1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thời bao cấp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi BTT, 02/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Thứ Năm, 08/12/2005
    Bù giá vào lương
    TT - Trong cảnh khốn khó của ?ođêm trước? đổi mới, có những đột phá táo bạo mà những người mở đường chấp nhận đầy rẫy rủi ro, thậm chí bằng cả sinh mệnh và sự nghiệp của họ.
    Nhưng may mắn thay, thực tế đã cho câu trả lời đầy thuyết phục. Câu ?obù giá vào lương? như lời thần chú của cán bộ công nhân viên thời đó.
    Khắc khoải đồng lương
    Mẹ con bà Đường (Hà Đông, Hà Tây) hôm ấy dậy rất sớm. Người đi chợ mua thức ăn. Người đánh rửa ấm chén, quét nhà. Người thắp hương, cắm hoa lên bàn thờ... Chiều ấy, sau năm năm đi công nhân cầu đường, ông Bùi Văn Can, chồng bà, về thật.
    Đặt balô xuống, ông chia kẹo cho đàn con, đưa vợ nửa cân đường, một lọ mỡ là những thứ ông nhịn ăn trước khi về quê. Cuối cùng là tem gạo (suất ăn) của ông trong mấy ngày nghỉ cùng tờ giấy chứng nhận chiến sĩ thi đua. Có ý chờ mãi nhưng không chịu được, bà Đường hỏi: ?o****** còn gì đưa tôi cất cho??.
    Ông Can nguýt bà một cái nói: ?oQuà của mẹ nó đây!?. Nói rồi ông móc ra hai cái mũ vải. Một cái nam và một cái nữ may bằng vải thô, đường chỉ công nghiệp đơn giản, trong lót vải kẻ, hai bên có khoét lỗ nhôm để xỏ dây, trị giá khoảng một tô phở/chiếc. Bà Đường thất sắc ngồi phịch xuống đất thốt lên cay đắng: ?oTrời ơi ông đi làm năm năm đằng đẵng mà mang về được hai cái mũ à??...
    Ông Can tâm sự: ?o70% thu nhập của một cán bộ hay công nhân là tem phiếu. 30% còn lại là lương. Thử hỏi, mỗi tháng tem gạo: 17 kg, thịt: 1,2 kg, đường: 0,75 kg thì tôi có thể để dành được gì? Đấy là chưa kể nó bị hao hụt, mốc, rách, thối, hỏng? khi đến tay tôi cũng như với những công nhân khác.
    Cay đắng hơn là người ta không cần biết tháng này tôi thiếu gạo hay dầu, cần xà phòng hay kem đánh răng, áo may ô hay mũ cát két? mà họ cứ có gì thì phát nấy. Nên cái thiếu cứ thiếu, cái thừa cũng chẳng dám bán (vì sợ lúc khác lại thiếu). Còn lương, chao ôi nó ít ỏi kinh khủng! Mỗi tháng tôi được 50 đồng, nếu quá chân ra chợ với mấy ông bạn chỉ một hai bữa nhậu là hết?. Ông Can còn chưa dứt cơn bùi ngùi xót xa của hơn 20 năm trước.
    Thời đó những người ăn lương nhà nước đều sống trong cảnh như nhà ông Can, bà Đường dù ngoài Bắc hay trong Nam bởi mô hình miền Bắc được áp vào miền Nam sau giải phóng. Thay vì trả hoàn toàn bằng tiền thì Nhà nước trả bằng hiện vật (những thứ mà người lao động nếu có tiền cũng sẽ phải mua).
    Tuy nhiên khi mậu dịch quốc doanh không đủ hàng hóa, bắt buộc phải dựa vào thị trường tự do thì toàn bộ những tính toán và hệ thống giá cả của Nhà nước cũng bị chi phối của qui luật cung cầu. Lúc này những yếu tố tích cực của chính sách tiền lương đã biến dạng thành những yếu tố tiêu cực. Sự tiêu cực, méo mó ấy khiến ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống, ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống...
    Một đề án không thể bỏ dở
    Mũi đột phá chế độ tiền lương gây ấn tượng nhất bắt đầu từ Long An. Ông Chín Cần (Nguyễn Văn Chính), bí thư Tỉnh ủy Long An - một nhà lãnh đạo đậm đặc tính khảng khái Nam bộ, quyết định phải làm gì đó thay đổi cơ chế giá cả, tiền lương. Lựa chọn trong giới trí thức địa phương, ông gọi phó giám đốc Sở Thương nghiệp lúc bấy giờ là ông Hồ Đắc Hi lên trao đổi. Những cái đầu và con tim đang trăn trở gặp nhau.
    Ông Hi dốc hết tâm trí soạn thảo đề án cải cách phân phối lưu thông ở Long An. Đề án này xác định lại giá cả, tiền lương phải dựa trên qui luật giá trị và cung cầu cũng như những nguyên tắc kinh tế hàng hóa khác chứ không thể duy ý chí. Ông Hi lấy trường hợp thu nhập của ông Chín Cần để tính toán: tổng tiền lương và 16 mặt hàng phân phối theo định lượng, tất cả qui ra giá thị trường thì lương bí thư tỉnh ủy xấp xỉ 600 đồng.
    Tuy nhiên vì những lý do như chất lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn bị cắt xén, hàng được cấp không phù hợp nhu cầu... thì hiệu quả sử dụng của mức lương này chỉ đạt 50-70%. Tốt nhất là đem hết số hàng phân phối của bí thư ra chợ bán theo giá chợ rồi về trả cho ông 600 đồng/tháng. Bí thư cần gì ra đó mà mua.
    Như vậy tỉnh nắm được hàng hóa, giá cả. Vợ bí thư thoải mái lựa chọn hàng mua. Nhân viên thương nghiệp, dân buôn, đầu cơ... không còn cơ hội tiêu cực mà Nhà nước chẳng mất đồng nào, lại tiết kiệm được khoản bù lỗ cho thương nghiệp, tem phiếu, thời gian... Tiếc là đề án này đang làm dở thì ông Hồ Đắc Hi được chuyển về trung ương.
    Nhưng Long An quyết không dừng lại. Thử nghiệm thực tiễn lại phải đi trước một bước. Tháng 8-1979, sau khi lĩnh toàn bộ định mức hiện vật (tháng chín) của cán bộ công nhân viên trong tỉnh, thay vì phân phối hết cho cơ sở, Long An quyết định chọn một mặt hàng bán ra thị trường. Những đột biến được đề phòng.
