1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thời thơ ấu - Macxim Gorki

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 20/03/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    VIII
    ông tôi đột nhiên bán ngôi nhà cho lão chủ quán, sau khi tậu một ngôi nhà khác ở phố Kanatnaia. Phố này không lát đá, đầy cỏ mọc, sạch sẽ và yên tĩnh, chạy thẳng ra cánh đồng, hai bên có những dãy nhà nhỏ, sơn màu tươi tắn. Ngôi nhà mới tao nhã và đáng yêu hơn ngôi nhà cũ. Mặt chính diện sơn màu đỏ thẫm nồng ấm và thanh bình, ba chiếc cửa sổ màu xanh da trời và một chiếc cửa sổ gác thượng có chắn song nổi bật trên nền đỏ. Mái nhà bên trái có bóng cây du và bồ đề sum sê phủ lên trên rất đẹp mắt. Ngoài sân và trong vườn có nhiều xó xỉnh thuận lợi hình như cốt dùng để chơi trò ú tim. Đẹp nhất là khu vườn, tuy nhỏ, nhưng cây cối rậm rạp và chằng chịt trông hay hay. ở một góc vườn có căn nhà tắm nhỏ xinh như một đồ chơi. ở góc khác có cái hố to khá sâu mọc đầy cỏ dại, từ đám cỏ nhô lên những thanh gỗ to cháy dở, đó là vết tích của căn nhà tắm bị cháy trước đây. Phía bên trái khu vườn là vách chuồng ngựa của nhà viên đại tá ạpxiannikôp, phía bên phải là tòa nhà của Betleng.
    Phía trong cùng khu vườn tiếp giáp với nhà cửa vườn tược của mụ bán sữa Pêtrôpna, một mụ béo như cái chuông có nước da đỏ hồng và tính nết ồn ào. Ngôi nhà nhỏ của mụ thấp lè tè trên mặt đất, vừa tối om om vừa cũ kỹ, rêu phong phủ kín. Hai chiếc cửa sổ hiền lành nhìn ra một bãi rộng có những khe sâu và những khu rừng xa xa trông như những đám mây xanh nặng trĩu. Suốt ngày bọn lính tráng chạy ngược chạy xuôi ở ngoài bãi; lưỡi lê sáng loáng dưới ánh nắng xiên của mặt trời mùa thu. Ngôi nhà này chật ních những người mà tôi chưa bao giờ thấy. Nửa phía trước có một lão nhà binh già người Tacta ở cùng với mụ vợ béo lùn; mụ này léo nhéo suốt từ sáng đến tối. Mụ cười cười nói nói luôn mồm, hay chơi cây đàn ghi-ta trang hoàng lộng lẫy và cất giọng lanh lảnh hát một bài ca sôi nổi: Yêu một nàng chưa thỏa, Nên kiếm thêm một ả! Phải biết tìm mới xong. Nếu anh đi đúng đường Tức khắc có phần thưởng, Phần thưởng chờ đợi anh ôi, phần thươ-ưởng ngo-on lành! Lão nhà binh người cũng béo tròn như quả cầu ngồi bên cửa sổ, khuôn mặt xám xanh căng phồng lên. Lão vui vẻ đảo đi đảo lại cặp mắt màu hung, hút liên miên tẩu thuốc và ho nghe kỳ quái như tiếng chó sủa:
    -Vúc, vúc, vúc... Trong một gian buồng nhỏ ấm áp ở phía trên hầm nhà và chuồng ngựa có hai người đánh xe ngựa ở: một người bé nhỏ tóc xám, đó là bác Piôt, và đứa cháu câm của bác là Xtiôpa, một chàng trai có nước da bóng lộn và khuôn mặt giống như cái khay bằng đồng đỏ. Ngoài ra, anh lính cần vụ Valây cũng ở đó. Anh ta là người Tacta, thân hình cao lêu nghêu, tính tình không được vui vẻ. Tất cả những con người này đều mới lạ đối với tôi và hình như có rất nhiều điều bí ẩn. Nhưng đặc biệt có bác ở trọ "Tốt Lắm" đã lôi cuốn được tôi. Bác thuê gian phòng dài về phía sau ngôi nhà, cạnh bếp, có hai cửa sổ trông ra vườn và ra sân. Bác gầy còm, lưng gù, khuôn mặt trắng bệch, bộ râu đen sì tẽ ra làm đôi, cặp mắt đeo kính trông rất hiền từ. Bác lầm lì, ít người để ý đến. Mỗi khi mời bác ăn trưa hay uống trà, bao giờ bác cũng đáp:
    -Tốt lắm! Thế là có mặt hay vắng mặt bác, bà tôi đều gọi bác là "Tốt Lắm".
    -Liônka, cháu đi gọi bác Tốt Lắm tới uống trà! Bác Tốt Lắm, tại sao bác xơi ít thế? Khắp phòng bác chất ngổn ngang hòm xiểng cùng những cuốn sách dày in thứ chữ lạ, không phải chữ nhà thờ.. Chỗ nào cũng thấy những chai nước đủ các màu, những mảnh đồng và sắt, những thỏi chì. Suốt từ sáng đến tối bác mặc chiếc áo da màu hung đỏ, chiếc quần xám kẻ ô vuông. Toàn thân bác bê bết những màu và bốc ra một mùi khó chịu. Đầu tóc bác rối bù, dáng điệu vụng về. Bác nấu chì, hàn những mảnh đồng, vừa cân những cái gì trên chiếc cân nhỏ tí vừa làu bàu. Mỗi khi bị bỏng, bác rống lên như bò, vội vàng thổi vào đầu ngón tay. Thỉnh thoảng bác lại sẩy chân khi đi về phía những bức đồ án treo trên tường. Sau khi lau kính, bác ngửi những bức đồ án. Chiếc mũi mảnh dẻ, thẳng và trắng bệch của bác gần như đụng vào tờ giấy. Đôi khi đột nhiên bác dừng lại giữa phòng hay bên cửa sổ và đứng đó hồi lâu, mắt nhắm lại, mặt ngẩng lên; bác đứng im lặng như một bức tượng gỗ.
    Tôi trèo lên mái nhà kho và nhìn xuống sân theo dõi bác qua chiếc cửa sổ để ngỏ. Tôi thấy ngọn lửa xanh của chiếc đèn cồn đặt trên bàn và cái thân hình đen đen của bác viết gì đó trong cuốn vở nhàu nát; cặp kính của bác ánh lên màu xanh nhạt và lạnh lùng như những mảnh băng. Công việc phù thủy của con người này đã giữ tôi hàng giờ trên mái nhà, và khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi thêm sôi sục. Đôi lúc bác đứng trong khung cửa sở, hai tay chắp sau lưng, nhìn thẳng lên mái nhà, làm như không nhìn thấy tôi; cái đó khiến tôi rất bực mình. Đột nhiên bác gập đôi người lại, nhảy về phía bàn và lục lọi cái gì đó. Tôi nghĩ nếu bác giàu có và ăn mặc sang trọng, thì tôi cũng sợ bác đấy. Nhưng bác rất nghèo: cổ áo sơ-mi bẩn thỉu và nhàu nát của bác lòi ra ngoài cổ áo vét, chiếc quần vá đầy vết bẩn, bác đi đôi giày vải mòn vẹt không có bít tất. Những người nghèo đều không đáng sợ và cũng không nguy hiểm; thái độ thương xót của bà tôi và thái độ khinh bỉ của ông tôi đối với họ đã vô tình làm cho tôi tin điều đó. Mọi người trong nhà không ai ưa thích bác Tốt Lắm, cả nhà nói về bác với vẻ chế giễu. Mụ vợ vui tính của lão nhà binh gọi bác là "cái mũi bằng phấn", bác Piôt gọi bác là "được tễ sư và thầy phù thủy", ông tôi gọi bác là "yêu thuật sư" và "facmaxôn".
    -Bác ấy làm gì thế hở bà?
    -Tôi hỏi bà tôi. Bà tôi nghiêm khắc đáp lại:
    -Không phải việc của mày; im mồm đi... Một hôm tôi đánh bạo tới gần cửa sổ nhà bác và hỏi, cố giấu nỗi hồi hộp trong lòng:
    -Bác làm gì đấy? Bác giật mình, nhìn tôi hồi lâu qua vành mắt kính và giơ cánh tay đầy vết lở loét và sẹo vì bỏng về phía tôi, rồi nói:
    -Trèo vào đây... Bác không mời tôi vào qua cửa, mà bảo tôi trèo qua cửa sổ, điều đó làm cho tôi cảm thấy mến phục bác hơn. Bác ngồi xuống chiếc hòm, đặt tôi ngồi trước mặt, lúc thì đẩy tôi lui ra xa, lúc thì lại kéo dịch lại gần và cuối cùng bác hỏi khẽ:
    -Cháu ở đâu đến? Câu hỏi đó thật là kỳ quặc, vì một ngày bốn bận tôi ngồi ăn trong bếp bên cạnh bác! Tôi đáp:
    -Cháu là cháu của ông bà nhà này...
    -A, phải rồi,
    -bác vừa nói vừa nhìn ngón tay mình rồi im lặng. Lúc đó tôi thấy cần phải nói cho bác rõ:
    -Cháu không phải trong họ Kasirin, mà là trong họ Pêskôp...
