luân hồi, khổ não. Ngũ uẩn là:
    Sắc (Rũpa, forme): là những vật hữu hình.
    Thọ (Védana, sensation): Đối cảnh sinh tình, thấy buồn, khổ v.v.
    Tưởng (Sanjnẫ, perception): Đối cảnh phân biệt ra mầu sắc, nhỏ, to, đực, cái v.v.
    Hành (Samskâràs, impression): Đối cảnh vật sinh lòng ham muốn, hoặc giận, hờn, yêu, ghét.
    Thức (Vijnâna, concience): Đối cảnh mà hiểu biết, phân biệt sự vật.
    Ngũ-uẩn hiệp lại tạo thành con người, thú vật. Đôi khi ngũ-uẩn còn gọi là bản ngã.
    (4) Xá-lợi-phất (Cariputra). Người Hoa dịch là Thu tử (fils de Carica), con bà Thu. Tên một vị đại đệ tử của Phật Thích-Ca. Mẹ ngài có cặp mắt giống như chim thu, nên được đặt tên là Thu và ngài có tên là con bà Thu. Ngài ngang tuổi với đức Thích-Ca, viên tịch trước đức Phật.
    2. NGUỒN GỐC TÂM KINH
    Bát-nhã Ba-la-mật-đa là một trong những kinh điển đại thừa tối cổ của Phật-giáo gồm 125.000 bài tụng. Có nhiều bản dịch, nhưng tôi chỉ được đọc bản dịch của ngài Huyền-Trang mang tên ?oĐại bát nhã? gồm 600 quyển. Bài Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh là bản yếu chỉ, thu tóm ý nghĩa của toàn bộ kinh Bát-nhã.
    Nếu ta theo dõi kỹ, thì trong bài tâm kinh không có gì, ngoài một tràng phủ định, cái được mệnh danh là tính không lại cũng bị phủ định. Vậy kết lại tâm kinh chỉ là một mớ phủ định. Phủ định ngũ uẩn, phủ định thập bát giới, phủ định thập nhị nhân duyên, cuối cùng không có đắc gì cả. Vì không có đắc nào, nên tâm vượt qua mọi chướng ngại, tức những sai lầm khởi từ trí năng, vượt luôn những chướng ngại bắt rễ trong ý thức truy nhận, cảm quan của con người như sợ hãi, kinh khủng, vui vẻ, buồn phiền, thất vọng... Khi được như thế là tới Niết-bàn.
    3. ÁP DỤNG VÀO KHÍ-CÔNG
    Mục đích của chúng ta không phải là thành Phật là nhập Niết-bàn. Độc giả muốn nhập Niết-bàn thì tìm đến chùa, nghiên cứu kinh điển, bỏ vọng tâm tu luyện. Bộ sách này chỉ hướng dẫn các vị luyện công cho khỏe mạnh, và trị bệnh. Chúng ta dùng phương pháp phủ định của Bát-nhã tâm kinh hầu nhập tĩnh mà thôi. Chúng ta cần sao đạt tới vô nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý.
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  3. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    PHẦN THỨ TƯ
    CHƯƠNG THỨ BA
    CÁC THỨC TĨNH-CÔNG
    Tĩnh-công có nhiều tư thức, dưới đây chỉ trình bầy mấy tư thức đơn giản nhất, dễ luyện tập nhất, đó là lập thức, tọa thức và ngoạ thức. Danh từ cổ gọi lập thức là Thiên-địa đồng qui, toạ thức là Nam-Bắc đồng ẩm, và ngọa thức là Thiên-nhân tương dữ.
    1. LẬP-THỨC
    1.1. MÔ TẢ
    ?" Đứng quay mặt về phương Bắc.
    ?" Hai chân gần như song song, mũi bàn chân hướng về Bắc.
    ?" Độ soạc hai chân cách nhau một khoảng bằng vai.
    ?" Hai bàn chân bám đất như cây mọc rễ.
    ?" Người không nghiêng về trước, sau, phải, trái.
    ?" Lưng thẳng.
    ?" Nếu tóc dài, buông xõa sau lưng. Không nên cột tóc.
    ?" Hai bàn tay buông thỏng, lưng bàn tay quay về trước.
    ?" Lòng bàn tay hơi hướng chếch xuống mặt đất.
    ?" Các ngón tay cách nhau một khe nhỏ.
    ?" Miệng răng hơi mở thành tuyến nhỏ.
    ?" Lưỡi tự nhiên không hoạt động.
    ?" Mắt từ, từ nhắm lại.
    1.2. Biến hoá thứ nhất
    Từ lập thức biến đổi:
    ?" Hai tay vòng thành vòng cầu, cách nhau một khoảng nhỏ.
    ?" Lòng bàn tay hướng vào người.
    ?" Các ngón tay hơi gập vào thành chiêu thức Thái-cực, và cách nhau một khoảng nhỏ.
    ?" Hai tay cao ngang tới huyệt Chương-môn, Thượng-uyển.
    1.3. Biến hóa thứ nhì
    Lấy lập thức làm căn bản:
    ?" Hai bàn tay ôm như vòng Thái-cực trước bụng.
    ?" Một lòng bàn tay hướng lên trời, một lòng bàn tay hướng xuống đất.
    ?" Hai bàn tay đối diện với nhau, trong thế song song.
    ?" Bàn tay cao ở ngang huyệt thượng-uyển (bụng trên). Bàn tay thấp ở huyệt khí-hải (bụng dưới).
    2. TỌA THỨC
    Tức ngồi luyện khí công.
    2.1. TỌA THỨC 1
    ?" Ngồi trên mặt phẳng, cạnh giường, trên ghế không dựa.
    ?" Mông đùi đặt trên mặt phẳng.
    ?" Hai đầu gối cách nhau một khoảng bằng vai.
    ?" Hai bàn chân dẫm lên mặt đất, các ngón chân hướng về trước.
    ?" Đầu gối và gót chân nằm trên đường phẳng đứng với mặt đất.
    ?" Hai bàn tay úp lòng xuống đùi. Tay phải úp xuống chân phải, tay trái úp xuống chân trái. Các ngón tay cách nhau một khe nhỏ.
    ?" Hai khủy tay dựa vào hông.
    ?" Lưng thẳng, đầu thẳng không lệch.
    ?" Mắt nhắm, miệng ngậm, răng môi sát nhau.
    ?" Lưỡi chạm răng tóc xõa.
    2.2. TỌA THỨC 2
    Tức thức bán già của Thiền.
    ?" Ngồi trên mặt phẳng, như đá, xi măng, thảm bồ-đoàn, nệm v.v...
    ?" Bàn chân trái gác trên đùi phải, bàn chân phải nằm dưới đùi trái (hoặc ngược lại).
    ?" Bàn tay trái đặt nằm ngửa, nằm ngang với huyệt khí-hải(bụng dưới). Bốn ngón khép lại, ngón cái tách ra. Bàn tay phải úp lên bàn tay trái. Hai ngón tay cái đè lên nhau. Tám ngón tay gập lại thành nhiều khúc.
    ?" Hai khủy tay khép sát vào người.
    ?" Đầu, mình thẳng, tóc xõa.
    ?" Miệng ngậm, môi răng chạm nhau, đầu lưỡi chạm răng.
    ?" Hai mắt nhắm nhè nhẹ.
    2.3.TỌA THỨC 3
    Tức thức kiết-già của thiền.
    Giống như tọa thức 2, nhưng hơi biến đổi:
    ?" Bàn chân trái gác lên đùi phải ( hoặc ngược lại).
    ?" Bàn chân phải gác lên đùi trái.
    Thức này đối với người Á-châu, vốn mềm mại, gầy, rất dễ dàng. Song đối với người Âu Mỹ Úc thì hơi khó. Tuy nhiên trẻ em dưới mười lăm tuổi bắt đầu luyện, thì sau lớn lên, chân đã dẻo, thì không có gì khó khăn cả.
    3. NGỌA THỨC
    Đây là các thức nằm. Luyện công nằm phải lưu ý các điểm:
    ?" Nằm trên mặt phẳng có thể là nệm, ván, đá v.v.
    ?" Đầu gối cao, ít nhất độ dày gối phải bằng 3/4 đầu.
    Có ba ngọa thức.
    3.1. THỨC THỨ NHẤT
    ?" Người nằm ngửa, đầu gối cao, thân, mình, thẳng.
    ?" Hai chân song song, hai mắt cá chạm nhau.
    ?" Các ngón chân chỉ lên trời.
    ?" Chân, mình đầu đều nằm trên đường thẳng.
    ?" Hai tay buông xuôi, cánh tay nằm sát thân mình.
    ?" Hai lòng bàn tay úp xuống, mặt phẳng đang nằm.
    ?" Các ngón tay khép nhẹ.
    ?" Mắt nhắm, miệng ngậm, môi răng chạm nhau, lưỡi chạm răng.
    3.2. THỨC THỨC NHÌ
    ?" Từ thức thứ nhất, bàn tay trái (hoặc phải) úp lên huyệt khí-hải (bụng dưới).
    ?" Bàn tay thứ nhì úp lên bàn tay thứ nhất.
    3.3. THỨC THỨ BA
    ?" Người nằm nghiêng về trái, hoặc phải.
    ?" Thái-dương úp xuống gối.
    ?" Đầu và sống lưng nằm trên đường thẳng.
    ?" Đầu gối lên bàn tay (nếu nghiêng về bên nào thì gối lên bàn tay đó).
    ?" Một chân duỗi thẳng (nếu nghiêng về bên nào, thì chân đó duỗi thẳng).
    ?" Chân còn lại gấp đôi, huyệt trung-phong, nhiêm-cốc của chân này đè lên huyệt khúc-tuyền, âm-cốc chân kia (mặt trong của bàn chân này đè lên mặt trong của đầu gối chân kia).
