1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thơ, văn, các bài viết hay về Quảng Ngãi

Chủ đề trong 'Quảng Ngãi' bởi thienansongtra, 06/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tast

    tast Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2005
    Bài viết:
    1.365
    Đã được thích:
    0
    Sống quen đất khách
    Nói pha giọng nói xứ người
    Lắm lúc quên mình - gốc gác
    Lắm lúc giấu mình - kẻ khác
    Lừa mình trong kẻ tha phương
    Hôm nao qua đường
    Tháng nọ qua đường
    Mịt mù phố lạ
    Hỏi đường, sao hỏi quê hương?
    Nghe nói bờ tre chợt thèm tiếng mẹ
    Nghe nói bão bùng xót ruột mái tranh
    Em gái bù lu, bù loa giữa phố
    Giọng mình, giọng "nẫu" xót xa!
    Biết giọng em không hay bằng xứ khác
    Nhưng với tôi hay thấu ruột thấu gan
    Hay cồn cào những ngày dưa muối tuổi thơ
    Tiếng Quảng ơi!
    Nghe như sông Trà tưới mát
    Nghe như núi Ấn linh phù
    Có lẽ tiếng nói là hồn đất chăng?
    Sao lòng tôi rung động
    Có lẽ tiếng nói là hồn nước chăng?
    Sao tôi luôn muốn quay về
    Nguyễn Thánh Ngã
    (Copy từ Blog''s anh Nguoixuquang )
  2. HoaPhan

    HoaPhan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    1.047
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 1):​
    Tuổi 20 chứa đựng bao nhiêu khát vọng trong mỗi con tim tuổi trẻ. Bao thế hệ cha anh đã ra đi như thế trong lứa tuổi 20 phơi phới niềm tin chiến thắng và khát vọng "non sông quy về một mối. Những trang nhật ký còn sót lại sau cuộc chiến tranh của những người lính đã giúp chúng ta hiểu hơn về một LỨA TUỔI HAI MƯƠI đã góp phần làm nên trang lịch sử hào hùng của dân tộc. Nhật ký của Nữ Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (TTO) sẽ được gửi lại đến các bạn trên trang Web này trong chuyên mục "Truyện ngắn hàng ngày"....."
    ?oChị là của tất cả chúng ta?
    Hình ảnh cuốn nhật ký tại Viện lưu trữ Lubbock, Texas (Mỹ)
    TT - Đây là một câu chuyện kỳ lạ. Rất kỳ lạ khi những ghi chép riêng tư của một cô gái ********* lại được những người bên kia chiến tuyến gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng.
    ?oThùy Trâm không định viết cho cả thế giới này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà niềm tin sâu thẳm nơi chị được viết ra một cách chân phương, rõ ràng và tôi đã thấy chị có đủ dũng cảm để theo đuổi niềm tin ấy trong trận thử thách cuối cùng...?. Trong lá thư gửi cho người mẹ của người đã mất họ viết vậy, ngày 28-5-2005.
    35 năm đã trôi qua, nhưng có một người con gái như thế vừa bất ngờ trở lại...
    Sáng 25-4-2005, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ. Đó là điện thoại gọi đến từ văn phòng Quaker (1) Hà Nội. Người của văn phòng báo tin hiện có một người Mỹ đang giữ cuốn nhật ký của chị gái tôi - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Thùy của chúng tôi.
    Chị tôi hi sinh năm 1970 tại chiến trường Quảng Ngãi. Cống hiến của chị tôi ghi trong hồ sơ đề nghị truy tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì rất đơn sơ: bác sĩ, hi sinh tại chiến trường. Thời gian công tác: năm năm, ba tháng, năm ngày...
    Nước mắt của người cựu chiến binh
    Trung tuần tháng 3-2005, một cuộc hội thảo thường niên về chiến tranh VN được tổ chức tại Trung tâm Việt Nam - Đại học Texas, Mỹ. Rất nhiều người đến dự. Tại hội thảo, người ta thảo luận về chiến tranh VN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whitehurst (2) và Robert Whitehurst (3) đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ ********* mà Frederic nhận được khi tham gia chiến tranh ở VN...
    Ted Engelmann (4) là một trong những người có mặt ở hội thảo. Ba ngày sau khi hội thảo kết thúc, Ted sang VN. Ở Hà Nội, anh đã nhờ một người bạn làm ở văn phòng Quaker Hà Nội tìm giúp gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê. Những nhân viên ở đây rất nhiệt tình, lần theo manh mối ít ỏi có trong cuốn nhật ký, họ đã tìm sang tận Đông Anh, nơi bố tôi làm việc từ gần 50 năm trước. Nhưng ở đó, người duy nhất làm việc cùng thời với bố tôi cũng đã nghỉ hưu từ năm 2000.
    Bệnh viện Đông Anh cử người về tận quê ông để hỏi địa chỉ gia đình tôi. Ông lại chỉ sang Trường đại học Dược Hà Nội, nơi mẹ tôi công tác trước khi về nghỉ hưu từ 20 năm trước. Cứ như thế, bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được gia đình tôi và trao lại chiếc đĩa CD chứa đựng tâm huyết của người viết nhật ký 35 năm về trước.
    Những ngày sau đó tôi nhận được rất nhiều thư của hai anh em Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst. Họ kể về những năm tháng ở VN và hành trình bao năm qua họ đã tìm kiếm gia đình tôi như thế nào. Có những lúc họ tưởng như tuyệt vọng không thể nào tìm được gia đình tôi, đã sợ rằng khi họ chết đi, hai cuốn nhật ký của chị tôi sẽ nằm trong đống giấy má bình thường không ai biết đến, bị quẳng đi, bị mục nát, bị quên lãng.
    Họ nói với tôi rằng vì không còn hi vọng tìm được gia đình tôi, họ đã có ý định in hai cuốn nhật ký thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ cộng sản người Hà Nội đã sống và đã chết ra sao. Họ mong rằng từ cuốn sách đó sự nghiệp y tế của chị tôi sẽ còn được tiếp nối... Và trong nỗi tuyệt vọng như thế, họ đã trao tặng hai cuốn nhật ký cho Viện lưu trữ về VN Lubbock tại Trường đại học Tổng hợp Texas, để chúng có thể được gìn giữ và chăm chút hơn khả năng họ có thể làm được.
    Dưới đây là bức thư đầu tiên của Fred gửi cho tôi:
    ?oThứ sáu 29-4-2005
    Tôi là Frederic Whitehurst. Tôi đã giữ ký ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, 35 năm nay. Tôi đã giữ cuốn nhật ký của chị ấy suốt 35 năm. Ted Engelmann - người tôi chỉ mới vừa biết - nói với tôi rằng anh ấy đã đến nhà cô và hiện nay cô đã nhận được bản copy của hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh. Có bao nhiêu điều tôi phải nói với cô, với gia đình cô và đặc biệt là với mẹ cô.
    Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một người mẹ phải được biết về những ngày tháng của con gái mình, một đất nước phải được biết về một người anh hùng như bác sĩ Đặng. Mọi việc dường như thật thích hợp, mẹ cô cần phải nhận được những dòng chữ của con gái mình đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng đất nước bà - 30-4-2005...?.
    ?oFred, đừng đốt cuốn sổ này, bản thân trong nó đã có lửa?
    Frederic Whitehurst là một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1969-1971. Trong chiến tranh, nhiệm vụ của Fred là thu thập các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình hình, truy tìm dấu tích quân giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm vụ đó khiến Fred có thể nhìn cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận mắt những mất mát khủng khiếp - cả đối với phía VN lẫn phía Mỹ.
    Fred đã chứng kiến cảnh ?ocả một xóm nhỏ Nhơn Phước ở miền tây Đức Phổ bị bom giội tan hoang không còn một người sống? (thư ngày 4-6-2005). Fred đã nhìn thấy những em nhỏ ở Chu Lai bị thiêu cháy trong bom napalm. Fred đã chứng kiến viên trung úy chỉ huy trực tiếp của mình gần như mất trí vì không chịu nổi cảnh các nhân viên y tế Mỹ ?ođơn giản cứ nhặt bừa bất kỳ một cánh tay, cẳng chân nào đó lắp vào xác bạn mình cho vào quan tài gửi về Mỹ? (thư ngày 4-6-2005). Những cảnh chứng kiến đó đã ám ảnh Fred trong bao năm nay từ khi rời VN trở về.
    Nhưng cũng từ những ngày khốc liệt đó, Fred đã nhìn thấy cuộc chiến tranh từ một ánh sáng hoàn toàn khác biệt.
    Trong một trận tập kích vào một ?ocăn cứ của *********?, sau khi tiếng súng đã im, đơn vị của Fred tiến vào và nhận thấy đây là một bệnh viện nhỏ. Có rất nhiều lán trại, nhiều phòng - rõ ràng là phòng bệnh, cả một phòng mổ dã chiến. Có vẻ mọi người trong bệnh viện đã vội vã đi khỏi ngay trước khi quân Mỹ ập tới và không kịp mang theo tài liệu.
    Theo qui định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu của địch thu được trên chiến trường phải chuyển lại cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Hôm đó Fred thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Cùng với thông dịch viên người Việt, Fred chọn lọc các tài liệu có giá trị quân sự, số còn lại họ vứt vào đống lửa để thiêu hủy. Fred đang đốt những tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu - thông dịch viên của đơn vị - cầm một cuốn sổ nhỏ đến cạnh anh và nói: ?oFred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi?. Fred chưa hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu và việc Hiếu có thể kính trọng cả đối phương tác động rất mạnh đến anh, Fred bỏ cuốn sổ vào túi.
    Nhiều đêm sau đó Fred và Hiếu cùng nhau đọc cuốn sổ. Đó là nhật ký của một *********, chính là nữ bác sĩ đứng đầu cái bệnh viện nhỏ mà đơn vị Fred càn vào. Nét chữ nghiêng nghiêng đầy nữ tính. Anh càng tò mò hơn khi Hiếu cho biết nữ bác sĩ đó còn rất trẻ, mới 26 tuổi và từ Hà Nội vào Đức Phổ công tác chưa được hai năm.
    Rồi như một định mệnh, mấy tháng sau Fred nhận được cuốn nhật ký thứ hai của nữ bác sĩ, cũng do Nguyễn Trung Hiếu đem về. Những dòng chữ rực lửa khiến Fred vô cùng xúc động - mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội của Nguyễn Trung Hiếu và đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ. Những dòng đầy yêu thương, hi vọng khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần như luôn bám sát sau lưng.
    Năm 1972, Fred được rời VN và trở về Mỹ. Trong hành lý của anh có những kỷ vật nặng trĩu của chiến tranh: hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, hơn 50 tấm ảnh chụp những người dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên xác một phóng viên *********, chiếc đục nhỏ rơi bên xác một người thợ mộc già bị giết hại. Cũng từ đó VN trở thành một nỗi ám ảnh trong anh.
    Mẹ của Fred là một nhà giáo và là họa sĩ. Khi Fred cho mẹ xem cuốn nhật ký, bà đã bảo con trai hãy cẩn thận, bởi vì hai cuốn sổ này có thể thiêu cháy cuộc đời anh...
    Cuốn nhật ký tìm về quê hương
    Robert Whitehurst cũng là một cựu chiến binh ở chiến trường VN nhưng chưa từng có mặt ở chiến trường Nam Trung bộ. Hai năm hoạt động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khiến Rob đem lòng yêu mến miền đất này cùng những con người VN hiền hòa, giàu tình cảm.
    VN đã trở thành một phần đời của Rob vì anh cưới một người con gái xứ Long Xuyên. Anh học tiếng Việt, thích ăn món ăn Việt, thích đem những cây cỏ VN về Mỹ để trồng, thậm chí có lần còn cố gửi về Mỹ một chiếc xuồng ba lá để vợ đỡ nhớ quê.
    Rob được đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Thùy Trâm sau khi từ Mỹ trở về năm 1972. Ngay từ đầu cuốn nhật ký đã khiến anh sửng sốt. Cùng với sự giúp đỡ của vợ, anh đọc đi đọc lại cuốn nhật ký, càng đọc anh càng bị lay động trước những gì diễn ra trong tâm hồn người con gái ở bên kia chiến tuyến.
    Thư anh viết: ?oTất cả những ai từng được chúng tôi cho xem cuốn nhật ký (đã được Rob dịch sang tiếng Anh - TT) đều xúc động trước những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai, nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá đối với cô cũng như đối với chúng tôi, nhưng sự nghiệp của chị còn rất có ý nghĩa với tất cả mọi người. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời.
    Mặc dù chị ở bên kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhưng ngay từ đầu những năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị vô cùng đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính và là một người tốt. Hi vọng sau khi đọc những dòng chữ viết từ quá khứ ấy, cô sẽ đồng ý với chúng tôi... rằng theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô, nhưng theo một nghĩa rất quan trọng chị là của tất cả chúng ta? (thư ngày 29-4-2005).
    Rồi Rob tìm được trên mạng Internet một nơi gọi là Trung tâm VN (Vietnam Center) ở Trường đại học Tổng hợp Texas và biết rằng tại đây người ta vẫn tổ chức hội thảo thường niên về chiến tranh VN. Có rất nhiều người tới dự hội thảo này: các học giả, các vị đại sứ, các viên tướng, các cựu chiến binh VN của cả hai phía miền Nam và miền Bắc.
    Robert động viên Fred đến dự hội thảo và nói về cuốn nhật ký của nữ bác sĩ. Cuộc hội thảo diễn ra như tôi đã nói lúc đầu. Trong sự xúc động sâu sắc, Fred và Rob đưa cho nhiều người đĩa CD chứa bản sao cuốn nhật ký của chị tôi, mong rằng giống như trong câu chuyện cổ tích tốt đẹp nọ, cuốn nhật ký sẽ tìm được về với quê hương, về với gia đình người nữ bác sĩ mà họ ngưỡng mộ như một anh hùng.
    Ngày mai bạn sẽ đọc một câu chuyện khác, trong một bối cảnh khác của gần 40 năm trước.
    Bạn sẽ đọc, để hiểu vì sao những ghi chép riêng tư của một người con gái lại có thể tạo nên nỗi xúc động lớn lao đến thế nơi những người lính ở chiến tuyến bên kia...
  3. HoaPhan