    Thông thường khi Nhà nước bán hàng ra ngoài thì phần lớn lượng hàng đó bị ?otay ngoài? móc ngoặc với ?otay trong? để mua. Đợi Nhà nước hết hàng, họ bán ra thị trường với giá cao hơn nữa. Hoặc nếu người tiêu dùng sợ sau này không có hàng mà cố gắng mua nhiều để dự trữ thì sẽ gây khan hiếm ảo. Giải pháp ở đây là chia hàng để bán làm ba lần. Làm như vậy, người mua sẽ hiểu không phải Nhà nước chỉ bán một lần duy nhất. Điều đó đồng nghĩa: đầu cơ sẽ thất bại.
    Khi không còn đầu cơ thì các tệ nạn móc ngoặc, tham ô sẽ triệt tiêu dần. Làm từng đợt cũng là để giữ khoảng cách xử lý các tình huống xấu... Về mặt pháp lý, tỉnh ủy xác định: ghi chép thật minh bạch. Thử nghiệm xong tỉnh sẽ chủ động báo cáo toàn bộ kết quả với trung ương. Không tư lợi, không mờ ám mà có ích cho dân, cho tỉnh dẫu bị kỷ luật cũng không sợ.
    Xà bông đi trước?
    Mặt hàng đầu tiên được chọn là xà bông. Đây là thứ hàng không quá quan trọng như lương thực, thực phẩm nhưng cũng là thứ không thể thiếu đối với đa số người dân. Tháng 9-1979, 4 tấn xà bông được bày bán tại hầu hết các cửa hàng, hợp tác xã mua bán với giá cao gấp 10 lần giá phân phối (chỉ bán có hạn cho từng đối tượng) và tương đương giá chợ.
    Như dự tính, trong ba ngày bán không sót một cân và tất nhiên, khách hàng chủ yếu là ?ocon buôn?. Thị trường xà bông từ xôn xao, ngơ ngác chuyển sang ngập ngừng nên hàng khan hiếm và hơi nhích giá. Đúng mười ngày sau, 5 tấn xà bông tiếp theo được tung bán với giá y như lần trước (đã thấp hơn giá chợ lúc đó chút xíu).
    Hàng cũng hết rất nhanh nhưng tư thương đã dè dặt. Giá xà bông giảm xuống mức ban đầu. Mười ngày sau, lượng xà bông cuối cùng được tung bán. Đồng thời, tiền lương tháng chín được cấp cho tất cả cán bộ công nhân viên chức của tỉnh. Lương không được tính theo mức cũ mà được cộng thêm định mức của mặt hàng xà bông (đã bị cắt) áp theo đúng giá chợ hiện thời.
    Ai muốn mua xà bông thì ra chợ. Lúc này tất cả số xà bông những người đầu cơ ở những lần mua trước được tung ra chợ. Giá giảm rất nhiều, người mua thoải mái lựa chọn và không còn phải lo mua dự trữ. Thông tin loan báo rộng rãi: xà bông không phân phối nữa nhưng cũng không thiếu ngoài chợ hay cửa hàng quốc doanh. Câu chuyện xà bông đi trước xem như thành công.
    Ba tháng cuối năm 1979, tất cả các mặt hàng phân phối khác đều được Long An tung bán ra thị trường (trừ gạo).
    1kg thịt được Nhà nước qui định bán cho công nhân viên 3 đồng thì Long An bán thẳng ra chợ 30 đồng... 100% lương cán bộ công nhân viên trong tỉnh được lĩnh bằng tiền mặt. Toàn bộ số hiện vật đều được qui ra tiền theo mức giá thị trường.
    Người nhà nước hết sức phấn khởi, thị trường sôi động, chỉ số giá cả hàng tiêu dùng giảm xuống rõ rệt. Nhưng có lẽ sung sướng nhất là các bà nội trợ không phải thấp thỏm muốn cái gì cũng mua dự trữ (vì sợ lúc khác không được phân phối); không phải nịnh mấy cô thương nghiệp.
    Lần đầu tiên người Long An (công nhân viên chức) được ăn gạo ngon của chính quê mình làm ra (trước đây gạo phải bán cho Nhà nước, còn công nhân lại nhận gạo mậu dịch chất lượng thấp qua tem phiếu). Lần đầu tiên được ăn thịt cá tươi sống... Riêng quĩ lương của tỉnh tăng lên gấp bảy lần. Số tiền này Long An thừa sức giải quyết các nghĩa vụ với Nhà nước (mua lúa, thịt và các hàng hóa khác) cũng như trả lương cho công nhân viên chức và còn đủ lập quĩ lương riêng của tỉnh.
    Thực tế đã cho câu trả lời quá hùng hồn. Bí thư tỉnh ủy giao cho giám đốc Sở Thương nghiệp Long An là ông Tư Giao tiếp tục hoàn thiện đề án cải cách phân phối của ông Hồ Đắc Hi. Năm 1982, cơ chế bù giá vào lương của Long An chính thức được áp dụng trên toàn tỉnh và sau này mở một hướng đi mới cho cả nước.
    XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN
  2. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Thứ Sáu, 09/12/2005
    Những thông điệp gửi đến Ba Đình

    TT - Trong khi hàng rào cơ chế thủng ở nhiều nơi thì những tranh luận trên bàn tư tưởng vẫn chưa ngã ngũ. Nhưng để chuyển những thông điệp trung thực từ cuộc sống đến các nhà hoạch định chính sách không chỉ cần dũng cảm mà cả nghệ thuật.
    Thời trang? tư duy
    Trước thềm Đại hội Đảng lần VI (1986), những câu hỏi, những quyết định mang tính xoay chuyển vận mệnh dân tộc vẫn chưa định hình rõ. Lãnh đạo TP.HCM nghĩ ra sáng kiến tổ chức một cuộc gặp cho các giám đốc doanh nghiệp trao đổi, chia sẻ với các vị lãnh đạo cấp cao về cơ chế chính sách hiện thời.
    Ông Lê Xuân Tùng, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nhớ lại cuộc gặp tổ chức ở Đà Lạt. Rất đông các giám đốc của TP.HCM có tư tưởng mới, có đấu tranh và có thành công đã có mặt. Họ được ?obật đèn xanh? thoải mái giãi bày tâm huyết. Hàng trăm trái tim sục sôi muốn mở cửa, muốn thoát đói nghèo, lạc hậu, muốn bung khỏi cơ chế kìm nén? được dịp ?othổn thức?.
    Hàng trăm câu chuyện bi hài về lưu thông hàng hóa, giá cả, đồng lương... được giãi bày. Có giám đốc bật khóc giữa hội nghị khi đang phát biểu... ?oMùi xét lại? đã trở thành bữa tiệc tư tưởng hân hoan và mới lạ.
