1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thiếu Lâm Hồng Gia (tầng 2) Duy tri_Phàt triển

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi Nho_anh_nhieu_lam, 08/06/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    SỰ VẬN HÀNH CỦA CHÂN KHÍ VÀ CÁC KINH LẠC
    Học thuyết về kinh lạc là căn bản của Đông Y, là một hệ thống mà người ta cho rằng đường đi của chân khí chẳng khác gì hệ thống xa lộ trên nước Mỹ này. KINH là các đường chính, LẠC là phân chi liên hệ giữa các kinh với nhau. Dưới nữa là các đường nhỏ hơn gọi là TÔN LẠC, là một mạng lưới hết sức chặt chẽ trên toàn cơ thể, chuyển chân khí cho từng cơ quan, tùy nhiệm vụ. Vì thế kinh lạc chính là hệ thống liên lạc, vừa giao thông, vừa truyền đạt lẫn nhau của chân khí.
    Nghiên cứu về kinh lạc là đề tài phức tạp nhất và cũng quan trọng nhất trong Đông y, và đây cũng chính là sở đắc độc đáo mà hệ thống y khoa Trung Hoa đã hình thành được. Trong hơn một nửa thế kỷ nay, nhiều học giả, khoa học gia đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu để cốt đưa ra những trả lời thỏa đáng cho vấn đề này nhưng kết quả cũng chưa được mỹ mãn. Có người cho rằng đó chỉ là hệ thần kinh ở cấp cao, lẫn vào với huyết quản. Thế nhưng không ai đã giải đáp được các tác dụng trọng yếu của hệ thống kinh mạch mà chỉ có những hành giả (người thực tập vận hành chân khí) mới có thể ý thức được về đường đi và cơ năng mà người ngoài cảm thấy là mơ hồ hay khó hiểu. Những kết quả đó lại khó có thể đo lường bằng máy móc (hoặc chưa đo lường được) nên lại càng khó kiểm chứng.
    Cơ cấu
    Kinh lạc theo Nội Kinh là một tập hợp các đường lớn nhỏ đóng một trong những vai trò chủ yếu của cơ thể. Trong con người chúng ta có nhiều hệ thống khác nhau, mỗi hệ thống có những tổ chức riêng rẽ nhưng tất cả đều liên quan mật thiết lẫn nhau chẳng hạn như hệ thống bắp thịt, hệ thống gân cốt, huyết quản... Các cơ quan sở dĩ vận hành một cách nhịp nhàng chính là do sự vận chuyển không ngừng của các đường chân khí, vừa bồi dưỡng, vừa chỉ huy, vừa liên hệ với nhau. Trên mỗi đường chân khí có những điểm hội tụ, nhưng những điểm đó lại không giống nhau về cường độ, về nhiệm vụ gọi là huyệt đạo. Vì thế tùy từng huyệt, người ta phải dùng nhiều cách để hỗ trợ hay khai thông, có khi phải dùng kim, có khi dùng ngải cứu, hay xoa bóp để khôi phục hoạt động của những đường kinh này.
    Mỗi cơ quan, mỗi bộ phận khi được châm hay kích thích lại có những phản ứng, và cơ thể cũng phát sinh những hiện tượng khác nhau như sưng, ngứa, đau... tùy trường hợp. Thường thường, khi nào châm sai chỗ, châm nhằm gân thì bắp thịt sưng lên, nếu nhằm hệ thần kinh thì hay bị ngứa, còn nếu thấy đau thì là trúng nhằm những hệ giao cảm.
    Danh xưng
    Kinh là tên gọi của 12 đường trực hành, lên hệ trực tiếp đến tạng phủ.
    ?" Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh và thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm ở bên trong cánh tay, gọi là THỦ TAM ÂM thuộc lý (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào tay.
    ?" Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương TAM TIÊU kinh, và thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm ở mặt ngoài cánh tay gọi là THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên đầu.
    ?" Túc dương minh VỊ kinh, túc thiếu dương ĐẢM kinh, túc thái dương BÀNG QUANG kinh ở bên ngoài và đằng sau đùi, gọi là TÚC TAM DƯƠNG, thuộc biểu chạy từ đầu xuống chân.
    ?" Túc thái âm TÌ kinh, túc quyết âm CAN kinh, túc thiếu âm THẬN kinh nằm ở mặt trong đùi, gọi là TÚC TAM ÂM, thuộc lý từ chân chạy lên bụng.
    Đó là mười hai đường kinh lớn nên gọi là chính kinh.
    Ngoài ra còn tám đường kỳ kinh gọi là bát mạch, là nơi mười hai đường chính kinh đổ chân khí vào. Tám đường mạch này là ĐỐC, NHÂM, XUNG, ĐỚI, ÂM DUY, DƯƠNG DUY, ÂM KIỀU, DƯƠNG KIỀU. Nếu 12 chính kinh ví như sông ngòi, thì tám mạch mày ví như đầm ao. Chân khí trong chính kinh thịnh hay suy cũng do tám mạch đó có điều hòa hay không. Sự quân bình chân khí trong cơ thể là do tám mạch này, và hai mạch nhâm đốc là quan trọng hơn cả.
    Nhâm mạch thuộc âm, cai quản các kinh âm, nằm ở trước ngực và bụng. Đốc mạch thuộc dương, cai quản các kinh dương nằm ở sau lưng. Khi tập luyện vận hành chân khí, khi đã đẫn được chân khí lưu thông trong hai mạch này ?" mà sách vở và các tiểu thuyết kiếm hiệp vẫn thường đề cập đến gọi là đả thông nhâm đốc nhị mạch ?" thì lần lược các kinh mạch còn lại cũng từ từ được thông suốt. Như trên đã đề cập, trên hệ thống kinh mạch còn những điểm chủ yếu gọi là huyệt.
    Lạc có mười lăm đường, chạy lẫn trong các kinh âm và dương, là các hệ nối lẫn 12 kinh với nhau. Những lạc nhỏ gọi là tôn lạc, phù lạc chạy khắp thân thể. Sau đây là khái lược về vị trí và đường đi của mỗi kinh:
    ?" Thủ thái âm phế kinh bắt đầu ở trung tiêu, đi vòng xuống ruột già rồi chạy lên ngực, yết hầu đi ra cánh tay và chấm dứt ở đầu ngón tay cái.
    ?" Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh, một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt ở cạnh mũi.
    ?" Túc dương minh vị kinh bắt đầu từ cạnh mũi, một đằng chạy lên đầu, một đằng chạy xuống ngực, bụng, đùi chân rồi chấm dứt ở ngón chân cái.
    ?" Túc thái âm tì kinh từ ngón chân cái chạy lên bụng, chia thành hai nhánh, một nhánh chạy lên vai, qua cổ tới lưỡi. Nhánh thứ hai chạy từ dạ dày lên qua hoành cách mạc và chấm dứt ở tim.
    ?" Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, và một nhánh đi qua phổi, sang tay tới ngón tay út.
    ?" Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch ở huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.