    -Pêskôp
    -bác nhắc lại không đúng trọng âm.
    -Tốt lắm.
    Bác đẩy tôi lui sang một phía rồi đứng dậy, vừa đi lại bàn vừa nói:
    -Thôi, cháu hãy ngồi yên nhé... Tôi ngồi rất lâu xem bác lấy cái dũa dũa miếng đồng cặp chặt trong mỏ cặp, mạt đồng vàng ánh rơi xuống miếng bìa cứng. Bác bốc một vốc mạt đồng bỏ vào cái tách dày, cho thêm vào đó một ít bột trắng như muối đựng trong cái lọ con rồi rót vào một chất gì ở trong cái chai đen thẫm. Trong tách có tiếng nổ lép bép, khói bốc lên, mùi hăng hăng xộc vào mũi tôi. Tôi ho, lắc đầu, nhưng bác phù thủy ấy lại hỏi tôi với vẻ khoe khoang:
    -Mùi khó ngửi à?
    -Vâng.
    -Đúng rồi! Cái đó rất tốt, cháu ạ! "Có thế mà cũng khoe!"
    -Tôi nghĩ bụng và nghiêm khắc nói:
    -Nếu đã là mùi khó ngửi thì không tốt rồi...
    -Thế à?
    -Bác thốt lên và nháy mắt
    -Nhưng, cháu ạ, điều ấy không phải bao giờ cũng đúng! Thế cháu có biết chơi xương không?
    -Có ạ.
    -Cháu có muốn bác làm cho một bộ bằng chì không? Loại ấy đấu thì tốt lắm!
    -Có ạ.
    -Thế thì cháu hãy mang tới đây một bộ xương mẫu nhé! Bác lại đến gần chỗ tôi, vừa cầm chiếc tách bốc khói trong tay vừa dùng một mắt liếc nhìn vào đó, bác đến trước mặt tôi và nói:
    -Bác sẽ làm cho cháu một bộ xương bằng chì, nhưng sau đó cháu đừng tới chỗ bác nữa. Đồng ý không? Lời nói đó làm tôi rất bực mình.
    -Đã thế thì cháu sẽ không bao giờ đến đây nữa... Tức mình, tôi đi ra vườn. ông tôi đang loay hoay bón phân vào các gốc táo. Đang là mùa thu, lá cây đã rụng từ lâu.
    -Lại đây, cháu xén cây phúc bồn tử đi,
    -ông tôi nói và đưa kéo cho tôi. Tôi hỏi ông:
    -Bác Tốt Lắm đang làm cái gì thế hở ông?
    -Bác ấy làm hỏng cả căn phòng,
    -ông tôi đáp với vẻ tức giận.
    -Làm cháy thủng cả sàn, làm bẩn và bong cả giấy bồi tường. ông sẽ bảo bác ta dọn đi nơi khác mà ở!
    -Cần phải làm như thế mới được,
    -tôi tán thành và bắt đầu xén những cành phúc bồn tử khô. Nhưng tôi nói câu ấy quá vội vàng. Những buổi tối mưa gió, nếu ông tôi vắng nhà, bà tôi thường tổ chức những buổi họp mặt vô cùng thú vị ở nhà bếp. Bà tôi mời tất cả mọi người trong nhà tới uống trà: hai bác cháu người đánh xe ngựa, anh lính cần vụ, mụ Pêtrôpna lúc nào cũng hoạt bát, đôi khi cả mụ vợ vui tính của lão nhà binh cũng đến, và bác Tốt Lắm bao giờ cũng đứng lì ở một góc gần lò sưởi, bác không nói không rằng và không nhúc nhích. Anh chàng câm Xtiôpa chơi bài với Valây; anh lính cần vụ người Tacta lấy quân bài đét vào chiếc mũ to bè của chàng câm và nói:
    -Aô saitan! Bác Piôt thường đem đến một chiếc bánh mì trắng lớn và mứt "hạt quỳ" đựng trong một cái lọ lớn bằng sành. Bác cắt bánh mì ra thành từng khoanh, phết đầy mứt lên từng miếng rồi đặt những miếng bánh đỏ thắm ngon lành đó trên lòng bàn tay và cúi mời từng người một.
    -Xin mời!
    -Bác mời với giọng rất dịu dàng. Khi người ta đã cầm lấy bánh, bác chú ý nhìn lòng bàn tay đen sì của mình và nếu thấy một giọt mứt nào ở đó lập tức bác thè lưỡi liếm sạch. Còn mụ Pêtrôpna thì mang đến một chai rượu anh đào, mụ vợ vui tính của lão nhà binh thì mang hồ đào và kẹo đến. Thế là một bữa tiệc lớn bắt đầu. Bà tôi rất thích những cuộc vui như thế. ít lâu sau hôm bác Tốt Lắm đã mặc cả với tôi để tôi không đến thăm bác nữa, bà tôi tổ chức một tối vui như vậy. Ngoài trời mưa thu đổ xuống ào ào không ngớt, gió rít lên, cây cối xào xạc, cành cây quất sây sát cả tường. Trong nhà bếp ấm cúng, rất dễ chịu. Cả nhà ngồi quây quần bên nhau, mọi người đều yên lặng một cách đặc biệt thoải mái. Hôm đó, bà tôi hào hứng kể rất nhiều chuyện cổ tích, càng nghe càng thấy hay. Bà ngồi ở mép lò sưởi, dựa chân vào bậc lên, và cúi xuống chỗ đám người được ánh lửa của chiếc đèn con bằng sắt tây rọi sáng. Mỗi khi cao hứng bà thường trèo lên lò sưởi và giảng giải:
    -Tôi phải nói từ trên cao xuống. Nói từ trên cao xuống vẫn tốt hơn. Tôi ngồi bên chân bà tôi, trên một bậc rộng, gần như ở trên đầu bác Tốt lắm. Bà tôi kể một câu chuyện rất hay về dũng sĩ Ivan và nhà ẩn sĩ Mirôn. Những lời ngọt ngào, xác đáng của bà tôi nhịp nhàng tuôn ra: Xưa có viên tướng dữ Gorđiôn, Lòng dạ tối tăm, tim rắn như đá, Ghét sự thật, hắn ưa trò hành hạ, Sống hung tàn như con cú hốc cây. Hắn điên cuồng ghét đắng ghét cay Nhà ẩn sĩ Mirôn bất khuất
    -Người bảo vệ thiện căn và sự thật, Người một lòng vì thiên hạ quên mình. Viên tướng sai tên đày tớ trung thành Là Ivanuska
    -dũng sĩ: Tiếng Tacta: "A, đồ ma quỷ!".
    -Ivankô, ngươi hãy mang gươm quý Đi chém đầu lão Mirôn kiêu ngạo cho ta, Rồi tóm râu đem đầu lão về nhà, Ta sẽ quăng cho chó nhá! Dũng sĩ Ivan tuân lệnh chủ Vừa đi vừa suy nghĩ buồn rầu: "Việc này nào ta có muốn đâu? Cưỡng sao được mệnh trời phán bảo?" Ivan giấu thanh gươm sau vạt áo Đến cúi chào nhà ẩn sĩ Mirôn:
    -Chào hiền nhân, bác có khỏe không? Chúa vẫn ban ơn cho bác chứ? Nhà tiên tri mỉm cười tư lự Trả lời y bằng lời lẽ sâu xa:
    -Thôi đủ rồi, hỡi Ivanuskô, Ngươi che giấu làm gì sự thật? Mọi việc trên đời Chúa đều biết tất, Điều dữ, điều lành Người nắm trong tay. Ta đã biết vì sao ngươi đến nơi này! Nghe dứt lời, Ivanka xấu hổ, Nhưng y không dám cưỡng lời sai của chủ, Bèn rút gươm ra khỏi bao da, Lấy vạt lau, gươm sáng chói lòa.
