1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thơ, văn, các bài viết hay về Quảng Ngãi

Chủ đề trong 'Quảng Ngãi' bởi thienansongtra, 06/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Ngưỡng Vọng Quê Hương
    Dù đi góc bể chân trời,
    Quê hương thương nhớ khôn nguôi trong lòng.
    Mẹ già mỏi mắt ngóng trông,
    Vai gầy tóc bạc chờ mong con về.
    Chốn xưa đã nặng lời thề,
    Lòng người gợi nỗi tái tê dặm đường.
    Bể dâu trĩu nặng hành trang,
    Lênh đênh sông nước vượt ngàn gió sương.
    Cầm lên nắm đất quê hương,
    Đâu đây bóng dáng yêu thương một người.
    Mùa về nơi ấy xa xôi,
    Ta như sống lại một thời nhớ nhung.
    Phi lao đôi dãy mới trồng,
    Nhớ ai ai nhớ lạnh lùng gió mưa.
    ------ Vô Danh Vô Tướng ------
  2. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Giữa Sài Gòn hoa lệ, bắt gặp chữ DON trên tấm bảng nho nhỏ treo trước ngôi nhà lọt thỏm giữa những nhà cao tầng, vậy mà làm ta cứ ngơ ngẩn đứng nhìn, chút hương vị quê nhà làm ấm lòng kẻ xa quê. Để rồi thỉnh thoảng, chẳng có việc gì cũng muốn chạy ngang ngôi nhà ấy.
    Giữa Sài Gòn nắng bụi khói xe, chỉ là cái biển số xe 76 vô tri vô giác, vậy mà làm lòng ta dịu lại. Để rồi thành thói quen, ra đường lại căng mắt tìm 76.
    Giữa Sài Gòn nghe được giọng Quảng, lại lân la làm quen để được trò chuyện, nghe giọng quê mà lưu luyến tình đồng hương.
    Giữa Sài Gòn tìm được chút Quảng lại thấy lòng bình yên...
  3. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Giữa Sài Gòn hoa lệ, bắt gặp chữ DON trên tấm bảng nho nhỏ treo trước ngôi nhà lọt thỏm giữa những nhà cao tầng, vậy mà làm ta cứ ngơ ngẩn đứng nhìn, chút hương vị quê nhà làm ấm lòng kẻ xa quê. Để rồi thỉnh thoảng, chẳng có việc gì cũng muốn chạy ngang ngôi nhà ấy.
    Giữa Sài Gòn nắng bụi khói xe, chỉ là cái biển số xe 76 vô tri vô giác, vậy mà làm lòng ta dịu lại. Để rồi thành thói quen, ra đường lại căng mắt tìm 76.
    Giữa Sài Gòn nghe được giọng Quảng, lại lân la làm quen để được trò chuyện, nghe giọng quê mà lưu luyến tình đồng hương.
    Giữa Sài Gòn tìm được chút Quảng lại thấy lòng bình yên...
  4. curio

    curio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2004
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    0
    Trời Saigon mấy hôm nay gay gắt nắng. Cái nóng hầm hập tỏa ra từ hành lang của các công sở nơi các máy lạnh chạy hết công suất, từ mặt đường nhựa như đang bốc khói vì nắng, từ những mái tôn khu phố nghèo nơi tôi sống...
    Đêm về, trong giấc ngủ nhọc nhằn ướt đẫm mồ hôi, tôi mơ thấy những cơn mưa rả rích ở quê nhà.
    Bạn có bao giờ nhìn thấy mưa xuân trên những cánh đồng chưa? Mưa rất nhẹ, như những bức rèm thưa khổng lồ, trong vắt được gió nghịch ngợm kéo ngang qua cánh đồng, hết đợt này đến đợt khác. Những thân lúa đang thì con gái cứ xô đẩy vào nhau, nửa như mừng rỡ nửa như e ấp giữa bức rèm mưa, theo gió làm thành những đợt sóng xanh lao xao kéo nhau chạy dài đến hút tầm mắt rồi bất thần quay lại, xao động không ngừng...
    Từ ngôi nhà mình ở cuối cánh đồng, trong một sáng mưa xuân như thế vào năm trước, tôi nhìn thấy từ rất xa một bóng người dắt xe cắm cuối đi lại rồi rẽ vào ngõ nhà. Thật bất ngờ và cảm động cho tôi, đó là Thầy giáo cũ, nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Được biết học trò về quê ăn Tết, có lên thăm mà không gặp, Thầy lặn lội đường mưa đến thăm trò. Chuyện trò với Thầy bao giờ cũng thú vị bởi sự uyên bác mà khiêm tốn, lịch duyệt mà chân tình của Thầy. Thầy dạy tôi một câu tiếng Pháp mà vốn tiếng Pháp gần như bằng không của tôi không tài nào hiểu và nhớ được(xin Thầy thứ lỗi!), chỉ biết đại ý : Có phải chăng thiên đường đã mất? Không, thiên đường đó sẽ tái sinh trong ký ức của chúng ta ....
    Tiễn Thầy về rồi, lòng ngập tràn xúc động, tôi viết những câu sau trong bài Mưa quê hương, sau này may mắn được Thầy khen, không biết có phải là "Mẹ khen con hát hay"?! :
    Rơi đều từng giọt quê hương
    Về đây trăm nhớ ngàn thương một ngày''''
    Giọt buồn từ dạo heo may
    Giọt vui từ thuở thơ ngây học trò
    Về đây lòng chẳng đợi chờ
    Thiên đường đã mất, bây giờ tái sinh
    Phải chăng ký ức còn xanh
    Ngậm từng hạt nước mà thành lung linh ?
    Hay từ câu chuyện tâm tình
    Rì rào không ngớt mà thành cơn mưa?
    Giờ đây, cơn mưa ấy là ký ức. Nhưng chỉ một lần ký ức được tái sinh cũng đủ làm mát lòng tôi giữa nắng nóng Saigon.