    ?" Túc thái dương bàng quang kinh bắt đầu từ mi tâm chạy lên đỉnh đầu rồi vòng xuống cổ đi cạnh đường xương sống chia thành hai nhánh chạy xuống chân và kết thúc ở cạnh bàn chân.
    ?" Túc thiếu âm thận kinh bắt đầu từ ngón chân út chạy theo chân qua gót chân rồi lên đùi chia thành hai nhánh một nhánh chạy lên phổi, một nhánh chạy lên lưỡi.
    ?" Thủ quyết âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón tay giữa.
    ?" Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.
    ?" Túc thiếu dương đảm kinh bắt đầu từ mang tai chạy vòng vèo trên mặt đi xuống qua bụng tới chân và ngừng lại ở ngón chân út.
    ?" Túc quyết âm can kinh bắt đầu từ ngón chân cái chạy lên theo chân lên bụng đến ngực rồi quay lại bụng. Một nhánh chạy lên cổ đến mắt, vòng qua đầu để gặp đốc mạch .
    Tám mạch (bát mạch) bao gồm:
    ?" Đốc mạch ở sau lưng, quản trị các kinh dương bắt đầu từ bộ phận sinh dục chạy theo xương sống lên đỉnh đầu rồi vòng xuống tới nhân trung.
    ?" Nhâm mạch ở phía trước, chịu trách nhiệm các kinh âm đi từ môi xuống ngực bụng rồi tới bộ phận sinh dục.
    ?" Xung mạch còn gọi là huyết hải kiểm soát khí và huyết toàn cơ thể đưa đến mười hai chính kinh, bắt đầu từ bộ phận sinh dục chia làm ba nhánh một nhánh chạy lên đầu, một nhánh chạy theo xương sống và một nhánh xuống tới bàn chân.
    ?" Đới mạch chạy vòng quanh bụng như thắt lưng nối liền các kinh âm và dương.
    ?" Âm kiều mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên chân bụng ngực tới miệng.
    ?" Dương kiều mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên theo phía sau vòng qua trước mặt rồi ngừng lại ở sau ót.
    ?" Âm duy mạch từ bắp chân chạy lên qua bụng ngừng lại ở cổ.
    ?" Dương duy mạch từ gót chân lên theo chân qua người vòng qua đỉnh đầu ra trước mặt.
    Công dụng
    Phép vận hành chân khí phải theo một trình tự nhất định để đưa chân khí đến khắp các kinh mạch, tạng phủ, đem sinh lực cho mọi cơ quan trong cơ thể. Sinh lực đầy đủ tự nhiên thân thể sẽ khỏe mạnh, ít ốm đau. Linh Khu Kinh Mạch Thiên viết:
    Kinh mạch quyết định việc sống chết, liên quan đến mọi loại bệnh tật, làm thành các chứng thực và hư, không thể không thông [11]

    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm ​
  2. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Lý Đình trong Y Học Nhập Môn cũng viết:
    Nghề thuốc mà không biết kinh mạch thì chẳng khác gì đi đêm mà không đèn đuốc [12]
    Các y gia Trung Hoa từ xưa đến nay, dù trong việc chẩn đoán bệnh, bào chế dược phẩm, xoa bóp, châm cứu đều phải dựa vào lý thuyết về kinh lạc để suy luận và lý giải. Có thể nói rằng lý thuyết về kinh lạc là cơ sở chính yếu của Trung Y và vận hành chân khí chính là hình thức thực nghiệm học thuyết này. Chân khí là điện năng còn kinh lạc là những đường dây dẫn điện đến từng nhà, hai bên liên hệ mật thiết với nhau. Nếu chúng ta không am tường kinh lạc, việc điều vận chân khí trở nên mơ hồ và do đó kết quả cũng không rõ ràng.

    ĐỘNG LỰC VẬN HÀNH CHÂN KHÍ
    Chân khí tuy không phải nhờ động lực của hô hấp nhưng lại có liên quan rất tiết điệu với việc hút thở khí trời. Hành giả tập phép vận hành chân khí phải sử dụng hô hấp như một lực dẫn để theo dõi và thúc đẩy chân khí lưu chuyển, giữ cho cơ thể được nhịp nhàng. Điều chỉnh hô hấp cũng còn là một phương tiện để thư dãn và làm chủ cơ thể ngõ hầu theo dõi và tập trung được sức mạnh tinh thần.
    Khi đề cập đến phép thở, nhiều sách vở về khí công và yoga đã đưa ra những phép thở khác nhau, mỗi phép có công hiệu riêng, có mục đích riêng. Tuy nhiên vì có quá nhiều cách, lắm khi lại trái tự nhiên, khiến nhiều người hoang mang và e ngại, nhất là lại thêm một câu cảnh cáo nếu không có minh sư chỉ dạy có thể tẩu hỏa nhập ma. Thực ra, những người thường như chúng ta chỉ coi việc vận hành chân khí như một phương pháp thể dục nhẹ, nếu không mong đạt đến moạt cảnh giới siêu phàm mà chỉ cầu khỏe mạnh thì phép thở cũng thật giản dị dễ dàng.
    Sinh lý vận hành hô hấp
    Hô hấp là sự co dãn của ***g ngực, lên xuống của hoành cách mạc làm cho phổi nở ra co vào đem khí trời vào nuôi dưỡng các tế bào trong cơ thể. Hô hấp là một hoạt động không thể thiếu của con người. Người bình thường chúng ta mỗi phút thở ra hút vào trung bình 18 lần. Có hai loại hô hấp: nội hô hấp và ngoại hô hấp.
    Nội hô hấp là hoạt động của chân khí, là sự tiếp thu dưỡng khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào và biến chuyển các dạng năng lượng. Thai nhi còn trong bụng mẹ không thể tự mình thở hút khí trời hay ăn uống nên mọi chất cần thiết đều do người mẹ truyền cho qua cuống rốn và lá nhau (thai bàn). Tiến trình biến chuyển và hấp thu đó cổ nhân gọi là ?othai tức? (lối thở của bào thai) là hình thức rõ rệt nhất của nội hô hấp.
    Khi luyện phép vận hành chân khí, cứu cánh đạt đến là làm sao cho việc ngoại hô hấp (thở bằng mũi) trở nên hết sức nhẹ nhàng, như có như không, tưởng như ngoại hô hấp đã ngưng lại chỉ để nội hô hấp làm việc. Khi đó hành giả cảm thấy đan diền đóng mở, hơi ấm chảy vào hai mạch nhâm đốc, toàn thân ấm áp như gió xuân thổi đến làm cho trăm hoa đua nở. Trình độ đó cũng không khác gì thai nhi còn trong bụng mẹ, chỉ thuần nhờ vào nội hô hấp, tâm hồn thư thái, yên tĩnh nên còn gọi là ?othai tức pháp?.