    -Bác Mirôn, tôi muốn giết bác Sao cho bác khỏi thấy thanh gươm sắc, Nhưng không ngờ bác đã biết trước rồi. Vậy bây giờ bác cầu Chúa đi thôi, Bác hãy cầu nguyện Người lần cuối Cho bác, cho tôi, cho cả loài người. Cầu nguyện xong tôi sẽ chặt đầu!... ông già Mirôn không chút lo âu, Lặng lẽ quì dưới cây sồi non trẻ, Cây sồi nghiêng mình chào nhà ẩn sĩ, ông già cười hiền hậu, bảo Ivan:
    -Này Ivan, ngươi hãy coi chừng, Lời cầu nguyện cho loài người dài lắm! Tốt hơn hết đừng đợi chờ quanh quẩn, Đỡ mất công ngươi cứ giết ta ngay. Dũng sĩ Ivan giận dữ cau mày Và thốt lên lời khoe khoang ngu ngốc:
    -Tôi chờ hàng trăm năm vẫn được! Bác cứ cầu nguyện đi, tôi đã nói là làm! Nhà ẩn sĩ cầu nguyện đến hoàng hôn.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Rồi từ hoàng hôn đến rạng sáng, Lại từ sáng đến nửa đêm thanh vắng, Từ mùa hè cầu nguyện đến mùa xuân. Ngày tháng qua, năm nối tiếp năm, Cây sồi non đã vươn lên trời thẳm, Quả sồi rụng đã mọc thành rừng rậm, Mà lời cầu thiêng vẫn cứ còn vang! Cho tới ngày nay lời cầu nguyện vẫn còn, ông già vẫn thở than cùng Chúa: Xin Chúa hãy giúp người nghèo khổ, Xin Đức Mẹ ban niềm vui sướng cho loài người. Còn dũng sĩ Ivan vẫn đứng, Lưỡi gươm sắc đã từ lâu thành bụi, Binh giáp gỉ tiêu, áo quần tan lụi, Hè qua đông, y vẫn đứng trần truồng. Nắng đốt thiêu, y vẫn đứng vững vàng, Muỗi hút máu, nhưng không sao cạn, Chó sói, gấu rừng không bén mảng, Giá băng, bão tuyết cũng không gần. Chính y cũng không nhắc nổi bước chân, Giơ không nổi tay, nói không nghe rõ, Chúa đã trừng phạt y như vậy đó! Hình phạt của y đã rõ ràng: Không được tuân theo lệnh bất lương, Không được nấp sau lương tâm kẻ khác! Còn lời cầu của ông già ẩn dật, Đến giờ đây còn văng vẳng tới Chúa Trời, Như một dòng sông trong vắt chảy ra khơi, Lời cầu nguyện cho chúng ta còn sống mãi! Ngay từ lúc bà tôi bắt đầu kể chuyện, tôi đã thấy bác Tốt Lắm có điều gì băn khoăn: hai tay bác cứ giật giật một cách lạ lùng, khi thì bác bỏ kính ra, khi thì đeo kính vào, khi thì vung vẩy theo nhịp điệu những lời nói du dương. Bác gật đầu, lấy đầu ngón tay khẽ ấn chặt lên mi mắt và luôn luôn dùng lòng bàn tay lau vội trán và má như là mồ hôi toát ra đầm đìa. Khi có người nào đấy động đậy, ho hoặc lê chân, bác lại khẽ kêu lên giọng nghiêm khắc:
    -Suỵt! Lúc bà tôi vừa kể hết, bác đứng phắt dậy, vung vẩy tay và quay cuồng một cách không tự nhiên rồi lẩm bẩm:
    -Các người nên biết, chuyện đó rất kỳ lạ, cần phải ghi lại, nhất định là phải ghi! Chuyện đó rất thực, đúng là chuyện của nước ta... Bây giờ rõ ràng là bác khóc, cặp mắt bác đầy lệ; lệ tuôn ra khắp xung quanh, cặp mắt tắm trong nước mắt. Cái đó thật kỳ lạ và trông rất đáng thương. Bác chạy đi chạy lại khắp nhà bếp, nhảy nhót trông vụng về và buồn cười. Bác vung vẩy kính trước cái mũi của bác, bác muốn đeo vào mắt, nhưng không làm sao móc nổi kính vào tai. Bác Piôt mỉm cười; và nhìn bác, tất cả mọi người ngượng ngùng im lặng, còn bà tôi thì nói vội vã:
    -Xin cứ việc ghi, cái ấy không có tội lỗi gì cả. Loại chuyện như vậy tôi còn biết khối...
    -Không, chính câu chuyện này cơ! Chuyện này mới thực là của người Nga,
    -bác Tốt Lắm kêu lên vẻ xúc động. Đột nhiên bác dừng lại ở giữa nhà bếp và bắt đầu nói to, tay phải lia trong không khí, tay trái cầm chiếc kính run run. Bác nói rất lâu, giọng rít lên giận dữ. Bác khẽ giậm chân, luôn luôn nhắc đi nhắc lại độc có một câu:
    -Không được sống theo lương tâm kẻ khác, phải, phải! Sau đó đột nhiên giọng bác đứt quãng, bác im lặng nhìn tất cả mọi người và lẳng lặng đi ra, đầu cúi gầm có vẻ hối lỗi. Mọi người đều mỉm cười, ngượng nghịu nhìn nhau. Bà tôi lùi sâu vào bóng tối phía trong lò sưởi, và thở dài một cách nặng nề. Mụ Pêtrôpna lấy tay lau cặp môi dày và đỏ rồi hỏi:
    -Hình như bác ấy nổi nóng thì phải?
    -Không phải,
    -bác Piôt đáp.
    -Tính bác ấy thế đấy. Bà tôi tụt xuống khỏi lò sưởi và lặng lẽ đun lại ấm xamôva, còn bác Piôt thong thả nói:
    -Những ngài như vậy toàn là những người tính khí bất thường! Valây càu nhàu, vẻ khó chịu:
    -Những kẻ chưa vợ thường hay vơ vẩn như vậy đấy! Mọi người đều cười, nhưng bác Piôt vẫn tiếp tục nói, giọng kéo dài:
    -Đến nỗi phải khóc cơ à... Rõ ràng trước kia là một con cá măng, bây giờ thì chỉ còn là một con cá bống, mà chưa chắc... Tôi cảm thấy buồn rầu, sự chán nản ở đâu đến đè nặng lên tâm hồn tôi. Bác Tốt Lắm làm cho tôi rất ngạc nhiên, tôi thấy thương hại bác quá,
    -cặp mắt đầm đìa lệ của bác như hiện lên rất rõ trước mặt tôi. Đêm hôm ấy bác không ngủ nhà. Ngày hôm sau ăn trưa xong bác trở về. Quần áo nhàu nát hết cả, bác đã bình tĩnh lại và trông bác rõ ràng có vẻ ngượng nghịu.
    -Hôm qua cháu đã làm ồn lên,
    -bác nói với bà tôi, vẻ hối lỗi như đứa trẻ con.
    -Cụ không giận chứ?
    -Giận cái gì cơ?
    -Giận cháu đã can thiệp vào những việc không dính líu đến cháu, đã nói quá lời?
    -Bác không làm ai bực mình cả... Tôi cảm thấy bà tôi sợ bác, không nhìn thẳng vào mặt bác và nói rất khẽ, giọng khác thường. Bác tới sát bên bà tôi và nói rất tự nhiên:
    -Cụ xem, cháu đơn độc một cách đáng sợ, cháu chẳng có một ai thân thiết cả! Im lặng, im lặng mãi, rồi đột nhiên trong lòng cứ như sôi sục và bùng ra... Lúc đo cháu sẵn sàng nói với cả hòn đá, cái cây... Bà tôi lùi lại để tránh xa bác ra.
    -Bác phải lấy vợ đi...
    -ôi!
    -Bác thốt lên, nhăn mặt lại, xua tay rồi đi ra.
    Bà tôi cau mày nhìn theo bác, hít một hơi thuốc lá và sau đó nghiêm khắc cấm tôi:
    -Cháu coi chừng, không được quẩn quanh gần bác ấy; có mà trời biết được bác ta là người như thế nào... Nhưng tôi lại bị bác lôi cuốn. Tôi đã nhìn thấy sắc mặt bác biến đổi như thế nào khi bác nói câu "cháu đơn độc một cách đáng sợ". Trong lời nói đó có cái gì dễ hiểu đối với tôi, làm tôi cảm động, và tôi đã tìm đến bác. Tôi từ ngoài sân nhìn vào cửa sổ phòng bác; gian phòng trống trải và giống như gian nhà kho trong đó người ta ném vội vàng và bừa bộn những đồ vật linh tinh vô dụng, chúng cũng vô dụng và kỳ quái như chủ nhân chúng vậy. Tôi đi ra vườn và nom thấy bác ở đó. Lưng lom khom, tay ôm đầu, khuỷu tay chống vào đầu gối; bác ngồi chênh vênh ở đầu một cây gỗ bị cháy sém. Cây gỗ này bị đất phủ đầy, một đầu ánh lên màu than đen nhánh và nhô khỏi đám ngải cứu héo, gai và ngưu bàng. Ngay cái việc bác ngồi chênh vênh như vậy lại càng khiến tôi có cảm tình hơn đối với bác. Mãi bác không nhìn thấy tôi; cặp mắt đờ đẫn như mắt cú nhìn đi đâu xa. Sau đó đột nhiên bác hỏi có vẻ miễn cưỡng.
    -Tìm bác à?
    -Không.
    -Thế thì lại đây làm gì?
    -Không làm gì cả. Bác bỏ kính ra, lấy chiếc khăn mùi soa có những đốm đỏ đen ra lau kính và nói:
    -Nào, ngồi xuống đây! Khi tôi ngồi bên cạnh bác, bác ôm chặt lấy vai tôi.
    -Ngồi đây. Chúng ta sẽ ngồi im lặng. Được không? Như thế đấy... Cháu bướng lắm phải không?
    -Vâng.
    -Tốt lắm!