    Được curio sửa chữa / chuyển vào 19:04 ngày 21/03/2005
  5. curio

    curio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2004
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    0
    Trời Saigon mấy hôm nay gay gắt nắng. Cái nóng hầm hập tỏa ra từ hành lang của các công sở nơi các máy lạnh chạy hết công suất, từ mặt đường nhựa như đang bốc khói vì nắng, từ những mái tôn khu phố nghèo nơi tôi sống...
    Đêm về, trong giấc ngủ nhọc nhằn ướt đẫm mồ hôi, tôi mơ thấy những cơn mưa rả rích ở quê nhà.
    Bạn có bao giờ nhìn thấy mưa xuân trên những cánh đồng chưa? Mưa rất nhẹ, như những bức rèm thưa khổng lồ, trong vắt được gió nghịch ngợm kéo ngang qua cánh đồng, hết đợt này đến đợt khác. Những thân lúa đang thì con gái cứ xô đẩy vào nhau, nửa như mừng rỡ nửa như e ấp giữa bức rèm mưa, theo gió làm thành những đợt sóng xanh lao xao kéo nhau chạy dài đến hút tầm mắt rồi bất thần quay lại, xao động không ngừng...
    Từ ngôi nhà mình ở cuối cánh đồng, trong một sáng mưa xuân như thế vào năm trước, tôi nhìn thấy từ rất xa một bóng người dắt xe cắm cuối đi lại rồi rẽ vào ngõ nhà. Thật bất ngờ và cảm động cho tôi, đó là Thầy giáo cũ, nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Được biết học trò về quê ăn Tết, có lên thăm mà không gặp, Thầy lặn lội đường mưa đến thăm trò. Chuyện trò với Thầy bao giờ cũng thú vị bởi sự uyên bác mà khiêm tốn, lịch duyệt mà chân tình của Thầy. Thầy dạy tôi một câu tiếng Pháp mà vốn tiếng Pháp gần như bằng không của tôi không tài nào hiểu và nhớ được(xin Thầy thứ lỗi!), chỉ biết đại ý : Có phải chăng thiên đường đã mất? Không, thiên đường đó sẽ tái sinh trong ký ức của chúng ta ....
    Tiễn Thầy về rồi, lòng ngập tràn xúc động, tôi viết những câu sau trong bài Mưa quê hương, sau này may mắn được Thầy khen, không biết có phải là "Mẹ khen con hát hay"?! :
    Rơi đều từng giọt quê hương
    Về đây trăm nhớ ngàn thương một ngày''''
    Giọt buồn từ dạo heo may
    Giọt vui từ thuở thơ ngây học trò
    Về đây lòng chẳng đợi chờ
    Thiên đường đã mất, bây giờ tái sinh
    Phải chăng ký ức còn xanh
    Ngậm từng hạt nước mà thành lung linh ?
    Hay từ câu chuyện tâm tình
    Rì rào không ngớt mà thành cơn mưa?
    Giờ đây, cơn mưa ấy là ký ức. Nhưng chỉ một lần ký ức được tái sinh cũng đủ làm mát lòng tôi giữa nắng nóng Saigon.
    Được curio sửa chữa / chuyển vào 19:04 ngày 21/03/2005
  6. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Mẹ ơi!
    Đường phố nơi đây,
    Rộng và xa lạ quá,
    Chiều nắng về hoang lạnh cả lối đi.
    Tuổi 26,
    Con cầm trên tay được gì?
    Ước mơ và hạnh phúc,
    Đánh đổi xứ người một nỗi nhớ hanh hao.
    Đem vào thơ con,
    Nghe lạnh,
    Nghe mong manh nét nhớ.
    Thương đám mây vật vờ,
    Trôi giạt phía quê hương.
  7. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Mẹ ơi!
    Đường phố nơi đây,
    Rộng và xa lạ quá,
    Chiều nắng về hoang lạnh cả lối đi.
    Tuổi 26,
    Con cầm trên tay được gì?
    Ước mơ và hạnh phúc,
    Đánh đổi xứ người một nỗi nhớ hanh hao.
    Đem vào thơ con,
    Nghe lạnh,
    Nghe mong manh nét nhớ.
    Thương đám mây vật vờ,
    Trôi giạt phía quê hương.
  8. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Có một người bạn ở hải ngoại đã gởi cho TAST truyện ngắn Bên Kia Sông của tác giả Tạ Cự Hải - cựu học sinh Trần Quốc Tuấn. Câu chuyện kể về mối tình ở một vùng quê tại Quảng Ngãi khá hay, vì vậy TAST post lên để mọi người thưởng thức nhé.