    HoaPhan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    1.047
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 2)​
    Bệnh viện trong rừng
    TT - Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942, trong một gia đình trí thức. Bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dược sĩ Doãn Ngọc Trâm - nguyên giảng viên Trường đại học Dược khoa Hà Nội. Tuổi Trẻ xin trân trọng giới thiệu một phần trong hai cuốn nhật ký ghi trong những ngày ở chiến trường của chị.
    Tốt nghiệp Trường đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường. Sau ba tháng hành quân, tháng 3-1967 chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách Bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh viện dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh.
    Trong phần ảnh tư liệu, được phép của những người có liên quan, chúng tôi có sử dụng những bức ảnh trong album gia đình, ảnh chụp ở Quảng Ngãi trong những năm 1969-1970 do Frederic Whitehurst cung cấp và một số bức ảnh do liệt sĩ Nguyễn Văn Giá, phóng viên Hãng Phim thời sự - tài liệu VN, chụp tháng 10-1969 ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi trước khi anh hi sinh.
    13.4.68
    Một ngày mệt nhọc vô cùng. Ba ca thương nặng vào một lúc. Suốt một ngày đứng bên bàn mổ đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột xé lòng của chú Công (cha Đường) và vì những tin buồn dồn dập.
    Đường đã bị bắt sống trên đường công tác. Cậu bé sôi nổi nhiệt tình ấy không hiểu có chịu nổi những đòn tra tấn của quân thù hay không. Thương Đường vô tận. Lá thư viết gửi Đường vậy là chưa đến nơi. Người cầm thư đã chết còn người nhận thư thì bị bắt!
    Biết bao nhiêu bà mẹ như mẹ Đường sẽ còn đau khổ khóc than đến cạn dòng nước mắt. Ôi nếu mình ngã xuống, mẹ mình cũng sẽ như bà mẹ ấy thôi, cũng sẽ là một bà mẹ suốt đời hi sinh vì con để rồi mãi mãi đau xót vì con mình đã ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Mẹ ơi! Con biết nói sao khi lòng con thương mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ ra đi. Quân thù đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu người chồng mất vợ. Đau xót vô cùng.
    20.5.68
    Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy đã gắn bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong tình cảm ấy có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi còn nhớ chăng những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ quan đi cõng gạo họ đã cùng mình xử trí một cas thương, họ làm như những nhân viên thực thụ, đêm đến trong ánh đèn dầu họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ? những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp lại nhau và có còn được gặp nhau không hở những người bạn mến thương?
    20.7.68
    Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình mình vừa phụ trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả và cũng còn nhiều khó khăn trong công việc, nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng. Đôi mắt người thương binh hôm nào đau nhức tưởng như bỏ hôm nay cũng đã sáng lại một phần. Cánh tay anh bộ đội sưng phù đe dọa chảy máu bây giờ cũng đã lành lặn. Những cánh tay xương gãy rời cũng đã liền lại? Đó chính là nhờ sức lực của mình và những người y tá đêm ngày lăn lộn trong công tác bên giường bệnh.
    Và với những học sinh, mình cũng đã đem lại những điều quí giá trong lý luận về y học. Mình đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm mà bằng cả tình thương của một người chị đối với những đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với khoa học được. Thương biết mấy những Thuận, những Liên, những Luận, Xuân, Nghĩa mỗi người một hoàn cảnh nhưng đều rất giống nhau: rất ham học, rất cố gắng để đạt mức hiểu biết cao nhất.
    25.7.68
    Một buổi ngồi bên giường bệnh của Lâm. Lâm bị một mảnh đạn cối cá nhân xuyên vào tủy sống, mảnh đạn ác nghiệt đã giết chết một nửa người Lâm - từ nửa ngực trở xuống. Lâm hoàn toàn bại liệt, lở loét và biết bao nhiêu đau đớn hành hạ Lâm.
    Lâm năm nay hai tư tuổi, là một cán bộ y tế xuất sắc của Phổ Văn. Ban dân y huyện mới rút Lâm về bổ sung chưa được một tháng, trong lần đi công tác vừa qua địch càn đến, Lâm xuống công sự nhưng khi tay anh vừa mở nắp công sự thì bọn Mỹ đã đến sát sau lưng, một mảnh đạn nhỏ đã giết hại đời Lâm một cách đau đớn. Lâm chưa chết nhưng chỉ còn nằm để chờ chết. Đứt tủy sống trong điều kiện ở miền Bắc còn bó tay nữa là ở đây.
    Lâm biết điều đó nên đau khổ vô cùng. Chiều nay ngồi bên Lâm, Lâm đưa lá thư của Hạnh (người vợ trẻ của Lâm) cho mình coi rồi nói khẽ với mình: ?oChị ơi, các chị tận tình, gia đình tận tình nuôi em để làm gì? Trước sau em cũng chết, em có sống cũng chỉ làm khổ các chị và gia đình mà thôi?. Một giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy ốm của Lâm.
    Thương Lâm vô cùng mà chẳng biết nói sao. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của Lâm chắc mình cũng nói như vậy mà thôi. Nhưng không lẽ không động viên Lâm? Ôi! Chiến tranh! Sao mà đáng căm thù đến vậy và đáng căm thù vô cùng là bọn quỉ hiếu chiến. Vì sao chúng lại thích đi tàn sát bắn giết những người dân hiền lành, giản dị như chúng ta? Vì sao chúng đang tâm giết chết những thanh niên còn đang tha thiết yêu đời, đang sống và chiến đấu với bao mơ ước như Lâm, như Lý, như Hùng và nghìn vạn người khác nữa?
    ?68
    Một ca cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng K đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn bệnh nhân đi dần đến cái chết. Chiều nay đứng bên giường bệnh anh, lòng mình đau như cắt. Anh nói với mình miệng cố cười mà những giọt nước mắt vẫn tràn trong đôi mắt của anh: ?oTôi không oán trách gì đâu, biết chị và các đồng chí trong bệnh xá đã tận tình cứu chữa nhưng bệnh tôi không thể nào khỏi được. Thì đành vậy. Nếu tôi còn ở đây thì rồi sẽ ra đồi sim an nghỉ với các đồng chí. Nếu tôi về dưới đó thì cũng chỉ được nhìn ông bà già một lần nữa rồi cũng xuống đất thôi?.
    Biết nói gì với anh đây, mình đứng im hổ thẹn và tủi cực vô cùng. Đành rằng dù ở đâu rồi cũng đành bó tay trước bệnh của anh nhưng còn có điều kiện để kéo dài thêm chút ít cuộc sống của anh. Còn ở đây mình như tên lính bại trận giơ hai tay để cho kẻ thù tước bỏ vũ khí.
    9.1.69
    Năm nay Bốn hai mốt tuổi. Hai mốt tuổi bảy lần bị thương trong chiến đấu. Người trung đội trưởng trinh sát trẻ tuổi ấy đã để lại trong mình những cảm nghĩ không bao giờ có thể quên.
    Mình gặp Bốn lần đầu tiên khi Bốn vào nằm bệnh viện với một vết thương nhỏ nơi chân. Mấy hôm sau, chân chưa lành Bốn đã ra viện và hơn một tháng sau mình lại đón Bốn vào viện. Vết thương xuyên qua khớp vai mất nhiều máu nên Bốn xanh xao mệt lả, nhưng sau khi mổ xong, vừa mới tỉnh nụ cười tinh nghịch lại nở trên đôi môi nhợt nhạt của Bốn.
    Vết thương đau đớn nhiều nhưng Bốn không rên la mà chỉ lo một điều: có còn chiến đấu được nữa hay không? Những lần đi thăm bệnh mình khẽ vuốt trên mái tóc người thương binh trẻ tuổi và nói khẽ với Bốn rằng: Em hãy yên tâm, chắc rằng em sẽ còn cầm súng chiến đấu một cách vững vàng. Và mới hôm nào đây gặp lại Bốn trên đường hành quân, vai mang khẩu AK, nhìn thấy mình từ xa nó mừng rỡ reo lên:
    ?oChào bác sĩ! Báo cáo bác sĩ, tay em bình thường rồi?, và nó khoa tay lên khoe với mình khớp vai đã hoạt động bình thường. Mình cười vui khi nhìn nước da khỏe mạnh hồng hào và nụ cười tinh nghịch của chàng bộ đội giải phóng quân ấy.
    Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt. Em nằm im lìm không rên la. Một chân đã bị mìn tiện cụt, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứu chữa. Cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: ?oBây giờ chắc sống 80% rồi đấy?. Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều. Mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hi vọng.
    Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi. Máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi, máu em đã thấm đỏ trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu. Tim em đã ngừng đập cho trái tim Tổ quốc muôn đời đập mãi. Bốn chết rồi, hai mắt nhắm nghiền như trong giấc ngủ. Ngồi bên Bốn vuốt nhẹ mái tóc em mà mình tưởng như em còn sống, nước mắt mình từng giọt rơi xuống tóc em. Không! Bốn không chết đâu, Bốn sẽ còn sống mãi trong lòng mình và những đồng đội đang cùng em trong cuộc chiến đấu sinh tử này.
  4. HoaPhan