    Chúng tôi ngồi im lặng rất lâu. Buổi chiều tĩnh mịch và êm dịu. Đó là một trong những buổi chiều đầu thu buồn bã, khi cảnh vật muôn màu xung quanh phôi pha rõ rệt, mỗi giờ phút lại một mờ nhạt thêm; đất đã cạn hết cả hương thơm mùa hè phong phú của nó và chỉ còn tỏa ra mùi ẩm ướt lạnh lẽo; không khí trong suốt lạ kỳ, trên bầu trời hồng hồng bóng quạ đen bay hối hả, gây nên những ý nghĩ không vui. Tất cả đều lặng lẽ như tờ. Mỗi một tiếng động -tiếng cánh chim sột soạt, tiếng lá rụng xào xạc đều vang lên một cách lạ lùng khiến cho người ta phải rùng mình sợ hãi; nhưng sau đó lại im phăng phắc; sự yên lặng đã bao trùm cả trái đất và choán lấy ***g ngực. Trong những giờ phút như vậy đã nẩy ra những ý nghĩ rất thanh khiết và cao nhã, nhưng chúng mỏng manh và trong suốt như mạng nhện, khôn tả được bằng lời. Chúng lóe lên trong chốc lát và biến mất rất mau như những ngôi sao đổi ngôi, chúng nung nấu trong lòng một nỗi buồn, chúng vừa êm dịu vừa làm cho người ta xao xuyến, khiến cho tâm hồn sôi sục, tan ra như thép chảy, dần dần bắt lấy khuôn khổ vĩnh viễn; ấy những đường nét của tâm hồn đã tạo thành như vậy đó. Tôi nép vào bên sườn ấm áp của bác Tốt Lắm và cùng với bác nhìn bầu trời đỏ thắm qua những cành táo đen đen, theo dõi những con chim khuyên bay nhộn nhịp, nhìn những con chim kim oanh rỉa ngọn cây ngưu bàng khô để kiếm những hạt chát. Từ cánh đồng, những đám mây lờm xờm xanh biếc viền màu đỏ thắm đang từ từ bay tới; dưới đám mây, đàn quạ nặng nề bay về tổ trong nghĩa địa. Thật là đẹp và không hiểu tại sao đối với tôi tất cả hình như dễ hiểu hơn và gần gũi hơn thường ngày. Thỉnh thoảng bác thở dài và hỏi tôi:
    -Đẹp không cháu? Đẹp thật! Cháu có thấy ẩm không? Có lạnh không? Bầu trời trở nên đen sẫm và mọi vật xung quanh như phồng to lên, bóng tối mờ mịt ẩm ướt tràn đến. Bác Tốt Lắm nói:
    -Chúng ta đi về thôi! Đi... Tới cửa vườn, bác dừng lại và nói rất khẽ:
    -Bà cháu rất tốt,
    -ôi, đất nước chúng ta thật là tuyệt diệu! Bác nhắm mắt, mỉm cười và đọc khe khẽ, nhưng rất rõ ràng: Hình phạt của y đã rõ ràng: Không được tuân theo lệnh bất lương, Không được nấp sau lương tâm kẻ khác!...
    -Cháu hãy ghi nhớ lấy điều ấy, cần phải nhớ rất kỹ! Bác đẩy tôi về phía trước và hỏi:
    -Cháu có biết viết không?
    -Không ạ.
    -Phải học đi. Cháu phải học thông viết thạo để ghi lại những chuyện mà bà cháu kể, cái đó rất có ích, cháu ạ...
    Chúng tôi kết thân với nhau. Từ hôm ấy lúc nào tôi muốn đến chỗ bác Tốt Lắm cũng được. Tôi ngồi trên chiếc hòm có lót mảnh giẻ rách và tha hồ tự do theo dõi bác nấu chì, nung đồng; sau khi nung đỏ, bác lấy chiếc búa nhẹ có cán đẹp rèn những tấm sắt trên cái đe nhỏ, bác còn dùng bàn mài, dũa, đá nhám và cái cưa mỏng dính như sợi chỉ. Bác luôn luôn cân các thứ trên chiếc cân bằng đồng rất nhậy. Bác pha các chất lỏng khác nhau vào những chiếc tách dày màu trắng rồi nhìn chúng bốc khói và tỏa đầy phòng mùi hăng hăng. Bác nhăn mặt cắn đôi môi đỏ nhìn vào cuốn sách dày và lẩm bẩm những gì không rõ hoặc kéo dài giọng khàn khàn khẽ ngâm: ôi, hoa hồng của Xarôn...
    -Bác làm cái gì thế?
    -Làm cái này, cháu ạ...
    -Cái gì cơ?
    -A -a, cháu thấy đấy, bác không biết nói thế nào để cháu hiểu...
    -ông cháu bảo có lẽ bác làm tiền giả...
    -ông à? ... Hừm! ông chỉ nói bậy thôi! Tiền, cháu ạ, chỉ là thứ không đáng kể...
    -Nhưng lấy gì để mua bánh mì?
    -Đúng, cháu ạ, mua bánh mì phải trả tiền, cháu nói phải...
    -Bác thấy không! Mua thịt bò cũng phải...
    -Mua thịt bò cũng... Bác khẽ cười rất đáng yêu, bác cù sau tai tôi giống như tôi là một con chó con và nói:
    -Bác không làm sao có thể tranh cãi nổi với cháu. Cháu động nói là làm cho bác câm như hến. Tốt hơn cả là chúng ta cùng im lặng... Thỉnh thoảng bác tạm ngừng công việc và đến ngồi bên cạnh tôi. Chúng tôi nhìn rất lâu ra cửa sổ xem mưa rơi trên mái nhà, rơi xuống sân mọc đầy cỏ, xem những cây táo trụi lá xơ xác hẳn đi. Bác Tốt Lắm rất hà tiện lời nói, nhưng bao giờ cũng nói những lời cần thiết. Thường thường mỗi khi muốn làm cho tôi chú ý đến cái gì, bác khẽ hích tôi và nháy mắt làm hiệu. Riêng tôi thì không nhìn thấy cái gì đặc biệt ở ngoài sân cả, nhưng do những cái hích tay và do những lời nói vắn tắt ấy, tất cả những cái tôi nhìn thấy như có ý nghĩa đặc biệt, tất cả đều in sâu vào trí nhớ tôi. Như khi thấy một con mèo chạy ra ngoài sân, dừng lại trước vũng nước trong và nhìn cái bóng phản chiếu của nó rồi giơ cái chân mềm mại như muốn đánh cái bóng đó, -bác Tốt Lắm khẽ nói:
    -Giống mèo vừa kiêu ngạo vừa đa nghi... Con gà trống Mamai màu hung và vàng óng bay lên đậu ở hàng rào ngoài vườn, vỗ cánh và suýt nữa thì ngã; nó bực mình, vươn cái cổ dài ra, tức giận kêu cục cục.
    -Vị tướng này có vẻ tự phụ, nhưng không thông minh lắm... Anh chàng Valây vụng về bước trên bùn trông nặng nề như một con ngựa già. Bộ mặt có đôi gò má cao của anh như sưng lên. Anh khẽ nheo mắt, nhìn lên trời: một tia nắng mùa thu trăng trắng chiếu thẳng lên ngực anh, làm chiếc khuy đồng trên áo sáng rực lên. Anh chàng người Tacta này đứng dừng lại và lấy những ngón tay cong cong sờ vào chiếc khuy.
    -Hệt như hắn vừa được hưởng chiếc mề-đay. Hắn đang ngắm nghía... Tôi gắn bó với bác Tốt Lắm rất mau và rất mật thiết. Bác trở thành cần thiết đối với tôi trong những ngày tủi nhục đắng cay cũng như trong những giờ phút vui sướng. Bác tuy lặng lẽ, nhưng không cấm tôi nói tất cả những gì nảy ra trong đầu óc tôi, còn ông tôi bao giờ cũng ngắt lời tôi bằng một tiếng quát nghiêm khắc:
    -Không được nói ba hoa, thằng bẻm mép này!
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Còn bà tôi cũng đã có nhiều điều tâm sự lắm rồi nên bà tôi không muốn nghe và không muốn tiếp thu của người khác nữa. Bác Tốt Lắm bao giờ cũng chú ý nghe câu chuyện huyên thiên của tôi và đôi khi mỉm cười nói với tôi:
    -Không phải thế, cháu ạ, đó là cháu bịa ra... Những lời nhận xét vắn tắt đó của bác bao giờ cũng đưa ra đúng lúc và rất cần thiết. Hình như bác nhìn thấy hết tất cả những gì xảy ra trong lòng và trong đầu óc tôi, đoán được tất cả những lời nói thừa và nói dối tôi sắp nói ra. Bác nhìn thấy hết và thường dùng một câu thân mật để cắt đi:
    -Chú mày chỉ nói láo! Tôi thường có ý thử tài yêu thuật này của bác; có lần tôi bịa ra một chuyện và kể y như thật, nhưng bác vừa mới nghe một tí đã lắc đầu tỏ vẻ không tin:
    -Hầy, chú mày chỉ nói láo...
    -Thế tại sao bác biết?