    ?" Tay còn lại nằm dọc trên hông, huyệt đại-lăng (cườm tay), úp lên huyệt phong-thị (giữa mặt ngoài của đùi)
  4. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    PHẦN THỨ TƯ
    CHƯƠNG THỨ TƯ
    Ý THỦ (TRỤ TÂM, QUÁN TÂM)
    Trong tĩnh-công, ý thủ rất quan trọng. Có môn phái gọi là tụ thần, hay linh điểm. Thiền gọi là trụ tâm. Vậy ý thủ là gì?
    1. ĐỊNH NGHĨA
    Khó nhất của tĩnh công là ý thủ.
    Gọi là ý thủ khi ý niệm hoạt động tập trung vào:
    ?" Một bộ vị thân thể, gọi là ý thủ nội thể.
    ?" Một ngoại vật gọi là ý thủ ngoại vật.
    ?" Một danh ngôn, văn từ gọi là ý thủ thần thức.
    Ý thủ phải tự ý, không nên cường chế quá. Vũ-kinh nói:
    ?oBất khả cưỡng hành ý thủ. Nhược cưỡng thủ tắc tâm loạn, hỏa nhiễu, nhi khí huyết loạn dã?.
    Nghĩa là: Không nên miễn cưỡng ý thủ. Nếu cưỡng ý thủ, tâm sẽ loạn, thân nhiệt đốt cháy khắp nơi, khí huyết tuần lưu rối loạn hết.
    Khi luyện công phải nhớ lời dặn này.
    2. CÁC LOẠI Ý THỦ
    Như trên đã trình bày có ba loại ý thủ.
    2.1. PHƯƠNG PHÁP NỘI THỂ
    Nghĩa là làm biến đi cái hình hài của bản thân mình. Mà bắt đầu từ chỗ tập trung tinh thần vào một bộ vị thân thể. Rồi làm biến đi.
    Các phương pháp ý thủ nội thể thường dùng là:
    ?" Ý thủ đơn điền, gồm có thượng, hạ, trung đơn điền.
    ?" Ý thủ mệnh môn (giao điểm thắt lưng và xương sống).
    ?" Ý thủ khí hải (bụng dưới).
    ?" Ý thủ dũng tuyền (gan bàn chân).
    ?" Ý thủ túc-đại-chỉ (ngón chân cái).
    2.1.1. Ý THỦ ĐƠN ĐIỀN
    Có nhiều sách y khoa, võ học các quốc gia khác tranh luận liên miên về vị trí của đơn điền. Có nơi giải thích đơn điền nằm ở giữa hai lông mi, có nơi giải thích đơn điền nằm ở lỗ rốn, có nơi còn giải thích đơn điền nằm ở phần giao tiếp giữa bẹn và bụng dưới.
    Sự thực trong tất cả những thư tịch của các khí công gia, cũng như sau nhiều năm dạy võ, dạy khí công, chúng tôi cùng công nhận:
    "Đơn điền hữu tam, thượng, trung, hạ?
    Như vậy có ba đơn điền: thượng đơn điền, hạ đơn điền, và trung đơn điền.
    2.1.1.1. Ý THỦ THƯỢNG ĐƠN ĐIỀN
    Thượng đơn điền nằm trên tuyến đốc mạch, ở giữa trán. Đó là khu vực nằm dưới mí tóc. Đốc mạch là nơi tập trung các kinh dương. Đầu đốc mạch là đầu các dương huyệt mạch. Ý-thủ thượng đơn điền mới có thể cho chu lưu các dương khí vào hết dương mạch. Ý-thủ thượng đơn điền rất tốt. Nhưng khi ý thủ thượng đơn điền phạm vào một trong các điều sau:
    ?" Dẫn khí sai.
    ?" Chia trí.
    ?" Không giải trừ hết tạp niệm.
    Sẽ sinh ra phản ứng: đau nháy tại hai thái dương huyệt, và bách hội huyệt. Áp-huyết lên cao làm đầu choáng váng.
    Vậy người mới luyện, không nên ý thủ thượng đơn điền.
    2.1.1.2. Ý THỦ TRUNG ĐƠN ĐIỀN
    Trung đơn điền nằm tại bụng trung ương lá lách. Ý thủ tại đây làm cho kinh mạch bên trong điều hòa, làm cho lá lách lành mạnh. Khí từ đây dẫn vào khoảng trống không trong ngực làm tăng khí, cơ năng hoạt động nhất loạt trở thành tốt. Biến hóa công-năng làm cho tiêu hóa tốt.
    Ý thủ trung đơn điền rất quan trọng. Vì khi ý thủ tại bộ vị khác, đầu tiên phải ý thủ trung đơn điền, rồi mới chuyển dẫn khí cho ý thủ tại bộ vị đó sau.
    Lúc thu công không luyện nữa, phải thu khí tức về trung đơn điền. Phương pháp này gọi là khí tức quy nguyên.
    2.1.1.3. Ý THỦ HẠ ĐƠN ĐIỀN hay KHÍ HẢI
    Khí hải là một huyệt quan trọng nằm trên nhâm mạch. Y học gọi khí hải là bể để sinh ra khí. Ý thủ tại đây làm tăng thổ nạp bằng bụng. Giúp tiêu hóa dễ dàng. Người mới tập nên ý thủ khí hải pháp.
    Khi ý thủ khí hải, nên khởi đầu bằng ý thủ trung đơn điền, làm cơ sở đầu tiên, rồi dùng ý dẫn khí tới. Lúc thu công cũng phải cho khí tức qui nguyên (dẫn khí về trung đơn điền).
    2.1.2. Ý THỦ HUYỆT MỆNH MÔN
    Mệnh-môn là một huyệt đạo nằm trên tuyến đốc mạch. Trong phép luyện công gọi là hậu đơn điền. Y-Kinh nói:
    "Mệnh môn huyệt, thị:
    Sinh mệnh môn hộ,
    Tinh huyết chi hải,
    Đắc tiên thiên chi khí,
    Vi hóa sinh chi nguyên?.
    Nghĩa là: Mệnh môn huyệt là cửa của sự sống, bể của tinh huyết, lĩnh tiên thiên khí, nguồn gốc sự hóa sinh.
    Ý-thủ tại đây làm cho tráng kiện dương-khí, khí hóa tác dụng, thân thể khỏe mạnh.
    Muốn ý thủ mệnh môn đầu tiên ý thủ trung đơn điền, làm cơ sở dẫn tới. Sau khi luyện công cũng phải cho khí tức qui nguyên (dẫn khí về trung đơn điền).
    2.1.3. Ý THỦ HUYỆT DŨNG TUYỀN
    Huyệt dũng tuyền thuộc Túc Thiếu-âm thận kinh, nằm giữa gan bàn chân, chỗ hũng sâu nhất. Ý thủ tại đây có tính chất vững chắc, để dẫn khí xuống dưới, mang độc chất ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên những người máu huyết không đều, chẳng nên ý-thủ tại đây.
    Y kinh nói:
    « Huyệt dũng tuyền nằm ở gan bàn chân, trên Túc Thiếu-âm thận kinh. Dùng kim, châm huyệt dũng tuyền trị nùng huyết, tâm loạn, ý phiền, sưng cơ tim, da vàng bủng. Đàn bà có tử cung sa, không con. Trẻ kinh phong, ho, mất tiếng.Người lớn lưỡi tê ngọng, năm ngón chân đau nhức, thận yếu, khát nước, tiểu nhiều ».
    Khi nhập tĩnh, muốn ý thủ dũng tuyền, phải ý thủ trung đơn điền làm căn bản, rồi dùng ý dẫn khí tới sau. Lúc thu công phải cho khí tức qui nguyên.
    2.1.4. Ý THỦ TÚC ĐẠI CHỈ
    Túc đại chỉ là ngón chân cái. Ngón chân cái nằm trên cửa hai kinh mạch. Phía trong là Túc Thái-âm tỳ kinh, phía ngoài là Túc Khuyết-âm can kinh. Ý thủ túc đại chỉ làm cho kinh mạch chuyển động. Muốn ý thủ tại đây phải ý thủ trung đơn điền trước, rồi dùng ý dẫn khí tới sau. Khi luyện công phải cho khí tức qui nguyên.
    3.2. Ý THỦ NGOẠI THỂ
    Phương pháp này tập trung tư tưởng vào một không gian sự vật nào đó, để quên hết phiền tạp xung quanh, tức là tâm an, thần tĩnh. Rồi sau đó tiến tới nhập tĩnh, quên hết, chỉ còn một điểm tư tưởng tập trung mà thôi. Ý thủ ngoại thể rất rộng, dưới đây là một vài tỷ dụ:
    ?" Vào một kiến trúc hùng vỹ.
    ?" Vào một vườn hoa.
    ?" Vào một bức họa đẹp.
    ?" Vào một cảnh trí đẹp.
    ?" Vào tượng một danh nhân.
    ?" Vào mặt trăng, mặt trời, hay các ngôi sao.
    Sau khi ý thủ rồi bắt đầu:
    ?" Nhập tĩnh (không hoạt động nữa, im lặng).
    ?" Ninh thần (quên hết sự vật, để hồn yên lặng).
    ?" Điều tức (điều hòa hơi thở cho bình thường).
    ?" Giáng khí (khí trầm đơn điền, điều hòa).
    ?" Giải trừ tạp niệm (phương pháp đã học ở trên).
    Hai mắt nhắm đều, dẫn nơi ý thủ biến mất, chỉ còn lại hình ảnh trong tâm thức.
    ?" Về khoảng cách, giữa ngoại vật và bản thân, gần nhất 0.50 m. Xa nhất không giới hạn. Không nên gần quá làm chóa mắt, đưa đến nhức đầu.