    HoaPhan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    1.047
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 3)​
    Những ngày khốc liệt
    28.4.69
    Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
    Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
    Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
    Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. ?oKhông thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!?. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
    Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng chí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
    Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
    Mệt, đói run chân nhưng mình và các đồng chí vẫn vô cùng bình tĩnh. Dù sao cũng đã trưởng thành rồi qua mấy năm ác liệt.
    Bốn giờ đến địa điểm.
    Hai năm tròn rồi đó, cũng vào tháng tư, cũng giữa mùa trăng mình về nhận công tác tại Đức Phổ giữa lúc bệnh xá đã tan tành sau một cuộc oanh tạc. Bây giờ lại tháng tư... nắng tháng tư ở miền Nam chói chang. Và nỗi căm thù cũng nóng bỏng như ánh nắng mùa hè đó. Chiều nay đứng trên một đỉnh núi cao nhìn về khu vực bệnh xá cũ thấy khói bốc lên nghi ngút mà mình rưng rưng nước mắt. Vậy là biết bao nhiêu mồ hôi công sức, bao nhiêu của cải tài sản nhân dân dành dụm nuôi thương binh từ đó đến nay đã cháy hết thành tro bụi!
    4.6.69
    Vẫn là những ngày căng thẳng, địch đổ quân sát bên nhà. Chúng la hét, chặt cây ầm ĩ cả khu rừng. Bệnh xá im lìm căng thẳng đến tột bậc.
    Đang công tác ở Phổ Cường, nghe báo tin mình lặng người lo lắng, chén cơm bưng trong tay không sao ăn tiếp được nữa. Chẳng lẽ cứ thế này mãi sao. Vừa xây dựng được mấy bữa lại lo chạy, bao giờ mới tiếp tục được nhiệm vụ... (không rõ chữ)? Lo buồn và uất ức lạ. Có cách nào chứ không lẽ bó tay chạy dài mãi sao?
    5.6.69
    Địch triển khai thêm, không thể ở đó được nữa, đêm nay đa số cán bộ và thương binh dẫn nhau chạy xuống Phổ Cường. Tối không trông rõ mặt người nhưng có lẽ ai cũng cảm thấy rất đầy đủ những nét đau buồn trên khuôn mặt từng cán bộ và thương binh. Mình lo đi liên hệ giải quyết công tác đến khuya mới về, thương binh đã đi ăn cơm xong, nằm ngổn ngang trên thềm nhà Đáng, một vài người đã ngủ, số còn lại khẽ rên vì vết thương đau nhức. Còn lại trên đó ba cas cố định chưa có người khiêng, một số cán bộ lãnh đạo còn trên đó, mình cần trở về. Trở về lúc này thật gay go, không hiểu địch nằm ở đâu. Nhưng biết làm sao, yêu cầu công tác đòi hỏi mình phải trở về, dù chết cũng phải đi.
    Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Thuận ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời nào, mãi đến lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: ?oChị làm sao chứ em lo quá đi?? và mình thì không nói hết một câu: ?oChị gửi balô cho em, trong đó có quyển sổ??, muốn nói tiếp rằng nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về gia đình. Nhưng mình không nói hết câu.
    Trong ánh trăng mờ hai chị em đều đọc được trong đôi mắt người thân của mình một nỗi buồn ly biệt. Em đi rồi và mọi người khác cũng đã đi hết, còn một mình trên chiếc thềm vắng nhà chị Tính, không hiểu sao nước mắt bỗng tràn trên đôi má của mình. Khóc ư Thùy? Đừng chứ, hãy dũng cảm kiên cường trong mọi tình huống, hãy giữ mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó khăn nguy hiểm đang đe dọa quanh Thùy.
    29.7.69
    Chiến tranh thật tàn khốc hết mức. Sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy. Đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân. Đó là một cậu bé 20 tuổi, đứa con trai duy nhất của một chị cán bộ xã mình ở.
    Một tai nạn rủi ro làm quả pháo lân tinh nổ khiến cậu bị bỏng nặng. Không ai còn nhận ra cậu bé xinh trai mọi ngày nữa. Đôi mắt đen vui cười hôm nay chỉ còn là hai hốc nhỏ, mi mắt đã chín vàng, khói lân tinh vẫn còn bốc lên khét lẹt. Trông cậu ta giống như đem thui vàng trong lò ra. Mình đứng lặng người trước cảnh đau lòng đó.
    Mẹ cậu khóc mếu máo, hai bàn tay run rẩy sờ khắp người con, từng mảng da bong ra, cong lên như miếng bánh tráng. Em gái và chị gái cậu vừa săn sóc cậu mà nước mắt ròng ròng chảy, còn một người con gái thì sững sờ ngồi cạnh cậu, đôi mắt dịu hiền đờ đẫn lo âu, từng lọn tóc đen bết mồ hôi dính trên đôi má đỏ bừng vì xúc động và vì mệt.
    Từ (tên cô gái đó) là người yêu của Khánh (tên cậu bé đó). Cô vừa khiêng Khánh xuống đây. Nghe nói cần có serum truyền, Từ đã lội sông đi mua ngay. Nước sông đang lên, không biết bơi nhưng Từ vẫn băng qua sông, tình yêu đã giúp Từ sức mạnh. Bây giờ Từ ngồi đó cạnh Khánh lặng yên, nhẫn nại.
    Vẻ đau khổ hằn lên trên vầng trán ngây thơ của cô gái xinh đẹp - nhìn cô mình muốn viết một bài thơ về tội ác của chiến tranh, tội ác đã bóp chết triệu tình yêu trong sáng, bóp chết triệu hạnh phúc của con người nhưng mình không viết được. Ngòi bút của mình không sao viết hết dù đây là một trường hợp mà mình đã thấy bằng tất cả giác quan và tình cảm của mình.
    30.7.69
    Mười hai giờ khuya, anh Kỷ từ cánh Nam ra báo cho mình một tin đau xót: địch đã tập kích vào bệnh xá một cách hết sức bất ngờ. Liên đã bị chúng bắn chết trong lúc dẫn thương binh chạy. Anh em thương binh không hiểu ai còn ai mất?
    Trong ba tháng trời, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Lòng mình cháy bỏng lo âu. Liên ơi, hôm nào tạm biệt Thùy (Trâm), Liên còn hôn Thùy và dặn đi dặn lại rằng Thùy phải cảnh giác, nhưng hôm nay người ngã xuống trước lại là Liên, cô gái xinh xắn và xuất sắc trong công tác, cô gái cưng của bệnh xá không còn nữa. Liên ơi, còn sống ngày nào Thùy thề sẽ trả thù cho Liên, cho Lý và cho cả triệu người đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu sinh tử này.
    29.3.70
    Lần đầu tiên đào huyệt chôn một người đồng đội, những nhát cuốc của mình bổ xuống đá làm tóe lửa như nỗi căm thù đang bốc cháy trong lòng mình. Hôm qua trong lúc đi cảnh giới về gặp địch, Thành đã bị chúng bắn chết ngã ngay tại suối trước ngõ vào nhà mình, và anh Xuất bị chúng bắn bị thương rồi hạ tàu bay chở đi. Chiếc quần của anh chúng rọc nát còn vứt lại một bên... Chưa đầy ba tháng cơ quan mất ba người!
    Huyệt đào chưa xong mọi người đã khiêng Thành về. Qua một ngày rồi mà máu vẫn còn chảy ướt đỏ tấm drap quấn quanh Thành. Mình nhìn không rõ mặt Thành lắm, chỉ thấy đôi mắt đã nhắm và nước da nhợt nhạt. Lúc sống Thành có nhiều nhược điểm làm mình không ưa, nhưng bây giờ khi khỏa đất lấp lên thân hình người đồng đội ấy mình không cầm được nước mắt. Vậy đó, hãy ráng mà đùm bọc thương yêu nhau khi còn sống, chứ khi đã chết rồi có khóc thương cũng chỉ là những giọt nước mắt nhỏ trên nấm đất vô tri vô giác mà thôi.
    Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
  5. levantam20_11

    levantam20_11 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2004
    Bài viết:
    539
    Đã được thích:
    0
    Quê tôi ăn Tết
    Thanh Thảo