    Ngoại hô hấp là phép thở mà chúng ta dùng để hút thở khí trời hàng ngày chỉ xuất hiện sau khi ra khỏi bụng mẹ. Người tập chân khí làm thế nào để hai tiến trình ngoại hô hấp và nội hô hấp ăn khớp với nhau, tiết điệu để việc dẫn chân khí đến các cơ quan được đều đặn, làm đúng với cơ năng, và toàn diện. Nội Kinh Tạng Tượng Thiên viết:
    Phổi là cơ quan dùng để truyền dẫn tiết điệu của cơ thể [13]
    Ảnh hưởng của sự vận động chân khí và hô hấp
    Hô hấp là một vận động tự nhiên có tính chất máy móc. Khi hút vào, ngực nở ra, hoành cách mạc đè xuống, bụng thóp vào tạo áp lực đè xuống bụng dưới. Sự thu dãn của ngực và bụng làm cho chân khí khởi động. Túc tam âm kinh theo sự hút không khí vào dẫn chân khí từ dưới đi lên. Thận kinh chân khí, khi chúng ta hút vào, di theo túc thiếu âm kinh chạy lên bụng, vào đan điền nhập với xung mạch, theo rốn chạy lên ngực, chảy vào tâm bao kinh giao với tâm khí. Hiện tượng này sách vở gọi là "thận thủy thượng triều dĩ tế tâm hỏa" (nước từ thận chảy ngược lên dập tắt lửa của tim). Cũng khi đó, can kinh chân khí chạy lên chảy vào phế kinh, tì kinh chân khí chảy ngược lên tâm kinh nên được gọi là ?ocan tì chi khí nghi thăng? (khí tì khí can chạy lên). Trong khi hút vào, chân khí từ thủ tam dương kinh chạy lên đầu, mặt, tiếp với khí từ túc tam dương nên cũng gọi là ?otam dương vinh ư diện? (khí tam dương làm cho mặt được tươi tốt).
    Khi thở ra, ***g ngực hóp vào, hoành cách mạc nâng lên, ngực thu nhỏ nhưng bụng to ra, chân khí trong ***g ngực bị áp lực theo nhâm mạch chạy xuống đan điền nên được gọi là ?otâm thận tương giao dĩ bổ mệnh hỏa?. Đây là một phần rất quan trọng trong phép vận hành chân khí. Cũng khi đó, chân khí theo thủ tam âm kinh chạy từ ngực xuống các đầu ngón tay, nối tiếp với thủ tam dương kinh, chân khí từ túc tam dương kinh từ đầu chạy xuống chân, tiếp với túc tam âm kinh. Chu trình này gọi là đại tuần hoàn của kinh khí.
    Tập luyện vận hành chân khí khi đã đả thông được đốc mạch, lúc thở ra chân khí theo nhâm mạch chạy xuống đan điền, khi hút vào chân khí theo đốc mạch chạy lên huyệt bách hội, gọi là tiểu tuần hoàn. Chung qui, vận hành chân khí không ngoài mục tiêu đả thông hai mạch nhâm đốc. Tuy nhiên, chính vì hô hấp là động lực vận chuyển chân khí nên tập luyện chân khí chính là để điều chỉnh và dẫn chân khí chạy đến các đầu ngón tay. Dẫu hô hấp là một hiện tượng tự nhiên của con người, nhưng sau khi sinh ra, sinh hoạt hàng ngày đã khiến cho chúng ta mất đi cái bản tính nguyên thủy, làm sai lạc các hoạt động tiên thiên, mất tiết điệu sẵn có, làm cho chân khí không còn đầy đủ, kinh lạc không còn thông suốt, chưa già đã suy, trong người mang vô số bệnh tật. Phương pháp điều tức chính là cách hay nhất để bồi bổ lại chân khí đã hao hụt, đả thông các kinh mạch bị tắc nghẽn, khôi phục các cơ năng tiên thiên.
    Điều chỉnh và bồi dưỡng chân khí chủ yếu là làm sao đưa được khí trở về đan điền. Mỗi khi thở ra, chúng ta phải điều động chân khí chạy theo nhâm mạch quay trở về đan điền là để cho khí đi đúng hướng. Vấn đề điều tức vì thế quan trọng nhất là khi thở ra, và mỗi lần thở ra chân khí lại vào đan điền thêm một chút. Thở ra cũng là cách để tống không khí đã dơ trong phổi ra ngoài để chuẩn bị thay bằng khí mới, cho nên điều tức cũng là vận chuyển chân khí.
    Cũng nên nói thêm, nhiều người chủ trương thở sâu (thâm hô hấp), cho là muốn cho khí trầm đan điền cần cố gắng hút vào thật nhiều, giữ hơi cho thật lâu. Thực tế như thế là đi ngược với cơ năng sinh lý bình thường của con người, và cũng mang ảo tưởng chân khí chính là không khí. Khi hút vào, không khí chỉ vào đến ***g ngực chứ không chạy xuống được dưới bụng, nếu bụng phình ra là vì hoành cách mạc bị ép xuống. Những ai tập theo phương pháp này sẽ bị hiện tượng gọi là trệ khí. Áp lực càng mạnh thì phản áp lực càng nhiều, đến một lúc nào đó, chân khí sẽ thượng xung gây ra hoa mắt, nhức đầu và có thể gây ra bệnh cao áp huyết. Phương pháp nhịn hơi chỉ có tác dụng vào các bắp thịt bụng và ngực, nhưng không có ảnh hưởng gì đến việc điều dẫn chân khí, và chắc chắn không thể nào đả thông được hai mạch nhâm đốc.
  3. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    ĐAN ĐIỀN
    Có thể nói trong phương pháp tập luyện chân khí, tất cả các dưỡng sinh gia đều quan tâm đến một bộ phận có tên là đan điền. Đây là một vị trí thần bí không những người tập võ hết sức coi trọng mà cả đến người tập nói, tập hát cũng phải giữ cho đan điền được sung mãn ngõ hầu không mệt, không đứt hơi.
    Tuy nhiên, quan niệm về huyệt này không đồng nhất, mỗi môn phái một khác. Nhiều người còn giữ bí mật, không truyền ra ngoài. Cho đến nay người ta cho rằng đan điền không phải là một huyệt mà là ba khu vực trọng yếu trên cơ thể, gồm thượng đan điền ở trên đầu, trung đan điền ở ngực và hạ đan điền ở bụng dưới. Thượng đan điền là vị trí quan yếu nhất không những đối với sinh mệnh mà đối với người luyện tiên đan và vị trí của nó ngày nay nhiều học giả xác định là tại não thất thứ ba, chiếu điểm của hai huyệt bách hội (từ đỉnh đầu đâm xuống) và mi tâm (từ giữa hai lông mày đâm vào). Có lẽ vì thế mà các tôn giáo đều coi là những bậc tiên thánh có vòng hào quang tại trên đầu, lấy tâm điểm là thượng đan điền. Trung đan điền nằm tại tâm oa, nhưng cũng có thuyết nói là ở gần rốn. Hạ đan điền ở dưới rốn chừng ba phân (tuy nhiên khoảng cách này mỗi nơi nói một khác, có chỗ viết là 1 tấc rưỡi, có chỗ lại nói ở ngay huyệt hội âm). Những vị trí của đan điền có nhiều điểm tương đồng với những luân xa (chakras) mà những người tập yoga thường dùng để tập trung tư tưởng, thượng đan điền tương ứng với ajna, trung đan điền tương ứng với anahata còn hạ đan điền có lẽ là muladhara. Một cách tổng quát, ba vị trí này là ba vị trí quan yếu của cơ thể, là những nơi chân khí hội tụ và lưu động.