    Sau này có nhiều giai thoại về Hội nghị Đà Lạt nhưng nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt khẳng định với chúng tôi rằng đây chỉ là một cuộc ?obáo cáo? đột xuất của các giám đốc quá bức xúc với các vị lãnh đạo cao cấp nhân chuyến nghỉ mát của các đồng chí lãnh đạo tại Đà Lạt. Nhưng những cuộc tranh thủ như thế cũng như đẩy sự xé rào ra công khai, đòi hỏi được thừa nhận.
    Thật ra bức thông điệp được đánh giá sâu sắc và hiệu quả nhất chính là từ Hội nghị Phước Long - TP.HCM hồi tháng 4-1984. Ông Bùi Văn Long, nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt VN, nói: năm 1984 khi làn sóng đổi mới lên cao, lãnh đạo TP.HCM là đồng chí Võ Văn Kiệt rất muốn làm sao để chuyển đến các vị lãnh đạo cao nhất tình hình thực tiễn. Ông bàn với Liên hiệp Dệt mở một hội nghị cho các DN đăng đàn và mời các vị lãnh đạo trung ương về nghe. Lúc đó toàn ngành dệt đang rùng rùng chuyển động.
    Kế hoạch hội nghị gồm: phần ?olễ? dành để các giám đốc nói về khó khăn vướng mắc trong cơ chế bao cấp, những động cơ, những kết quả xé rào..., tóm lại bộc bạch tất cả những gì trăn trở, thậm chí những oan trái khi bị nghi ngờ lòng trung thành với Đảng, với chế độ. Tiếp đến là những kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách...
    Phần ?ohội? thì ngoài các gian hàng trưng bày sản phẩm mới (do xé rào mà có!) là mục trình diễn thời trang. Đây có lẽ là chương trình thời trang đầu tiên của VN. Chính anh chị em công nhân ngành dệt may trình diễn những tác phẩm của mình làm ra dưới ánh sáng cơ chế mới. Đó là quần âu, áo sơmi, blouson.
    Hội nghị tổ chức tại khuôn viên Công ty Dệt Phước Long, thời gian dự kiến hai ngày. Khách mời gồm lãnh đạo, đại diện các ban ngành của thành phố, hơn 20 giám đốc các công ty trong và ngoài ngành dệt, lãnh đạo các bộ ngành trung ương, chủ tịch, bí thư các tỉnh thành khác và các vị lãnh đạo cao cấp.
    Các bậc ?ocây đa, cây đề? Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh... đã về dự cùng hơn 200 đại biểu là các thành phần nêu trên đã có mặt. Tổng giám đốc Bùi Văn Long là người đầu tiên đứng lên báo cáo về tình hình dệt may cả nước và chủ động nói bốn vấn đề xé rào của mình.
    Thứ nhất là kế hoạch sản xuất phải căn cứ vào thực lực doanh nghiệp và tình hình thị trường. Phải do doanh nghiệp tự đặt ra chứ không nên là chỉ tiêu cấp trên giao xuống một cách quan liêu. Thứ hai, doanh nghiệp tự lo nguyên liệu đầu vào thì doanh nghiệp tự bán sản phẩm theo giá thị trường chứ không thể bán cho thương nghiệp theo giá qui định thấp hơn giá thành được.
    Một đại biểu chất vấn tại sao doanh nghiệp của ông Long có hai sổ hạch toán tài chính. Ông Long nói: tôi có hai sổ vì một sổ hợp pháp (thu chi các sản phẩm đầu vào đầu ra theo giá nhà nước) nhưng không hợp lý và một sổ hợp lý thì không hợp pháp (thu chi theo giá thật trên thị trường). Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên. Sổ hợp lý để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ tôi mua một cây tre về đóng cọc cho công ty.
    Người ta bán 1,5 đồng/chiếc trở lên nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép chi 1 đồng. Tôi đành nói anh em mua một cây tre, chặt ra làm đôi tính hai gốc để vào sổ cho hợp pháp. Phần tiếp theo là lương cán bộ công nhân. Nhà nước phải trả lương để công nhân đủ khả năng tái tạo sức lao động. Không thể cào bằng.
    Lương phải tính theo sản phẩm. Không cần tem phiếu nữa? Buổi sáng đi qua rất nhanh. Buổi chiều hàng loạt doanh nghiệp khác phát biểu. Hết một ngày, hai rồi ba ngày, các đồng chí lãnh đạo vẫn muốn nghe thêm hỏi thêm. Nhiều đồng chí xuống hàng ghế của anh em cán bộ, công nhân hỏi han từ lương bổng, ăn uống, con cái học hành, đi lại, chế độ sức khỏe...
    Nắng đầu mùa gay gắt, hội nghị tổ chức giữa sân. Ngay cả hàng chủ tọa cũng rất oi bức nhưng ai cũng chăm chú, hăng say cả nghe lẫn hỏi và nói. Hội nghị Phước Long kéo dài quá một ngày so với kế hoạch. Những cái bắt tay, vỗ vai và ánh mắt đầy khích lệ của các vị lãnh đạo trung ương khiến những người tổ chức hội nghị hiểu rằng kinh tế đất nước không còn bao lâu nữa sẽ sang trang.
    Cảm khái, ông Long viết một bài thơ mà hơn 20 năm sau ông còn nhớ:
    ?oThành Công (Dệt Thành Công) đổi mới đi đầu
    Phá rào bao cấp trên đâu có ngờ.
    Thành Công dệt được bài thơ
    Đón cờ khen thưởng đó là chứng minh
    Việc làm có lý có tình
    Có trên có dưới có mình có ta?
    Lá bùa hộ mệnh
    Thật ra, theo phân tích của nhiều chuyên gia am hiểu tình hình hậu trường, sự chuyển biến trong tư duy kinh tế ở cấp cao bắt đầu thể hiện rõ từ Hội nghị trung ương 6 khóa IV (9-1979). Chương trình nghị sự của trung ương dự định bàn về sản xuất hàng tiêu dùng.
    Nhưng ngay trong buổi họp đầu tiên các địa phương đều nêu lên những ách tắc về cơ chế. Và trong khi trung ương đang họp thì thông tin từ các địa phương dội về rằng ?ohàng rào cơ chế ở nhiều địa phương đã bị vi phạm?.