    Quê tôi, vùng đất ngày xưa được gọi là ?otiểu Đồng Nai?, thực ra là vùng đất nghèo. Ngày xưa, có ruộng cấy lúa nước, lại là ruộng nhất hay nhì đẳng điền, đã mặc nhiên được coi là ?otrù phú?. Trải bao cơn biến động, ?ovũng lên đồng?, bao phen bị cả lịch sử và thiên nhiên ?otrù dập?, quê tôi, từ ?otiểu Đồng Nai? đã hóa thành ?ođại đài nông? - nghĩa là chỉ còn biết làm nông, không còn nghề phụ hay có khả năng ?ochuyển đổi ngành nghề? gì khác.
    Làm ruộng bây giờ thì ai cũng biết, chỉ đủ ăn là mừng lắm rồi, mong gì tiến lên thành những hộ giàu,nhà giàu, thôn hay xã giàu. Thôi thì cũng từ từ, đừng vội một lúc ?ocông nghiệp hoá? quê tôi, để người dân ở đây dù nghèo vẫn còn một cái Tết bình an và đong đưa theo phong tục cũ. Tết quê tôi không có gì quá khác biệt với Tết của nhiều vùng quê khác trong nước, nhưng cũng không hẳn giống với vùng nào. Quê tôi, vốn xưa là nơi người Chăm cư ngụ, trải nhiều biến động lịch sử, người Chăm và người Việt vốn bị phân thành hai chiến tuyến đối địch, đột nhiên khi gặp nhau lại hoá thành anh em ?ouống chung dòng nước Trà giang xanh?.
    Họ phát hiện ở nhau những nét tương đồng, và cuộc hoà huyết đầy cảm xúc, nhiều hứng khởi và cũng không ít chua cay đã kết nối người Việt và người Chăm ở quê tôi thành anh em, thành ruột rà, hoá vợ chồng, thông làng nước. Từ ngày đó, cũng cách đây 5 hay 6 thế kỷ rồi, quê tôi đã thành nơi sinh sống của mấy dân tộc,nơi hợp lưu và hoà huyết của những cựu thù. Mỗi dân tộc khi ?ogóp gạo ăn chung? vào văn hoá vào phong tục, vào nết ăn nết ở quê tôi, đã biến vùng quê lẽ ra đơn sắc này thành một vùng đất đa văn hoá, chấp nhận nhiều phong tục, kết nối nhiều tộc người, và tôn vinh nhiều dòng họ.
    Tết, thì dân tộc nào trong số 4 dân tộc được ?ođăng ký hộ khẩu? ở quê tôi đều có, và có thể theo những thời điểm khác nhau trong mùa Xuân, nhưng có lẽ Tết của người ?oKinh? là phổ thông nhất, vì nó trùng với Tết của dân tộc Việt Nam ta. Tết ấy, giờ đây đã trở thành Tết chung ở quê tôi cho cả 4 dân tộc: người Kinh, người H?Tre, người Cor và người Ca-Dong. Cũng xin nói, trong huyết quản ?ongười Kinh? quê tôi đã có ít nhất 50% dòng máu người Chăm cổ. Và cũng ít nhất 50% món ăn truyền thống ở quê tôi, nhất là những món ăn trong ngày Tết, có ?olý lịch? từ những món ăn truyền thống của người Chăm.
    Như các món gỏi, các món thịt hay cá để chua, các món ram được gói bằng bánh tráng ( bánh đa), và các món có ăn kèm với ?onước lèo?. Một vùng đất nghèo nhưng phong phú sản vật, dù là sản vật nghèo, luôn là cơ sở để cho ?ora lò? nhiều món ăn mà với người địa phương thì hợp khẩu vị còn với du khách thì lạ miệng khiến ai cũng cảm thấy hài lòng và đều có thể tìm trong đó những lý do cho sự ưa thích riêng mình. Như món don. Đây không phải món trong cỗ bàn Tết, nhưng với người quê tôi, lại là món ăn tuyệt vời để hoá giải những ngán ngẩm của thức ăn nhiều thịt mỡ trong Tết.
    Khoảng mùng 5 hay mùng 6 Tết, khi bắt đầu du Xuân, người quê tôi rất thích được ăn vài tô don, ngày xưa thì từ các gánh don lưu động do các cô hàng don gánh bán: ?oNghèo nghèo nợ nợ cũng kiếm cho được con vợ bán don-Mai sau nó chết cũng còn cặp ui?. Ấy người quê tôi hay có thói ?ohài hước đen? như thế, nhưng tịnh không một chút ác ý, chẳng qua là để tôn vinh món don truyền thống, xin nói ngay là món ?otruyền thống? của người Chăm.
    ?oCặp ui? theo nghĩa đen là một đôi vò bằng đất nung dùng để đựng nước don nóng. Còn theo nghĩa bóng của câu ca dao này thì? Xin mách nhỏ với bạn, món don tuy rẻ tiền và rất dễ ăn nhưng lại là một món vừa bổ dương vừa bổ âm, có tác dụng không thua kém viagra nhưng lại đắc dụng cho cả chàng lẫn nàng. Các cô hàng don tuy quê kiểng nhưng sức ?obùng nổ? không thua gì các cô gái quê trong tiểu thuyết ?oBa người khác? của Tô Hoài. Thế mới kinh, thế mới quí!
    Một lần có dịp về Quảng Ngãi, nhạc sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiên Đạo đã ăn một lúc? 3 bát don, vừa ăn vừa hít hà vì? ớt cay, và cũng vì? sướng. Chẳng biết sau khi ăn don và ngắm nhìn cô bán don, nhạc sĩ có phấn hứng cho ra một symphonie-don hay ouverture-don nào không? Con don, cư ngụ dưới đáy sông Trà, là một loại ốc hến nhỏ. Nhỏ nhưng đặc biệt ở chất ngọt đậm đà sau khi được đãi vỏ và nấu lên. Nước don ăn với bánh tráng ( bánh đa) bẻ vụn, cũng là món bánh của người Chăm cổ mà sau này Hoàng đế Quang Trung đã cho làm lương khô để đoàn quân Bắc tiến của mình no lòng khi hành quân xuyên rừng vượt truông tiến ra Bắc đại phá quân Thanh.
    Đừng coi thường những cái nho nhỏ như con don, vì có khi ta lên tới tột đỉnh vinh quang cũng từ những cái những con nho nhỏ mà sương sướng ấy. Nói nhiều về don chẳng hoá ra ngày Tết quê tôi chỉ có món ăn đó. Cũng còn khối món là lạ khác. Như bánh nổ. Tôi bảo đảm, ngoài Bắc không có món bánh này. Trong Nam Bộ cũng không có. Chỉ quê tôi là có. Bánh nổ, thì cũng chỉ làm từ nếp rang, nhưng không phải bánh cốm Bắc, cũng chẳng phải bánh phồng bánh dẹp Nam Bộ.
    Hay như món bánh mè. Ngoài Bắc có kẹo vừng. Bánh mè cũng làm từ vừng (mè), nhưng không phải kẹo vừng. Nó là sự kết hợp giòn giã giữa bột nếp chiên dòn và vừng(mè) thơm thảo. Cứ như cả cánh đồng nếp đang mùa gặt ùa hương thơm vào ta khi thưởng thức món bánh mè này. Nghe hát Tuồng, coi hát múa bả trạo đầu năm mà trong túi có mấy cái bánh mè, vừa thưởng thức nghệ thuật vừa nhai lai rai thì?đã lắm! Văn hoá bao giờ cũng thoả mãn ta cùng lúc ở nhiều giác quan. Coi hát hay nghe hát vào dịp Tết đã văn hoá, ăn Tết đã văn hoá, mà chơi Tết lại càng văn hoá.
    Người quê tôi ít khi được chơi. Quanh năm làm lụng vất vả, đầu tắt mặt tối. Nên cái chơi trong Tết cũng không rưởm rà. Ngày xưa, họ tập trung ra đình làng coi hát bội. Có những nghệ sĩ hát bội, nghệ sĩ Tuồng được người quê tôi nhớ tới từng động tác vũ đạo, từng câu hát nam hát khách, từng cú ra roi quất ngựa (vũ đạo Tuồng) sau khi họ chết đã nhiều năm. Vinh quang của người nghệ sĩ hồi xưa, khi chưa có truyền thông đại chúng, tưởng như hạn hẹp mà hoá lại sâu sắc. Nó đúng là thứ bánh nổ truyền thống, nén chặt lại chứ không nổ tùm lum toét loét như bây giờ.
    Ngày xưa ở quê tôi còn món chơi ?ohô bài chòi?, một trò chơi ?oxổ số? hay ?olô tô? nhưng đầy chất văn hoá và đậm đà?văn nghệ trong dịp Tết. Những tay hô bài chòi có hạng đều là những nghệ sĩ sáng tác dân gian, và đều là những nhà thơ ứng tác được nhân dân vô cùng yêu quí. Chơi bài chòi không phải là đánh bạc và người chơi không có ai thuộc họ ?oPMU 18? cả. Bây giờ, những trò chơi dân gian trong sáng ấy đã gần như ?otuyệt chủng? trong chính nhân gian.
    Hãy trả văn hoá văn nghệ dân gian về cho nhân dân, nhưng trả bằng cách nào? Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Không ai lẩn thẩn đến mức cầu nguyện ?oBao giờ cho tới ngày xưa? nhưng cái gì ngày xưa được thì nên đặt lại nó trong cuộc sống bây giờ. Làm sao cho nó sống tự nhiên, không gượng ép, không hình thức, mà sống thật. Quê tôi bây giờ ăn Tết có vẻ ?oto? hơn ngày xưa, nhưng không còn cái náo nức cái hồi hộp cái mê mẩn của ngày xưa, khi ?otrống giục đầu đình bế bụng đi xem? hát bội (trong Nam) hay hát chèo ( ngoài Bắc) nữa.
    T.T
    Tối qua gọi điện về hỏi đứa bạn ngoài đó có họp lớp như mọi năm không,bạn trả lời năm nay chẳng nghe gì cả,mấy đứa bạn chẳng đứa nào về hết.Chắc ai cũng lập gia đình rồi nên thời gian tết là thời gian nghỉ ngơi để giành niềm vui cho gia đình nhỏ của mình và bà con của họ thôi,nên rất khó thời gian cho bạn bè.Thông cảm thôi.Chính gia đình mình đây cũng rất khó xum vầy đầy đủ các anh chị em cùng lúc nữa chứ.Vì mọi người ai rồi cũng có cuộc sống riêng.
    Cái thời mà xum vầy bạn bè đầy đủ chắc chỉ còn trong kỷ niêm thôi.Một thời đã xa
  6. levantam20_11

    levantam20_11 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2004
    Bài viết:
    539
    Đã được thích:
    0
    Nhịp thở quê hương
    http://www.quangngai.gov.vn/quangngai/tiengviet/bangtin/2007/17085/