    Theo Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển thì đan điền là ?otinh thất của con trai, bào cung của con gái, là nơi tu luyện nội đan, ở dưới rốn ba tấc?. Theo định nghĩa thông thường nhất, đan điền ngay giữa bụng dưới, khoảng ba tấc dưới rốn. Theo nguyên nghĩa, điền là ruộng, đan là viên thuốc, là tinh chất của dược liệu, có công dụng cường thần trị bệnh. Chân khí lưu chuyển trong thân thể chúng ta làm cho khỏe mạnh, gia tăng tuổi thọ nên được gọi là đan. Đan diền là nơi tập trung chân khí nên đặt tên như vậy.
    Đan điền là nguyên động lực của đời sống, là một bộ vị cực kỳ trọng yếu, là khởi điểm của nhâm, đốc và xung mạch, nơi hội tụ của mọi kinh mạch trong con người. Người ta tin rằng đan điền cũng như một cánh cửa, mở ra khi có khí, đóng lại khi không có khí, đóng vai trò của một biển cả để tích tụ chân khí nên còn gọi là biển khí (khí hải nhưng không phải là huyệt khí hải cũng gần nơi đó).
    Về phương diện sinh lý, đan điền là nơi tàng tinh của nam giới, nơi thụ thai của nữ giới, nhờ đó mà sinh trưởng, phát dục nên còn gọi là sinh môn hay mệnh môn. Sau khi đan điền sung mãn chân khí, nên từ eo trở lên trở nên có sức lực, Nạn Kinh gọi sức này là thận gian động khí. Trọn phép vận hành chân khí, khi thở ra, chân khí chạy xuống đan điền, nên giai đoạn này phải tập trung ý chí vào đan điền (ý thủ đan điền) và chờ cơ hội tiến thêm bước kế tiếp là đưa chân khí khai thông mạch đốc (tích khí xung quan). Đây là giai đoạn chủ yếu trong việc tăng cường và bảo vệ sức khỏe.

    TĨNH VÀ ĐỘNG
    Động và tĩnh là hai mặt trái ngược nhau, nhưng chung qui cũng chỉ là một. Động nói về tính tuyệt đối, còn tĩnh là tính tương đối. Có động tất nhiên có tĩnh, còn có tĩnh dĩ nhiên sẽ có động.
    Trong hoạt động sinh lý của con người cũng không thoát khỏi qui luật, tĩnh cực sinh động, động cực lại quay về tĩnh, tĩnh là cơ sở của động, động là lực lượng của tĩnh. Vận hành chân khí là lợi dụng một cách hữu hiệu quan hệ động tĩnh, dùng chân khí để tăng cường sức đề kháng ngõ hầu cơ thể thêm khỏe mạnh và ít bệnh tật.
    Việc vận hành chân khí cũng có hai phương pháp: tĩnh công và động công. Tĩnh công là một mặt giữ cho thân thể bất động, mặt khác điều tức để thúc đẩy chân khí vận chuyển ngõ hầu đạt tới mục đích đả thông kinh kỳ bát mạch. Động công thì phải vận chuyển thân thể theo những tư thức khác nhau, phối hợp tư thức để dẫn tinh thần, bài trừ tạp niệm, làm cho đầu óc trở nên tĩnh lãng. Nói như thế, cả hai hình thức động và tĩnh công đều chỉ nhằm đạt tới tình trạng an tĩnh của tâm hồn và dẫn chân khí theo một đường đi nhất định nhằm mục đích khỏe mạnh.

    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  4. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Nhận thức về tĩnh
    Mục đích tối hậu của tĩnh là gì? Cảnh giới đích thực của tĩnh ra sao? Cũng một vấn đề nhưng mỗi người giải thích một khác.
    Những nhà dưỡng sinh khi bàn đến tĩnh bao giờ cũng đòi hỏi tình trạng an tĩnh, không suy nghĩ gì hết (gọi là nhập định hay nhập tĩnh). Tuy nhiên nhiều người tuy cố gắng nhưng vẫn không đạt được tình trạng tĩnh, trái lại đầu óc vẫn suy nghĩ vẩn vơ, không tìm ra được manh mối giải quyết vấn đề. Thực tế cho thấy tình trạng tĩnh tuyệt đối không thể có mà chúng ta chỉ có thể đạt được tình trạng tĩnh tương đối mà thôi. Thành thử, tĩnh đối với người tập chân khí vận hành chỉ có nghĩa là thân thể an nhiên, tập trung tinh thần vào việc điều chỉnh hô hấp, thúc đẩy chân khí đả thông hai mạch nhâm, đốc rồi sau cùng đả thông toàn thể các kinh lạc.
    Trong tiến trình đạt đến cảnh giới này, thân thể chúng ta trải qua nhiều trạng thái khác nhau. Trong Bản Thảo cương mục, Lý Thời Trân có viết:
    Cảnh tượng khi đi tìm đạo, chỉ những người soi chiếu nội tâm mới thấy được (ý nói phải tập mới biết) [14]
    Khi việc luyện công đạt thành, chân khí trong kinh mạch vận hành không ngừng, những gì hành giả cảm thấy phong phú vượt ra ngoài sự tưởng tượng mà người không tập không thể biết được.
    Thành ra khi đó, tuy bề ngoài tĩnh nhưng bên trong chân khí lưu chuyển, hết sức tích cực, cho nên cái tĩnh đó chỉ là tĩnh tương đối và biểu kiến mà thôi.
    Tĩnh cực sinh động
    Khi đạt tới giai đoạn mà hành giả có thể điều động hệ thần kinh cao cấp để kiểm soát và điều động toàn thể cơ thể, loại trừ được những kích thích của ngoại giới, chỉ tập trung vào sự vận hành chân khí để dẫn chân khí đến bất cứ nơi nào theo ý muốn, nội gia gọi là ?onội quan? hay ?otinh thần nội thủ?. Đầu tiên, để tập trung tư tưởng, những người luyện công thường theo một trong hai phương pháp, quán tưởng pháp là chú ý sự suy nghĩ vào một cảnh giới, hay ý niệm nào đó, và sổ tức pháp, là cách đếm hơi thở để khỏi rơi vào tạp niệm. Những người tu đạo có khi theo phương pháp loại trừ mọi suy nghĩ, gọi là chỉ quán pháp (ngưng các suy nghĩ).