    Giá lúa nghĩa vụ do Nhà nước ấn định 0,52 đồng, nhưng TP.HCM rồi ĐBSCL đã tự động mua bán với giá gấp gần năm lần (2,5 đồng). Một số nơi công nhân ?otự cứu trước khi trời cứu? bằng cách sản xuất để tự nuôi lấy mình, không nộp sản phẩm cho Nhà nước. Tệ hơn có xí nghiệp đóng cửa luôn vì không thể làm ăn gì được nữa.
    Tình hình này buộc hội nghị trung ương ?oxé rào? chương trình nghị sự, chuyển sang bàn cơ chế kinh tế. Kết quả là trung ương cho ra được hai nghị quyết đột phá (một về sản xuất hàng tiêu dùng, một về sửa đổi cơ chế kinh tế) cho phép ?obung ra? và ?ocởi trói? sản xuất. Các ủy viên trung ương mang nghị quyết trở về địa phương như là ?olá bùa hộ mệnh? để xử lý những vấn đề bức xúc tồn đọng lâu nay.
    Hội nghị Trung ương 6 như là cú hích dẫn tới hàng loạt sự đột phá trong đời sống kinh tế. Rồi đến lượt nó, những đột phá trong đời sống lại tạo ra cả nhu cầu lẫn khả năng đột phá tiếp về cơ chế. Cuộc chuyển biến này về tư duy kinh tế như là câu trả lời cho những ai đang ngần ngại: mở cửa, bung ra, cởi trói là nguy hiểm, làm mất CNXH, mà ngược lại cứu nguy cho nền kinh tế đất nước và cho đời sống nhân dân.
    Hầu hết những người tổ chức xé rào, đi ngược lại chủ trương đều từng là những người xông pha nơi chiến trường. Trên mặt trận kinh tế, họ tiếp tục chiến đấu vì sự nghiệp chung. Cuộc đấu tranh trong hàng ngũ đồng chí phải chấp nhận những hi sinh không mộ chí.
    Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc bị phê phán dám áp dụng khoán trong nông nghiệp. Anh đội trưởng đội sản xuất Đoàn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng) bị gọi lên huyện rồi được ?omời? thẳng vào nhà giam vì tội ?ophá? HTX. ?oVua lốp? Nguyễn Văn Chẩn (Hà Nội) bị bắt và tịch thu tài sản, công xưởng vì tội ?obóc lột?.
    Số phận những nhân vật đó rất chênh vênh bởi không ít người có thế lực đã công khai tuyên bố ?otội trạng? phá nguyên tắc, chống chủ trương của những công dân, đảng viên, cán bộ hay giám đốc doanh nghiệp ?oxé rào?.
    Ông Long ?ocalo? (nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt VN), ông Thụy ?othuốc lá? (giám đốc công ty thuốc lá), ông Lộc ?oviso? (giám đốc công ty bột giặt)? luôn phập phồng bởi liên tục có tin đồn người này bị bắt, người kia bị kỷ luật.
    Không phải không có những người bỏ cuộc. Nhiều người phải đấu tranh tư tưởng không phải trước khó khăn, nguy hiểm mà trước sự khóc lóc, can ngăn của... vợ con, thậm chí ngay cả những người cương quyết nhất cũng có những giây phút nao núng... Nhưng rồi lửa cách mạng và tinh thần đấu tranh trong sáng của họ chính là thông điệp mạnh mẽ gửi đến Ba Đình.
    XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN
  3. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Thứ Bảy, 10/12/2005
    Chuyển đổi vô hình

    TT - Thực tiễn có thể xé rào hay bùng nổ hơn nữa, cay đắng hơn nữa nếu không có sự chuyển đổi tư duy. Những người gánh vác trọng trách rồi cũng bước ra khỏi sách vở giáo điều để đi đến những quyết định kịp thời.
    Đột phá tư duy
    Lục tìm những tập ảnh kỷ niệm, GS Lê Văn Viện (nguyên giảng viên Trường đại học Kinh tài - nay là Đại học Kinh tế quốc dân) đưa ra một tấm hình đen trắng đã ố màu. Ông nói đây là tấm ảnh được chụp năm 1979 khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm lớp học về NEP (chính sách kinh tế mới) của Lênin do các giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ kinh tế hàng đầu của Liên Xô giảng dạy cho các cán bộ trung, cao cấp VN.
    Các khóa học này như là tìm chỗ dựa về lý luận để đúc kết những cuộc phá rào đang diễn ra trong thực tiễn. Bởi chỉ với thực tiễn thì khó mà thay đổi nhận thức những vị làm chính sách quan liêu, giáo điều.
    Giáo sư Trần Nhâm ghi lại trong cuốn Trường Chinh với hành trình đổi mới tư duy (NXB Chính Trị Quốc Gia - 2005): ?oSau khi nhận thấy yêu cầu cấp bách của thực tiễn cũng như hình hài con đường đổi mới của VN, đồng chí Trường Chinh cho rằng tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa nhưng để thay thế cái cũ phải nắm vững lý luận, hiểu rõ thực tế và nhìn thẳng vào sự thật.
    Do vậy ông quyết định làm gấp hai việc: Một là tập hợp một nhóm tư vấn gồm những người có tư duy đổi mới để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm căn cứ và tìm ra phương pháp luận cho việc xác định con đường, bước đi sắp tới. Hai là tổ chức những chuyến đi thực tế các địa phương, tìm rõ cái hay cái dở, thành công và thất bại để có những đánh giá chính xác...?.
    Cuối tháng 12-1982, nhóm nghiên cứu ra đời gồm: Lê Xuân Tùng, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên, Lê Văn Viện, Nguyễn Thiệu, Võ Đại Lược, Dương Phú Hiệp, Hà Nghiệp, Trần Nhâm... Ông Đào Xuân Sâm nói: nhóm có khoảng chục người ?okhai sinh? từ lệnh miệng, hoàn toàn không có quyết định thành lập. Vị trí của đồng chí Trường Chinh lúc ấy không điều hành, xử lý công việc cụ thể, có độ lùi để nhìn toàn cục, có thời gian để nắm bắt, lắng nghe tình hình.
    Một số vấn đề mà nhóm nghiên cứu tập trung làm rõ là nhận thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới của Lênin và việc vận dụng vào VN; nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN; phân kỳ thời kỳ quá độ; phân tích cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội? Nhóm đã chuẩn bị các phát biểu mang tư tưởng mới cho các đồng chí lãnh đạo tại nhiều cuộc họp Bộ Chính trị và hội nghị trung ương.
    Ở TP.HCM cũng có một nhóm chuyên gia kinh tế như vậy thường được nhắc đến với cái tên nhóm ?oThứ Sáu? (họ thường tụ tập vào thứ sáu hằng tuần). Thành phần chủ yếu là các chuyên gia có hạng của miền Nam trước 1975. Người từ trại cải tạo về, người không thuộc diện cải tạo thì sống trong cảnh nửa thất nghiệp bên lề xã hội.