    -Vì bác thấy rất rõ. Mỗi lần đi ra quảng trường Xennaia lấy nước, bà tôi thường cho tôi đi theo. Một hôm chúng tôi trông thấy năm tên tiểu thị dân đánh một người mujich: họ quật anh ta xuống đất rồi xâu xé như một đàn chó cắn lẫn nhau. Bà tôi vội đặt thùng nước xuống, vừa vung vẩy đòn gánh, chạy về phía bọn kia vừa quay lại phía tôi và kêu:
    -Cháu chạy đi! Nhưng tôi sợ hãi, chạy theo bà tôi và lấy sỏi đá ném vào bọn kia, còn bà tôi can đảm lấy đòn gánh thúc vào chúng, đập vào vai, vào đầu chúng. Thêm một đám người nữa ập tới, bọn kia bỏ chạy. Bà tôi rửa ráy cho người bị đánh; bộ mặt của anh ta bị giày xéo lên. Bây giờ tôi vẫn còn thấy ghê tởm cảnh anh ta lấy ngón tay bẩn bịt lỗ mũi bị rách, rồi vừa la hét, vừa ho; máu từ dưới ngón tay anh phun vọt vào mặt, vào ngực bà tôi. Bà tôi cũng kêu la, toàn thân run bắn lên. Khi trở về nhà, tôi liền chạy tới chỗ bác Tốt Lắm và kể lại câu chuyện này cho bác nghe. Bác vứt bỏ công việc đấy và đứng trước mặt tôi, giơ chiếc đũa dài như một thanh gươm và nghiêm nghị nhìn tôi trừng trừng, dưới cặp mắt kính. Sau đó đột nhiên bác ngắt lời tôi và nói giọng đầy ngụ ý khác thường:
    -Phải, mọi việc đều phải làm như thế mới được! Tốt lắm! Đang bị xúc động bởi những điều mắt thấy tai nghe, tôi không kịp kinh ngạc về những lời của bác và tiếp tục nói; nhưng bác ôm lấy tôi và đi đi lại lại trong phòng, thỉnh thoảng lại vấp, rồi nói:
    -Thôi, đừng nói nữa! Cháu ạ, cháu đã nói hết cả những điều cần nói rồi
    -hiểu chưa? Hết cả! Tôi bực mình im lặng, nhưng sau khi suy nghĩ, tôi hết sức ngạc nhiên, ngạc nhiên đến không sao quên được và hiểu rằng bác đã chặn tôi rất kịp thời; thực ra tôi đã nói hết cả rồi.
    -Cháu ạ, cháu đừng chú ý đến những chuyện đó làm gì. Chuyện đó không đáng nhớ!
    -Bác nói thêm. Đôi lúc đột nhiên bác nói với tôi những lời mà suốt đời tôi không thể quên được. Tôi kể cho bác về địch thủ của tôi là Kliusnikôp, một thằng béo tốt, đầu to, một đứa hay đánh nhau ở phố Nôvaia. Tôi không thể thắng nó trong lúc đánh nhau, và nó cũng không thắng nổi tôi. Bác Tốt Lắm chú ý nghe những lời than phiền của tôi và bảo:
    -Đó chỉ là việc nhỏ mọn! Như thế không phải là khỏe. Muốn khỏe thật sự thì phải nhanh nhẹn. Động tác càng nhanh bao nhiêu thì càng khỏe bấy nhiêu
    -hiểu chưa? Chủ nhật sau, tôi liền thử dùng nắm đấm thụi thật nhanh và tôi đã thắng thằng Kliuạnikôp một cách dễ dàng. Điều đó làm tôi càng chú ý hơn tới lời nói của bác Tốt Lắm.
    -Phải biết nắm được mọi vật, cháu hiểu chưa? Biết cách nắm, đó là một việc rất khó! Tôi không hiểu gì cả, nhưng tôi vô tình đã nhớ những lời ấy và những lời tương tự như vậy. Tôi nhớ chính vì trong những lời nói đơn giản ấy có một cái gì bí ẩn đến phát tức lên được: vì muốn "nắm" một hòn đá, miếng bánh mì, cái tách, cái búa thì cần gì phải có một tài cán đặc biệt. Mọi người trong nhà càng ngày càng không thích bác Tốt Lắm. Ngay cả con mèo đáng yêu của mụ thuê nhà vui tính cũng không leo lên đầu gối bác như vẫn leo lên tất cả mọi người, và không chạy lại theo tiếng gọi dịu dàng của bác. Tôi đánh nó vì tội ấy, kéo tai nó, và gần như khóc, tôi khuyên nhủ nó đừng sợ con người ấy.
    -Quần áo bác sặc mùi axit nên mèo cũng không dám lại gần chỗ bác,
    -bác giải thích. Nhưng tôi biết tất cả mọi người, kể cả bà tôi, đã giải thích cái đó khác hẳn, giải thích với thái độ thù địch, tức giận không đúng.
    -Tại sao mày cứ quấn lấy bác ấy?
    -Bà tôi hỏi, vẻ bực tức.
    -Coi chừng, bác ấy sẽ dạy cho mày những trò... Mỗi lần ông tôi
    -con chồn hôi hung đỏ
    -biết là tôi đến thăm bác Tốt Lắm thì ông tôi lại đánh tôi một trận nên thân. Tất nhiên tôi không nói với bác về chuyện tôi bị cấm lui tới chỗ bác, nhưng tôi kể thẳng cho bác biết về thái độ của mọi người trong nhà đối với bác ra sao:
    -Bà cháu sợ bác; bà cháu nói bác là thầy yêu thuật. ông cháu cũng bảo bác là kẻ thù của Chúa và là mối nguy hiểm đối với mọi người... Bác lắc lắc đầu như là đuổi ruồi vậy; một nụ cười rạng rỡ làm cho khuôn mặt trắng như phấn của bác trở nên hồng hào. Nhìn nụ cười của bác, lòng tôi thấy se lại, mắt như mờ đi.
    -Cháu ạ, bác đã nhìn thấy cả!
    -Bác khẽ nói.
    -Thật đáng buồn, phải không cháu?
    -Vâng!
    -Thật đáng buồn, cháu ạ... Cuối cùng bác đã bị đuổi đi.
    Một hôm tôi tới chỗ bác sau bữa uống trà sáng và thấy bác ngồi trên sàn, bác vừa xếp đồ đạc vào trong hòm vừa khẽ hát bài "Bông hoa hồng của Xarôn".
    -Thôi, chúng ta phải từ biệt nhau, bác dọn đi đây...
    -Sao bác lại đi? Bác chăm chú nhìn tôi rồi nói:
    -Cháu không biết thật à? Gian phòng này cần để cho mẹ cháu...
    -Ai bảo thế?
    -ông cháu...
    -ông nói dối! Bác Tốt Lắm kéo tay tôi lại gần chỗ bác. Khi tôi ngồi xuống sàn, bác khẽ bảo:
    -Cháu đừng giận nhé! Bác cứ tưởng cháu biết mà không nói với bác; như vậy là không tốt, bác tưởng thế thôi... Không hiểu sao tôi cảm thấy buồn buồn và giận bác.
    -Nghe bác nói đây,
    -bác mỉm cười và gần như nói thầm.
    -Cháu có nhớ bác đã bảo cháu là không được tới chỗ bác không? Tôi gật đầu.
    -Lúc đó cháu giận bác phải không?
    -Vâng...
    -Nhưng bác không muốn làm cho cháu giận, cháu ạ. Cháu thấy không, bác biết là nếu cháu kết thân với bác thì người nhà cháu sẽ chửi mắng cháu, phải không? Quả nhiên là như thế chứ? Cháu đã hiểu vì sao bác nói như vậy chưa? Bác nói như một đứa trẻ cùng tuổi với tôi, tôi rất thích những lời của bác. Tôi có cảm tưởng rằng tôi đã hiểu bác từ lâu, hiểu ngay từ hồi đó và tôi nói cho bác biết:
    -Cái đó cháu hiểu từ lâu rồi!
    -Đấy! Như thế đấy, cháu ạ. Chính là như vậy, cháu thân yêu của bác... Lòng tôi như thắt lại không sao chịu nổi.
    -Tại sao ở đây không một ai thích bác là thế nào? Bác ôm tôi sát vào lòng, nháy nháy mắt rồi đáp:
    -Bác là người khác đời, cháu hiểu không? Chính vì thế đó. Bác không giống họ... Tôi kéo tay áo bác, không biết và cũng không hiểu nên nói gì.
    -Cháu đừng giận,
    -bác nhắc lại và ghé vào tai tôi thì thầm nói thêm:
    -Cũng không nên khóc... Nhưng chính nước mắt bác đang chảy ròng ròng dưới cặp mắt kính đục mờ. Sau đó, cũng như mọi khi, chúng tôi ngồi im lặng rất lâu, thỉnh thoảng mới trao đổi vài lời vắn tắt. Buổi chiều bác dọn đi, bác thân mật từ biệt cả nhà và ôm tôi rất chặt. Tôi đi ra ngoài cổng và nhìn thấy bác ngồi lắc lư trên chiếc xe ngựa có đôi bánh nghiến lên những cục bùn giá cứng. Ngay sau khi bác đi, bà tôi bắt tay ngay vào việc rửa và cọ gian phòng bẩn thỉu. Tôi cố tình đi từ góc tường này sang góc tường kia để quấy rầy bà tôi.
    -Cút ra!- Bà tôi quát khi đụng phải tôi.
    -Tại sao lại đuổi bác ta đi?
    -Im đi!
    -Cả nhà toàn là người ngốc,
    -tôi nói. Bà tôi lấy cái giẻ ướt quất vào tôi và kêu lên:
    -Mày hóa rồ mất rồi, thằng vô lại!