    Tuy dùng nhiều cách khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là làm sao không bị chia trí, chỉ tập trung vào việc dẫn chân khí đi tới những nơi mà hành giả muốn. Chân khí và khả năng chế ngự có quan hệ hỗ tương, chân khí càng nhiều thì sự tập trung tư tưởng càng mạnh, và khi chân khí đầy đủ thì tinh thần cũng thêm an tĩnh, trấn định. Đó chính là tĩnh cực sinh động. Có người dùng câu sấm vang trong núi cũng không sợ (lôi kích sơn nhi bất cụ) để hình dung trạng thái đó.
    Khi đã nhập tĩnh, chân khí vận hành không ngừng, lưu chuyển thiên biến vạn hóa, thân thể ấm áp như gió xuân, trong lòng thoải mái, cái cảm giác mà cổ nhân gọi là lòng tự tại với trăng gió vô biên. Tĩnh hay định đó là trạng thái sung mãn chân khí, tự nhiên không phải là công phu tu tập của con người có niềm tin tôn giáo, mà là sự phát triển của cơ thể. Đó chính là tĩnh động tương kiêm.

    ẢNH HƯỞNG CỦA CHÂN KHÍ VỚI NGŨ TẠNG
    Việc điều chỉnh chân khí và bồi dưỡng chân khí đến đả thông mọi kinh lạc cũng giống như dẫn nước tới các cánh đồng đang nắng hạn, làm cho những tiềm năng còn chìm đắm có dịp phát huy toàn bộ năng lực của cơ thể. Khi các cơ năng đều khỏe mạnh sẽ tương trợ lẫn nhau khiến mọi tạng phủ đều điều hòa, và từ đó cơ thể kiện khang, tinh thần thoải mái. Bệnh tật theo đông y chỉ là sự bất thường của một hay nhiều bộ phận trong cơ thể, và một khi đã điều chỉnh lại sự thất điệu đó, cơ thể sẽ khỏe mạnh.
    Phế tạng
    Phổi nằm trong ngực, về kinh lạc liên quan đến ruột già vì phế kinh và đại trường kinh là một biểu một lý. Trong cơ thể, hai cơ quan này có nhiệm vụ tẩy rửa chất độc, làm cho thân thể sạch sẽ, da dẻ tươi nhuận. Phổi có cửa ngõ là mũi, vừa là một giác quan để biết mùi, vừa là thông đạo để cơ thể hút và thở khí trời. Phổi trợ lực cho tâm tạng trong việc vận chuyển khí huyết và dẫn dưỡng khí đến toàn thân. Phổi còn là nhiệm vụ nối liền các tạng, làm cho việc sinh hoạt giữa các cơ quan được điều hòa.
    Từ khi mới sinh ra đời, phổi liên tục hoạt động không ngừng nghỉ, hút dưỡng khí, nhả thán khí. Việc vận hành chân khí chú trọng khi thở ra giúp cho việc co rút các tế bào, làm gia tăng cơ năng bài trừ thán khí. Thổ cố nạp tân, đúng như tên gọi là đẩy không khí cũ ra và hít không khí mới vào vì thế khi tống ra cốt làm sao không khí ra càng được nhiều càng tốt.
    Phổi chủ về bì mao, trong khi hô hấp, các lỗ chân lông cũng theo đó mà đóng mở, bình thường không thấy cảm giác nhưng đến một trình độ nào đó, tất cả các lỗ chân lông sẽ theo hô hấp mà hoạt động. Trình độ đó khiến cho nội khí và ngoại khí giao hòa với nhau, người ta gọi là thể hô hấp (hô hấp toàn thân). Chính vì nội hô hấp hoạt động mạnh, ngoại hô hấp trở nên nhẹ nhàng, như có như không, do đó hơi thở lúc đó trở nên sâu, nhẹ, đều đặn và dài, bốn đặc điểm quan trọng mà nội gia thường đề cao (thâm, tế, quân, trường). Khi đó, mỗi phút hành giả chỉ còn thở 4, 5 lần, so với bình thường đã giảm đi đến 2/3. Thời gian nghỉ ngơi của phổi tăng lên, nhịp tim đập chậm lại, và sinh lực của phổi tăng lên. Danh từ riêng mà những người luyện đan gọi phép thở này là qui tức (thở như con rùa), cổ nhân vẫn coi là một cách để được trường thọ.
    Tâm tạng
    Tim nằm trong ngực, có bao tim che bên ngoài. Tim là chủ tể cả 12 cơ quan, giữ việc hợp các mạch, khai khiếu ở lưỡi. Tim chủ vận huyết, trung bình co thắt 70 lần mỗi phút để dẫn máu đi khắp cơ thể đem chất bổ nuôi các tế bào. Hoạt động của tim do hệ thần kinh giao cảm chỉ huy và điều tiết. Huyết quản do hệ trực giao cảm và hệ đối giao cảm chỉ huy việc co bóp. Theo nghiên cứu của Viện Y học Thượng Hải (Trung Hoa) khi thở ra hệ đối giao cảm bị khích động, khi hút vào thì hệ trực giao cảm bị khích động. Hai hệ thống đó thay phiên làm việc. Khi điều tức, chúng ta phải chú ý khi thở ra để tăng cường hoạt động co rút của các mạch máu, giúp cho tim dỡ mỏi mệt.
    Những người bị áp huyết cao, tập phép vận hành chân khí sẽ giúp cho áp huyết giảm xuống và dần dần có thể điều hòa trở lại. Chính bệnh phong thấp cũng có liên hệ với tim mạch nên tập luyện cũng làm cho các hạch nội tiết hoạt động điều hòa hơn, giảm bệnh.
    Can tạng
    Gan nằm ở dưới xương sường, bên phải, theo kinh lạc thì gan và mật, một biểu, một lý. Gan khia khiếu ở mắt, giữ nhiệm vụ tàng trữ huyết dịch cho toàn thân, điều tiết các vận động của khớp xương , cùng sự an tĩnh của tâm hồn. Chính thế mà người dạn dĩ được mệnh danh là can đảm.
    Gan ứng với mùa xuân, thuộc mộc, chủ nảy nở. Về sinh lý, gan không nên xung động nhưng cũng không nên ức chế. Nếu gan xung động thì tính tình cấp tháo, dễ nổi nóng, can khí không đủ thì dễ khiếp sợ. Những người bị uất trệ, có bệnh ở gan thường đau nhức ở mạng sườn, phía bên trái vì can khí chạy qua bên trái, huyệt kỳ môn ở cạnh sường đau nhói, dương khí xông lên làm cho miệng đắng, mắt hoa, ăn không ngon, bụng chướng, chân tay bải hoải, tâm tính nóng nảy khó chịu.
    Vận hành chân khí, nhắm mắt điều tức là phương pháp trị liệu tối hảo. Trong ngũ lao thất thương có chứng mắt nảy đom đóm chính là bị thương tổn ở gan nên khi nhắm mắt chính là dưỡng gan. Khi ta chú ý đến thời kỳ thở ra cốt để tâm hỏa hạ giáng. Tâm tạng là con của can (mộc sinh hỏa), bệnh thuộc thực phải tả tử nên vì thế khi tim mạch điều hòa thì gan trở lại quân bình. Can khí bình, xương sườn hết đau, tì khí không còn bị khắc chế khiến bụng không bị chướng nữa.