    BÊN KIA SÔNG
    Truyện ngắn của Tạ Cự Hải ​
    Quê tôi ở gần cửa biển. Phần đông dân chúng trong vùng sống bằng nghề chài lưới. Một số người buôn bán lẻ tẻ. Vài gia đình giàu có, họ cũng có ruộng muối và ghe thuyền lớn như cha tôi. Trước nhà là một con sông rộng, nước trong xanh chảy từ các miền núi cao, quanh co qua các làng mạc. Khi đến gần cửa biển Sa-Kỳ, dòng sông lại mở thêm một nhánh nữa, chan hòa với sông Mỹ-Khê để chảy về cửa Cổ-Lũy. Hàng ngày từ sáng sớm, trên sông đã có bao nhiêu thuyền bè qua lại. Thuyền đánh cá từ cửa biển vào. Các bè rớ đánh cá trên sông. Một số thuyền nhỏ thả neo giữa dòng buông câu. Những thuyền buôn lớn nhỏ đậu ven bờ. Và những chuyến đò ngang đưa khách qua bên kia sông, phía bờ An-Vĩnh. Mỗi ngày là một hoạt cảnh. Tiếng người qua lại trên đường, tiếng sóng vỗ nhẹ khi con nước lớn, xen lẫn với tiếng reo hò của trẻ con bơi lội chỗ bờ cạn gần nhà. Bao nhiêu thứ ấy đã đem lại cho bến Sa-Kỳ sự sinh động rộn ràng và nhộn nhịp. Vào cuối ngày, những sinh hoạt của phố thị hầu như ngưng lại. Thuở thiếu thời, tôi thường leo vào chiếc thúng nhỏ, dạu mái chèo bơi qua phía bên kia sông. Tôi thường cập chiếc thúng nhỏ sát bờ và trèo lên ngồi dựa vào bờ chuối, từ phía An-Vĩnh ngắm ngược bến Sa-Kỳ ở bên kia sông. Những buổi chiều như vậy thường trôi rất chậm, êm đềm và nên thơ qua tuổi nhỏ của đời tôi. Có lúc tôi nghiêng đầu ngắm về mạn ngược phía Mỹ-Khê. Những cơn ráng hồng ở cuối chân trời đỏ rực hơn cả những hàng phượng vĩ mùa hè ở cuối sân đình. Ðôi khi tôi lại quay nhìn về phía cửa biển. Dòng sông vẫn cứ lầm lì chảy mãi vào vùng nước quá mênh mômg, thăm thẳm. Lắm lúc tôi phân vân tự hỏi sau này lớn lên mình sẽ đi về hướng nào, phía chân trời ráng đỏ hay theo con nước xuôi thuyền về miền biển khơi. Khi cơn ráng hồng đã bắt đầu ngã sang màu tím, tôi lại leo xuống chiếc thúng, quạt nước bơi về phía bên kia. Dòng sông nước lợ về chiều thường thoáng hơi lạnh. Những giọt nước vội vã tấp vào mạng thúng, bắn vào mặt, lưu lại một cảm giác lạ kỳ, vừa mặn, vừa ngọt như nước chanh muối.
    Ấy vậy mà thời gian qua nhanh như thoi đưa. Tôi theo chị tôi lên tỉnh đi học đã hơn bốn năm rồi. Tôi thật vô tình. Tôi đành đoạn bỏ lại đằng sau một con sông nước lợ, một chiếc thúng nhỏ, một bờ chuối, bao chuyến đò ngang về An-Vĩnh, cả một bến sông và những buổi trời chiều ráng đỏ ở phương tây. Tỉnh lỵ có sức quyến rũ lạ lùng. Nó cho tôi những thứ đồ vật và cảm xúc mà tôi chẳng thể nào tìm thấy được ở bến Sa-Kỳ. Những văn minh của một thành phố đang phát triển, những ngọn đèn điện trên đường phố đêm, tiếng nhạc tha thiết từ một quán nhỏ cuối đường, và nhất là những niềm hy vọng về một tương lai nào đó cho mình đã làm tôi không còn nghĩ gì đến miền quê yêu dấu.
    Mùa hè năm ấy, vì công việc làm ăn bề bộn, cha mẹ tôi gọi tôi về quê phụ việc sổ sách. Tôi đã mười sáu và đãõ mơ mộng ít nhiêu. Tôi đã biết mê chuyện nàng Chimène và chàng Don Rodrigue trong kịch Le Cid. Tôi cũng đã đọc nhiều sách của Tự Lực Văn Ðoàn. Thôi thì về lại bến Sa-Kỳ giúp cha mẹ một mùa hè, thong thả ở miền quê một thời gian cũng là một điều hay. Con đường dẫn về làng kỳ này sao cũng có vẻ nên thơ hơn những mùa trước. Khi xe sắp qua cầu Trà-Khúc, tôi bỗng chú ý đến ngôi chùa trên đỉnh núi Thiên-Ấn, trông tựa như chùa Long-Giáng trong Hồn **** Mơ Tiên của Khái Hưng, Tôi thả hồn theo trí tưởng tượng của mình và chiếc xe đò vẫn kiên nhẫn lăn trên con đường đất chạy dọc theo bờ sông với hàng phi lao gió thoảng rì rào. Ở lại bến Sa-Kỳ, thường ngày tôi lo phụ việc sổ sách với cha tôi. Thỉnh thoảng tôi theo cha ra thăm mấy khu ruộng muối cuả gia đình. Cũng lạ, hồi còn học trường làng, tôi không hề để ý đến phẩm chất của muối. Ðôi khi tôi lượm một viên muối bỏ vào miệng ngậm lại để có cái cảm giác vừa ấm áp vừa mặn nồng đến chảy nước bọt. Cái vị mặn nồng đó thường lưu luyến mãi đến cuối ngày. Bây giờ tôi nhìn xuống ruộng muối, hàng vạn hàng triệu tinh thể lấp lánh dưới ánh mặt trời gợi trong tôi một thứ cảm tưởng rất khó giải thích, vừa xao xuyến, vừa văn minh, vừa mầu nhiệm làm sao. Dường như là dù có lưu lạc bao lâu và xa cách đến bằng nào, một khi đã nhấm vào rồi, khó ai có thể quên được cái mùi vị đó của muối. Chiều chiều sau khi xong việc, tôi thường nhảy vội lên chuyến đò ngang cuối ngày sang bên phía bờ An-Vĩnh. Tôi thường đến ngồi dựa vào hàng chuối ngày xưa, hết nhìn về chân trời tây, lại thả hồn theo mấy cánh buồm xuôi về cửa biển. Người ta đang làm gì ở cuối chân trời, đang nghĩ gì ở phía bên kia bờ đại dương, và sao tôi lại cảm thấy lẻ loi một cách êm ái như thế này. Tôi đứng dậy định đi về phía bến đò để kịp qua sông chuyến cuối cùng thì có tiếng hỏi phía sau lưng:
    -Có phải anh Quang đó không? Anh về lâu lắc lâu lơ rồi phải hông?