    Mùa Xuân về đã làm đổi thay không khí của đất trời xứ Quảng. Những tia nắng mang hơi ấm của ngày mới đang dần bao trùm cả thành phố nhỏ bé này thay cho cái lạnh giá của mùa Đông. Người dân Quảng Ngãi sau một mùa vui Tết hôm nay cũng đã trở lại nhịp điệu của cuộc sống tất bật hàng ngày.
    Mùng mười tháng Giêng, vậy là ba ngày Tết đã hết, bảy ngày Xuân cũng đã qua. Từ khắp các ngả đường, sự hối hả, tấp nập đã trở lại. Các hàng quán sau một tuần đóng cửa, giờ đã hớn hở đón khách. Một số cửa hàng, dù biết có mở cửa thì cũng sẽ thưa khách nhưng các cô chủ, bà chủ cũng dọn hàng để lấy hên, lấy ngày và để giảm bớt thời gian nhàn rỗi. Có lẽ bấy nhiêu ngày nghỉ Tết đã đủ cho mọi người nghỉ ngơi, thư giãn sau một năm làm việc.
    Năm mới đến như tiếp thêm cho người dân xứ Quảng một luồng sinh khí mới, tất cả dường như vui hơn, hăng hái hơn đối với những chương trình, những công việc đã được sắp xếp sẵn. Sinh viên, sau những ngày nghỉ Tết sum họp bên gia đình, vui vẻ với bạn bè giờ lại bắt đầu toả đi đến những phương trời mơ ước để tiếp tục con đường dùi mài kinh sử, chuẩn bị hành trang cho những bước đường tương lai vì ngày mai tươi sáng của mình; các em học sinh trở lại trường lớp; cán bộ các cơ quan nhà nước trở lại công sở, công nhân trở lại các công ty, xí nghiệp, ra công trường, người nông dân trở lại với công việc đồng áng,? và những sinh hoạt thường nhật trở lại với nhịp điệu của nó.
    Tôi đến chợ Quảng Ngãi, đầu năm nhưng hầu hết các cửa hàng đã mở cửa, có nhiều hàng đã dọn bán từ rất sớm để lấy ngày may mắn đầu năm. Chị Kim Yến- chủ một quày mỹ phẩm tâm sự "ở chợ này, trừ các hàng rau, hàng tươi sống, hàng hoa, thực phẩm bán từ ngày mùng 3 ra thì hầu hết các quày hàng khác đều dọn hàng rất trễ, quày của chị cũng là hàng bán chậm, chủ yếu bán trước Tết chứ bây giờ ít người mua lắm, may ra có mấy đứa sinh viên mua để đi xa thôi. Nhưng do thấy năm nay mùng 3 hợp tuổi với chị nên có ế thì cũng mở cửa bán lai rai mà lấy hên năm mới. Vậy mà cũng bán được đôi chút".
    So với năm trước, năm nay các sạp hàng tại chợ Quảng Ngãi mở cửa sớm hơn, nhất là hàng may mặc. Chị Phương Anh- chủ một sạp quần áo may sẵn cho biết: "Tết rồi hàng bán Tết còn tồn lại không nhiều nhưng cũng tranh thủ mở cửa hàng sớm để bán cho học sinh, sinh viên, mà chủ yếu là sinh viên học ở xa. Các em trong tuổi học sinh cấp ba, sinh viên đại học thường hay bắt chước bạn bè, trong tết thấy bạn mình mặc cái áo đẹp, cảm thấy hợp với mình, sau Tết có tiền lì xì các em rất thích mua sắm. Tâm lý mà, đầu năm thì không bà mẹ nào khó khăn trong khoản này đâu, ai mà chẳng muốn con mình đẹp!" Có lẽ là thế! Tại đây tôi thấy chủ yếu khách hàng là các em lứa tuổi thanh niên, đa phần là còn học phổ thông hoặc đại học.
    Em Trần thị Bích Thảo- (ở Trà Bồng) sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi cho biết: "Trường em bắt đầu tập trung vào sáng nay, em cũng mới vừa xuống trường hôm qua thôi. Hôm nay vì em học buổi chiều nên sáng tranh thủ ra chợ mua một ít đồ dùng cá nhân. Em ở Ký túc xá mà!". Ánh Linh- (bạn đi cùng với Thảo) tâm sự: "Hình như trong Tết em ăn nhiều quá hay sao mà giờ quần áo chật hết, em định nhờ Thảo lựa dùm cho em mấy bộ quần áo để mặc đỡ. Cũng may là Tết vừa rồi em được lì xì nhiều nên giờ mới có thể tự do đi mua sắm chứ nếu không chắc là?" Linh nháy mắt với tôi và cười tinh quái.
    Dọc trên các con đường, các hàng quán cũng đã đồng loạt mở hàng đầu năm. Thành phố Quảng Ngãi đã trở với nhịp sống bình thường của nó, vẫn tấp nập, nhộn nhịp, sôi động và ấm áp như những ngày đã qua. Trên đồng, các cô, chú nông dân đã vào vụ mùa, sản xuất rau màu để phục vụ đời sống. Màu xanh của rau màu đã bao phủ lên những nền đất mẹ; trên các công trường, công nhân đã bắt tay vào công việc mới, điểm tô cho đời bằng những công trình, những sản phẩm đẹp nhất,?
    Trên đại công trường Khu kinh tế Dung Quất, khí thế ra quân đầu năm thật sôi nổi, hàng trăm kỹ sư, công nhân với nhiều phương tiện thiết bị đã ra quân đầu năm thi công trên các công trình: Cảng quốc tế Gemadept Dung Quất, xuất nhập khẩu hàng hoá qua bến số 1, cảng Dung Quất. Công nhân của các đơn vị thi công đã đồng loạt ra quân san lấp mặt bằng, tôn tạo bãi, kè bãi, nạo vét, thi công khu nước trước bến, gia công cọc vách để phục vụ công tác khoan cọc tại công trường Cảng quốc tế Gemadept Dung Quất ngay từ ngày mùng 6 tết. Tại bến số 1, Cảng Dung Quất hàng trăm cán bộ, công nhân cùng nhiều phương tiện chuyên dụng đã tất bật ra quân xuất nhập khẩu hàng hoá qua cảng. Hàng chục phương tiện vận tải và thiết bị cẩu chuyên dụng hoạt động liên tục để nhập nguyên liệu thép tấm phục vụ thi công bồn bể chứa dầu thô của Nhà máy lọc dầu Dung Quất.
    Một mùa xuân mới mang đến cho quê hương một sức sống mới, trả lại nhịp sống bình thường cho đất Cẩm Thành và trà lại cho người dân Quảng nhịp thở của quê hương.
    Lam Uyên

  7. levantam20_11

    levantam20_11 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2004
    Bài viết:
    539
    Đã được thích:
    0
    Sức sống mới trên quê hương Sơn Mỹ (15/03/2007)
    Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất anh hùng, giàu truyền thống cách mạng, hai tiếng Quảng Ngãi thân thương không biết tự khi nào đã trở thành tiếng gọi thiêng liêng ăn sâu vào tâm trí tôi. Cũng như những người con của đất Quảng, từ bé tôi đã được nghe kể rất nhiều về lịch sử của nhân dân Quảng Ngãi, về những tên tuổi gắn liền với từng chiến tích, từng địa danh trong hai cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.
    Thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh- một trong những địa danh mang nặng dấu ấn lịch sử của quê hương Quảng Ngãi, nơi mà cách đây 39 năm chỉ trong một buổi sáng đã phải mất 504 người con- 504 người dân vô tội chủ yếu là phụ nữ, người già và trẻ em là nạn nhân của đế quốc Mỹ trong một vụ tàn sát thảm khốc đã nằm lại trên nền đất mẹ yêu thương- một ngày đẫm máu.
    Về Sơn Mỹ hôm nay trong buổi sáng tháng 3, những giọt sương đêm như vẫn còn vương vấn với cỏ cây trên cánh đồng, nên chưa chịu nhường chỗ cho "cô nàng" nắng Xuân ấm áp. Các cô, các bác nông dân đã ra đồng tự lúc nào, người cày, người cuốc. Một làn gió nhẹ khẽ đung đưa những bông lúa, những chiếc lá khoai, nhìn đôi trai gái đang tát nước gầu sòng, họ vừa làm việc vừa trò chuyện thật vui. Tôi nghe trong nhịp điệu của tiếng nước có cả tiếng cười trong trẻo của cô thôn nữ.
    Giọng cô hướng dẫn viên Vân Kiều tại Nhà Chứng tích Sơn Mỹ như đang đưa tôi trở về với 39 năm trước, cũng trong một buổi sáng mùa Xuân, hôm ấy- sáng 16/3/1968, khi người dân trong làng bắt đầu ra đồng, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới?
    Thời gian trôi qua, trong trí nhớ của người dân Sơn Mỹ về buổi sáng kinh hoàng năm ấy đã dần phai mờ, song tội ác vô cùng dã man của đế quốc Mỹ ngày ấy vẫn còn được chính quyền địa phương lưu giữ. Nhà Chứng tích Sơn Mỹ vẫn đứng sừng sững giữa làng Mỹ Lai để trưng bày và lưu giữ những hiện vật, những dư ảnh của cuộc thảm sát và còn đó những nhân chứng sống hùng hồn minh chứng cho một sự thật vô cùng dã man đã từng xảy ra đối với mãnh đất và con người Sơn Mỹ.
    Vân Kiều tâm sự: ngày trước, khi Kiều mới đi làm, Kiều sợ lắm, chẳng dám nhìn vào những bức tranh ấy đâu, nhất là tối ngủ, Kiều cứ thấy ác mộng về nó hoài, sợ lắm. Nhưng vì công việc và Kiều thấy trách nhiệm của mình đối với quê hương nên Kiều đã có gắng tập nhìn vào nó kể cả khi không có khách, cứ như vậy mà Kiều quen lúc nào không biết. Nhưng nhìn có quen mấy đi nữa nhưng cứ mỗi lần hướng dẫn cho khách là mỗi lần Kiều khóc. Có lần, đang hướng dẫn cho một đoàn khách nước ngoài, Kiều không chịu đựng được nữa đành xin lỗi họ và chạy trốn vào một góc và? ngồi khóc một mình trong đó. Kiều cười với tôi và nháy nháy đôi mắt thật duyên.
    Cậu bé Võ Văn Nhất- học sinh lớp 7B trường Trung học cơ sở Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh nói: Tuy em sinh ra trong hoà bình, nhưng những gì em đọc được trong sách báo, học trong lịch sử và chứng kiến được qua những hình ảnh, hiện vật trong nhà chứng tích, em cũng cảm thấy rất tự hào về lịch sử đấu tranh của quê em và em cảm thấy rất đau xót trước những gì mà Mỹ đã gây ra cho những người dân Sơn Mỹ vô tội. Nếu không được nhìn tận mắt những hình ảnh đó chắc tụi em không tin đâu.
    Trong quá khứ phải chịu đựng đau khổ, khó khăn là vậy nhưng giờ đây, khi đất nước đã hoà bình, nhân dân đã được sống trong cảnh ấm no, không còn sợ cảnh chiến tranh, tang tóc nữa, người dân Sơn Mỹ lại tiếp tục thể hiện ý chí và nghị lực của mình trong cuộc chiến mới- cuộc chiến chống đói nghèo. Trao đổi với chúng tôi, ông Phan Thanh Dũng- Phó Chủ tịch UBND xã Tịnh Khê nói: Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm giúp đỡ của các cấp chính quyền Trung ương và địa phương cũng như các tổ chức trong và ngoài nước nên Sơn Mỹ đã có những đổi thay đáng kể, đời sống của người dân đã được cải thiện. Nhờ biết chuyển đổi mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đã biết sử dụng những vùng đất xấu, trồng cỏ voi để phát triển chăn nuôi bò, nhờ đó, trong những năm gần đây đời sống của người dân Sơn Mỹ đã tăng lên rất cao, thu nhập bình quân 5,9 triệu đồng/người/năm, nói chung là cao hơn những năm trước.