    Tâm và thận lại tương giao, thận khí trở nên vượng thịnh, gan và thận được bồi dưỡng, ưu phiền cũng giảm xuống, tâm thần trở lại bình thường. Khi theo dõi những bệnh nhân bị can viêm mạn tính, luyện công trong vòng một tháng, chân khi chảy vào đan điền, ăn ngon miệng hơn, bụng bớt chướng. Đến hai tháng thì chân khí sung túc, toàn bộ triệu chứng hoặc hoàn toàn hết, hoặc bớt, gan làm việc trở lại bình thường. Đến tháng thứ ba, kinh lạc toàn thân thông sướng, tinh thần phấn chấn, bệnh dứt hẳn.
    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm​
  5. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    cuonglhvt đã xoá các thông tin không hữu ích (phù hợp với quan điểm của các "anh hùng hảo hán")
    @PU: Vào đây xem nhé: http://vi.wikipedia.org/wiki/Estrogen
    Chú ý: Estrogen làm các tuyến nhờn ở da tiết nhiều dịch vì vậy chất nhờn ở da loãng hơn và có tác dụng chống lại mụn trứng cá.
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 08:24 ngày 14/02/2007
  6. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Tì Vị
    Tì và vị là một biểu, một lý. Dạ dày nhận đồ ăn, còn tì để vận hóa, khai khiếu ở miệng. Việc tiêu hóa đồ ăn để thành chất bổ nuôi cơ thể là một công năng hết sức tinh vi, thăng thanh giáng trọc, là căn nguyên cấu tạo máu huyết. Tất cả cơ thể con người, phủ tạng đều phải được nuôi dưỡng bằng máu huyết nên cổ nhân gọi tì vị là ?ohậu thiên chi bản?.
    Trong bước đầu tiên của phép vận hành chân khí, khi thở ra ta phải chú ý vào tâm oa, chính là vào dạ dày, dẫn tâm hỏa xuống tì vị để gia tăng nhiệt năng. Cho nên sau khi bắt đầu luyện công chừng năm, bảy ngày thì tâm oa có khí nóng chạy đến, đối vời những ai tì vị hư hàn, tiêu hóa kém rất hữu ích. Nhiều người bị bệnh đau dạ dày lâu năm không hết, luyện chân khí dần dần trở lại bình thường. Da dày sa xuống cũng là một chứng nan y, tập chân khí cũng bớt.
    Khi tập vận hành chân khí, nhiệt khí tại dạ dày tăng lên, công năng của tì vị khôi phục. Khi chân khí tại đan điền sung túc, bụng dười đầy đặn có sức, dạ dầy sa xuống được đẩy lên.
    Thận và Mệnh môn
    Thận gồm hai quả, nằm ở sau bụng, giáp hai bên xương sống, cùng với bàng quang một biểu một lý, khai khiếu tại tai. Thận là nơi chứa tinh, là căn nguyên của sinh dục và phát triển, giúp cho việc cấu tạo tủy trong xương, duy trì ngũ dịch và làm cho các tuyến trong cơ thể được điều hòa. Thận đối với việc sinh lý của con người rất quan trọng, là căn bản sinh mệnh nên được gọi là �tiên thiên chi bản�.
    Thận khí sung mãn thì thông minh cơ trí, hành động nhanh nhẹn. Linh Lan Bí Điển Luận trong Tố Vấn viết:
    Thận giả tác cường chi quan, kỹ xảo xuất yên (hành động mạnh mẽ, khéo léo là do thận)
    Theo Nạn Kinh, mệnh môn là nơi cư ngụ của mọi tinh thần, nơi tàng trữ nguyên khí (chư thần tinh chi sở xá, nguyên khí chi sở hệ) là nơi chứa tinh của con trai, là nơi nuôi bào thai của con gái, khí thông với thận. Thận gian động khí là căn nguyên của sinh khí, là căn bản của ngũ tạng lục phủ, gốc của 12 kinh mạch, cửa ngõ của hô hấp, nguồn của tam tiêu. Nếu như mệnh môn suy kiệt thì đời sống cũng hết.
    Trên đây đã định nghĩa mệnh môn và đan điền là một, vận hành chân khí ở bước thứ ba là làm cho chân khí tại đan điền sung mãn, tăng cường công năng của tạng thận, làm cho các chứng hỏa suy, đau lưng, đái dắt, hoặc phụ nữ kinh nguyệt không đều từ từ giảm bớt. Đến bước thứ tư, khi chân khí đã thông được đốc mạch, thận khí chạy về não, bổ ích não tũy, làm cho phần ngoài của não bộ được mạnh mẽ. Nhân đó các chứng mất ngủ, kém trí nhớ, mộng mị và những chứng thần kinh suy nhược sẽ cải thiện rất nhiều.
    Trên quan điểm sinh lý học, sau khi đốc mạch quán thông, tuyết nang thượng thận và não thùy được tăng cường, hai bên hỗ trợ cho nhau rất có ích. Từ đó các cơ quan trong người được khỏe mạnh, thân thể trở nên kiện khang. Cổ nhân có câu:
    Yếu đắc bất lão, hoàn tinh bổ não (muốn cho không già thì phải đem tinh về bổ cho não bộ).
    Vận hành chân khí làm cho mọi cơ quan từ từ cải thiện, và đây là những khái niệm mà chúng tôi lược qua.

    NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI VẬN HÀNH CHÂN KHÍ
    Muốn thực hiện phép vận hành chân khí cần nắm vững các nguyên lý và tiến trình hầu am tường cách vận dụng và theo dõi được các biến chuyển sinh lý. Vì chưng lý luận của Đông Y có nhiều điểm chưa rõ ràng, ngay cả những bộ phận trong cơ thể như tam tiêu, mênh môn, đan điền cũng còn nhiều tranh luận, vấn đề vận hành chân khí và công hiệu đối với tạng phủ chưa được trả lời một cách thỏa đáng. Trong Nội Kinh và Nạn Kinh có giải thích những vấn đề này nhưng chỉ mới trong vòng biện luận chứ chưa được kiểm chứng theo những phương pháp khoa học.
    Đông Y cũng không phải là sản phẩm của một người mà là công trình tập thể, của nhiều đời nên nhiều bộ phận được đặt tên khác nhau, khiến cho vấn đề nghiên cứu ngày nay gặp nhiều trở ngại. Vì thế, phương pháp cụ thể nhất là chính chúng ta tập vận hành chân khí để ấn chứng lại những kinh nghiệm của người xưa, và chính việc thực nghiệm ngay trên cơ thể của chính mình sẽ làm cho chúng ta thấu đáo Nội Kinh và Nạn Kinh dễ dàng hơn.