    Tôi quay lại đáp một cách dò hỏi, bàn tay chỉ bâng quơ về phía người con gái:
    -Ừ, có phải..., mà sao?...
    -Hường đây nè, còn nhớ Hường hông? Bộ quên người ta rồi hả? Hồi trước Hường với thằng Chánh cà thọt, tụi này hay chạy theo rình phá anh phía sau bờ chuối đây nè, nhớ ra chưa?
    Tôi ầm ừ và nhìn cô gái từ đầu đến chân. Hường bây giờ có đôi mắt đen to và long lanh. Hàng răng khá đều. Tóc đã kẹp qua một bên, để lộ trái tai có đeo hột. Cổ tay trắng mướt có mang mấy sợi dây cườm nhiều màu. Chiếc quần nylon đen quấn quít phần trên, gợi cảm. Tôi buột miệng:
    -Nhớ rồi. Hường con chú Bảy Thới đó mà. Mà chú thím ra sao? Còn Hường học lớp mấy rồi, trường nào?
    Hường mân mê mấy ngón tay vào vạt áo và dịu giọng:
    -Ba em ra biển và không thấy trở về. Ðã hai năm mấy rồi, không biết số phận ra sao. Em không thể đi học xa, phải ở đây giúp mẹ nuôi em.
    Tôi đưa hai tay lên trời:
    -Có nghe ai nói gì đâu. Tội cho thím, tội cho Hường quá.
    Hường di mấy đầu ngón chân trên đất và nói như trách móc:
    -Mà anh đi đâu biệt tích vậy? Mấy lần có chuyện qua bên kia sông, tấp lại bến Sa-Kỳ, ngang nhà anh, gặp bác Hương, em định hỏi thăm về anh, nhưng em ngại sao đó và cũng thấy kỳ kỳ nên lại thôi. Rốt cuộc em nói mấy câu lãng xẹt rồi dông mất. Có lần em nghe tiếng mẹ anh nói với theo:con nhỏ độ này lớn dẫu đa. Coi cũng ngộ. Em vừa sung sướng vừa bâng khuâng gì đâu. Em gạt chèo bơi thúng qua sông mà thấy nao nao trong lòng.
    -Mà em hỏi mẹ anh để làm gì?
    Tôi hỏi giả ngu.Hường bĩu môi như hờn mát:
    -Khi cô đơn thì nghĩ đến anh vậy thôi. Em cũng không biết nữa. Tự nhiên nghĩ đến anh, kể cũng kỳ. Thôi nghỉ chơi anh đi.
    Tôi nhìn ra dòng sông. Từng cơn gió thoảng mát mang theo hương vị mặn nồng và lành lạnh. Bên kia sông, khu nhà tôi đã lên đèn từ hồi nào. Tôi cảm thấy thương Hường rạt rào. Tôi quay lại nói nhỏ vào tai nàng:
    -Anh thương em lắm. Tối quá rồi, anh phải về. Tối mai bảy giờ mình gặp lại ở đây được không?
    Hường vừa nguýt vừa phụng phịu:
    -Em hổng có đồng hồ, làm sao mà biết giờ. Mà gặp làm gì nữa đây. Dữ hông, đi cho cố. Thôi để em lấy thúng chèo anh qua bển.
    Tôi gạt tay nói nhanh:
    -Khỏi cần, anh đi một mình được rồi. Thôi em về đi kẻo lạnh. Mai gặp.
    Hường đi rồi tôi mới thấy bối rối. Trời tối, không đò, không thúng, làm sao tôi qua sông đây? Một ý nghĩ chợt thoáng trong đầu và tôi bật cười khan. Tôi đến dựa vào thân cây chuối, tuột hết áo quần, buộc lại đội lên đầu, rồi tôi rủng rỉnh đi xuống phía bờ sông. Nước sông vừa lạnh vừa ấm. Tôi lần theo thềm sông đi ra khá xa cho đến khi gần hụt chân. Một tay giữ gói quần áo trên đầu, tay kia quạt nước, tôi bơi đứng về phía bên kia bờ. Thỉnh thoảng nước tạt vào miệng, vào mắt, vừa mặn vừa cay. Tôi ngoái cổ nhìn lại phía bờ An-Vĩnh, không thấy Hường, chỉ thấy bóng đêm.
    (Còn tiếp)
  9. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Có một người bạn ở hải ngoại đã gởi cho TAST truyện ngắn Bên Kia Sông của tác giả Tạ Cự Hải - cựu học sinh Trần Quốc Tuấn. Câu chuyện kể về mối tình ở một vùng quê tại Quảng Ngãi khá hay, vì vậy TAST post lên để mọi người thưởng thức nhé.