    Thế mà họ (Phan Tường Vân, Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn, Phan Chánh Dưỡng?) đã được Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Trần Chí lúc ấy trọng dụng như những ?oquân sư kinh tế?. Nhà nghiên cứu kinh tế Đặng Phong cho rằng đây là hiện tượng khá đặc biệt, không chỉ đối với VN mà còn là điều hiếm thấy ở những nước XHCN khác.
    Nhóm ?oThứ Sáu? nghiên cứu cả chuyện lớn, chuyện nhỏ miễn là góp sức gỡ thế bí, đặc biệt tìm những mũi đột phá cơ chế từ ách tắc thực tiễn. Dấu ấn của họ để lại trong những chuyện xây dựng vùng lúa năng suất cao ở Tiền Giang, nghiên cứu thành lập thí điểm ngân hàng cổ phần, đề xuất lập khu chế xuất? cho đến đột phá về cải cách giá - lương - tiền. Đây là mũi đột phá tư duy đi ngược lại phần lớn ý kiến đương thời. Nền kinh tế lúc ấy đang đứng trước nghịch lý: giá hàng tăng, sản xuất đình trệ, tiền khan hiếm?
    TP.HCM có lẽ là nơi gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề nhất của cơ cấu khủng hoảng này. Trong tình hình rối bời, nhóm ?oThứ Sáu? được giao giải bài toán ?ochống lạm phát?. Họ lao vào tìm số liệu, phân tích thống kê, so sánh tỉ giá tiền đồng với đôla? để rồi hoàn tất một công trình mang tên ?oCác biện pháp chủ động về tiền tệ, giá cả nhằm phát triển kinh tế?. Họ chẩn bệnh: tình trạng tăng giá mà xã hội đang chứng kiến chỉ là tăng ảo.
    Nó không mang lại sự kích thích sản xuất hay giải quyết việc làm như tác động thường thấy của lạm phát trong một nền kinh tế đang tăng trưởng. Mỗi người nhìn giá cả theo góc độ của mình: người tiêu dùng thấy giá hàng tăng nhưng nhà sản xuất lại thấy giá hàng không bù đắp nổi chi phí. Trong khi đó người nước ngoài tiêu xài đôla tại VN thấy giá cả hàng hóa ngày càng rẻ vì so với vàng và đôla thì mọi loại hàng đều giảm.
    Nhóm ?oquân sư? này cho rằng chính sách tiền tệ của các nước kế hoạch hóa tập trung, trong đó có VN, là chống lạm phát bằng cách hạn chế đưa tiền ra lưu thông chỉ tạo ra suy thoái kinh tế và kiệt quệ các lực lượng sản xuất. Thời ấy mà nói thế là ?oto gan? lắm nếu không có những ?ocái ô? trên đầu.
    Họ chỉ ra bản chất của vấn đề là nền kinh tế tụt dưới mức nhu cầu xã hội nên tình trạng ?otăng giá suy thoái? xảy ra triền miên và không thể khắc phục được nếu tiếp tục hạn chế khối lượng tiền tệ. Điều đó dễ dẫn đến nguy cơ phi tiền tệ hóa nền kinh tế. Người dân sẽ dùng vàng và đôla làm phương tiện thanh toán.
    Nhóm ?oThứ Sáu? không những khẳng định những biện pháp cải cách tiền lương thời đó không phù hợp mà còn cho rằng tình trạng ngăn sông cấm chợ đã làm lệch lạc hệ thống giá cả. Họ kiến nghị chấm dứt tức khắc tình trạng ngăn sông cấm chợ mà trước tiên là bãi bỏ các trạm kiểm soát trên các trục lộ giao thông.
    Áp dụng chính sách tiền tệ tích cực nhằm hỗ trợ sản xuất phát triển. Cải tổ hệ thống ngân hàng để tạo sự tín nhiệm cho người dân gửi tiền. Và điều quan trọng là công bố cho dân biết Chính phủ không bao giờ đổi tiền nữa. Kết quả chống lạm phát thành công và sau này nhiều người trong nhóm được mời vào tổ tư vấn cải cách kinh tế của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
    Thật ra sau giải phóng, theo ông Kiệt, đã từng có ý kiến ở cấp cao muốn duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, xu hướng ?otả khuynh? duy ý chí đã thắng thế dẫn tới cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, đưa dân đi kinh tế mới cưỡng bức.
    Đó là một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở thời điểm trước đổi mới. Khi nền kinh tế và đời sống nhân dân đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, ?otả khuynh? mới bộc lộ rõ tính bất lực của nó.
    Đến lúc đó, những tư duy khách quan, tỉnh táo hơn đã cứu vớt từng mảng nền kinh tế. Những cuộc phá rào lúc âm ỉ, lúc bùng phát ở cơ sở tiến đến phá rào trong cả đường lối, chính sách ở trung ương.
    Phao bảo hiểm
    Hoàn cảnh VN (đặc biệt là miền Nam) khác nhiều nước XHCN khác ở chỗ kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường chưa bao giờ bị xóa sổ triệt để. Những ai đã sống ở ?ođêm trước? đổi mới chắc hẳn chưa quên cảnh hàng quán lô nhô từ khắp vỉa hè thành phố cho đến ngõ xóm làng quê. Nó như những chiếc phao bảo hiểm khi khu vực quốc doanh không cung ứng đủ hàng cho sản xuất và đời sống.
    Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong ví nó như cục bướu con lạc đà lấy chất dinh dưỡng dự trữ sẵn cho chuyến hành trình qua sa mạc khô cằn. Sự khác nhau này góp phần giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì các nước Đông Âu rơi ngay vào thảm cảnh sụp đổ, trong khi mức độ khủng hoảng ở VN nhẹ nhàng hơn.
    Hơn nữa, tại các thành phố và gần như toàn bộ nông thôn miền Nam, kinh tế thị trường hay kinh tế tư nhân nói riêng không những kế thừa thời trước 1975 mà còn được hà hơi tiếp sức bởi những quan hệ với Việt kiều và nước ngoài. Hằng năm, Việt kiều khắp nơi gửi tiền, hàng về cho thân nhân trong nước. Tiền tạo thêm vốn kinh doanh hoặc làm tăng sức mua của xã hội. Hàng hóa từ ngoài vào như một nguồn tiếp sức cho thị trường tự do.