    ?" Cao độ giữa vật và mắt nên ngang nhau. Nếu cao quá sẽ cảm thấy nhức đỉnh đầu, tinh thần bất thường. Nếu thấp quá làm nhức phần dưới mắt.
    ?" Về độ lớn, không nên lớn quá, nhỏ quá.
    ?" Không nên để khí tức nội thể đầy hay vơi. Nếu ý thủ vật cao thì để khí tức nội thể cao. Nếu ý thủ vào vật thấp, thì có thể để khí tức nội thể thấp.
    Khi xử dụng ý thủ này, luôn luôn nhớ định lý căn bản là: Làm biến đi mọi vật.
    3.4. Ý THỦ THẦN THỨC
    Đây là phương pháp thuần túy thiền môn để tĩnh tâm, an thần.
    Khi nhập tĩnh dùng tư tưởng hồi nhớ lại dĩ vãng hoặc văn từ danh ngôn triết học.
    ?" Phải hồi tưởng lại những gì từ ái, hùng tráng.
    ?" Không nên hồi tưởng lại cảnh khoái lạc ăn uống, khí tức làm trấn động bao tử. Gây nguy hại cho tiêu hóa.
    ?" Không nên hồi tưởng lại những cảnh sầu não, nhớ nhung, buồn nản, lo nghĩ, ác
    độc, khủng khiếp v.v.... Những cảnh đó dồn khí lên tim, phản ứng không tốt. Nhẹ khí huyết đảo lộn. Nặng thì thổ huyết, đau tim.
    ?" Không nên hồi tưởng lại những cảnh dâm đãng, luyến ái.
    Trong cuộc sống con người, trải qua nhiều sự vật, ngũ quan:
    Mắt, mũi, tai lưỡi, da v.v... đều tập trung tại óc nhiều ấn tượng khác nhau. Lúc ý thủ cho xuất hiện để quên hết phiền tạp xung quanh. Khi bắt đầu ý thủ:
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Ninh thần.
    ?" Điều tức.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý thủ. Cho cảnh trí, các câu kinh, văn tự xuất hiện.
    Dưới đây là những tỷ dụ:
    ?" Tập trung tinh thần vào kinh Kim-cương, Lăng-già, kinh Bát-nhã.
    ?" Bài hịch tướng sĩ của Hưng-Đạo vương.
    ?" Bài thơ đánh Tống của Lý Thường-Kiệt đánh Tống.
    ?" Bài thơ đánh Mông-cổ của Trần Quang-Khải.
    ?" Bài Phóng-cuồng-ca của Tuệ-trung thượng-sĩ.
    ?" Gần đây có vị ý thủ vào bài Chí-thành thông thánh thi của Phan Chu-Trinh, vào Đạo-đức kinh của Lão-tử, vào Luận-ngữ.
    4. KẾT LUẬN
    Ý thủ là sự tập trung tinh thần, để có thể đi đến nhập tĩnh. Ý thủ chỉ với mục đích không bị chia trí, hoặc dùng ý thủ như một điểm kích thích vào vận công. Khi thấy ý thủ chưa được hoàn toàn, thì cứ luyện từ từ, không nên cưỡng quá. Vả nếu không luyện được tĩnh công, thì luyện động công, đừng nên vì ý thủ không được mà bỏ luyện tập.
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  5. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    CHƯƠNG THỨ NĂM
    THU CÔNG
    Luyện công chấm dứt phải thu công. Phương pháp thu công rất giản tiện.
    1. ĐỊNH NGHĨA
    Gọi là thu công khi luyện công kết thúc một giai đoạn, một tư thức, của khí công. Quan hệ là khi luyện công không bao giờ ngừng ngang, phải áp dụng phương pháp thu công, nếu không sẽ có nhiều phản ứng như sau:
    ?" Dùng ý, khí, thổ, nạp luyện công mang lại kết quả, ai cũng muốn. Nhưng lỡ luyện sai, luyện xong không thu công thì kết quả không được làm bao.
    ?" Nguyên do, khi luyện công xong, khí tức, nguyên khí, nội ngoại khí nảy sinh chạy hỗn loạn trong cơ thể. Phải dùng phương pháp thu công để dẫn tất cả về trung đơn điền, rồi từ đây sẽ phân tán ra toàn cơ thể, điều hòa. Kết quả sẽ tốt như ý muốn.
    1.2. Phương pháp thu công
    Sau khi luyện công một thời gian ngừng lại. Dùng ý dẫn khí về trung đơn điền, danh từ chuyên môn gọi là khí tức qui nguyên.
    1.2.1. Phương pháp cho nam
    ?" Đứng thẳng, hoặc ngồi bên giường, trên ghế:
    Dùng ý, dẫn khí cùng một lúc tại hai bàn tay, hai bàn chân lên cùi chỏ, đầu gối; rồi vai, háng; đưa vào Trung Đơn-điền (tỳ vị).
    ?" Dùng phương pháp thổ nạp thông thường.
    ?" Khởi từ trung đơn điền, từ trong ra ngoài theo vòng xoắn trôn ốc, từ vòng nhỏ đến vòng lớn. Theo chiều kim đồng hồ. Đúng 36 vòng.
    ?" Vòng nhỏ nhất là một điểm ở trung đơn điền. Vòng lớn nhất sát tim.
    ?" Sau đó lại dùng ý dẫn khí theo hình trôn ốc từ ngoài vào trong, từ vòng lớn đến vòng nhỏ. 24 vòng, ngược chiều kim đồng hồ.
    Vòng lớn sát tim, vòng nhỏ là một điểm..
    1.2.2. Phương pháp cho nữ
    ?" Đứng thẳng, hoặc ngồi bên giường, trên ghế (Hình TC1)
    ?" Dùng ý, dẫn khí cùng một lúc tại hai bàn tay, hai bàn chân lên cùi chỏ, đầu gối; rồi vai, háng; đưa vào Trung Đơn-điền (tỳ vị).(Hình TC2).
    ?" Dùng phương pháp thổ nạp thông thường.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ trong ra ngoài theo hình trôn ốc, từ vòng nhỏ đến vòng lớn . Vòng nhỏ là một điểm, vòng lớn nhất sát tim. Ngược chiều kim đồng hồ. Đúng 36 vòng.
    ?" Sau đó dùng ý dẫn khí theo hình trôn ốc, từ ngoài vào trong theo chiều kim đồng hồ, từ vòng lớn đến vòng nhỏ, vòng lớn sát tim, vòng nhỏ là một điểm.
    Sau khi thu công mở mắt, đứng dậy sinh hoạt bình thường.
    2. ỨNG DỤNG ĐẶC BIỆT
    Không nhất thiết áp dụng cho thu công mà có thể dùng vào nhiều việc.
    ?" Sau khi tập ngoại công xong, tim đập máu chạy loạn là do công năng hỗn loạn, dùng phương pháp thu công để qui liễm chân khí về trung đơn điền, từ đây sẽ tự động phân phối đi toàn cơ thể.
    ?" Khi chạy mệt, khi xây xẩm mặt mày, khi đầu choáng váng, khi lạnh quá hay nóng quá, cũng có thể áp dụng cho khí tức chuyển nhiệt khắp cơ thể điều hòa.
    ?" Khi mắt máy, ngủ mê mới tỉnh, v.v...
    ?" Những người bị chứng chuột rút, kiến bò (fourmiement), hay bị spasmophilie thì dùng phép thu công để tự trị bệnh.
    ?" Ăn uống tiêu hóa chậm, dùng thu công, khiến công năng ruột tăng tiến, tiêu hóa trở thành tốt.
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    PHẦN THỨ TƯ
    CHƯƠNG THỨ SÁU
    TĨNH CÔNG THỰC HÀNH
    (Bẩy lộ tĩnh công căn bản)
    Tĩnh công có hàng nghìn, hàng vạn lộ, nhưng có thể chia làm bốn loại chính:
    ?" Một là minh tâm, dưỡng thần, tạo cho người tập thoải mái. Trong Thiền-công, gọi là Thiền-tuệ, dùng để xua đuổi ma nghiệp, ma chướng, giữ giới thể.
    ?" Hai là trị bệnh thần kinh như mất ngủ, hay cáu, hay dỗi, hay giận, tinh thần thất thường, thần kinh suy nhược, trí nhớ giảm thoái, chán đời; nhất là sinh viên học sinh học thi. Trong Thiền-công, gọi là Thiền-y, để chống quỷ A-tu-la nhập khẩu, đưa ra những ngôn từ gây khẩu nghiệp.
    ?" Ba là trị các bệnh do âm hư nội nhiệt, hay thực nhiệt sinh ra: chóng mặt, nhức đầu, huyết áp cao, tai kêu như ve, miệng khô. Đặc biệt trị chứng nhức đầu do uống rượu nhiều, ăn thức ăn sinh nhiệt.
    ?" Bốn là giải ưu uất (refoulement), đòi hỏi sinh lý. Trong Thiền-công gọi là Thiền-tuệ.
    Dưới đây, chúng tôi trình bầy 7 lộ căn bản đại biểu cho mỗi loại.
    I. Lộ thứ nhất: HỒI SINH CÔNG
    1.1 XUẤT XỨ
    Không rõ. Có thuyết nói rằng của một thiền sư Việt-Nam là Từ Đạo-Hạnh. Có thuyết nói rằng của giòng thiền Lâm-tế, Quy-ngưỡng Trung-quốc. Đích xác là xuất hiện vào khoảng 1010-1075 tại Đại-Việt và Quảng-Đông Trung-quốc. Mục đích để phục hồi sức khoẻ sau thời gian bệnh nặng, hoặc sau khi làm việc bị mệt mỏi (asthénie physique). Trong cửa Thiền, gọi là Thiền-lực. Hồi niên thiếu (7 tuổi) bản sư dạy cho tôi thức này để trị di chứng bệnh ho gà, hằng năm bị viêm phế quản. Bệnh khỏi sau khi luyện 3 tháng.