    BÊN KIA SÔNG
    Truyện ngắn của Tạ Cự Hải ​
    Quê tôi ở gần cửa biển. Phần đông dân chúng trong vùng sống bằng nghề chài lưới. Một số người buôn bán lẻ tẻ. Vài gia đình giàu có, họ cũng có ruộng muối và ghe thuyền lớn như cha tôi. Trước nhà là một con sông rộng, nước trong xanh chảy từ các miền núi cao, quanh co qua các làng mạc. Khi đến gần cửa biển Sa-Kỳ, dòng sông lại mở thêm một nhánh nữa, chan hòa với sông Mỹ-Khê để chảy về cửa Cổ-Lũy. Hàng ngày từ sáng sớm, trên sông đã có bao nhiêu thuyền bè qua lại. Thuyền đánh cá từ cửa biển vào. Các bè rớ đánh cá trên sông. Một số thuyền nhỏ thả neo giữa dòng buông câu. Những thuyền buôn lớn nhỏ đậu ven bờ. Và những chuyến đò ngang đưa khách qua bên kia sông, phía bờ An-Vĩnh. Mỗi ngày là một hoạt cảnh. Tiếng người qua lại trên đường, tiếng sóng vỗ nhẹ khi con nước lớn, xen lẫn với tiếng reo hò của trẻ con bơi lội chỗ bờ cạn gần nhà. Bao nhiêu thứ ấy đã đem lại cho bến Sa-Kỳ sự sinh động rộn ràng và nhộn nhịp. Vào cuối ngày, những sinh hoạt của phố thị hầu như ngưng lại. Thuở thiếu thời, tôi thường leo vào chiếc thúng nhỏ, dạu mái chèo bơi qua phía bên kia sông. Tôi thường cập chiếc thúng nhỏ sát bờ và trèo lên ngồi dựa vào bờ chuối, từ phía An-Vĩnh ngắm ngược bến Sa-Kỳ ở bên kia sông. Những buổi chiều như vậy thường trôi rất chậm, êm đềm và nên thơ qua tuổi nhỏ của đời tôi. Có lúc tôi nghiêng đầu ngắm về mạn ngược phía Mỹ-Khê. Những cơn ráng hồng ở cuối chân trời đỏ rực hơn cả những hàng phượng vĩ mùa hè ở cuối sân đình. Ðôi khi tôi lại quay nhìn về phía cửa biển. Dòng sông vẫn cứ lầm lì chảy mãi vào vùng nước quá mênh mômg, thăm thẳm. Lắm lúc tôi phân vân tự hỏi sau này lớn lên mình sẽ đi về hướng nào, phía chân trời ráng đỏ hay theo con nước xuôi thuyền về miền biển khơi. Khi cơn ráng hồng đã bắt đầu ngã sang màu tím, tôi lại leo xuống chiếc thúng, quạt nước bơi về phía bên kia. Dòng sông nước lợ về chiều thường thoáng hơi lạnh. Những giọt nước vội vã tấp vào mạng thúng, bắn vào mặt, lưu lại một cảm giác lạ kỳ, vừa mặn, vừa ngọt như nước chanh muối.
    Ấy vậy mà thời gian qua nhanh như thoi đưa. Tôi theo chị tôi lên tỉnh đi học đã hơn bốn năm rồi. Tôi thật vô tình. Tôi đành đoạn bỏ lại đằng sau một con sông nước lợ, một chiếc thúng nhỏ, một bờ chuối, bao chuyến đò ngang về An-Vĩnh, cả một bến sông và những buổi trời chiều ráng đỏ ở phương tây. Tỉnh lỵ có sức quyến rũ lạ lùng. Nó cho tôi những thứ đồ vật và cảm xúc mà tôi chẳng thể nào tìm thấy được ở bến Sa-Kỳ. Những văn minh của một thành phố đang phát triển, những ngọn đèn điện trên đường phố đêm, tiếng nhạc tha thiết từ một quán nhỏ cuối đường, và nhất là những niềm hy vọng về một tương lai nào đó cho mình đã làm tôi không còn nghĩ gì đến miền quê yêu dấu.
    Mùa hè năm ấy, vì công việc làm ăn bề bộn, cha mẹ tôi gọi tôi về quê phụ việc sổ sách. Tôi đã mười sáu và đãõ mơ mộng ít nhiêu. Tôi đã biết mê chuyện nàng Chimène và chàng Don Rodrigue trong kịch Le Cid. Tôi cũng đã đọc nhiều sách của Tự Lực Văn Ðoàn. Thôi thì về lại bến Sa-Kỳ giúp cha mẹ một mùa hè, thong thả ở miền quê một thời gian cũng là một điều hay. Con đường dẫn về làng kỳ này sao cũng có vẻ nên thơ hơn những mùa trước. Khi xe sắp qua cầu Trà-Khúc, tôi bỗng chú ý đến ngôi chùa trên đỉnh núi Thiên-Ấn, trông tựa như chùa Long-Giáng trong Hồn **** Mơ Tiên của Khái Hưng, Tôi thả hồn theo trí tưởng tượng của mình và chiếc xe đò vẫn kiên nhẫn lăn trên con đường đất chạy dọc theo bờ sông với hàng phi lao gió thoảng rì rào. Ở lại bến Sa-Kỳ, thường ngày tôi lo phụ việc sổ sách với cha tôi. Thỉnh thoảng tôi theo cha ra thăm mấy khu ruộng muối cuả gia đình. Cũng lạ, hồi còn học trường làng, tôi không hề để ý đến phẩm chất của muối. Ðôi khi tôi lượm một viên muối bỏ vào miệng ngậm lại để có cái cảm giác vừa ấm áp vừa mặn nồng đến chảy nước bọt. Cái vị mặn nồng đó thường lưu luyến mãi đến cuối ngày. Bây giờ tôi nhìn xuống ruộng muối, hàng vạn hàng triệu tinh thể lấp lánh dưới ánh mặt trời gợi trong tôi một thứ cảm tưởng rất khó giải thích, vừa xao xuyến, vừa văn minh, vừa mầu nhiệm làm sao. Dường như là dù có lưu lạc bao lâu và xa cách đến bằng nào, một khi đã nhấm vào rồi, khó ai có thể quên được cái mùi vị đó của muối. Chiều chiều sau khi xong việc, tôi thường nhảy vội lên chuyến đò ngang cuối ngày sang bên phía bờ An-Vĩnh. Tôi thường đến ngồi dựa vào hàng chuối ngày xưa, hết nhìn về chân trời tây, lại thả hồn theo mấy cánh buồm xuôi về cửa biển. Người ta đang làm gì ở cuối chân trời, đang nghĩ gì ở phía bên kia bờ đại dương, và sao tôi lại cảm thấy lẻ loi một cách êm ái như thế này. Tôi đứng dậy định đi về phía bến đò để kịp qua sông chuyến cuối cùng thì có tiếng hỏi phía sau lưng:
    -Có phải anh Quang đó không? Anh về lâu lắc lâu lơ rồi phải hông?