    Một nguồn lực khác tiếp thêm sức cho thị trường tự do là lực lượng lao động xuất khẩu ở các nước XHCN và thủy thủ tàu viễn dương. Theo ông Đặng Phong, lực lượng này chỉ bằng 1/10 Việt kiều (200.000 so với 2 triệu) nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường nội địa. Họ khai thác nhiều mặt hàng trong nước mang đi như quần áo, đồ mỹ nghệ... và gửi về tất cả những gì trong nước thiếu, từ xe đạp, xe máy, tủ lạnh, tivi... cho đến kim chỉ, bút bi, cúc áo.
    Nhờ vậy, dù khu vực kinh tế chính thống rơi vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhưng dân tình không đến nỗi khốn khó như ở Cuba, Bắc Triều Tiên hay Trung Quốc trước thời Đặng Tiểu Bình. Điều này góp phần giải thích vì sao chuyển đổi ở VN thuận lợi, êm thắm hơn. Kinh tế thị trường ở VN là cái đã sẵn có, khi được hợp pháp hóa nó bung ra phát triển ngay lập tức.
    XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN
  4. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Thứ Hai, 12/12/2005
    Imex - ?obầu sữa? của đột phá
    TT - Sau khi có chủ trương bung ra và cởi trói cho sản xuất của Hội nghị trung ương 6, các địa phương bắt đầu có một cái ?ogậy? để phá rào. Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài.
    Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.
    Xuất khẩu ở phao số 0
    Cuối năm 1979, TP.HCM gần như bế tắc trong chuyện nhập hàng từ bên ngoài. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt và Chủ tịch UBND TP Mai Chí Thọ loay hoay tìm cách nhập khẩu một số nguyên liệu và nhu yếu phẩm tối cần thiết, nhằm nuôi sống các cơ sở sản xuất của thành phố. Việc đó cũng giống như chuyện chạy gạo của Công ty Lương thực: phải tìm một hình thức phá rào mà không bị huýt còi.
    Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài. Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.
    Một giải pháp được đề xuất: không dựa vào quốc doanh mà sử dụng hệ thống liên hiệp xã của thành phố. Liên hiệp xã là một tổ chức có tính chất mặt trận, phi chính phủ. Chỉ có hình thức này mới có thể huy động tư nhân.
    Chỉ có tư nhân mới có điều kiện bỏ vốn, mua hàng và liên lạc với các doanh gia nước ngoài để trao đổi hàng hóa. Thật ra tư nhân có khả năng làm việc đó chỉ có thể là thương nhân người Hoa. Họ vừa có vốn, vừa có quan hệ với các chân hàng trong nước, lại có quan hệ thân thiết với người Hoa ở Hong Kong, Singapore.
    Họ có thể liên lạc, chắp nối để biết có thể đem hàng gì đi trao đổi. Giữa người Hoa với nhau có khi không cần văn bản hợp đồng. Chỉ bằng điện thoại, fax là họ có thể thỏa thuận với nhau.
    Phương thức này được xúc tiến từ khoảng đầu năm 1980. Bước đầu liên hiệp xã nhờ các thương nhân người Hoa, liên lạc với Hong Kong, Singapore để hẹn mua một số hàng như sợi thuốc lá, sợi dệt, xăng dầu...
    Sau đó, họ đi thu gom các mặt hàng như mực khô, tôm khô, lạc, đỗ, đồ thêu ren, sơn mài... để đổi. Giá cả đều tính ra đôla và trao đổi bằng hiện vật. Làm như vậy là vượt qua được cơ chế giá chỉ đạo của Nhà nước là một trong những cửa ải khắc nghiệt nhất.
    Việc trao đổi được tiến hành theo phương pháp trực tiếp: hai bên ngầm điện cho nhau biết, hẹn ngày giờ, gặp nhau tại phao số 0 ngoài khơi trao hàng cho nhau, xong thì ai về nước của mình, không có xuất nhập cảnh gì cả.
    Một vị lãnh đạo trung ương ?ohuýt còi? và răn đe cách làm của TP.HCM trái nguyên tắc CNXH. Nhưng nếu nghiêm chỉnh chấp hành thì tất cả bó tay.
    Không có sự năng động của cơ sở và sự bảo trợ mạnh tay của lãnh đạo thành phố, khó có thể tháo gỡ được cơn đói hàng nhập khẩu. Nhưng dù năng động và mạnh tay thì trước những rào cản về tư duy và cơ chế kể trên, mọi sự tháo gỡ đều phải đi từng bước một, trong xiết bao gian nan và trở ngại.
    Trăm ?oimex? đua nở
    Trong năm 1980, phương thức trao đổi ở phao số 0 đã tiến hành được khoảng hơn một chục chuyến. Những chuyến hàng đó đã góp phần giải quyết nguyên liệu cho Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội, sợi dệt cho Nhà máy dệt Thành Công, nguyên liệu làm bột ngọt cho Nhà máy Vifon...
    Lúc này thật ra vẫn chưa có vốn vay của ngân hàng. Cả Ngân hàng Ngoại thương cũng như Ngân hàng Nhà nước đều không dám bỏ tiền cho vay hoặc bảo lãnh cho việc xuất nhập khẩu đó. Vốn hoàn toàn là của tư thương, thực chất là của người Hoa bỏ ra để thu gom những mặt hàng trong nước và trao đổi lấy nguyên liệu phục vụ sản xuất và đời sống.
    Từ những kết quả buôn bán ở phao số 0, Thành ủy và UBND TP bắt đầu nghĩ tới việc thành lập liên hiệp xã, một đơn vị chuyên lo công việc xuất nhập khẩu. Tháng 5-1981, công ty đầu tiên được thành lập bởi liên hiệp xã mang tên Direximco (nghĩa đen là công ty xuất nhập khẩu trực dụng, tức là trực tiếp dùng hàng đổi lấy hàng).
    Sau thành công của Direximco, hàng loạt ?oimex? ra đời. Quận 5 đã thành lập một công ty xuất nhập khẩu rất nổi tiếng là Cholimex. Hội Công thương gia thành lập Công ty Phiconimex. Công ty dược phẩm cần nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc thành lập Pharimex...
    Như vậy là cùng với Imex Sài Gòn là cơ quan ngoại thương chính thức của thành phố, có chức danh như một tổng công ty, thành phố đã có hàng loạt công ty xuất nhập khẩu thật sự là của địa phương.
    Từ trung ương đến các địa phương thời đó, người ta vẫn đồn đại về một câu nhận xét rất nổi tiếng của Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Lê Khắc về những tháo gỡ của TP.HCM: ?oBước xuống sân bay Tân Sơn Nhất là đã thấy sặc mùi Nam Tư rồi!?.