    -Cháu không nói bà, trừ bà ra, tất cả những người khác toàn là ngốc hết,
    -tôi chữa lại, nhưng cái đó vẫn không làm cho bà tôi nguôi giận. Lúc ăn tối, ông tôi nói:
    -Thôi, Lạy Chúa! Mỗi lần tôi trông thấy lão ta là như dao cắt ruột và tự nhủ: "Cần phải đuổi lão ấy đi mới được!" Tôi tức quá, bẻ gẫy thìa và thế là lại bị một trận đòn. Tình bạn của tôi với con người đầu tiên trong vô số những người tự cảm thấy xa lạ ngay trên đất nước thân yêu của mình, nhưng lại tốt đẹp hơn ai hết, đã kết thúc như vậy đấy.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    IX
    Hồi nhỏ tôi có cảm tưởng rằng tôi là một cái tổ ong để những người khác nhau, những người bình thường và giản dị, giống như những con ong, đem đến cho tôi mật của những kiến thức và những ý nghĩ của họ về cuộc sống; mỗi người, theo cách của mình, làm cho tâm hồn tôi phong phú lên rất nhiều. Mật ấy thường bẩn và đắng, nhưng dù sao kiến thức nào cũng vẫn là mật. Sau khi bác Tốt Lắm đi rồi, tôi kết thân với bác Piôt. Bác ta nom cũng tựa như ông tôi: người gầy, gọn gàng và sạch sẽ, nhưng thấp hơn ông tôi và nhỏ hơn; bác ta giống như một chú thiếu niên mặc giả làm ông già để đùa nghịch. Mặt bác có những nếp nhăn ngang dọc đan vào nhau như một chiếc rây bột; giữa những nếp da nhỏ hai con mắt tinh nhanh nom rất buồn cười, với hai lòng trắng vàng vàng, nhảy nhót, giống hệt như những con chim bạch yến trong ***g. Mớ tóc xám của bác xoăn tít, bộ râu cũng xoăn. Khi bác hút thuốc bằng tẩu, khói thuốc -cùng một màu với tóc -bốc lên cuồn cuộn. Cho đến cả lời nói của bác cũng quanh quéo, điểm nhiều câu châm chọc. Bác nói bằng một giọng rì rầm và có vẻ thân mật, nhưng tôi lại luôn luôn có cảm tưởng là bác đang nhạo báng tất cả mọi người. Bác kể lại:
    -Khi ấy tôi còn rất trẻ, bà cá tước Tatian Lecxepna sai tôi "làm thợ rèn".
    Một thời gian sau bà lại ra lệnh: "Đi giúp người làm vườn!" Được, có sao đâu! Nhưng dù một anh chàng mujich có làm bao nhiêu đi nữa thì người ta cũng chẳng bao giờ bằng lòng anh ta cả. Thế rồi một hôm khác bà ấy lại bảo: "Pêtruska, đi đánh cá!" Đối với tôi thì thế nào cũng được, tôi bằng lòng đi đánh cá... Nhưng vừa mới thấy thú với công việc này thì tôi lại phải từ biệt bọn cá. Tôi phải ra thành phố đánh xe ngựa thuê. Đánh xe ngựa ư? Thì đánh! Rồi sau thế nào nữa? Tôi với bà chủ không kịp thay đổi gì vì giải phóng đã đến và tôi ở lại với con ngựa. Bây giờ đối với tôi, con ngựa ấy thay thế cho bà cá tước đấy. Con ngựa đó đã già lắm, trông nó người ta có cảm tưởng như trước kia lông nó trắng nhưng rồi một hôm có một gã thợ sơn say rượu nào đó lấy các thứ sơn khác nhau quét lở dở lên bộ lông của nó. Chân nó vòng kiềng và thân hình nó như bằng giẻ rách chắp vá lại. Cái đầu xương xẩu với cặp mắt mờ đục rũ xuống một cách buồn bã, và được nối lỏng lẻo vào thân bằng những tĩnh mạch nổi phồng và lớp da già nua, sờn tã. Bác Piôt đối với nó có vẻ vì nể, không bao giờ đánh đập nó và gọi nó là Tanka. Một lần ông tôi hỏi bác:
    -Sao bác lại lấy tên đạo đặt cho súc vật như vậy?
    -Không đâu, không đâu, cụ Vaxin Vaxiliep kính mến ơi! Trong đạo không có tên nào là Tanka cả, chỉ có tên Tatiana thôi! Bác Piôt cũng là người có học và rất thông hiểu Kinh thánh. Bác luôn luôn tranh luận với ông tôi xem trong các thánh vị nào thiêng hơn. Hai người thi nhau chỉ trích nghiêm khắc những kẻ phạm tội trong Cựu ước, đặc biệt bị chỉ trích nhiều nhất là Abxalôn. Đôi khi hai người tranh luận hoàn toàn chỉ là về mặt ngữ pháp: hai người cãi nhau về vấn đề nên dùng hình thức nào của tiếng Xlavơ cổ trong một số bài kinh.
    -Tôi khác, bác khác!
    -ông tôi nổi nóng, đỏ mặt tía tai, và nhại lại với vẻ giễu cợt những cách nói của bác Piôt. Bác Piôt, giữa khói thuốc mù mịt, nói lại vẻ châm chọc:
    -Thế cách cầu kinh của cụ thì hơn gì? Đối với Đức Chúa Trời thì cũng vậy thôi! Có lẽ Chúa Trời khi nghe cụ cầu nguyện sẽ nghĩ: "Ngươi muốn cầu thế nào thì cầu, nhưng dẫu sao thì ngươi cũng chẳng đáng giá bao nhiêu!"
    -Cút đi, Lêcxây!
    -ông tôi quát tôi giọng giận dữ, cặp mắt xanh long lanh. Bác Piôt rất ưa sạch sẽ và ngăn ngắp. Khi đi qua sân bác thường lấy chân đá sang bên những phoi bào, mảnh chai lọ, xương xẩu. Bác vừa đá vừa nói, giọng chê trách:
    -Đồ vô dụng, chỉ tổ vướng cẳng! Bác là một người hay nói, có vẻ tốt bụng và vui vẻ, nhưng có lúc hai mắt bác đỏ ngầu những tia máu, mờ đi và đờ như mắt người chết. Những lúc đó bác ngồi co ro trong một góc tối, yên lặng, cau có như đứa cháu của bác.
    -Bác làm sao thế, bác Piôt?
    -Đi đi!
    -Bác trả lời giọng khàn khàn và nghiêm khắc. Cùng ở phố chúng tôi, trong một ngôi nhà nhỏ có một lão quý tộc. Hắn có cái bướu ở trên trán và một thói quen hết sức kỳ lạ: cứ đến ngày lễ hắn lại ngồi bên cửa sổ và lấy súng bắn đạn chì vào chó, mèo, gà, quạ và cả những người qua đường mà hắn không thích. Một lần bác Tốt Lắm bị hắn bắn vào sườn. Đạn nhỏ không xuyên qua được tấm áo dạ, nhưng có mấy viên lọt vào túi áo. Tôi còn nhớ bác ở thuê nhà tôi, qua cặp kính đã ngắm nghía những viên đạn chì màu xám rất chăm chú. ông tôi khuyên bác Tức Tatiana, gọi một cách thân mật.
    Tốt Lắm nên đi kiện, nhưng bác ném mấy viên đạn vào góc bếp và trả lời:
    -Không đáng kiện. Một lần khác lão bắn súng ấy lại bắn mấy viên đạn vào chân ông tôi; ông tôi tức giận, đệ đơn kiện lên tòa án và đi triệu tập những nạn nhân khác ở quanh đấy và những người làm chứng. Nhưng lão quý tộc bỗng biến đâu mất. Cứ mỗi lần ở ngoài phố có tiếng súng nổ là bác Piôt
    -nếu lúc đó có nhà
    -lại vội vàng chụp lên mái tóc xám chiếc mũ đã bạc phếch có cái lưỡi trai to tướng mà bác vẫn đội trong những ngày nghỉ và hấp tấp chạy ra đường. Bác thủ hai tay ra sau lưng, dưới vạt áo kaftan, nâng vạt áo lên như đuôi con gà trống, phưỡn bụng ra phía trước và đi một cách bệ vệ trên hè. Bác đi qua cửa nhà lão bắn súng rồi quay trở lại, rồi lại đi. Cả nhà chúng tôi đổ ra cổng đứng xem. Qua cửa sổ bộ mặt xám ngoét của lão nhà binh cũng hiện ra, và phía trên bộ mặt đó là cái đầu với mái tóc vàng hoe của mụ vợ hắn. Từ trong sân nhà Betleng cũng có vài người chạy ra. Chỉ có ngôi nhà xám của lão ạpxiannikôp là im lìm như chết không thấy người nào xuất hiện cả. Đôi khi cuộc đi dạo của bác Piôt không thu được kết quả
    -lão đi săn hình như không xem bác là một con mồi đáng bắn. Nhưng cũng có khi khẩu súng hai nòng lại nổ liên tiếp.
    -Pàng, pàng... Không rảo bước, bác Piôt đi lại phía chúng tôi và có vẻ rất hài lòng, nói:
    -Đạn rơi vào vạt áo cả! Một lần đạn trúng vào vai và cổ bác. Bà tôi lấy kim khều đạn ra và trách bác Piôt:
    -Tại sao bác lại trêu chọc cái thằng mọi rợ ấy làm gì? Thế ngộ như nó bắn bác mù mắt thì sao?...