    Tôi quay lại đáp một cách dò hỏi, bàn tay chỉ bâng quơ về phía người con gái:
    -Ừ, có phải..., mà sao?...
    -Hường đây nè, còn nhớ Hường hông? Bộ quên người ta rồi hả? Hồi trước Hường với thằng Chánh cà thọt, tụi này hay chạy theo rình phá anh phía sau bờ chuối đây nè, nhớ ra chưa?
    Tôi ầm ừ và nhìn cô gái từ đầu đến chân. Hường bây giờ có đôi mắt đen to và long lanh. Hàng răng khá đều. Tóc đã kẹp qua một bên, để lộ trái tai có đeo hột. Cổ tay trắng mướt có mang mấy sợi dây cườm nhiều màu. Chiếc quần nylon đen quấn quít phần trên, gợi cảm. Tôi buột miệng:
    -Nhớ rồi. Hường con chú Bảy Thới đó mà. Mà chú thím ra sao? Còn Hường học lớp mấy rồi, trường nào?
    Hường mân mê mấy ngón tay vào vạt áo và dịu giọng:
    -Ba em ra biển và không thấy trở về. Ðã hai năm mấy rồi, không biết số phận ra sao. Em không thể đi học xa, phải ở đây giúp mẹ nuôi em.
    Tôi đưa hai tay lên trời:
    -Có nghe ai nói gì đâu. Tội cho thím, tội cho Hường quá.
    Hường di mấy đầu ngón chân trên đất và nói như trách móc:
    -Mà anh đi đâu biệt tích vậy? Mấy lần có chuyện qua bên kia sông, tấp lại bến Sa-Kỳ, ngang nhà anh, gặp bác Hương, em định hỏi thăm về anh, nhưng em ngại sao đó và cũng thấy kỳ kỳ nên lại thôi. Rốt cuộc em nói mấy câu lãng xẹt rồi dông mất. Có lần em nghe tiếng mẹ anh nói với theo:con nhỏ độ này lớn dẫu đa. Coi cũng ngộ. Em vừa sung sướng vừa bâng khuâng gì đâu. Em gạt chèo bơi thúng qua sông mà thấy nao nao trong lòng.
    -Mà em hỏi mẹ anh để làm gì?
    Tôi hỏi giả ngu.Hường bĩu môi như hờn mát:
    -Khi cô đơn thì nghĩ đến anh vậy thôi. Em cũng không biết nữa. Tự nhiên nghĩ đến anh, kể cũng kỳ. Thôi nghỉ chơi anh đi.
    Tôi nhìn ra dòng sông. Từng cơn gió thoảng mát mang theo hương vị mặn nồng và lành lạnh. Bên kia sông, khu nhà tôi đã lên đèn từ hồi nào. Tôi cảm thấy thương Hường rạt rào. Tôi quay lại nói nhỏ vào tai nàng:
    -Anh thương em lắm. Tối quá rồi, anh phải về. Tối mai bảy giờ mình gặp lại ở đây được không?
    Hường vừa nguýt vừa phụng phịu:
    -Em hổng có đồng hồ, làm sao mà biết giờ. Mà gặp làm gì nữa đây. Dữ hông, đi cho cố. Thôi để em lấy thúng chèo anh qua bển.
    Tôi gạt tay nói nhanh:
    -Khỏi cần, anh đi một mình được rồi. Thôi em về đi kẻo lạnh. Mai gặp.
    Hường đi rồi tôi mới thấy bối rối. Trời tối, không đò, không thúng, làm sao tôi qua sông đây? Một ý nghĩ chợt thoáng trong đầu và tôi bật cười khan. Tôi đến dựa vào thân cây chuối, tuột hết áo quần, buộc lại đội lên đầu, rồi tôi rủng rỉnh đi xuống phía bờ sông. Nước sông vừa lạnh vừa ấm. Tôi lần theo thềm sông đi ra khá xa cho đến khi gần hụt chân. Một tay giữ gói quần áo trên đầu, tay kia quạt nước, tôi bơi đứng về phía bên kia bờ. Thỉnh thoảng nước tạt vào miệng, vào mắt, vừa mặn vừa cay. Tôi ngoái cổ nhìn lại phía bờ An-Vĩnh, không thấy Hường, chỉ thấy bóng đêm.
    (Còn tiếp)
  10. thienansongtra

    thienansongtra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    2
    Bên Kia Sông (tiếp theo)
    Những đêm hè năm ấy, tôi đội áo quần bơi đứng qua bên kia sông gặp Hường nhiều lần. Một thứ tình cảm tuổi nhỏ nẩy nở theo những nụ hôn đầu, ngây thơ, vô tội. Rất nhiều hiếu kỳ, một chút xao xuyến, ít nhiều lưu luyến, chẳng hứa hẹn và cũng không dự định. Mùa hè rồi cũng qua đi và trôi vào quên lãng sau khi tôi khăn gói trở về lại tỉnh lỵ. Phần vì bận rộn với sách vở, phần vì bị lôi cuốn bởi ánh sáng thị thành, tôi không còn nghĩ gì về một mùa hè năm trước. Tôi bắt đầu để ý đến nhửng dáng kiều của thành phố và tôi dần dà làm quen với một nữ sinh cùng trường, học sau tôi hai lớp. Người con gái tên Nguyễn Thị Trà-Khúc, mang tên của dòng sông quê hương ấy, trong phút chốc đã chiếm trọn đầu óc và tâm hồn tôi. Suối tóc ấy, vầng trán bình yên ấy, đôi mắt buồn thăm thẳm ấy, cánh mũi phảng phất nét tây phương ấy, đôi môi khiêu khích ấy, hai bàn tay ngọc ngà ấy, và nhất là dáng đi tha thướt ấy, tất cả như có một thứ ma lực lôi kéo tôi đi theo nàng trên nhiều quãng đường dài. Tôi yêu nàng. Phải nói là tôi si mê nàng. Tôi nhất quyết phải chiếm cho bằng được trái tim của nàng. Tôi theo nàng và đánh bạo tỏ tình cùng nàng. Nàng lạnh nhạt và hất hủi tôi rất nhiều. Nhưng tôi yêu nàng. Trời ơi, tôi yêu nàng đến điên cuồng. Tôi biếng ăn mất ngủ, lười học cũng vì nàng. Tôi muốn bịnh cũng vì nàng. Chị tôi cũng nhận ra điều ấy. Hậu quả tất nhiên là tôi trượt kỳ thi tú tài. Chị tôi an ủi tôi và hứa sẽ thu xếp việc này giúp tôi. Tôi là con trai út và duy nhất trong nhà nên cha mẹ tôi cũng muốn tôi lập gia đình sớm để có con trai nối dõi tông đường. Chị bảo hãy tin ở tài năng của chị. Tôi hoàn toàn phó thác tình tôi cho chị.