    Bà Hà Thị Quý- một người đã thoát chết trong vụ thảm sát tâm sự: Thoát chết là may mắn lắm rồi, nhưng sau vụ thảm sát năm đó do bị ám ảnh bởi chính những cảnh tượng đau thương xảy ra trên mảnh đất quê hương, trên chính những cánh đồng này và xảy ra với chính những người thân của mình nên chúng tôi đau lắm! Có một thời gian dài những hình ảnh chết chóc ấy cứ hiện lên trong đầu tôi khiến tôi không tài nào mà ngủ được. Nhưng giờ thì đã đỡ hơn rồi, thời gian lâu quá rồi và cũng vì cuộc mưu sinh tất bật nên cũng đã phần nào nguôi ngoai.
    Nhìn những ruộng lúa, ruộng ngô khoai đang khoe mình trong nắng, ít ai có thể nghĩ tới những điều đã xảy ra trước kia. Mảnh đất đã không phụ ý chí của người dân Sơn Mỹ, vẫn ngày ngày gắn bó, chắt chiu từng hạt phù sa và gom góp từng giọt nắng, hạt mưa để cho ra những sản phẩm nông nghiệp tốt nhất, cho nông dân những mùa bội thu.
    Trên đường, các cô bé, cậu bé đang cắp sách đến trường, tiếng cười, tiếng nói vang cả một quãng đường dài. Nhìn bức tranh Sơn Mỹ hôm nay, chúng ta có thể cảm nhận được một sức sống mới đang tuôn trào trong cơ thể quê hương.
    Lam Uyên

  8. HoaPhan

    HoaPhan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    1.047
    Đã được thích:
    0
    Tình mẹ tựa? biển khơi
    Đêm đêm, mẹ thắp nén hương lên bàn thờ đứa con ruột thịt? để sưởi ấm nỗi nhớ nhung chôn chặt tận cõi lòng. Có những phút giây, mẹ đứng lặng im trước làn khói hương mà nước mắt chảy ròng. Tiễn con lên đường, mẹ nhớ và khóc bao đêm dài, ngóng nhìn xa xăm chờ mong ngày đoàn tụ. Và rồi, con của mẹ đã ra đi mãi mãi? vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tình mẹ thật bao la - những người Mẹ Việt Nam Anh hùng.

    Nắng xuân vàng trải khắp. Con đường nhỏ quen thuộc về nhà Mẹ Việt Nam Anh hùng Đoàn Thị Bính (87 tuổi) - ở thôn Phú An, xã Đức Hiệp (Mộ Đức), đôi bờ tre xanh rì, từng làn gió thổi vi vu quyện với khí trời ngày xuân mát dịu. "Mẹ ơi!"-Mẹ Bính choàng tỉnh sau tiếng gọi, hai tiếng thân thương mà với mẹ còn quý hơn cả ngàn vàng, mẹ đã ngày đêm khát khao, chờ mong tiếng gọi ấy biết nhường nào! "Các con về đấy à, mẹ mừng quá". Ngôi nhà nhỏ khuất sau rặng tre chỉ có mỗi bóng mẹ đơn chiếc cùng với hương khói mẹ thắp cho chồng và đứa con trai độc nhất. Đã 6 năm rồi Báo Quảng Ngãi nhận phụng dưỡng mẹ Bính. Mỗi lần chúng tôi về thăm, ngôi nhà của mẹ lại râm ran tiếng cười nói. Mỗi lần gặp mẹ là mỗi lần cảm động, cũng với đôi mắt hằn sâu vết chân chim và gương mặt in dấu thời gian ấy? mẹ nói, mẹ cười hạnh phúc!
    Nhấm nháp đôi miếng trầu, mẹ Bính nói: "Nhớ thằng Hiền hơn cái gì hết, cái núm ruột của mình mà sao không nhớ cho đặng". Anh Lê Hiền (đứa con độc nhất của mẹ Bính) đi bộ đội và hy sinh năm 1970 (tròn 25 tuổi). "Năm nó đi đâu chừng 18 tuổi. Bữa đó nó đang ngồi lựa tằm, nghe tiếng tụi nhỏ hát ngoài gò, thế là dông tuốt ra ngoài đó... rồi đến trưa về lấy vội quần áo. Bảo để con đi? rồi hoà bình con về nuôi bố mẹ, vậy mà nó đi luôn"- mẹ Bính nhớ lại. Nhớ con, mẹ Bính khóc suốt và đau hai tháng liền. Đâu chỉ có đối mặt với nỗi nhớ mong con đến quặn lòng, mẹ Bính còn nhiều lần bị địch bắt vào tù tra xét vì biết con trai mẹ theo cách mạng, chúng đập phá, đốt nhà? ?oThím ơi, thằng Hiền trả nợ nước rồi" - trên đường đi chợ về, nghe anh dân công ở làng bên báo tin, mẹ đau đớn, vứt bỏ mấy lọn cải xanh? lững thững lê bước mà nghe như sấm chớp bên tai. Mẹ Bính đã hiến dâng đứa con trai độc nhất của mình cho cách mạng!
    Như thấu hiểu nỗi lòng người mẹ, duyên phận đã mang đến cho mẹ Bính đứa con gái-đứa bé bị người ta vứt bỏ ngoài đường khi mới vài ba ngày tuổi. Hai vợ chồng già cặm cụi chăm sóc đứa con "trời cho" như dòng máu ruột thịt của mình. Tiếng khóc, tiếng nói con trẻ bi bô? đã sưởi ấm lòng mẹ. "Ổng ra đi trước... mười mấy năm rồi mà, con Phim (con gái nuôi của mẹ-PV) thương mẹ lắm, nhưng gái lớn phải theo chồng"-mẹ Bính tự an ủi, nhưng làm sao giấu được nỗi cô đơn tuổi già trong ngôi nhà không một bóng người thân! Để rồi, như tỉnh như mơ, nửa đêm mẹ Bính nghe thấy tiếng gọi của chồng, của con trai... và giật mình thức giấc, nhưng nào có ai đâu, mẹ lại một mình bầu bạn với miếng trầu không. Tiếng hát ru cháu "ầu...ơ" giữa đêm khuya của bà hàng xóm làm mẹ nhớ anh Lê Hiền đến nao lòng. Mẹ Bính nói: "Cái thằng, hát cái giọng thanh thanh dễ ghét lắm! Nó hát trêu bà Ỷ nhà bên đang ru con đấy mà". Nói rồi mẹ Bính nhẩm lời câu hát: "Phò ơi, Nghé ơi, tai nghe bà Ỷ bả ru con Phò".
    * * *
    Dẫu thời gian qua đi, song ngọn lửa tình mẫu tử vẫn cháy mãi trong lòng những người Mẹ VNAH. Đã mấy mươi năm trôi qua, nhưng ký ức về những đứa con đã hy sinh đối với Mẹ VNAH Ngô Thị Lùng (80 tuổi) - ở thôn Phước Toàn, xã Đức Hoà (Mộ Đức), như mới ngày hôm qua vậy. "Dũng thì ôi thôi... ổng lý luận lắm, không ai cãi lại được. Thằng Bé có cái bệnh không chịu ăn cháo, bực quá mẹ đánh cho một trận. Có bao giờ mẹ đánh con đâu, đánh xong mẹ khóc quá trời... tội nghiệp thằng nhỏ. Thằng Tư cứ giành mẹ làm việc nặng... nó sợ mẹ chết. Thằng Năm nhỏ tuổi mà lớn như dưa, suốt ngày nằng nặc đòi tham gia cách mạng"- mẹ Lùng nhớ lại mà đôi mắt đượm buồn. Bốn đứa con trai của mẹ theo cha hoạt động cách mạng và hy sinh ở tuổi xuân xanh. Mẹ gồng mình chống chọi với cơn bão lòng khi chồng và các con lần lượt ra đi vĩnh viễn, nỗi đau chồng chất nỗi đau. "Bảo đứa nào theo giúp cách mạng một, hai đứa, rốt cuộc đi hết. Ổng với thằng út hy sinh một ngày... nối tiếp nhau mà đi"- Mẹ Lùng ngậm ngùi.
    Tình mẹ VNAH đối với con cái, với quê hương, đất nước mãi mãi được khắc ghi. Khóc vì nhớ, vì thương và đau đớn lòng khi đứa con ruột thịt không còn nữa... song những người Mẹ VNAH đã giằn nỗi đau, để hoà vào mùa xuân hoà bình của dân tộc, của quê hương, mùa xuân mà các con của mẹ đã đánh đổi bằng cả sự sống!
  9. curio