    1.2. TƯ THỨC
    Có thể dùng cả ba tư thức.
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa thức (ngồi).
    ?" Ngoạ thức (nằm).
    1.3. ĐIỀU KHÍ
    Có thể dùng ba phương pháp sau:
    ?" Thông-thường.
    ?" Ý khí hợp nhất.
    ?" Đạo gia.
    1.4. Ý THỦ (Trụ tâm)
    Nội thể: trung đơn điền, dũng tuyền.
    Thần thức: Nhẩm đọc bất cứ kinh văn, thơ phú nào cũng được.
    1.5. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy: chọn tư thức.
    ?" Nhập tĩnh: chân, tay, người ngưng hoạt động.
    ?" Điều-tức: điều hòa hơi thở.
    ?" Ninh thần: đầu óc ngưng làm việc.
    ?" Giáng khí: khí trầm đơn điền.
    ?" Giải trừ tạp niệm: bỏ ra ngoài lục tặc.
    ?" Ý-thủ: tập trung tư tưởng vào nơi ý thủ. Mắt từ từ nhắm lại còn một đường chỉ nhỏ.
    ?" Từ khí trầm đơn điền:
    BƯỚC 1 (thổ khí)
    Dùng ý dẫn khí từ Bách-hội huyệt (đỉnh đầu) tỏa ra 4 phía : sau cổ, hai tai, trán mũi xuống cổ.
    ?" Từ cổ xuống hai vai và đầu xương sống.
    ?" Chia khí làm 3 ngả: hai tay, xương sống.
    ?" Tiếp tục giáng xuống: hai tay tới cùi chỏ, xương sống xuống huyệt mệnh môn (giao điểm cột sống với giây lưng) rồi vào hai thận, sau đó sang trung đơn điền.
    BƯỚC 2 (nạp khí)
    Dùng ý dẫn khí ở hai tay, tiết ra ở đầu ngón tay (tức sáu huyệt thiếu-thương, thương-dương, trung-xung, quan-xung và thiếu-trạch).
    ?" Trong khi đó cũng dẫn khí từ trung đơn điền tới hậu môn (huyệt hội âm).
    BƯỚC 3 (thổ khí)
    Dẫn khí từ hậu môn, rồi qua hai đùi, đầu gối, bắp chân, đến lòng bàn chân (huyệt dũng tuyền), đưa khí ra ngoài như nước chảy.
    ?" Lúc này ý tưởng đưa đến dẫm chân vào thau nước nóng. Toàn thân buông lỏng phóng khí ra ngoài.
    BƯỚC 4 (nạp khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ lòng bàn chân (huyệt dũng tuyền) tưởng tượng như chân ở trong chậu nước nóng, hút nước nóng vào chân, đưa nước ngược theo bàn chân, bắp chân, đầu gối, đùi về hậu môn (hội âm huyệt), trung đơn điền.
    ?" Hết một thức. Trở lại bước 1. Mỗi lần luyện 36 thức.
    ?" Thu công.
    1.6. CHỦ TRỊ
    ?" Điều hòa khí huyết, thức lâu không ngủ.(Insomnie)
    ?" Hoạt động cơ thể nhiều, mệt mỏi tứ chi, đau mình.
    ?" Chữa áp huyết cao, xây xẩm mặt mày.(Hypertention arthérielle, Vertige)
    ?" Chữa khí quản nghẹt.
    ?" Nhâm mạch bị đau.
    ?" Nhiệt khí trong cơ thể bị hỗn loạn, mặt nóng, đầu váng (Nhập ma chướng hay tẫu hỏa nhập ma)..
    Lưu-ý chư vị Tăng-ni, quý vị Bác-sĩ, Đông-y-sĩ, Võ-sư, Khí-công gia đồng nghiệp.
    Thức này không âm, không dương rõ rệt, cho nên dùng để dưỡng thần, bất cứ bệnh nhân nào luyện cũng được. Tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh, bệnh nhân thuộc loại nhiệt chứng, hay hàn chứng, có thể biến đổi:
    Biến thành hàn (cho bệnh nhân nhiệt): thổ bằng miệng, miệng mở rộng. Bước thứ 3, 4 đưa đến ý tưởng dẫm chân lên tảng băng, hút nước lạnh.
    ?" Biến thành nhiệt (cho bệnh nhân hàn): thổ bằng miệng, nhưng miệng chúm vào, thổ thành hơi nhỏ, má căng thẳng. Bước 3, 4 giữ nguyên.
    Đối với những người đã luyện lâu rồi, thì chỉ cần hai bước:
    ?" Bước thứ 1 (thổ): Dẫn khí thẳng tới lòng bàn chân.
    ?" Bước thứ 2 (nạp): Dẫn khí từ lòng bàn chân trở về đỉnh đầu.
    II. Lộ thứ nhì: HỒI DƯƠNG CÔNG
    Dương đây là dương khí. Hồi dương là phục hồi dương khí đã bị tiêu mòn vì bất cứ lý do gì. Khi dương hư, đưa đến:
    Chứng trạng dương hư :
    ?" Người cảm thấy lạnh.
    ?" Sắc mặt ám tối thuộc âm, trắng bệch.
    ?" Âm thanh nhỏ đứt đoạn.
    ?" Mạch thấy trầm, trì, tiêu, sáp, hư.
    ?" Bàn chân, bàn tay lạnh.
    ?" Môi lợt.
    ?" Tính trầm tĩnh.
    ?" Sợ lạnh.
    ?" Tim đập dưới 75 lần một phút.
    ?" Nước tiểu trắng.
    ?" Đại tiện lỏng.
    ?" Tóc rụng.
    ?" Răng lung lay.
    ?" Huyết áp thấp.
    ?" Người mề mệt.
    ?" Nam khó khăn về ***, nữ rắc rối về kinh nguyệt v.v.
    Nói theo y học Á-châu, thì có thể một trong các tạng như tỳ, tâm, thận, phế dương hư, hoặc hai, hoặc ba, hoặc tất cả đều ở trạng thái dương hư. Luyện thức này có thể phục hồi được dương khí.
    2.1. XUẤT XỨ
    Không rõ tác giả. Thấy xuất hiện đầu tiên trong Thiền-phái Tỳ-ni-da Lưu-chi hay còn gọi là phái Tiêu-sơn. Tương truyền người đem phổ biến cho quần chúng là Trấn-Bắc đại-tướng quân, Hoài-văn hầu Trần Quốc-Toản. Chiến-thuật của Hầu áp dụng trong thời đánh Mông-cổ là : Lúc địch bị bại, thì đuổi đến cùng, giết đến tuyệt. Khi đánh trận Hàm-tử, giết Toa-Đô rồi, Hầu dẫn binh đuổi gặc bất kể ngày đêm. Sau chiến thắng, binh tướng đều kiệt sức, Hầu đem thức này ra dạy họ. Nên chỉ ba giờ sau, họ lại lâm chiến được. Thức này Hầu học của Vô-Huyền bồ-tát (Lý Chiêu Hoàng), là bản sư của Hầu.
    2.2. TƯ THỨC
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa (ngồi).
    2.3. ĐIỀU KHÍ
    Tùy thích, dùng ba phương pháp đã trình bầy ở trên.
    ?" Thông thường.
    ?" Ý khí hợp nhất.
    ?" Đạo gia.
    Nhưng quan trọng nhất là phương pháp thổ nạp ?ohồi dương? như sau: Hít một hơi dài, dùng ý dẫn khí vào trung đơn điền, rồi mím môi, phùng má, thổ thực mạnh để khí bật tung ra ngoài.
    2.4. Ý THỦ
    Mệnh môn (Nam).
    Trung đơn điền (Nữ).
    2.5. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý-thủ: dùng ý dẫn khí từ trung đơn điền ra mệnh môn huyệt (nam). Nữ giữ nguyên ở đơn điền.
    BƯỚC 1 (nạp khí)
    Hấp khí thâm trường, dẫn khí từ đỉnh đầu tới hai vai, vào đơn điền chuyển ra mệnh môn (nam). Nữ giữ nguyên ở trung đơn điền.
    BƯỚC 2 (thổ khí)
    Môi chụm lại cho khí đầy miệng, căng thẳng hai má, thổ khí thành hơi nhỏ.
    ?" Nam phóng khí thực mạnh, mau, từ mệnh môn xuống nang hoàn ngưng lại đây từ 5 đến 10 tiếng đập tim, rồi dẫn khí tức trở về mệnh môn huyệt, vào trung đơn điền.
    ?" Ngưng tại đây 2 tiếng đập tim, dẫn lên đỉnh đầu, đưa khí tức ra ngoài.
    ?" Nữ từ trung đơn điền dẫn khí tức xuống tử cung, âm đạo, ngưng lại 5 đến 10 tiếng đập tim, rồi dẫn khí về trung đơn điền. Ngưng lại trung đơn điền 2 tiếng đập tim, rồi đưa lên đỉnh đầu, để khí tức ra ngoài. Thổ khí.
    ?" Mỗi ngày luyện 36 thức.
    ?" Nếu chọn ngày Đông-chí (22-12) bấy giờ là lúc mà âm khí đầy không gian, dương khí mới bắt đầu khai thủy, luyện một lần. Ngày 23 luyện 2 lần, cứ thế mỗi ngày tăng một lần, cho tới ngày thứ 36 thì tốt nhất. Sau đó mỗi ngày luyện 36 thức.