    Quê của Trà-Khúc cách làng tôi khoảng nửa ngày đường về hướng bắc. Quê nàng cũng là một làng ven biển.Cha nàng là một phú hộ khá giả trong vùng, cũng tương tự như cha tôi ở Sa-Kỳ. Cha tôi chẳng những là một điền chủ có nhiều ruộng muối mà còn là một thương gia có thuyền buôn lớn theo ngã sông Hồng Hà ra tận Nam-Ðịnh ngoài bắc, hoặc xuôi về nam, ngược dòng Cửu Long lên tận Nam Vang xứ Chùa Tháp. Hai gia đình trông rất môn đăng hộ đối. Thành thử chẳng mấy chốc mà chị tôi đã thu xếp cho người mai mối đến nhà Trà-Khúc xin làm lễ cầu hôn. Ở thế hệ của tôi thuở ấy, việc cưới gả theo phép môn đăng hộ đối là chuyện bình thường. Do đó nhà gái nhận lời. Thế là mùa hè năm ấy tôi theo cha mẹ và chị tôi ra tận Bình-Châu rước dâu về và Trà-Khúc trở thành vợ tôi. Ngày cưới nàng không vui, nét mặt bình thảng đến lạnh lùng. Nàng vâng lời cha mẹ theo về nhà chồng. Nhưng tôi chẳng cần quan tâm đến. Tôi rất vui và mãn nguyện vì tôi đã đạt được điều tôi mong muốn từ bấy lâu. Vợ chồng tôi ở một căn nhà biệt lập, cách khu tiền đường một khoảnh vườn. Chung quanh nhà có những khoảng tường gỗ có cửa sổ và chấn song bên trên nên đôi khi có ánh trăng lọt vào phòng rất nên thơ. Ðêm động phòng, Trà-Khúc nằm quay mặt vào tường. Tôi đưa tay sờ nhẹ vào lưng nàng. Tuyệt nhiên không một phản ứng. Tôi phấn khởi lần tay đến dải lưng rút, nàng bỗng ngồi bật dậy, tay trái giữ chặt lưng quần, tay phải giương cao với một chiếc kéo. Qua ánh trăng, mắt nàng long lên. Tôi thấy mình nhích lại phía sau, đợi chờ một sự bất hạnh. Nàng có thể đâm tôi chăng? Tôi nín thở. Nhưng nàng bỗng nói nhanh một hơi và quyết liệt:
    -Không. Không. Tôi với ông không có tình nghĩa vợ chồng gì cả. Ông muốn cưới tôi. Cha mẹ tôi muốn tôi lấy ông, tôi vâng lời. Nhưng ông không được đụng vào người tôi. Tôi không thương ông, ông đã thừa biết từ đầu. Ông vẫn cố ép duyên tôi. Tôi đã có người thương. Ông phá tan nát tình yêu của tụi tôi. Tôi với ông chỉ như hai người dưng, ông rõ chưa? Ông mà đụng vào người tôi, tôi sẽ đâm cổ tôi tự tử. Ông độc ác lắm. Tôi thù ông, tôi thù ông cho đến chết.
    Tôi thở phào, vừa mừng, vừa thất vọng, vừa giận, vừa xót xa. Tôi đưa tay về phía Trà-Khúc, muốn nói vài lời vỗ về nàng. Nhưng với chiếc kéo vẫn còn trên tay, nàng ngồi giật lùi lại sát tường và tôi rút tay về. Tôi đứng dậy nhìn ra cửa sổ. Tôi bước ra khỏi phòng và cắm đầu chạy về phía bờ sông. Ðêm nay trăng cuối mùa treo lủng lẳng sau hàng phi lao gợi tình. Mặt sông lóng lánh như bạc. Vài cơn gió nhẹ làm mát da thịt, mà sao không khuây khỏa được tâm hồn. Tôi nhìn về phía bờ An-Vĩnh và tôi chợt nghĩ đến Hường. Dường như người ta chỉ biết mình có sau khi đã đánh mất. Người ta chỉ nghĩ đến chút tình quê sau khi đã bị vùi dập bởi phồn hoa. Tôi nghe nói Hường đã vào bưng. Không biết giờ này nàng luân lạc phương nào. Tôi ngả người nằm dài trên bờ cát, gối đầu lên cánh tay, nhìn trời cao thăm thẳm và tôi thở dài.