    Cholimex làm luôn cả chuyển kiều hối ngầm. Cholimex liên hệ với đại diện Việt kiều yêu nước tại Canada. Cơ sở Việt kiều đó nhận làm ?ođại lý? cho việc chuyển tiền về nước. Bất cứ Việt kiều nào ở Canada, Mỹ đều có thể gửi tiền cho cơ sở này.
    Cơ sở đó báo về cho Cholimex. Cholimex phải chi tiền Việt để trả cho thân nhân của Việt kiều ở trong nước, tỉ giá được tính sát giá thị trường tự do. Như thế là Việt kiều đã giải quyết được việc giúp thân nhân. Cholimex có một số ngoại tệ tương ứng trừ đi khoảng 2-3% phí dịch vụ cho đại lý hải ngoại.
    Khi số tiền của nhiều Việt kiều gửi về gộp lại thành một khoản lớn, Cholimex yêu cầu đại lý đó chuyển khoản về Hong Kong hoặc Singapore để trang trải một món hàng nhập khẩu nào đó.
    Để cho các hoạt động này được hợp pháp, có tình có lý, các ?oimex? báo cáo với Nhà nước rằng đó là Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đỡ phát triển sản xuất và xây dựng đất nước.
    Về nguyên tắc thì điều đó không trái với những qui định rất ngặt nghèo của cơ chế kế hoạch hóa tập trung: nếu Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đất nước thì được khuyến khích và miễn thuế. Như vậy cái vòng đi và vòng về đã khép kín và trót lọt.
    Xét về kim ngạch, con đường kiều hối nguyên liệu không lớn bằng con đường xuất nhập khẩu trực tiếp. Mỗi năm tổng số gửi về chỉ khoảng vài chục triệu USD. Tuy nhiên, để giải quyết những thiếu thốn lúc đó, nó cũng đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những năm ?ođêm trước? đổi mới.
    Trong ba năm từ 1980-1982, hoạt động của các ?oimex? phát triển mạnh không chỉ ở TP.HCM mà đã lan tỏa ra rất nhiều tỉnh trong cả nước. Nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và ngoài Bắc cũng áp dụng phương thức hoạt động này.
    Họ cử những đoàn vào nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của TP.HCM. Đó là trường hợp của Dệt lụa Nam Định, Thuốc lá Bông Sen ở Thanh Hóa. Đặc biệt các tỉnh có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng cũng phát triển rất mạnh những hình thức xuất nhập khẩu địa phương.
    Tình hình phát triển tới mức mà các cơ quan quản lý ở cấp trung ương đã thấy rằng phải để mắt tới. Bắt đầu có những ý kiến yêu cầu phải siết chặt lại. Lý do thì có rất nhiều: hiện tượng tranh mua tranh bán đã đẩy giá lên cao.
    Việc các địa phương mua vét hàng nông sản, lâm sản làm cho cơ quan ngoại thương của trung ương càng thêm khó khai thác các nguồn hàng để xuất khẩu theo các kênh chính thức. Việc mua bán vòng vo, ngoài kế hoạch đã làm rối loạn hệ thống kế hoạch hóa và cơ chế quản lý kinh tế...
    Siết lại nhưng chỉ là hình thức
    Ngày 14-9-1982, Bộ Chính trị ra nghị quyết 01 về ?ocông tác của TP.HCM? nhằm uốn nắn những biểu hiện bị coi là ?ochệch hướng?. Đến tháng 12-1982, Hội nghị trung ương lần 3 (khóa V) ra nghị quyết ?ovề phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu năm 1985?. Nội dung chính của nghị quyết này là lập lại kỷ cương trong phân phối lưu thông.
    Để thực hiện những tư tưởng trên, một trong những biện pháp quan trọng là dẹp các ?oimex?, tập hợp tất cả vào Imex trong một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất của mỗi tỉnh. Từ đó, tất cả các ?oimex? của TP.HCM đều bị giải thể và nhập lại trong một đơn vị gọi là Imexco.
    Tại các tỉnh, các cơ quan xuất nhập khẩu cũng được tập trung lại thành một cơ quan duy nhất, gọi là Unimex. Tất cả các tác nghiệp xuất nhập khẩu đều được ?othanh lý?, chuyển toàn bộ tài sản và nhân sự vào một đơn vị thống nhất, do Nhà nước quản lý.
    Có thể nói nếu xét về mặt tháo gỡ những ách tắc do cơ chế cũ gây ra thì nghị quyết 01 và nghị quyết của Hội nghị trung ương 3 là một bước lùi trên con đường đi tới cơ chế thị trường.
    Tuy nhiên, đó cũng là điều khó tránh khỏi trong thời kỳ đang phải ?odò đá qua sông?, vì những năm nửa đầu thập kỷ 1980 vẫn còn là thời kỳ tranh tối tranh sáng, giằng co giữa một bên là cơ chế kế hoạch hóa tập trung và một bên là cơ chế thị trường.
    Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi ý kiến chính thức của trung ương là siết lại, thì ở TP.HCM và nhiều địa phương phần lớn ý kiến lại chưa ?othông? với chủ trương đó. Cũng rất may là việc siết lại chỉ mang tính chất hình thức.
    Tuy tất cả các tỉnh và thành phố đều chỉ còn một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất, nhưng việc xuất nhập khẩu trong thực tế lại không siết vào được nữa. Sau ba năm bung ra của các ?oimex?, các cơ sở sản xuất đều đã học được cách tiếp cận với thị trường nước ngoài. Khi các ?oimex? không còn, họ đã kịp tìm được cách tự tổ chức những mối quan hệ.
    Cùng với những thành công kể trên, các ?oimex? cũng phải trả giá vì chưa có kinh nghiệm thương trường, nhiều cơ sở đã bị thua lỗ, phá sản! Và không ít những giám đốc các ?oimex? đi tù, có người đã tự tử.
    Tất nhiên, các ?oimex? cũng như phần lớn các cuộc phá rào khác chỉ là biện pháp tình thế để khắc phục nhất thời những ách tắc của cơ chế cũ. Để đi tới nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, còn phải tiếp tục trả giá và cả chặng đường dài cam go nữa.
    ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bắt giò anh tmkien 1 tý: anh hết sáng tác ra chuyện khu Hồng Thập Tự lại sáng tác ra cái đường Nguyễn Huy Liệu ở SG, thế mà luôn khăng khăng rằng mình đang sống ở SG. Chuyện nhỏ liên quan tới nơi anh sống mà anh còn nói sai như thế thì những gì anh viết về chuyện Vĩ mô có đáng tin hay không?