    ?" Nếu cứ phải đợi đến ngày khai thủy thì lâu quá, cho nên bất cứ ngày nào cũng có thể bắt đầu, và luyện thẳng mỗi lần 36 thức.
    ?" Thu công.
    2.6. CHỦ TRỊ
    Hiệu-năng
    Phục hồi dương khí, tráng dương, bổ thận dương.
    Chủ trị
    ?" Trí nhớ giảm thoái.
    ?" Thần kinh suy nhược.
    ?" Mệt mỏi do làm việc trí óc quá độ.
    ?" Làm cho thận kiện, cường tinh.
    ?" Phục hồi tinh khí, vì dâm dục quá độ, cơ thể bạc nhược.
    ?" Nam bất lực, nữ lãnh cảm.
    ?" Phụ nữ sau khi đẻ.
    ?" Đi tiểu vặt.
    ?" Sau khi *** (hành dâm.)
    ?" Người lạnh, tứ chi lạnh.
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    III. Lộ thứ ba: TIÊU SƠN HÓA TINH PHÁP
    Đạo-lý Phật-giáo chủ diệt dục: tham, sân, si. Dâm là một giới bị cấm ngặt. Nhưng các tăng-ni tu luyện khí công thì tinh, thần, khí phải đồng thăng tiến. Mà cả ba thăng tiến, thì dục cũng tăng theo, nên đường tu hành gặp khó khăn. Vậy phải làm sao hóa tinh di, mới có thể tiếp tục đường tu.
    Khoa Thiền-công giảng:
    "Tạo hóa sinh con người, đều có tinh khí do cha me (Tiên thiên khì) và do ăn uống (Hậu thiên khí)ï . Ngoài ra nội thể tự sinh, ngoại cảnh kích động, khiến tham dục. Khi tham dục, tinh-khí chạy hỗn loạn. Hỗn loạn không qui liễm dược thì trở thành cuồng loạn, thần bị ức chế dễ lạc vào tà ma, dâm đãng. Khi luyện ngoại-công, khí-công, chủ yếu là đi đến tinh, thần, khí sung mãn. Nhưng nếu cứ để tinh khí chạy loạn, rồi tìm thú nhục dục, để thoát ra ngoài, hoặc thoát ra trong giấc mộng... Thì trong ba yếu tố chỉ còn thần, khí mà thôi. Như vậy chân khí không mạnh, thần lực không phát đầy đủ, nên chi phải dùng khí-công thu liễm tinh-khí?.
    Tóm lại : Tinh khí nảy sinh do ba nguyên lý:
    ?" Do cơ thể tự nảy sinh.
    ?" Ngoại cảnh như ăn, uống, ngắm nhìn.
    ?" Nội tâm như đọc sách suy tư.
    ?" Tập luyện. Tập luyện để tăng cường, tinh, thần, khí.
    Nếu để tinh xuất, thì chỉ có thần, khí mạnh. Thần lực không phát ra được. Vậy cần thu liễm tinh lại, không để xuất ra ngoài.
    Vẫn theo Thiền-Việt thì khi tinh khí sung mãn, ********* chướng lên là do các nguyên nhân sau:
    ?" Nhìn cảnh dâm bôn, tư tưởng không tự chế, tức thần yếu.
    ?" Đọc sách, liên tưởng, chia trí, không giải trừ tạp niệm, tư tưởng tự do đi vào đường dâm đãng.
    ?" Khi nam gần nữ, nữ gần nam.
    ?" Bị kích thích bởi ngoại lực, nội khí.
    ?" Trong giấc ngủ tư tưởng buông lỏng.
    Vì vậy Thiền-khí-công Việt đưa ra 4 phương pháp thu liễm tinh khí, tức luyện công hóa khí, để giúp dễ tu luyện tập võ công, nhất là cho Phật-gia đệ-tử giải thoát được những cơn ám ảnh sinh lý. Các thức đó là hóa tinh pháp.
    HÓA TINH ĐỆ NHẤT THỨC
    1. NGUỒN GỐC
    Từ Thiền-phái Tỳ-ni Đa-lưu-chi, Thảo-đường, Quy-ngưỡng, Lâm-tế.
    2. TƯ THỨC
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa thức (ngồi).
    3. ĐIỀU KHÍ
    ?" Phương pháp ý khí hợp nhất.
    ?" Phương pháp đạo gia.
    4. Ý THỦ
    Nội thể: đơn-điền, khí-hải, mệnh-môn, dũng-tuyền v.v...
    5. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều-tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý-thủ.
    BƯỚC 1 (nạp khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ qui đầu vào trung-đơn-điền.
    ?" Tiến hành ý-thủ tại đây.
    ?" Nạp khí tiếp, dẫn khí từ trung-điền đến hậu môn (huyệt hội-âm).
    ?" Từ hậu môn (huyệt hội-âm) dẫn ra xương cụt (huyệt trường-cường).
    BƯỚC 2 (đình)
    ?" Miệng mím chặt, hai răng nghiến vào nhau, lưỡi ép sát lợi.
    ?" Hai chân tay vận thật cứng. Hậu môn thắt chặt vào và co lên cao.
    BƯỚC 3 (nạp khí)
    ?" Tái nạp khí dẫn khí từ xương cụt (huyệt trường-cường) lên qua xương sống, hậu chẩm (huyệt phong-phủ) vào đại não, tới thượng-điền thì ngưng lại.
    BƯỚC 4 (Thổ khí)
    ?" Tiến hành ý-thủ tại đây, thổ khí ra ngoài.
    BƯỚC 5 (nạp)
    ?" Nước miếng trong miệng sinh ra, nuốt vào, dùng ý dẫn khí từ thượng-điền về trung-điền theo đường cổ, họng, thượng điền.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    Kinh nghiệm
    Sau khi luyện đủ 3 tức, nếu thấy thể xác trở lại bình thường, dục vọng đòi hỏi hết, thì thu công rồi ngừng. Bằng dục vọng, thể xác còn đòi hỏi thì luyện tiếp.
    BƯỚC 6 (thổ)
    Dùng ý dẫn khí từ trung-điền theo xương sống lên hậu chẩm, não, rồi thượng điền (theo đốc mach lên huyệt Đại-trùy, Phong-phủ, đại não, thượng-điền).
    BƯỚC 7 (nạp khí)
    Dùng ý dẫn khí từ thượng-điền, vòng qua trái tới nửa đầu bên trái, rồi dẫn khí theo nửa mặt trái, xuống nửa cổ trái, qua nửa ***g ngực trái, bụng trái, rồi đưa vào hạ đơn điền.
    Từ hạ-điền sang phải đi ngược lên qua nửa bụng phải, ngực phải, cổ phải, rồi nửa mặt phải, tới thượng điền.
    BƯỚC 8 (ngưng thổ nạp)
    ?" Dùng ý dẫn khí đi vòng thứ hai.
    BƯỚC 9 (thổ)
    ?" Dùng ý dẫn khí đi vòng thứ ba.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN (Tức 9 Vòng).
    Kinh nghiệm
    Sau khi luyện 3 tức liền, nếu vẫn còn thấy thể xác đòi hỏi, luyện tiếp.
    BƯỚC 10 (nạp)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ thượng-điền qua cổ, họng, thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu tới hạ-điền. Sau đó dẫn khí vòng sang trái, qua nửa bụng, nửa ngực, nửa cổ nửa mặt lên thượng-điền.
    BƯỚC 11 (ngưng thổ nạp)
    ?" Dẫn khí đi vòng thứ hai, cùng chiều, cùng lộ trình như vòng thứ nhất.
    BƯỚC 12 (thổ)
    ?" Dẫn khí đi một vòng thứ ba, cùng chiều, cùng lộ trình với vòng thứ nhất.
    LUYỆN 2 TỨC LIỀN (Tức 6 Vòng).
    HẾT MỘT THỨC.
    Mỗi lần luyện 3, 6, hoặc 9 thức. Nam, nữ luyện như nhau.
    6. CHỦ TRỊ
    ?" Sinh lý đòi hỏi, ********* chương lên.
    ?" Điều hòa tinh khí.
    ?" Các nhà tu dùng để diệt dục.
    Trong quá trình huấn luyện, chúng tôi nhận ra một số các võ-sinh, văn-gia, ký-giả, kỹ sư điện toán, các nghiên cứu gia v.v. thấy sinh lý đòi hỏi, nếu họ giao hoan, thì đầu óc trống rỗng. Họ muốn giữ tinh khí cho đầu óc minh mẫn, nên luyện tập thức này. Kết quả thực kỳ diệu, tinh thần sảng khoái, trí nhớ tăng. Một số các vị tu mi nam tử vì công tác phải xa nhà, sang các nước Thái-lan, Phi-luật-tân, sinh lý đòi hỏi, nếu tìm các nàng kiều ở đó mà hành lạc, có thể tiêu dao miền Cực-lạc với ác quỷ SIDA (AIDS), nên đã luyện thức này để diệt dục. Các tiết phụ, xa chồng cũng luyện, để giữ chung thủy v.v.
    7. CẤM KỊ
    ?" Phụ nữ mang thai.
    ?" Tim đập chậm (dưới 65 lần một phút).
    ?" Dương hư (chân tay lạnh, đại tiện chảy, người lạnh, huyết áp thấp dưới 10).
    ?" Bần huyết (anémie).
    ?" Nam bất lực (********* không cử, cử mà không chắc dysfonction érectille). Nữ lãnh cảm).
    HÓA TINH ĐỆ NHỊ THỨC
    Sau khi luyện đệ nhất thức, không thấy kết quả, thì trường hợp tương đối nặng. ********* cứ cử lên (nữ thì âm-thần hơi cứng nóng, ngực căng, môi khô), tinh-dịch (chứ không phải tinh-khí) ri rỉ muốn xuất, nhiệt khí trên người bốc cao, đầu óc hoang mang không minh mẫn nữa. Phải luyện tiếp phương pháp của đệ nhị thức.