    Ngày tháng cứ thế mà trôi đi. Buổi sáng Trà-Khúc thức dậy sớm, ăn bận gọn gàng, cùng tôi đi về khu nhà tiền đường của cha mẹ tôi. Chúng tôi xưng hô anh em ngọt ngào và ân cần với mọi người. Ban ngày chúng tôi là đôi vợ chồng son. Ðêm về chúng tôi là hai kẻ lạ, chung giường mà dị mộng. Chúng tôi như hai bóng ma bên nhau, đi giữa cuộc đời hư mộng. Tôi vẫn hằng mong ngày tháng sẽ giúp nàng nguôi ngoai và quên đi mối tình với anh Trung-sĩ tên Bình đồn trú ở tỉnh lỵ. Ngày tháng cũng sẽ dần dà giúp chúng tôi gần gũi nhau hơn và biết đâu có một ngày nào đó nàng sẽ thương tình tôi. Dường như sự bình thường giả tạo của chúng tôi không qua được mắt của cha tôi. Cha tôi đang nghi ngờ và ưu tư về cái hạnh phúc lứa đôi của chúng tôi. Có những đêm trăng, trằn trọc không ngủ được, tôi nhìn ra song cửa, thấy bóng cha tôi lướt ngang , dường như đang nghe ngóng một điều gì. Tôi ngoảnh nhìn vào trong, lau nước mắt. Trà-Khúc nằm quay mặt vào tường, người co rút lại. Còn tôi nằm đâu lưng lại nàng, và theo ánh trăng thả hồn mình qua vuông cửa, khung trời. Tôi bỗng thấy thương cha tôi rạt rào và tôi để mặc cho những giọt nước mắt âm thầm chảy dài xuống mặn bờ môi.
    Quê tôi độ này sắp vào đông, trời không lạnh lắm nhưng có rất nhiều mưa. Những ngày mưa thường dài lê thê và thật buồn. Những cơn mưa bao vây thân xác và phong tỏa tâm hồn. Nó thường mang đến trong tôi một cảm giác lẻ loi cùng cực. Những ngày như vậy, tôi thường đội mưa ra tận bờ cát nhìn mưa trên bến sông. Những làn mưa đổi hướng theo từng cơn gió thổi làm tôi thấy xốn xang trong lòng. Sao mình còn ngồi đây cô đơn. Sao mình không thẳng thắn nói với Trà-Khúc nỗi uẩn ức và đau khổ của mình. Tôi chạy trở về nhà. Tôi không thấy nàng đâu cả. Tôi chạy lên khu tiền đường, chạy ra sau vườn, nàng vẫn biệt tăm. Tôi chạy qua nhà hàng xóm hỏi thăm thì được cho biết nàng có đi bộ ngang qua đây khi chiều. Tôi vội vàng phóng lên chiếc xe đạp chạy men theo con đường tư ích dẫn về quê vợ. Ðạp xe được hơn nửa giờ, đến quãng đường nằm giữa hai rặng tre già thì tôi bắt kịp nàng. Trà-Khúc của tôi đó. Cái dáng thon thon gợi cảm của tôi đó. Và mái tóc dài sũng nước chảy nhễ nhại trên khuôn mặt kiêu sa đó. Tôi bỗng thấy thương vợ lạ lùng. Tôi chỉ muốn được ôm nàng vào lòng và hôn nàng. Tôi xuống xe và nhẹ nhàng hỏi:
    -Em đi đâu đó?
    -Ði về nhà cha mẹ tôi. Nàng trả lời cộc lốc.
    -Em ướt hết rồi. Em lên xe để anh chở em về. Tôi vừa nói vừa vói cầm tay nàng. Nàng giật mạnh tay ra và lần tay vào lưng quần lôi ra chiếc kéo và quyết liệt nói:
    -Không. Ông không được đụng vào người tôi. Tôi đi bộ được. Ông trở lại đi. Ðừng theo hoài công.
    Tôi dắt chiếc xe đạp lẻo đẻo một bên và cứ thế chúng tôi lững thững đi bộ bên nhau về hướng quê vợ suốt một buổi chiều mưa, không ai nói nửa lời. Khi chúng tôi về đến Bình-Châu thì trời đã tạnh mưa. Cha mẹ vợ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi về thăm bất ngờ. Trà-Khúc nói chuyện rất tự nhiên:
    -Lâu quá nên con muốn về thăm cha mẹ và các em. Con định ở lại nhà một thời gian, dường như con đang mang thai không chừng. Ảnh sẽ trở lại Sa-Kỳ tối nay. Con biết ảnh bận nên bảo ảnh đừng đưa mà ảnh không chịu. Ảnh thương vợ có bầu nên cứ nằng nặc đòi đi theo vợ cho được. Mà anh bị ướt cả người, có lạnh không, để em vào lấy khăn lau cho anh.
    Nghe thế, tôi thấy vừa giận, vừa tức cười, vừa phục cái tài đóng kịch của nàng. Tôi lầm rầm trong miệng: Thôi con xin lạy bà. Con sợ bà lắm rồi. Nàng quay sang hỏi nũng nịu:
    -Anh nói gì? Mới qua bên vợ có chút xíu mà đã nhớ nhà rồi. Nói xong nàng cười mỉm chi và đưa tay xoa nhẹ vào lưng tôi. Tôi bỗng cảm thấy đau nhói trong lòng.
    Tôi tìm đủ cớ nấn ná để được ở lại với Trà-Khúc ba ngày rồi cũng đành trở về lại bến Sa-Kỳ chờ đợi nàng. Tôi chờ đợi nàng từng giờ, từng ngày, từng đêm. Tôi ra bến sông nhìn dòng nước chảy, nhớ nàng xót xa và suy nghĩ về cuộc tình trôi nổi của mình. Từ chờ đợi này đến chờ đợi khác. Nàng vẫn chưa về, cũng như dòng sông chảy mãi không bao giờ trở lại. Dần dà đã hơn sáu tháng trôi qua. Nàng nhờ người nhắn cho tôi biết là nàng sẽ không trở lại. Nàng khuyên tôi hãy quên nàng và đi cưới vợ khác. Nàng đã thưa với cha mẹ nàng rồi. Nàng xin lỗi đã không ở đời được với tôi. Thế là tôi vĩnh viễn mất nàng. Cũng xong một cuộc tình.
    (còn tiếp)
    Được thienansongtra sửa chữa / chuyển vào 08:07 ngày 01/04/2005

Chia sẻ trang này