    Tư thế
    Người mới học vận hành chân khí cần biết thế nào là tư thức đúng để tập luyện vì tư thế không đúng thì chân khí không thể lưu chuyển được dễ dàng. Tuy không câu chấp vào qui luật mà mỗi môn phái đặt ra, nhưng dù sao cũng có một số qui luật mà những người mới tập cần phải theo.
    Luyện tập chân khí có thể theo bốn loại: đó là đi, đứng, ngồi nằm. Trong bốn thức này, ngồi là chính yếu. Các thức khác chỉ là phụ và chỉ áp dụng khi hành giả không thể ngồi. Về phương tiện, cốt sao có chỗ để hành công được lâu mà không bị quấy rầy.
    1) Tọa Thức (ngồi): có hai hình thức tọa công, ngồi xếp bằng hoặc ngồi trên ghế. Ngồi xếp bằng, nhất là ngồi kiết già dễ tê mỏi, nên phương pháp thích hợp nhất cho người mới tập là ngồi trên ghế.
    a) Ngồi xếp bằng: còn gọi là ngồi kiết già (hay song bàn thức), chân phải gác trên đùi trái, chân trái gác lên đùi phải như kiểu ngồi của Phật Thích Ca. Đây là tư thế ổn cố, không bị dao động nhưng hiệu quả cũng không hơn những tư thế khác. Chỉ có điều người ngồi theo kiểu kiết già cảm thấy mình vững chãi hơn và khi gặp những hiện tượng bất thường không bị ngả nghiêng. Ngồi bán già (đơn bàn thức) là cách ngồi giống thế kiết già nhưng chỉ gác một bên chân. Kiểu này dễ hơn ngồi kiết già. Ngồi tự do hay ngồi xếp bằng, chỉ cần xếp hai chân lại theo cách chúng ta thường ngồi hàng ngày. Ba cách trên tùy theo thói quen mỗi người tự chọn lấy, cốt sao thoải mái.
    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm ​
  7. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    b) Ngồi trên ghế: Chọn một ghế vừa tầm sao cho đùi nằm ngang, chân thẳng, hai chân song song để cách nhau vừa hai bàn tay. Hai tay úp xuống để trên đùi. Hai vai hạ xuống, lưng ngay ngắn, không dùng sức, không ưỡn ngực cũng không gù lưng, ngửng hay cúi đầu. Cằm hơi thu vào, đỉnh đầu như treo lên. Thể thái lấy ngay thẳng tự nhiên làm chuẩn. Đây là tư thức thông dụng nhất.
    [​IMG]
    2) Ngọa thức (nằm): Nằm nghiêng về phía phải, chân dưới hơi cong, chân trên co lại, tay phải co lên để dưới đầu như thể gối đầu. Tay trái để xuôi trên mình. Thức này để phụ với thức ngồi, hoặc cho những người bị bệnh không thể ngồi lâu được.
    [​IMG]
    3) Trạm thức (đứng): có nhiều cách nhưng ở đây chỉ giới thiệu một cách dễ dàng nhất, cũng để phụ với tọa thức. Đứng thẳng, hai chân hơi giang ra (khoảng ngang vai), hai tay úp vào bụng đưới, tay trái áp vào bụng, tay phải đè lên tay trái. Vai dể thẳng nhưng cùi chỏ hơi kéo xuống, ngực thu vào, tâm thanh tĩnh, tập trung vào bụng. Tư thế này mượn của phương pháp tập Thái Cực Quyền (tủng kiên, thùy trửu, hàm hung, bạt bối, hư tâm, thực phúc).
    [​IMG]
    4) Hành thức (đi): Khi đi tản bộ, mắt chú ý vào khoảng cách 3 tới 5 bước trước mặt, chú ý vào đầu mũi, giữ không để thần đi ra ngoài. Khi đi thì cứ hai bước một lần thở ra. Nếu chịu khó tập, đây là phương pháp chạy đường xa rất hiệu quả, lâu mà không mệt.
    Ngũ quan
    1) Miệng: Miệng ngậm lại tự nhiên, răng hàm trên đụng với hàm dưới, lưỡi cong lên đầu lưỡi đụng vào hàm trên. Khi nước dãi chảy ra nhiều, lấy lưỡi cuộn lại rồi nuốt đi. Theo Đông y, nước bọt rất quí, lợi tiêu hóa, nhuận tạng phủ. Sách có câu: Khí thị thiên niên dược, Tân thị tục mệnh chi (Khí là thuốc nghìn năm, nước dãi là thuốc làm cho chết đi sống lại)
    2) Mắt: Nhắm mắt lại nhìn vào bên trong (nội thị), luyện đến đâu tưởng tượng như nhìn vào chỗ đó. Chẳng hạn như khi chú ý vào tâm oa (chỗ hõm trên ngực) thì nghĩ đến tâm oa. Khi tọa công nếu thấy tinh thần xao lãng, mở mắt ra nhìn vào đầu mũi để cho tư tưởng chấm dứt rồi lại tiếp tục. Phương pháp này cổ nhân gọi là "tuệ kiếm trảm loạn tư " (kiếm sắc chém tư tưởng loạn).
    3) Tai: Dùng tai chú ý vào hô hấp để cho việc hút thở không gây ra những âm thanh phì phò. Nêu giữ sao cho tự nhiên không để việc hô hấp phải khó khăn và cũng là một phương pháp tập trung tư tưởng rất hay.
    4) Hô hấp: Phương pháp hô hấp liên quan mật thiết đến cách vận hành chân khí. Trong tiến trình đả thông hai mạch nhâm đốc, các bước 1, 2, 3 chỉ chú ý đến giai đoạn thở ra, dẫn chân khí nhập đan điền. Thời kỳ hút vào thuận theo tự nhiên, không để ý như không hề biết tới. Sau khi chân khí đã vào đầy đan điền tự nhiên đốc mạch sẽ được quán thông. Khi đó khi thở ra chân khí chạy vào đan điền, khi hút vào chân khí sẽ từ đan điền chạy lên theo đốc mạch vào não bộ. Đó là trạng thái tự nhiên của chân khí, ngoại và nội hô hấp liên miên bất tuyệt, như có như không, hô hấp càng thêm tự nhiên, không cần phải chú ý đến nữa.
    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm ​
  8. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    cuonglhvt đã xoá các thông tin không hữu ích (phù hợp với quan điểm của các "anh hùng hảo hán")
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 08:24 ngày 14/02/2007
  9. lanpurge

    lanpurge Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/07/2005
    Bài viết:
    4.955
    Đã được thích:
    481
    bác Viên Anh cho hỏi cái, mặt mụn là do tuyến nội tiết nào hỗ trợ vậy ?