    Phải nhớ kỹ là: không nên lạm dụng luyện phương pháp đệ nhị thức. Chỉ khi nào đệ nhất thức không kết quả mới luyện đệ nhị thức mà thôi.
    Đệ nhị thức có hai tức. Nối tiếp đệ nhất thức.
    1. ĐỆ NHẤT TỨC. (Thổ ở đầu tức này không kể vào tức, chỉ để nối tiếp).
    BƯỚC 1 (thổ)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ qui-đầu (nếu là nữ thì âm-thần) đến trung-điền.
    ?" Đồng thời hậu môn thắt chặt co lên.
    BƯỚC 2 (nạp)
    ?" Dùng ngón chỏ tay phải, bịt lỗ mũi phải.
    ?" Lỗ mũi trái hấp khí thành một dây dài liên tục (không nên để đứt đoạn).
    BƯỚC 3 (đình)
    ?" Hai đến 5 tiếng đập tim.
    BƯỚC 4 (thổ)
    ?" Ngón tay giữa của tay phải bịt lỗ mũi trái, buông lỗ mũi phải ra.
    ?" Lỗ mũi phải thổ khí thành luồng liên tục, nhẹ nhàng.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    2. ĐỆ NHỊ TỨC
    BƯỚC 5 (thổ)
    ?" Nối tiếp tức trên.
    ?" Ngón tay bịt lỗ mũi trái.
    ?" Sau khi lỗ mũi phải thổ xong nạp luôn, nạp một hơi dài, không đứt đoạn.
    BƯỚC 6 (đình)
    ?" Nghỉ hai đến 5 tiếng đập tim.
    BƯỚC 7 (thổ)
    ?" Ngón trỏ bịt lỗ mũi phải, và buông lỗ mũi trái ra.
    ?" Lỗ mũi trái thổ khí thành một dây liên tục.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    3. ĐỆ TAM TỨC
    BƯỚC 8 (nạp)
    ?" Bỏ tay ra dùng cả hai lỗ mũi nạp khí thành một luồng dài liên tục.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ trung-đơn-điền đến thượng-điền ý-thủ tại đây.
    BƯỚC 9 (đình)
    ?" Ngưng lại từ 2 đến 5 tiếng đập tim.
    BƯỚC 10 (thổ)
    Nuốt nước miếng, dùng ý dẫn khí từ thượng-điền tới trung-điền.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN
    Sau đó luyện lại tức thứ nhất đến tức thứ ba liền 3,6 hay 9 lần. Thu công
    4. CHỦ TRỊ
    Như đệ nhất thức.
    5. CẤM KỊ
    Như đệ nhất thức.
    HÓA TINH ĐỆ TAM THỨC
    Sau khi đã luyện thức thứ nhì, không kết quả, luyện sang thức thứ ba. Phải lưu ý là, thức thứ ba rất dễ tổn hại đến tinh khí, thận khí. Vì vậy nếu thấy luyện hết thức thứ hai không kết quả mới dùng đến. Tuyệt đối không bao giờ nên thử. Thận suy rất hại, có khi tuyệt đường sinh đẻ.
    Thức này có ba tức.
    1. ĐỆ NHẤT TỨC
    BƯỚC 1 (nạp)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ qui-đầu (nữ thì âm thần), qua hậu môn rồi xương cụt (huyệt Hội-âm, Trường-cường) chuyển sang mông trái, lưng trái, lên cổ tới mắt trái.
    ?" Ngón tay bịt lỗ mũi phải lại, để lỗ mũi trái tiếp tục nạp khí. Mắt trái, mi trái, kéo ngược trở lên, khí dẫn theo, tới đỉnh đầu.
    BƯỚC 2 (đình)
    ?" Dẫn khí từ đỉnh đầu, về thượng-điền, qua mắt phải.
    ?" Mắt phải, mi phải, kéo trở xuống.
    ?" Dẫn khí qua má phải.
    BƯỚC 3
    ?" Bịt lỗ mũi trái lại, lỗ mũi phải từ từ thổ khí.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ má phải xuống cổ, sườn phải, xương cụt, hậu môn (huyệt Trường-cường, Hội-âm).
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    2. ĐỆ NHỊ TỨC
    Cùng phương pháp tức 1. Nhưng lộ trình đi phải:
    ?" Từ qui-đầu, qua huyệt hậu môn, xương cụt (huyệt Hội-âm, Trường-cường) rồi quẹo phải, đi ngược lộ trình trên.
    ?" Lỗ mũi cùng thổ nạp, ngược lại với tức 1, nghĩa là phải đổi qua trái, trái đổi qua phải.
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    3. ĐỆ TAM TỨC
    BƯỚC 1 (nạp)
    ?" Dẫn khí từ qui-đầu về hậu môn, xương cụt (huyệt hội-âm, trường-cường), ngược lên ngang sống lưng (huyệt Mệnh-môn), theo xương sống, não, đến đỉnh đầu, vòng sang thượng-đơn-điền.
    BƯỚC 2 (đình)
    ?" Ngưng tại thượng-điền từ 2 dến 5 tiếng đập tim.
    BƯỚC 3
    ?" Từ thượng-điền ngược trở lại não, xương sống tới ngang lưng (huyệt mệnh-môn) rồi vào trung-điền, sang hậu môn (huyệt hội-âm), rồi tới qui-đầu (hay âm thần).
    LUYỆN 3 TỨC LIỀN.
    Luyện liền một lúc 3, 6, đến 9 thức.
    Khí-tức qui nguyên(dẫn khí về đơn điền).
    Thu công.
    4. CHỦ TRỊ
    Như đệ nhất thức.
    5. CẤM KỊ
    Như đệ nhị thức.
    Dịch giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    HÓA TINH ĐỆ TỨ THỨC
    Tiêu-sơn đệ tứ thức, khác hẳn với ba thức trên về công dụng. Ba thức đầu dùng để ?oluyện tinh, hóa khí?, tức là xử dụng khi tinh-khí đầy, chuyển thành khí. Tinh-khí đó vẫn còn chỗ sơ dụng của nó, không làm mất đi lợi ích.
    Nhưng cũng có những trường hợp mà tinh khí chạy hỗn loạn không nên thu liễm lại. Vì tinh khí đó không còn ích lợi, thu liễm lại có hại cho cơ thể, cần phải đốt đi.
    Tỷ-dụ: Trong lúc luyện Thiền-công, Khí-công, Ngoại-công, chân tay, khí huyết chân khí chạy khắp người. Chẳng may có những luồng khí dẫn không đúng, hoặc chiêu thức đánh sai, tinh-khí không qui liễm được, nên đã làm động tình, ********* chương lên. Những loạn khí đó không cần thu liễm, phải đốt ngay đi.
    Ở đây chúng tôi chỉ nói đến các thức Thiền-công, Ngoại-công, Khí-công từ cấp trung-đẳng, cao-đẳng.
    1. PHÉP LUYỆN
    Lấy cơ sở của ba thức trên làm nguồn gốc.
    2 . TƯ THỨC:
    Cả ba tư thức.
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa thức (ngồi).
    ?" Ngọa thức (nằm).
    3. ĐIỀU KHÍ
    Các phương pháp :
    ?" Thông thường.
    ?" Ý khí hợp nhất.
    ?" Đạo gia.
    ?" Cấm dùng phương pháp ảo thổ nạp, khí tức hỗn loạn đốt luôn chân khí, có khi làm hư thận.
    4. Ý-THỦ
    Nội thể tại trung-đơn-điền.
    5. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều-tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý-thủ
    BƯỚC 1 (nạp)
    ?" Dùng ý dẫn khí trầm trung-đơn-điền.
    ?" Óc tưởng tượng đơn-điền.
    ?" Mắt nhắm, ?onhìn bằng tư tưởng vào đơn-điền?.
    ?" Tai nghe tại đơn-điền.
    ?" Miệng mũi thổ nạp vào đơn-điền.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ qui-đầu vào đơn-điền.
    BƯỚC 2 (đình)
    ?" Ngưng từ 2 tới 5 tiếng đập tim.
    ?" Dùng ý dẫn khí từ trung-điền đến hậu môn (huyệt-âm).
    ?" Từ hậu môn (huyệt hội-âm) phân ra hai đùi, đầu gối, bắp chân, xuống gầm bàn chân (huyệt Dũng-tuyền).
    BƯỚC 2 (thổ)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ huyệt dũng-tuyền trái, ngược trở lên qua bắp chân đầu gối, đùi.
    BƯỚC 3 (nạp)
    ?" Dùng ý dẫn khí đồng một lượt từ đùi trái, qui-đầu (nữ âm thần) vào huyệt hội-âm, trường-cường, qua sườn trái tới cổ, mang tai, đại não cuối cùng ngưng lại ở thượng-điền.
    BƯỚC 4 (đình)
    ?" Ngưng lại thượng-điền từ 2 tới 5 tiếng đập tim.
    ?" Từ thượng-điền dẫn khí qua phải, mang tai, cổ, sườn, huyệt trường-cường huyệt hội-âm.
    BƯỚC 5 (thổ)
    ?" Dẫn khí từ huyệt hội-âm dẫn tiếp xuống đùi phải, đầu gối phải, bắp chân, cuối cùng là huyệt dũng-tuyền phải.
    BƯỚC 6 (nạp)
    ?" Lại dùng ý dẫn khí từ huyệt dũng-tuyền trái, qui-đầu (âm thần) theo lộ trình cũ để sang huyệt dũng-tuyền phải hai lần nữa.