    -Không, không nguy hiểm gì đâu... Akưlina Ivanna,
    -bác Piôt kéo dài giọng trả lời ra bộ xem thường.
    -Thằng ấy có phải là hạng biết bắn đâu...
    -Nhưng sao bác cứ khuyến khích nó như vậy?
    -Tôi mà khuyến khích nó à? Tôi chỉ muốn trêu cái lão ấy thôi... Rồi ngắm nghía những viên đạn gắp ra, đặt trong lòng bàn tay, bác nói:
    -Xạ thủ hạng bét! Bà có biết không, ngày trước bà chủ tôi, bà cá tước Tatian Lecxepna, có một thời gian đã chọn một tay nhà binh làm chồng
    -bà ta thay chồng như thay đầy tớ vậy. Tên lão ta là Mamôn Ilitạ. Chà, thằng cha bắn mới cừ làm sao!
    Mà bà phải biết, lão chỉ bắn đạn một thôi. Hắn để thằng ngốc Ignaska đứng dạng chân cách xa ít nhất là bốn mươi bước, ở thắt lưng buộc một cái chai lủng lẳng. Thằng Ignaska đứng dạng háng còn nhe răng ra mà cười, rõ đồ ngốc! Một loại áo dài thắt ở bụng. Lão Mamôn Ilitạ giơ súng lục lên và ... Pàng! Cái chai vỡ tan. Nhưng có một lần thằng Ignaska động đậy
    -có lẽ hắn bị ruồi trâu đốt
    -thế là viên đạn trúng vào đầu gối hắn, vào giữa xương bánh chè! Người ta gọi thầy thuốc đến, ông ta cưa phăng ngay chân hắn đi, và đem chôn cái chân đó... Thế đấy!
    -Còn thằng ngốc ấy thì thế nào?
    -Hắn ấy à, hắn chẳng làm sao cả. Đồ ngốc thì cần gì tay với chân, hắn chỉ ăn cái ngốc của hắn cũng đủ no rồi. Bọn ngốc thì ai người ta cũng mến, vì chúng chẳng làm hại ai bao giờ cả. Người ta đã có câu nói: dù là thầy ký, thầy cai, nhưng nếu ngốc nghếch chẳng ai bực mình... Những câu chuyện kiểu đó không làm cho bà tôi ngạc nhiên, chính bà tôi cũng biết hàng chục chuyện như vậy. Nhưng tôi thì hơi sợ, tôi hỏi bác Piôt:
    -Thế lão quý tộc có thể giết chết người được à?
    -Sao lại không được? Được chứ. Bọn quý tộc còn giết lẫn nhau nữa kia! Một hôm, có một gã sĩ quan kỵ binh đến nhà bà Tatian Lecxepna, hắn sinh sự cãi nhau với lão Mamôn, thế là lập tức cả hai liền vớ lấy súng lục, đi vào vườn, và ở đó, trên con đường nhỏ bên hồ, gã sĩ quay kỵ binh ấy bắn cho lão Mamôn một phát vào giữa gan! Thế là lão Mamôn ra nghĩa địa nằm, còn gã sĩ quan thì về Kapkadơ, chẳng lôi thôi dài dòng gì hết! Đó là chúng đối với nhau đấy, huống hồ đối với mujich và những kẻ khác! Bây giờ người ta không còn là của chúng nữa, chúng không thương hại gì đâu. Trước kia thì dù sao chúng cũng còn thương vì là của riêng của chúng!
    -ối dào, ngay cả ngày trước chúng cũng chẳng thương hại lắm đâu!
    -Bà tôi nói. Bác Piôt đồng ý:
    -Đúng thế đấy, của riêng nhưng là thứ riêng rẻ tiền... Tuy đối với tôi bác có vẻ dịu dàng, bác đối với tôi tốt hơn là đối với người lớn và không lảng tránh con mắt tôi, nhưng trong con người bác vẫn có cái gì làm tôi không ưa. Trong những lúc đãi mọi người món mứt mà bác rất thích, bác thường phết mứt vào bánh mì cho tôi nhiều hơn. Thường đi phố về bác hay cho tôi kẹo mạch nha và bánh khô dầu bằng hạt quả anh túc. Nói chuyện với tôi bao giờ bác cũng có thái độ nghiêm trang và giọng nói dịu dàng:
    -Sau này định sống thế nào, chú mình? Đi lính hay làm quan?
    -Đi lính.
    -Phải đấy. Bây giờ đi lính cũng dễ chịu. Làm giáo sĩ cũng tốt, chỉ cần thỉnh thoảng lại kêu: "Xin Chúa thương xót chúng con", có thế thôi! Làm giáo sĩ có lẽ còn dễ hơn đi lính cơ đấy, nhưng làm anh đi ý muốn nói tới cuộc giải phóng nông nô năm 1861. câu lại hơn cả; chẳng phải học gì hết, chỉ cần quen một chút là được!... Bác làm những bộ điệu tức cười để bắt chước cá lượn quanh mồi như thế nào, các loại cá vược, cá dầy, cá mè mỗi khi mắc câu thì vùng vẫy ra sao... Đôi khi bác bảo để an ủi tôi:
    -Cháu bực tức mỗi khi ông cháu đánh cháu, nhưng như vậy không nên, chú mình ạ. ông cháu đánh cháu là để dạy bảo cháu. Vả lại thứ đòn đó chẳng đáng kể vào đâu! Bà chủ bác, bà Tatian Lecxepna mà đánh thì phải biết! Bà ấy có riêng một người để làm việc ấy, tên hắn là Krixtôpho. Hắn ta thạo nghề đến nỗi những địa chủ lân cận thường đến xin bà cá tước: "Bà Tatian Lecxepna, bà làm ơn cho tôi mượn tên Krixtôpho về để đánh lũ đày tớ!" Và bà ta cho mượn. Bác kể tỉ mỉ với vẻ thản nhiên: mụ cá tước mặc áo dài bằng xa-tanh trắng, trùm khăn mỏng màu xanh da trời, ngồi trong một chiếc ghế bành đỏ đặt ở ngoài hiên có những cột tròn để xem Krixtôpho quất nam nữ nông dân.
    -Tên Krixtôpho ấy tuy quê ở Riazan nhưng trông như người Txưgan hoặc Khôkhôn vậy. Râu mép hắn dài đến mang tai, mõm xanh vì hắn cạo râu cằm. Không biết có phải hắn là một thằng ngốc thật không, hay là hắn giả bộ như thế để được yên thân. Nhiều lần, ở trong bếp, hắn rót một chén nước, bắt một con ruồi, một con gián hoặc một con bọ dừa
    -rồi lấy cái que từ từ dìm nó xuống nước cho chết. Hoặc là hắn bắt ngay rận ở cổ áo đem dìm vào nước... Những mẩu chuyện tương tự như thế đối với tôi đã khá quen thuộc, tôi đã được nghe nhiều những chuyện đó do ông bà tôi kể. Chúng muôn màu muôn vẻ, nhưng tất cả đều giống nhau một cách kỳ lạ: trong chuyện nào cũng có cảnh hành hạ, chế giễu, săn đuổi con người. Tôi đã chán ngấy những chuyện đó, không muốn nghe nữa nên bảo bác đánh xe ngựa thuê:
    -Bác kể chuyện khác cơ! Những nếp nhăn trên mặt bác dồn cả về phía mồm, rồi lại chạy lên phía mắt, nhưng bác đồng ý:
    -Thôi được, đồ tham lam! Kể chuyện khác vậy. Hồi đó ở chỗ bác có một anh đầu bếp...
    -Ai có?
    -Bà cá tước Tatian Lecxepna.
    -Sao bác lại gọi bà ta là Tatian? Bà ấy là đàn ông hay sao?
    -Tất nhiên bà ấy là đàn bà, nhưng bà ta lại có râu mép, đen... Bà ấy gốc là người Đức đen, loại người này trông giống như người da đen vậy. Nhưng Tên gọi người Ukraina (theo cách gọi khinh miệt của người Nga dưới thời Nga hoàng). Trong tiếng Nga không có tên nam nào là Tatian cả. Đây chỉ là một cái tên bịa ra, tên đó có hình thức giống đực để chỉ đàn ông, tương đương với tên của đàn bà là Tatiana. ta hãy quay lại chuyện anh đầu bếp. Câu chuyện này buồn cười lắm, chú mình ạ... Trong "câu chuyện buồn cười" ấy có một anh bếp làm hỏng cả một mẻ bánh nướng. Để phạt anh ta người ta bắt anh phải ăn hết chỗ bánh ấy ngay một lúc. Anh ta ăn hết và phát ốm. Tôi nổi cáu:
    -Chuyện ấy chẳng buồn cười tí nào!
    -Thế thì thế nào mới buồn cười? Nào, nói đi!
    -Cháu không biết...