  10. Thieu_Lam_Hong_Gia

    Thieu_Lam_Hong_Gia Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/10/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Những điều cần biết khi luyện công
    Muốn luyện tập vận hành chân khí, trước hết phải kiên định niềm tin, không thay đổi, cũng không mong cho chóng thành công, cũng không vì gian khổ mà nản chí. Khi luyện tập cốt tự nhiên, không nên lơi là vọng tưởng, cũng không miễn cưỡng truy cầu để khỏi rơi vào tình trạng dục tốc bất đạt. Nếu như quá mong đợi ắt sẽ nóng nảy càng thêm chậm. Trái lại, nếu thuần theo tự nhiên, chân khí hoạt động càng dễ dàng, tiến bộ càng rõ rệt. Vọng tưởng chỉ càng làm trở ngại thêm vì sẽ gây ra tạp niệm cản trở vận hành của chân khí. Đó chính là "điềm đạm hư vô, chân khí tòng chi" (trong lòng càng bình tĩnh, trống không thì chân khí càng dễ lưu chuyển).
    Trong quá trình luyện công, thân thể sẽ phát sinh nhiều hiện tượng sinh lý, cũng nên coi tự nhiên, đừng sợ hãi. Cũng không nên cầu cho có, thường là tự đến rồi tự đi.
    1) Khi mới tập, nên giữ cho tư tưởng được tập trung. Nếu có được một khu vực an tĩnh là tốt nhất, nhưng không nên quá đặt nặng vào đó. Tuy nhiên, khi luyện công nên tránh để người ngoài làm phiền.
    2) Không nên miễn cưỡng luyện tập một khi no quá, đói quá, giận dữ, kinh sợ. Khi thời tiết có gió bão, mưa, sấm chớp cũng không nên tập vì tinh thần sẽ bị kích thích mãnh liệt, có hại hơn là có lợi.
    3) Ý thủ đan điền (tập trung tư tưởng vào đan điền) là nguyên tắc phải duy trì suốt thời gian hành công, vì đan điền là nơi chân khí tập trung, là bản nguyên của sinh mệnh, không được rời xa. Chú ý vào tâm oa là để chân khí đả thông nhâm mạch, dễ dàng tuôn vào đan điền. Khi chân khí ở đan điền đã sung mãn đến một trình độ nào đó sẽ thuận theo kinh mạch mà vận hành. Sự lưu chuyển đó tùy theo sức mạnh của đan điền. Không nên dùng ý để dẫn khí, mà nên để tự nhiên, cần đi sẽ đi, cần ngừng sẽ ngừng. Dẫn khí theo ý mình dễ đưa tới việc cố gắng quá sức, có thể tổn hại tới hệ thần kinh, tình trạng mà cổ nhân gọi là ?otẩu hỏa nhập ma?.
    4) Khi chân khí hoạt động sẽ phát sinh những hiện tượng thông thường sau đây:
    a) Trong khi vận khí có khi thấy thân thể phồng to. Đó là do sức ức chế của não bộ tăng cường, chân khí thông suốt, các vi ti huyết quản nở ra, làm cho chúng ta có cảm giác các bộ phận nở phì ra.
    b) Cũng có khi thấy thân thể thu nhỏ lại vì chân khí tập trung vào đan điền nên thấy như vậy.
    c) Có khi thấy thân thể nhẹ nhàng như muốn bay lên. Hiện tượng đó thường xẩy ra khi hút vào, vì khi hút vào, chân khí chạy lên, giống như đang đi trên mây vậy.
    d) d) Có khi thân thể nặng như đá đè xuống là do chân khí chạy xuống như võ thuật gia xuống tấn, vì khi thở ra chân khí chạy về đan điền.
    e) Cũng có khi thấy mát mẻ, do hai mạch nhâm đốc tuần hoàn, tâm thận tương giao nên giữa tim và thận thấy mát, thận âm sung túc nên thủy dâng lên.
    f) Có khi thấy nóng và đây là cảm giác thường thấy nhất và cũng dễ chịu hơn cả. Đầu tiên thấy ở tâm oa, sau đó ở đan điền, qua lưng rồi tới chân tay, sau cùng toàn thân vì chân khí vượng thịnh, nhiệt năng tập trung. Trong nhiều nhóm tập luyện công, người ta dùng nhiệt kế để theo dõi thì thấy nhiệt độ trong người có tăng lên từ 1° tới 2° C. Trong tiến trình năm bước luyện công, các vị trí tập trung như tâm oa, đan điền, mệnh môn, bách hội đều tăng lên ít nhiều. Sau khi đốc mạch đã được thông, có người đo tại huyệt bách hội lên đến 38.5° C. Con người sở dĩ khỏe mạnh, thân thể kiện khang là do năng lượng sung túc, và vận hành chân khí chính là một phương thức dùng năng lực bản thân để đề kháng bệnh tật.
    g) Cũng có lúc cảm thấy thân thể ngứa ngáy, là vì các tôn lạc và kinh mạch lâu ngày không được chân khí chạy đến nên khi chân khí sung túc làm thông các mạch do đó tạo ra ngứa ngáy. Khi đó hành giả không nên cào gãi làm trở ngại việc lưu chuyển chân khí. Chỉ nên xoa bóp nhè nhẹ để giúp cho chân khí vận hành thì sẽ bớt đi.
    h) Cũng có khi thấy một vài nơi trên cơ thể như có kiến bò qua, hoặc như điện giật, hoặc rung động đều do chân khi đi qua mà phát sinh.
    Tám hiện tượng trên ngày xưa gọi là ?obát xúc?. Cũng có khi đang hành công thân thể rung chuyển do chân khí quá sung mãn và người tập không nên hoảng hốt, chỉ cần mở mắt hoặc tự kỷ ám thị để đằn xuống một lát sẽ hết.
    Một hiện tượng khác cũng thường có là ánh sáng. Tới một trình độ nào đó, trước mắt hiện ra ánh sáng như một lằn chớp, hoặc như cầu vồng, hoặc chạy theo xương sống lên óc, theo nhâm đốc nhị mạch với tốc độ cao. Những hiện tượng trên chỉ xảy ra trong chốc lát. Nếu ai luyện công đã lâu, huyệt bách hội thấy như có một vầng ánh sáng tụ lại, tùy theo công phu, trình độ mà nhiều hay ít. Ánh sáng, màu sắc, cường độ cũng biến đổi theo từng người. Những hiện tượng trên là do kinh mạch đã thông suốt, điện lực trong người tập trung mà thành. Theo những kết quả đo được trong những chương trình hành công tập thể tại Trung Hoa, điện lực ngoài da cũng tăng lên sau khi hành công. Những người đã đả thông được hai mạch nhâm đốc, khi đo tại huyệt bách hội, trước khi hành công chỉ khoảng 20 MA, sau khi hành công xong có thể lên tới 200 MA, hoặc cao hơn.
    Những hiện tượng trên không có gì kỳ bí, chỉ do chân khí sung túc và có ích cho cơ thể. Nhiều người e ngại, tưởng là một chứng bệnh nên tìm cách trị liệu, người khác lại hiếu kỳ cố đạt cho được những hiện tượng đó, chỉ có hại mà thôi Nếu gặp phải chỉ nên để tự nhiên, bình tĩnh, giữ cho ý tại đan điền sẽ bình thường trở lại.
    Học giả Hồng Viên Anh sưu tầm ​
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này