    BƯỚC 7 (đình)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ huyệt dũng-tuyền phải và qui-đầu (âm thần) theo lộ trình trên. Nghĩa là đi ngược chiều, đúng ba (3) lần.
    BƯỚC 8 (thổ)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ cả hai huyệt dũng-tuyền lên bắp chân, đầu gối, đùi.
    ?" Dẫn từ hai đùi, qui-đầu lên huyệt hội-âm, trường-cường theo xương sống tới huyệt Phong-phủ, đại não, vào thượng-điền.
    BƯỚC 9 (đình)
    ?" Ngưng lại từ 2 tới 5 tiếng đập tim.
    BƯỚC 10 (thổ)
    ?" Đi ngược trở lại lộ trình cũ tới xương sống, qua mệnh-môn huyệt vào trung-điền.
    BƯỚC 11 (đình)
    ?" Ngưng lại trung-điền 2 đến 5 tiếng đập tim, rồi dẫn khí tiếp xuống huyệt hội-âm, phân làm hai xuống hai đùi, đầu gối, bắp chân, cuối cùng huyệt dũng-tuyền.
    Luyện một lúc từ 3, 6 đến 9 thức và chỉ tái luyện khi nào cần thiết. Nếu luyện liên tiếp mỗi ngày một lần thì từ ngày thứ 5 trở đi tinh-khí bị đốt hết, người mệt mỏi yếu đuối. Từ ngày thứ 15 trở đi đến ngày thứ 30 thì có thể hư thận.
    6. CHỦ TRỊ
    ?" Dùng để làm tiêu tan đòi hỏi sinh lý.
    ?" Khu trục, tiêu diệt các loạn khí vô ích trong người.
    ?" Kiến bò (fourmiement), spasmophilie.
    ?" Chân tay bải hoải.
    ?" Điều hòa loạn khí.
    ?" Bắp thịt co giật.
    ?" Trấn tĩnh cơn khủng hoảng thần kinh (dépressions).
    7. CẤM KỊ
    ?" Bất lực sinh lý (nữ lãnh cảm).
    ?" Thận hư (dù dương, dù âm, hay âm dương hư).
    ?" Mất trí nhớ.
    ?" Phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh (ménopause).
    Kết luận
    Tiêu-sơn hóa tinh pháp là một thức Thiền-công, dùng lâu năm trong Phật-giáo Việt-Nam, dễ luyện, kết quả tốt. Phàm khi luyện, ngay lập tức cảm thấy tinh thần sảng khoái. Càng luyện lâu, tâm trí càng minh mẫn. Già, trẻ, nam, nữ đều luyện được. Luyện lúc nào trong ngày kết quả cũng bằng nhau.
    IV. Lộ thứ tư: DƯỠNG SINH CÔNG
    Dưỡng là nuôi. Dưỡng sinh công dùng để điều hòa, kích thích bộ máy tiêu hóa. Nếu khi luyện thức này, thấy không hiệu quả thì dùng ?Ngoạ công bát pháp? ở phần động công.
    4.1. TƯ THỨC
    ?" Tọa thức (ngồi).
    ?" Ngọa thức (nằm).
    4.2. ĐIỀU KHÍ
    Dùng phương pháp:
    ?" Ý khí hợp nhất.
    ?" Đạo gia.
    4.3. Ý THỦ
    Nội thể : Khí hải hay trung đơn điền.
    4.4. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý thủ: tinh thần nội thủ, thần bất ngoại thể.
    ?" Môi răng hé mở.
    ?" Mũi nạp miệng thở, hoặc mũi miệng đồng thổ nạp.
    BƯỚC 1 (nạp khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ đỉnh dầu, qua ngực (thượng tiêu), tới trung đơn điền (trung tiêu: tỳ, vị), rồi chuyển qua bụng dưới (huyệt khí hải). Tiến hành ý thủ tại đây.
    ?" Tiếp tục nở bụng ra, nạp khí tiếp.
    BƯỚC 2 (đình)
    ?" Ngưng thổ, nạp.
    ?" Dùng ý dẫn khí về trung đơn điền, rồi thổ ra.
    ?"Khi thổ chia thành nhịp, hoặc chụm môi, thổ mạnh.
    Hết một thức.
    Mỗi lần luyện hết một thức phải cố duy trì ý thủ nội thể. Mỗi ngày luyện 24 hoặc 36 thức.
    ?" Sau khi dứt, dùng ý dẫn khí vào trung đơn điền.
    ?" Thu công.
    ?" Không nên cưỡng hành nín thở lâu quá. Không nên ép khí đầy quá, làm cho khí huyết đảo lộn.
    4.5. CHỦ TRỊ
    Trị ruột đau, thiếu dịch vị.
    Tiêu hóa không tốt, bụng sôi.
    Ăn vào đầy ứ, ợ hơi.
    Thần kinh suy nhược.
    Người bải hoải sau khi ăn.
    Điều hòa nhiệt khí.
    Lưu ý là sau khi luyện sang thức thứ 3 trở đi thì nhiệt khí trong đơn điền sinh ra mạnh mẽ. Không nên hoảng sợ. Đó là có kết quả rồi.
    Soạn giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    V. Lộ thứ năm: TRƯỜNG XUÂN CÔNG
    Xuân là mùa Xuân mùa mà vạn vật nảy nở, nên dùng để chỉ tuổi trẻ. Chữ trường xuân ở đây dùng để chỉ nét tươi thắm của tuổi trẻ.
    5.1. XUẤT XỨ
    Tương truyền tác giả là công chúa Thủy-Tiên. Thủy-tiên là tên dưỡng nữ Hưng-Đạo vương Trần Quốc-Tuấn, phu nhân của Phạm Ngũ-Lão đời Trần. Bà là một khí công gia, tuy không nổi tiếng bằng công chúa Ngọc-Hoa, phu nhân của Hoài-văn hầu Trần Quốc-Toản, nhưng bà có nhiều công phát minh ra những chiêu thức luyện công cho phụ nữ: tính tình hòa dịu, điều hòa kinh nguyệt. Nhất là làm cho phụ nữ trẻ đẹp. Ở đây chỉ trình bày một thức dùng cho cả nam, lẫn nữ mà thôi.
    5.2. TƯ THỨC
    ?" Lập thức (đứng).
    5.3. ĐIỀU KHÍ
    ?" Phương pháp thông thường.
    ?" Ảo thổ nạp.
    5.4. Ý THỦ
    Dùng hai loại:
    ?" Ý thủ ngoại vật: Tưởng tượng đứng trước một vườn đầy hoa, hoặc một ao sen nở đỏ ối.
    ?" Ý thủ thần thức: Nhẩm đọc một bài thơ, ca thầm một bản nhạc yêu đời êm dịu. Không nên ca thầm những bản nhạc hùng tráng, hoặc những điệu giật gân.
    Nếu theo đạo Chúa, nên đọc bài kinh ?oKính mừng? trong đầu tưởng tượng ra tượng đức mẹ Maria đang dơ tay ban phép lành cho mình.
    Người theo đạo Phật, nên tưởng tượng hình đức Quan-thế-âm cầm cành dương liễu nhỏ lên đầu mình. Chớ có nhẩm đọc kinh Bát-nhã, Lăng-già, Kim-cương trong trường hợp này mà tiêu dao miền Cực-lạc.
    5.5. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều-tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý thủ: Như đã trình bầy ở trên. Hai mắt từ từ nhắm.
    ?" Khi thổ, nạp, miệng răng hé mở.
    ?" Mũi nạp miệng hô, hoặc mũi miệng đồng dụng.
    BƯỚC 1 (nạp khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ miệng, qua hầu, ngực (thượng tiêu) tới bụng giữ (trung đơn điền), rồi ngưng lại.
    BƯỚC 2 (thổ khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí tới hai bàn chân.
    ?" Hai chân hơi cong lên ở giữa, rồi tưởng tượng hai chân như cây già mọc rễ. Ý tưởng như cây thông già, gió không đổ, chém không gẫy.
    BƯỚC 3 (nạp khí)
    Dùng ý dẫn khí về trung đơn điền,
    BƯỚC 4 (thổ khí)
    Dùng ý dẫn khí lên ngực, ra ngoài.
    Hết một thức.
    Tiếp tục luyện thức thứ hai. Mỗi ngày luyện 12 hoặc 24 hoặc 36 thức.
    Thu công
    5.6. CHỦ TRỊ
    Khi dẫn khí xuống chân, ý niệm hai chân như thông già mọc rễ. Gió không đổ, chém không gẫy, một lát trong nội thể phát sinh ra nội khí chạy khắp tạng phủ. Thân thể sảng khoái, hùng khí dâng lên.
    Trị các bệnh sau:
    ?" Mệt mỏi (asthénie physique)
    ?" Huyết áp cao.
    ?" Buồn nản (anxiétée)
    ?" Hay cáu (nervositée)
    ?" Lo nghĩ (angoissée)
    ?" Thần kinh suy nhược (dépression nervreuse).
    Nếu luyện nhiều khí huyết đều, yêu đời, không lo, không giận, không phiền, khô ng gắt, thì tự nhiên bảo trì được nhan sắc.
    VI. Lộ thứ sáu: DƯỠNG THẦN THỨC
    6.1. TƯ THỨC
    Có thể dùng cả ba tư thức.
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa thức (ngồi).
    ?" Ngọa thức (nằm).
    6.2. ĐIỀU KHÍ
    Phương pháp thông thường.
    6.3. Ý THỦ
    Nội thể: trung đơn điền.
    6.4. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý thủ.
    6.41. GIAI ĐOẠN MỘT
    BƯỚC 1 (nạp khí)
    ?" Khi trầm đơn điền, nạp khí, khi đầy ngưng lại một tiếng tim đập rồi thổ.