    curio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2004
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    0
    Cô bé bán don
    (Copy từ Minh Tam''s blog-Yahoo 360 )
    Đến định cư tại miền Bắc California Hoa Kỳ hơn nửa năm, bỗng một hôm, tôi nhân được cú điện thoại của Thung từ Texas gọi qua. Thung vừa là bạn học cũng vừa là chiến hữu ngày xưa. Hắn đề nghị gởi vé máy bay mời tôi qua Houston chơi. Nhân tiện tham quan khu vực dễ làm ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều so với San Jose. Tôi đồng ý. Một tuần lễ sau , một vé máy bay và một cái check 500 USD trong bì thư gởi đến. Đây là một món quà quá lớn ở đất lạ quê người.
    Nhận được tiền nhưng lòng tôi lại ngại ngùng, bởi biết bao giờ mình trả lại cái nợ này đây. Ba ngày sau, tôi lên máy bay của hãng Continental Airlines đi Texas. Bốn tiếng đồng hồ sau, máy bay đáp xuống phi trường Houston. Thung đón tôi tại lối ra của khu hành khách.
    Nước da trắng hồng đỏ au, cái bụng căng tròn, dáng người bệ vệ ?orất ông chủ?. Mà chủ thực. Thung làm chủ cái chợ bán toàn đồ biển. Vợ và con hắn quản lý còn Thung lo chạy vòng ngoài. Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm cơ sở làm ăn của gia đình. Nào phòng mạch nha sĩ của đứa con trai đầu lòng, phòng dịch vụ về Bảo lãnh Di trú của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa.
    Nhà hàng đồ biển có tên Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm uất nhất của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng hơi vắng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quày thu tiền. Người bồi bàn trao cho chúng tôi bản thực đơn.
    Cái tên Cổ Lũy nghe quen thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người Quảng Ngãi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa biển thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ. Trong tờ thực đơn có món ?oHến xúc bánh tráng?.
    Nhìn thấy hến mình lại nhớ đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ thực đơn, tôi gọi ngay cho mình một tô don. Cô bồi bàn giọng miền Nam nhìn tôi ngạc nhiên hỏi: ?oMón don là món gì vậy ông? Thực đơn nhà hàng nầy không có món đó? - ?oCái món Hến xúc bánh tráng trong thực đơn có ghi, thì tại sao lại không có món don??. Tôi vừa cự nự vừa chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột hến, rồi tiếp: ?oNếu không có don thì cho tôi món số 15 này?.
    Cô gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau đó, một phụ nữ đứng tuổi ăn mặc sang trọng từ quày thu tiền đi thẳng đến bàn chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn da mịn màng. Thung khều chân tôi nói nhỏ ?oBà chủ?.
    ?oChào hai anh?. Người đàn bà nở nụ cười thân thiện. ?oChào bà chủ?, Thung đáp lễ. ?oVị nào thích món don??, bà chủ tươi cười hỏi. ?oThưa bà, tôi ạ? - ?oXin lỗi, anh là người quê Quảng Ngãi?? - ?oTại sao bà biết?? - ?oTôi chỉ đoán thôi, bởi vì chỉ có dân sống tại Quảng Ngãi mới thấy thích thú món don? - ?oThế bà cũng là người Quảng Ngãi, đúng không?? - ?oAnh nghĩ sao mà đoán ra thế?? - ?oChỉ nhìn cái tên hiệu Cổ Lũy của nhà hàng là biết ngay? - ?oNày ông anh, trước kia ở Quảng Ngãi, anh sống ở huyện nào vậy??. ?oTôi ở thị xã, trên đường Quang Trung??
    Người đàn bà nhìn tôi một chặp lâu rồi quay vào bên trong nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa ruột hến xúc bánh tráng cho tôi.
    Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại mùi hến. Hến ở quê nhà ruột nhỏ, dai và thơm. Còn hến đóng hộp nhập cảng con lớn, mềm lại mất hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất định phải ăn cho được một lần cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngãi, tôi không thể nào quên ăn một bữa don cho đã cơn ghiền.
    Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt đến bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có kèm theo một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời riêng tôi đến nhà vào chiều thứ Bảy. Đặc biệt, bà khoản đãi món don do bà nấu. Phần dưới là số phone và địa chỉ nhà.
    Trên đường về, tôi hỏi Thung: ?oCậu nghĩ sao cái trường hợp lạ lùng này?? ?" ?oỞ quê người, nhớ cố hương, gặp người Việt đã mừng rồi huống chi lại là đồng hương Quảng Ngãi. Bà ấy mời cậu đến nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con ở quê nhà. Cứ nhìn dáng dấp bà ấy với cái cơ ngơi này là cậu hiểu ngay bà ta là dân trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ may đem đến cho cậu công ăn việc làm ở thành phố này?. Bạn tôi suy luận như thế. Riêng tôi, vì lạ đất lạ người nên có phần bồn chồn, áy náy.
    Hương vị của món don - hến xúc bánh tráng - làm tôi nhớ thời mới lớn ở Quảng Ngãi. Tôi từ trên quê xuống tỉnh học, ở trọ nhà người chị thứ Tư trên đường Quang Trung thị xã Quảng Ngãi. Anh chị dành cho tôi căn phòng trên căn gác lửng. Có ban công nhô ra làm mái hiên cho tầng dưới. Thông thường mỗi sáng, tôi thức dậy học bài rất sớm. Đường phố vẫn còn sương mù vướng mắc đó đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm trong vòm lá sum sê.
    Khi chân trời vừa rựng đỏ khuất sau hàng tre hướng đông, là tiếng rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước đường nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc, cháo gà, bánh canh, bánh mì... đủ các loại hàng ăn vặt, và cũng đủ các loại âm thanh. Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn, giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam... Duy có tiếng rao: ?oAi ăn don ho..o..o.. ông? khiến tôi để ý. Tiếng ?oho..o..o..ông? sau cùng kéo dài không đủ hơi chứng tỏ người rao hàng không phải giọng của người đứng tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót như chim non mới tập hót, âm điệu ngây thơ rời rạc.
    Tôi ngồi học mà vẫn để ý đến tiếng rao bán don vang lên trước nhà. Tiếng rao như bị sương lạnh buổi sáng sớm làm quánh lại không thoát ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa. Một hôm, tôi đang đứng tập mấy động tác hít thở trên ban công, chợt tiếng rao ?oAi ăn don ho..o..ông? quen thuộc vang lên phía dưới đường. Tôi vạch bức mành nhìn xuống thấy một người con gái mặc chiếc áo bà ba trắng thân hình mỏng mảnh với gánh don trên vai.
    ?oÊ don?, tôi gọi cô nàng đứng lại rồi vội vàng xuống thang gác. Gánh don đã được đặt trước hiên nhà, nàng đứng đó chờ tôi mở cửa. ?oAnh ăn don??. Nàng hỏi khi tôi nhẹ nhàng lách mình qua cánh cửa sắt. Đó là một cô bé ước chừng mười ba mười bốn. Mái tóc vừa chấm vai che một bên khuôn mặt trái soan còn măng tơ. Tôi nhìn vào ngực cô bé, đôi nhũ hoa hồng hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải mỏng không áo lót, khiến cô bé cúi mặt thẹn thùng. Bạn học của tôi, những cô nữ sinh cùng cỡ tuổi đã bắt đầu chưng diện se sua, áo ngoài áo trong, phần trên phần dưới đủ cả, không khác chi người lớn. Còn cô bé, với chiếc quần đen, áo bà ba trắng mộc mạc nổi bật nét đẹp của người con gái chân quê.
    ?oAnh ăn don??. Cô bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh trả lời: ?oKhông ăn don, kêu cô lại làm gì??. Cô bé chợt hiểu nở miệng cười chữa thẹn khoe hàm răng trắng đều như những hạt ngô. Nụ cười hồn nhiên khiến người đối diện cũng thấy lòng dạt dào, xao xuyến. Cô bé, hai tay thoăn thoắt múc don. Mùi don thơm nồng pha chút hương biển từ ui don bay lên ngào ngạt.
    Cô bé trao cho tôi tô don còn bốc hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng và hai trái ớt xiêm tươi xanh. Ăn don đâu cần phải bàn ghế. Tôi đặt bát don xuống nền xi măng, bẻ bánh tráng bỏ vào tô giằm luôn hai trái ớt. Nước don ngọt và béo. Cái ngọt độc đáo không phải vị ngọt của thịt, cá mà vị ngọt rất đậm đà hương vị quê hương. Lại thêm vị nồng cay của ớt, mùi thơm của bánh tráng nướng nó quyện vào lưỡi, ngấm vào chân răng, kích thích tận cùng tế bào vị giác. Nước don nuốt tới đâu ấm tới đó. Trời lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng thì mới thưởng thức được hết cái thú ăn don ở quê nhà.
    Miếng don cuối cùng để lại trong miệng, trong cổ của ta vị ngọt ngọt, cay cay, nồng nồng, thơm thơm quyến rũ lạ kỳ. Nó khiến người ăn don không muốn dừng ở tô thứ nhất.
    Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà vì ớt cay. Cái lưỡi tê tê, mắt mũi xông lên mùi cay nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho nước mắt nước mũi tuôn ra. Nhìn cách ăn rất thật tình của tôi, cô bé cứ che miệng cười. Một tô, hai tô rồi ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen lay láy. Cô kêu lên: ?oCoi chừng bể bụng đó, anh Hai!?. Ô, lần đầu tiên tôi được một người con ******* bằng anh. Anh Hai.
    Mười sáu tuổi, học lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà cha mẹ, anh chị cứ gọi tôi là Út Đẹt. Mẹ tôi thường nhắc chuyện hồi tôi còn nhỏ. Đã bốn, năm tuổi rồi mà vẫn còn bú và ăn cháo. Các bà chị tôi chế nhạo hoài mỗi lần tôi ôm vú mẹ. Chị Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất: ?oMẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó thành người lớn?? . Mẹ tôi cười, nhỏ nhẹ bảo: ?oCác chị lớn cả rồi còn em nó út ít mà?. Chị tôi bực mình bảo: ?oChừng đó tuổi mà chưa chịu dứt sữa. Chẳng lẽ đến khi đi học, mẹ phải mang vú đến trường cho Út sao??. Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ vò đầu tôi, tóc còn ướt nhẹp mồ hôi, âu yếm: ?oGiàu út ăn, khó út chịu. Mẹ có sữa con nhờ??
    ?oNày cô bé, sao không múc tiếp một tô nữa?? ?" ?oAnh à, em chưa hề thấy người nào ăn đến ba tô don mà còn kêu thêm nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh?. Tiếng ?onghe anh? của cô bé sao mà êm đềm quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra trả.
    Cô bé đi rồi, tiếng rao ?oAi ăn don ho..o..ông? đã văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn còn đứng nhìn theo thẫn thờ. Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi. Tôi lại vội vàng mở cửa: ?oNày, đằng ấy tên gì vậy?? ?" ?oEm tên Thuyền?, cô bé trả lời, rồi dạn dĩ nhìn tôi hỏi: ?oThế còn tên anh?? ?" ?oHạo? ?" ?oHạo, cái tên lạ quá!?. Cô bé nhắc lại tên tôi rồi cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc don lẹ làng, vén khéo không hề rơi rớt. Tôi để ý lần này, cô bé đem theo một cái tô cỡ lớn hơn, khác hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng ui. Cô tự ý bẻ bánh tráng cho vào tô trước khi đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích: Làm thế này don còn giữ được độ nóng, và hương don không bị loãng.
    Cô bé trao tô don cho tôi, vô tình tôi đặt bàn tay chạm phải tay nàng. Cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng rựng đỏ, Thuyền bảo: ?oMỗi sáng anh ăn hai tô này là đủ rồi!?.
    Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng chị tôi mua ốc don tươi về nấu. Thông thường chị thêm vào nồi don cả thịt bằm, xác mỡ, nhưng tôi ăn một cách lơ là chẳng thấy hấp dẫn tý nào. Chị tôi chế giễu: ?oThằng Út nó đâu có mê don chỉ mê con nhỏ bán don?.
    Có lần tôi cố tình giữ bàn tay Thuyền bên dưới tô don, cô bé cứ để nguyên nhìn tôi với ánh mắt long lanh tình tứ. Chặp lâu sau, nàng rút tay về hối thúc: ?oNgười ta thấy kìa, ăn đi kẻo nguội?. Thế là suốt mùa don , cô bé Thuyền ít có buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường. Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không về quê lấy cớ học bài thi.
    Có lẽ nhờ ăn don mà thân thể tôi đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị tôi phát hiện sự ?othay da đổi thịt? của thằng em út. Chị chế nhạo: ?oNghèo nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán don. Mai sau có chết cũng còn cặp ui?.
    Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho tôi theo người anh họ vào Sài Gòn tiếp tục học. Tôi từ biệt Quảng Ngãi mà nghe lòng mình buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm thu, những cơn mưa đầu mùa đã làm cho nước sông dâng cao. Tôi còn nhớ lời Thuyền dặn: ?oKhi nào nước sông dâng cao thì don không còn nữa. Chừng ấy em sẽ không còn dịp gặp anh, chỉ còn biết hẹn anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm lịch?. Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong gặp nàng để nói lời từ biệt. Giờ phút chót ngồi trên xe đò mà tôi vẫn dõi mắt đợi chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe chuyển bánh, mẹ và chị tôi mắt rưng lệ, nắm tay tôi từ giã. Tôi không cầm được xúc động đã òa khóc.
    Lần đầu tiên tôi xa mẹ, xa gia đình cách hàng mấy trăm cây số. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên ***g ngực mình. Tôi thương mẹ thương chị. Nhưng tình của tôi đối với Thuyền vừa nồng nàn vừa xót xa. Tôi thương Thuyền cuộc sống quá lam lũ. Mới chừng ấy tuổi đã phải vất vả thay mẹ nghề bán don. Tuổi vừa lên ba, cha Thuyền đã tử nạn theo tàu đánh cá ngoài khơi khi bị cơn bão bất ngờ ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi Thuyền ăn học hết bậc tiểu học. Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giã ghế nhà trường, lăn lộn vào trường đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh đi bán dạo hàng ngày đi về trên mười cây số.
    Những đêm đầu tiên ở Sài Gòn, tôi nhớ day dứt nụ cười rạng rỡ của Thuyền. Nhớ đôi bàn tay nhỏ nhắn của nàng run run trong bàn tay tôi. Nhớ đến hương vị thơm lừng của tô don với chất béo của ruột don trộn mùi cay nồng của ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành ngò. Nó tổng hợp thành hương vị không có món ăn nào so sánh được. Don Quảng Ngãi chiếm lĩnh cương vị độc tôn đối với người dân Quảng Ngãi bởi nó là món ăn quê hương. Và đối với riêng tôi có pha cả mùi hương con gái của Thuyền.
    Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận được thư của chị tôi: ?o...Đầu mùa don năm này, con bé bán don trở lại. Sáng nào nó cũng đặt gánh don trước cửa nhà chị, lâu lâu nó rao lên ?oAi ăn don hông? rồi đứng đó đợi chờ. Người ta không biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, thì chị đoán biết. Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu don của nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nhìn sâu vào trong nhà mà không dám hỏi. Một hôm, cầm lòng không được, chị cho nó biết là em vào Sài Gòn học đã gần một năm. Sau đó chị không còn thấy con bé bán don trên con đường này nữa...?.
    Đêm đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng rao: ?oAi ăn don ho..o..ông? như tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan suốt mùa Hè thương nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống, chung tình. Thuyền ơi, hãy tha thứ cho tôi. Những rạo rực tình yêu đầu đời đã làm cho con tim em phải se thắt vì phân ly.
    Rồi thời gian trôi qua, ba năm miệt mài đèn sách đã giúp tôi quên hình ảnh cô gái bán don ngày nào. Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần, tôi về thăm Quảng Ngãi. Vào buổị sáng, tôi dậy sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi nghe tiếng rao ?oAi ăn don ho..o..ông?.
    Tôi vội vàng chạy ra ban công gọi: ?oCô bán don?. Tôi nhanh chân xuống thang gác mở cửa. Cô bán don đứng đợi dưới mái hiên nhà. Thoáng nhìn, tôi tưởng một thiếu phụ nào khác không phải Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm lẫn được. Âm thanh tiếng rao của Thuyền như mọc rễ trong ký ức của tôi. Cũng thân hình mảnh khảnh đó nhưng cao hơn và già dặn hơn. Chính là Thuyền của ba năm về trước. Tôi hỏi: ?oThuyền phải không??. Nàng nhìn tôi đăm đăm, rồi những giọt nước mắt lăn tròn trên má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực áo nàng vết ố của những giọt sữa đã khô. Đứng sát vào Thuyền, tôi đặt tay lên vai nàng bảo: ?oEm để gánh xuống đây, múc don cho anh ăn nhé? ?" ?oKhông. Don em đã cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu?. Nói xong, nàng đưa tay áo quệt nước mắt, trở gánh quay lại con đường cũ. Tôi đứng nhìn theo nàng mà nghe hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe tiếng rao ?oai ăn don ho..o..ông? lần cuối cùng của Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng khác, nhưng tuyệt nhiên im lặng, chỉ còn sót lại hương don thoảng bay trong gió?
    Chiều thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước căn nhà số 28... trên đường White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà lầu ở khu mới xây khá đồ sộ. Vách tường áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt.
  10. curio