    Dù Sờ pi rởm có viết nhầm về vị trí đường Nguyễn Oanh và Nguyễn Thái Sơn nhưng trên thực tế thì QUân y viện 175 hiện nay chỉ cũ kỹ ở vẻ bề ngoài thôi, bên trong thì hiện đại lắm đấy. Hôm nào anh vào SG công tác thì ghé vào xem qua 1 tý cho biết, cứ ngồi đây nói thánh nói tướng về những cái mình không biết như thế để làm gì?
    Topic này làm tớ nhớ cái Box Thảo Luận hồi xưa quá ... chẳng khác gì ...
  6. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Ờ, hôm qua viết lúc hơi buồn ngủ nên lộn. Trần Huy Liệu chứ không phải Nguyễn Huy Liệu. Chuyện bé tí, bác cứ sử dụng tiểu tiết để đánh giá sự việc là sẽ dễ bị lộn đấy. Tớ cần quái gì vào SG công tác, ngày nào tớ chả đi qua cái Quân y Viện 175 đấy. Nó chỉ mới xây khu Khám chữa bệnh nhân dân ở ngoài là mới thôi. Các khoa chuyên môn vẫn ở tít bên trong, vẫn cũ kỹ và nhiều chỗ bẩn thỉu bỏ xừ. Tớ vào chăm người bệnh ở 175 mòn cả chân rồi ý chứ còn lạ quái gì.
    Chuyện vĩ mô tớ viết có đáng tin hay không là tùy đánh giá của người đọc. Ông Marx và ông Lê Nin thiên tài thế mà đâu phải ai cũng tin 2 ông đó, nói chi mình chỉ là người bình thường! Khi nào tớ viết cái gì mà bác Some-Iốt cũng tin thì rõ là tớ có vấn đề về mặt thần kinh rồi!
    Hi vọng loạt bài của Báo Tuổi trẻ sẽ có một tác động tích cực nào đấy đối với những đại biểu sắp đi dự ĐH 10 sắp tới. Nhưng bây giờ còn phải lo đấu tranh để lấy cái suất đi dự cái đã
  7. skymedia

    skymedia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Mod không đọc kỷ rồi.
    Đây không phải phao tin đồn. Tôi chỉ trích lại 1 đoạn trong bài viết của cụ Trần đại Sơn đăng trên:
    link vi phạm nội quy

    Cũng xin nói thêm với Mod là cụ Sơn không phải là 1 người tầm thường như là bạn nói: " .... còn nguồn tin thì chế đại cái tên của tay " tránh đâu" nào đó trong nước, càng ở Hà Nội càng dễ tin. Khổ nỗi hải ngoài càng chưa bao giờ ra HN, đành lục lọi trí nhớ già nua của mình, nào Hàng Ngang, Hàng Bài, Hàng Đào (dễ quá mà), Hàng Tôm,.. thậm chí lấy đại địa chỉ chợ Đồng Xuân cho oai. ... "
    Cụ là một cách mạng lão thành năm nay đã hơn 75 tuổi, huy hương đầy mình. Rất có tên tuổi. Cụ Sơn khi đăng bài viết nầy còn có để lại địa chỉ cụ đang ở và số điện thoại liên lạc. Ai cũng có thể check với cụ.
    Spirou là Moderator thì phải neutral, xin đừng đừng post những bài "linh tinh" như thế.
    [​IMG]

    Tin ông Kiệt bí ám sát, có thật hay không thì không phải là chuyện tôi quan tâm và cũng không muốn bàn luận. Tôi chỉ muốn cho mọi người biết là đây là tin thức được loan truyền từ trong nước. Những người nào nghĩ rằng tin tức nầy là do "hãi ngoại" bịa đặc, dựng ra, hoặc nghĩ đó là " trò hề của bọn báo chí hải ngoại" thì họ cũng đang làm 1 trò hề khác, trò hề vu khống.

    Tôi chỉ có thắc mắc là tại sao báo Tuổi Trẽ lại đăng những bài phóng sự đầy tính chất nhạy cãm (liên tiếp 10 bài, và vẩn đang tiếp tục) với những lời lẽ đầy nhạy cảm trong giai đoạn nhạy cãm nầy?
    signed: Comcast

    u?c spirou s?a vo 08:12 ngy 13/12/2005
  8. skymedia

    skymedia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bạn Kiên có 1 bài viết hay. Đọc 2, 3 lần vẩn thấy hay. Bạn nắm rõ tình hình VN hiện tại. Chuyện ông Kiệt bị ám sát ... hụt thì tôi không rõ lắm. Nhưng ông Kiệt xuất hiện mấy ngày sau tin đồn thì cũng biết đó là tin .. vịt rôi. Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tin đó loan truyền từ quốc nội.
    signed: Comcast.
  9. U18

    U18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2003
    Bài viết:
    307
    Đã được thích:
    0
    Bác cứ phải nhấn mạnh nhấn nhẹ làm jì, bác thích nói gì cứ nói thẳng, úp úp mở mở mãi. Khoan xét tin đó truyền từ cuốc nội hay cuốc ngoại, chỉ nội cái việc cuốc nội có những chú như bác thì tin này có truyền cũng chả có gì là lạ, mà truyền nhanh hề....
    Mà quên, ông Kiệt sau đó có phải xuất hiện trên tivi không anh em hè ?
    Được U18 sửa chữa / chuyển vào 05:57 ngày 13/12/2005
  10. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Thế tức là cái ông Đại Sơn đó là chuyên gia tung tin vịt chứ gì, he he. Điều đáng nói là một cái tin đồn bậy bạ ko kiểm chứng lập tức được các báo ở bên tung hê hết cỡ, với bao nhiêu là nghi vấn, bao nhiêu là trí tưởng tượng được đem ra sử dụng một cách rất chi là có ích (ích lợi của nó là làm hả hê một số người được một số phút, tất nhiên sau đó có cái cảm giác tẽn tò một tí nhưng mà cũng quen rồi (vì năm nào cái dịp Tết đến cũng sáng tác một bài về chuyện trong năm nay cái này ở nhà đổ thế nào, cái kia ở bển về thay thế ra sao....)). Bây giờ lại sắp Tết rồi, các bác ở bển chuẩn bị diễn văn tiên đoán đổ vỡ dần đi là vừa, nhỉ.
    À nhân tiện đây, thì cái trang web mà đăng cái bài của ông già nói láo ở trên ý, hoá ra nó là trang web chuyên đăng tin đồn nhảm thất thiệt hả các bác?

Chia sẻ trang này