    BƯỚC 2 (thổ khí)
    ?" Dẫn chân khí đồng một lượt ở các bộ vị sau đây:
    Đường 1: từ đỉnh đầu (huyệt bách hội tỏa xuống bốn phía, mặt, hai thái dương, gáy, cổ, và đầu xương sống.
    Đường 2: từ các huyệt đầu các ngón tay (huyệt thiếu dương, thương dương, trung xung, quan xung, thiếu trạch và thiếu xung) đi ngược lên cườm tay, khủy tay, bả vai, tới đầu xương sống ngưng lại.
    Đường 3: từ các đầu ngón chân, qua bàn chân, gót chân, đầu gối đùi, ngưng lại ở hậu môn (huyệt hội-âm).
    BƯỚC 3 (nạp khí)
    ?" Dẫn chân khí đồng một lượt:
    Đường 1: từ đầu xương sống đến eo lưng (huyệt mệnh môn).
    Đường 2: từ hậu môn (huyệt hội âm) đến eo lưng (huyệt mệnh môn).
    BƯỚC 4 (thổ khí)
    ?" Dẫn vào trung đơn điền.
    Thu công (vẫn thổ khí): quay vòng thứ nhất đến vòng thứ 10, trở ra.
    BƯỚC 5 (nạp khí)
    ?" Tiếp tục thu công quay vòng thứ 10 đến vòng thứ 20, trở ra.
    BƯỚC 6 (thổ khí)
    ?" Tiếp tục thu công, quay vòng thứ 20 đến vòng thứ 30, trở ra.
    BƯỚC 7 (nạp khí)
    ?" Tiếp tục thu công, quay vòng thứ 30 đến vòng thứ 36, trở ra. Rồi quay ngược trở lại từ vòng thứ 24 đến 20.
    BƯỚC 8 (thổ khí)
    ?" Tiếp tục thu công.Quay vòng thứ 20 đến vòng thứ 10, trở vào.
    BƯỚC 9 (nạp khí)
    ?" Tiếp tục thu công. Quay vòng thứ 10 đến vòng cuối cùng.
    6.4.2. GIAI ĐOẠN HAI
    BƯỚC 1 (thổ khí)
    ?" Dẫn chân khí từ trung đơn điền ra huyệt em lưng (huyệt mệnh môn). Từ đây dẫn khí theo xương sống xuống hậu môn (huyệt hội âm) và lên đầu xương sống.
    BƯỚC 2 (nạp-khí)
    ?" Dẫn chân khí đồng một lúc:
    Từ hậu môn (huyệt hội âm) xuống đầu gối, hai bàn chân, đầu ngón chân. Từ cổ tỏa ra hai tay, bắp tay, khủy tay, cổ tay và bàn tay. Các ngón tay, thoát ra ngoài. Từ cổ lên gáy, mặt, hai thái dương lên đỉnh đầu (huyệt Bách hội). Ngừng lại một tiếng đập tim.
    BƯỚC 3 (thổ-khí)
    ?" Dùng ý dẫn chân khí tỏa ra ở các đầu ngón chân, ngón tay, và miệng.
    HẾT MỘT THỨC
    Tiếp tục luyện lại giai đoạn 1. Luyện một lúc 12, 24, hoặc 36 thức rồi đứng dậy. Không cần thu công như các thức khác. Vì đây là phương pháp thu công thượng thừa.
    6.5. CHỦ TRỊ
    Đây là phương pháp điều hòa chân khí, cũng là phương pháp thu công thượng thừa.
    Mục đích dùng để:
    ?" Điều hòa nhiệt khí, khi đầu nóng, tai nóng, mặt nóng, nhiệt khí hỗn loạn. Ph ân tán nhiệt ra cơ thể cho đều.
    ?" Dẫn nhiệt chống lạnh.
    ?" Trị mê ngủ, mộng du, đêm ngủ hay la hoảng.
    ?" Đầu óc u mê.
    ?" Mệt mỏi khi hoạt động nhiều.
    ?" Trị tất cả các loại thần kinh.
    ?" Sau khi luyện ngoại công chân khí chạy hỗn loạn, cần phân tán đi cho điều hòa.
    ?" Tập khí công bị hỗn loạn kinh mạch, sinh phản ứng, dùng điều hòa lại.
    ?" Huyết áp cao.
    VII. Lộ thứ bẩy: LIÊN-HOA THỨC
    7.1. TƯ THỨC
    Có thể dùng cả ba tư thức.
    ?" Lập thức (đứng).
    ?" Tọa thức (ngồi).
    ?" Ngọa thức (nằm).
    7.2. ĐIỀU KHÍ
    Phương pháp thông thường.
    7.3. Ý THỦ
    Giai đoạn 1, trung-đơn-điền pháp.
    Giai đoạn 2, liên-hoa-nhụy, tức nhũ hoa.
    7.4. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
    ?" Khai thủy.
    ?" Nhập tĩnh.
    ?" Điều-tức.
    ?" Ninh thần.
    ?" Giáng khí.
    ?" Giải trừ tạp niệm.
    ?" Ý-thủ.
    7.4.1. CHUẨN THỨC
    Đầu tiên luyện ?oDưỡng thần thức?, để chân khí, nhiệt khí điều hòa, huyết mạch lưu thông. Sau 10 hay 15 thức, người đã nóng lên:
    BƯỚC 1 (hấp khí)
    ?" Dồn khí tức qui-nguyên.
    ?" Dẫn khí từ trung-đơn-điền lên thượng-đơn-điền.
    ?" Ngừng lại từ 5 đến 9 tiếng đập tim (giai đoạn 1, hết).
    7.4.2. CHÍNH THỨC
    BƯỚC 2 (thổ khí)
    ?" Dùng ý phóng khí từ thượng-đơn-điền tỏa ra mang tai, cằm (huyệt Dương-bạch, Hạ-quan, Giáp-xa, Nhân-nghinh) theo má, cổ trước đến nhũ hoa (hoặc mạch Âm-kiêu, đến huyệt Khí-hộ, Khổ-phòng, Ung-song, ngừng lại ở huyệt Nhũ-trung).
    BƯỚC 3 (nạp khí)
    ?" Dùng ý dẫn khí từ nhũ hoa (huyệt Nhũ-trung), quay theo hình xoắn ốc, thuận chiều kim đồng hồ, từ vòng nhỏ đến vòng lớn, sâu vào trung tâm nhũ hoa, 12 vòng (giai đoạn 2, hết).
    TIẾN HÀNH Ý THỦ TẠI ĐÂY
    BƯỚC 4 (thổ khí)
    ?" Quay tiếp từ vòng thứ 12 đến vòng thứ 24.
    BƯỚC 5 (nạp khí)
    ?" Quay tiếp từ vòng thứ 24 đến vòng thứ 36.
    Vòng thứ nhất khởi từ đỉnh nhũ hoa, vòng 12 bắt đầu đi vào khu vực nhân nhũ hoa. Đến vòng thứ 20 là đi vào hết chiều sâu liên-hoa-nhụy. Đến vòng thứ 36 là vòng lớn nhất, chu vi bằng chu vi chân nhũ hoa, và sát ngực.
    BƯỚC 6 (thổ khí)
    ?" Quay ngược chiều kim đồng hồ, từ vòng lớn đến vòng nhỏ, từ trong ra ngoài đỉnh nhũ-hoa. Quay từ vòng thứ 1 đến vòng thứ 12.
    BƯỚC 7 (nạp khí)
    ?" Quay tiếp từ vòng thứ 12 đến vòng thứ 24 là đỉnh nhũ hoa (huyệt Nhũ-trung).
    BƯỚC 8 (thổ khí)
    ?" Dẫn chân-khí từ đỉnh nhũ hoa (huyệt Nhũ-trung), đi ngược ngực, cổ lên cằm, má tới trán (theo mạch Âm-kiêu lên huyệt Ung-song, Khố-phòng, Khí-hộ, Nhân-nghinh, Giáp-xa, Hạ-quang, Dương-bạch tới thượng điền).
    BƯỚC 9 (nạp khí)
    ?" Ngừng lại từ 5 đến 9 tiếng đập tim.
    HẾT MỘT THỨC
    Tiếp tục luyện ?ochuẩn-thức? khởi từ thổ. Luyện liên tiếp 24 hoặc 36 thức. Mỗi ngày có thể luyện 2 buổi, cách nhau 4 giờ.
    7.5. CHỦ TRỊ
    ?" Tuyệt kinh nguyệt.
    ?" Tuyệt sinh nở.
    ?" Giải ưu uất, cáu giận của con gái lúc dậy thì.
    ?" Trị bệnh lúc mãn kinh (ménopause): hỏa nhiệt thăng (bouffées des chaleurs), hay cáu, tự nhiên béo ra hoặc gầy đi.
    LƯU Ý QUÝ VỊ Y-SĨ ĐIỀU TRỊ
    Thông thường phụ nữ trong thời kỳ sắp mãn kinh, kinh kỳ thường kéo dài, thu ngắn không nhất định. Nếu cho bệnh nhân luyện thức này, thì có hai trường hợp sẽ diễn ra: một là kinh nguyệt tuyệt hẳn, hai là kinh ra bình thường một hai kỳ rồi tuyệt. Luyện trong vòng ba tháng thì những triệu chứng hỏa nhiệt thăng. hay cáu, béo mập bất thường sẽ hết.
    Soạn giả Hồng Viên Anh biên soạn ​
    Được hong_vien_anh sửa chữa / chuyển vào 21:37 ngày 11/02/2007
  10. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    cuonglhvt đã xoá các thông tin không hữu ích (phù hợp với quan điểm của các "anh hùng hảo hán")
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 08:28 ngày 14/02/2007
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này