    curio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2004
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    0
    Cô bé bán don tt
    Tôi đứng tần ngần một hồi lâu mới bấm chuông. Người phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở cửa, gật đầu chào rồi mời tôi vào khu phòng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô pha da màu vàng nhạt choán cả một góc phòng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn hệ thống âm thanh karaoke chiếm trọn góc phòng đối diện.
    Bà chủ rót trà: ?oMời anh dùng nước?. Nàng trao tôi tách nước rồi tự giới thiệu: ?oTôi tên là Marry, chồng tôi là người Mỹ đưa tôi sang đây từ năm 1972. Xa quê mình lâu quá, nay gặp người đồng hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt là dân ở Quảng Ngãi mà lại thích ăn don như anh? ?" ?oBà ở huyện nào??, tôi tò mò hỏi ?" ?oHuyện Tư Nghĩa, xã Tư Nguyên?. Bà Marry nhìn tôi định hỏi tiếp điều gì, nhưng bà lại đổi thế ngồi, xoay người sang hướng khác bưng bình trà rót thêm nước vào tách cho tôi. Bà nói: ?oThôi, để lát sau mình nói chuyện tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà kẻo nguội mất?.
    Tôi theo nàng đến phòng ăn. Mùi don từ trên bếp bốc hơi thơm lừng. Bà chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút đặt trên bàn có cả bánh tráng nướng, hành ngò và đĩa ớt xiêm. Tôi ăn ngon lành, ăn thật tình. Ớt cay, don nóng, tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra. Bà chủ nhà đưa khăn giấy cho tôi với ánh mắt đầy xúc động. Một tô rồi hai tô, bà ngồi nhìn tôi ăn và khuyến khích thêm tô nữa nhưng tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối.
    Nàng bảo: ?oAnh sợ vỡ bụng đấy à??. Câu nói của bà chủ khiến tôi sực nhớ đến Thuyền, cô gái bán don thời tôi còn trung học ở Quảng Ngãi. Cô bé đã từ chối bán cho tôi tô thứ tư với câu: ?oCoi chừng bể bụng?. Tôi ngước nhìn bà Marry, tâm sự: ?oĂn don hôm nay khiến tôi nhớ đến kỷ niệm thời niên thiếu ở quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái bán don tên Thuyền. Tôi thương cô ấy và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy tuổi đầu đã phải bỏ học thay Mẹ đi bán don dạo. Buổi sáng nào cô ấy cũng gánh don đến trước hiên nhà tôi trọ học và chăm sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em. Sau này tôi vào Sài Gòn học đã quên lãng cô bé bán don. Ba năm sau trở về Quảng Ngãi, tôi tình cờ gặp lại nàng cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đã trở thành thiếu phụ. Thuyền đã từ chối không bán don cho tôi còn bảo?? - Nói đến đây, chợt bà Marry cướp lời tôi, lên tiếng: ?oEm không bán cho anh đâu. Don em cuối mùa lại gặp luồng nước bạc!?. Bà chủ nhà đã nói lên nguyên văn câu nói của Thuyền ngày xưa, ẩn chứa sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật mình sửng sốt.
    Tôi nhìn vào mắt bà Marry, hình như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên: ?oThuyền phải không??. Thuyền ngày xưa đã đưa tay quệt nước mắt, không trả lời câu hỏi của tôi.
    Marry bây giờ với giọng ngậm ngùi: ?oVâng, em là Thuyền của 37 năm về trước. Em đã nhận ra anh ngay khi anh cho biết chỗ ở trước kia là đường Quang Trung. Đó là con đường dạt dào hạnh phúc trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà cũng là con đường mang đầy xót xa thương nhớ ngày anh rời xa?.
    Thuyền đứng dậy đến ôm vai tôi: ?oCảm ơn anh đã cho em một tình cảm trân quý, dù là đối với một cô gái bán don nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối về sau này, tình anh là ngọn đèn thắp sáng cho em trong những đêm mịt mù sương tuyết. Hạo ơi - cái tên nghe lạ quá - ngày đó em đã nói với anh như thế. Nhưng sau này mỗi khi gặp những đau khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên thân thương sưởi ấm lòng em??.
    Tôi nắm lấy tay nàng, nói như một triết gia: ?oĐời như một dòng sông, chuyển đổi không ngừng. Xưa kia Thuyền là cô gái bán don, ngày nay Marry là chủ một nhà hàng lớn nhất nhì ở đây. Chúc mừng em. Chúc mừng người đồng hương Quảng Ngãi đã nắm bắt được cơ hội vươn lên trên xứ người!?.
    Sau buổi hàn huyên, Thuyền đích thân đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng còn quyến luyến nhìn theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào ***g ngực, chợt nghe hương don còn nồng trong hơi thở?
    Được curio sửa chữa / chuyển vào 17:10 ngày 21/10/2007

Chia sẻ trang này