    -Vậy thì im mồm đi! Rồi bác lại kể đi kể lại những câu chuyện của bác, giống như con nhện cứ chăng mãi cái mạng lưới của nó. Thỉnh thoảng, vào những ngày lễ, mấy đứa em họ tôi lại đến chơi: thằng Xaxa Mikhalôp buồn bã và lười biếng và thằng Xaxa Iakôvôp, ăn mặc chải chuốt, chuyện gì cũng biết.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Một lần trong lúc ba đứa chúng tôi đang đi "du lịch" trên các mái nhà, chúng tôi trông thấy trong sân nhà Betleng một lão quý tộc mặc áo màu xanh lá cây có lót lông thú ngồi trên một đống củi cạnh tường và đang chơi với mấy con chó con. Cái đầu hói nhỏ vàng ệch của lão để trần. Một đứa em họ tôi đề nghị đánh cắp một con chó, và lập tức một kế hoạch đánh cắp tài tình được vạch ra: hai đứa em họ tôi sẽ ra ngay ngoài đường và đợi ở cổng nhà Betleng, tôi sẽ dọa lão quý tộc và khi lão hoảng sợ bỏ chạy thì hai đứa em họ tôi sẽ ùa vào sân và cướp lấy chó.
    -Nhưng mà dọa thế nào cho lão ta sợ được? Một đứa em họ tôi đề nghị:
    -Mày cứ nhổ một bãi nước bọt vào đầu lão ta! Không biết nhổ vào đầu người khác có phải là một tội to lắm không? Tôi đã nhiều lần nghe nói và chính tôi thấy người ta làm nhiều điều còn tệ hơn nữa, vì thế tôi đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ được giao cho. Thế là om xòm cả lên. Từ nhà Betleng cả một đội quân đàn ông và đàn bà kéo sang sân nhà chúng tôi, đi đầu là một viên sĩ quan trẻ đẹp trai. Vì lúc tôi phạm lỗi thì hai đứa em họ tôi đang đi chơi ngoan ngoãn ở ngoài đường, và cứ theo lời chúng thì chúng không biết gì về cái trò nghịch ngợm quỷ quái của tôi, cho nên ông tôi chỉ đánh có mình tôi. Thế là ông tôi đã làm hài lòng tất cả mọi người trong nhà Betleng. Sau trận đòn, lúc tôi đang nằm trên nóc lò sưởi ở trong bếp thì bác Piôt leo lên chỗ tôi. Bác ăn vận như ngày hội, dáng điệu có vẻ hớn hở.
    -Nghĩ ra được cái trò khá lắm đấy, chú mình ạ!
    -Bác nói thì thầm.
    -Đáng đời cái thằng dê già ấy. Phải nhổ vào mặt tất cả những đứa như cái thằng ấy! Hay là lấy đá ném vào cái đầu thối tha của chúng nó!
    Trước mặt tôi hiện lên bộ mặt tròn nhẵn thín và trẻ con của lão quý tộc. Tôi còn nhớ lão vừa lấy hai bàn tay bé nhỏ lau cái đầu hói vàng, vừa kêu khe khẽ và rền rĩ như chó con. Nghĩ lại tôi hết sức xấu hổ, tôi căm thù mấy đứa em họ tôi. Nhưng nhìn sát bộ mặt nhăn nheo của bác đánh xe tôi liền quên hết những điều đó: bộ mặt ấy rung rung với một vẻ đáng sợ và đáng ghét giống y như bộ mặt của ông tôi lúc đánh tôi.
    -Đi đi!
    -Tôi hét lên và dùng cả tay lẫn chân đẩy bác Piôt ra. Bác cười hì hì, nháy mắt và tụt xuống. Từ đó trở đi, tôi không muốn nói chuyện với bác nữa, tôi bắt đầu lẩn tránh bác và đồng thời cũng bắt đầu theo dõi bác. Tôi đề phòng như thể mơ hồ chờ đợi một điều gì sắp sửa xảy ra. ít lâu sau khi xảy ra câu chuyện với lão quý tộc, lại xảy ra một chuyện khác. Từ lâu ngôi nhà im lìm của lão ạpxiannikôp khêu gợi trí tò mò của tôi. Tôi có cảm tưởng rằng ngôi nhà xám đó che giấu một cuộc sống khác thường, đầy bí mật như trong các câu chuyện cổ tích. Nhà Betleng rất ồn ào và vui nhộn. ở đây có nhiều tiểu thư đẹp tiếp các sĩ quan và sinh viên đến chơi, trong nhà luôn luôn có tiếng cười, tiếng la hét, tiếng hát và tiếng nhạc. Và ngay cả bộ mặt của ngôi nhà cũng có vẻ vui nhộn: qua lớp kính cửa sổ sáng lấp lánh, trông thấy những chậu hoa màu sắc rực rỡ. ông tôi không thích cái nhà này. ông tôi gọi tất cả mọi người trong nhà đó là "bọn dị giáo, bọn vô thần"; riêng đối với bọn đàn bà thì ông tôi đặt cho một cái tên thô tục mà có lần bác Piôt đã giải nghĩa cho tôi cũng bằng những lời thô tục với vẻ thích thú ác ý. Trái lại, ông tôi kính nể ngôi nhà nghiêm trang và lặng lẽ của lão ạpxiannikôp. Đó là ngôi nhà một tầng nhưng khá cao, trông ra cái sân đất sạch sẽ và vắng vẻ, trên mặt sân đầy cỏ mọc, ở giữa có cái giếng có mái che, dựng trên hai chiếc cột nhỏ. Ngôi nhà tựa hồ như thụt lùi vào phía trong để trốn tránh con mắt mọi người. Ba chiếc cửa sổ hẹp hình cánh cung của ngôi nhà cách mặt đất khá cao, cửa kính mờ đục, ánh nắng chiếu vào tạo nên đủ mọi màu sắc của cầu vồng. Về phía bên kia cổng có căn nhà kho, mặt trước trông giống hệt như ngôi nhà, cũng có ba cửa sổ nhưng là cửa sổ giả; trên bức tường màu xám người ta đắp những khuôn cửa và ở giữa dùng vôi trắng kẻ thành những chấn song cửa sổ. Những chiếc cửa sổ giả đó nom rất khó chịu và toàn bộ căn nhà kho càng làm tăng thêm cái cảm giác bí mật và âm thầm của ngôi nhà đó. Có một cái gì nhẫn nhục hoặc kiêu hãnh trong sự yên lặng của khu nhà đó, của những chuồng ngựa trống rỗng và của những gian nhà xép với những chiếc cửa lớn cũng trống rỗng nốt. Thỉnh thoảng người ta thấy một lão già cao lớn, khập khiễng đi dạo ở trong sân, cằm lão cạo nhẵn, nhưng lão để ria mép trắng cứng như những chiếc kim. Đôi khi, một lão già khác, râu quai nón, mũi khoằm, dắt ra khỏi chuồng một con ngựa xám, đầu to, ức lép, bốn chân mảnh khảnh. Ra đến sân con ngựa cúi đầu chào tất cả mọi vật xung quanh giống như một cô mụ hiền lành. Lão thọt chân lấy tay phát đen đét vào con ngựa, lão huýt sáo và thở dài thườn thượt.
    Sau đó người ta cảm tưởng là lão già muốn đi khỏi nhà nhưng không thể nào đi được vì lão đã bị bỏ bùa. Hầu như chiều nào cũng vậy, có ba đứa trẻ chơi đùa ở trong sân cho đến tối mịt. Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc. Tôi quan sát chúng qua khe hở hàng rào, nhưng chúng không nhìn thấy tôi; tôi thì lại rất muốn chúng nhìn thấy tôi. Tôi thích xem chúng chơi những trò chơi không quen biết một cách rất thú vị, vui vẻ và không bao giờ cãi nhau. Tôi thích cách ăn vận của chúng, thích thái độ săn sóc của chúng đối với nhau, nhất là của hai thằng anh đối với đứa em nhỏ, một thằng bé ngộ nghĩnh và lanh lợi. Mỗi khi thằng em ngã là hai đứa anh lại cười, như người ta vẫn thường cười những người bị ngã, nhưng không phải cười một cách độc ác. Ngay lúc đó chúng đỡ thằng em dậy, và nếu tay hoặc đầu gối nó bẩn thì chúng lấy lá ngưu bàng hoặc khăn tay lau các ngón tay và quần cho sạch. Thằng anh thứ hai nói một cách hiền hậu:
    -Em lóng ngóng quá! Chúng không bao giờ cãi nhau, không bao giờ gian lận. Cả ba đều rất nhanh nhẹn, khỏe mạnh, không biết mệt mỏi là gì. Một lần tôi leo lên cây và huýt sáo gọi chúng, chúng dừng ngay lại, rồi không vội vàng, chúng túm lại, đưa mắt nhìn tôi, và thì thầm bàn bạc gì với nhau. Tôi tưởng chúng định lấy đá ném tôi, liền tụt xuống đất, nhặt đá bỏ vào túi, nhét vào trong áo rồi lại trèo lên cây. Nhưng lúc này chúng đã chơi xa chỗ tôi, ở tận phía cuối sân và xem chừng đã quên mất tôi. Tôi buồn quá, tuy vậy tôi cũng vẫn không muốn gây sự trước. Một lát sau có tiếng người gọi chúng qua cửa sổ:
    -Đi về, các con! Chúng thong thả và ngoan ngoãn đi vào hệt như những chú ngỗng. Đã nhiều lần tôi ngồi trên cây phía trên hàng rào, há vọng chúng gọi tôi xuống chơi với chúng, nhưng chúng không gọi. Tôi đã chơi với chúng trong ý nghĩ, và có lúc tôi đã say sưa đến nỗi hét lên hoặc cười thật to. Lúc đó ba đứa đều nhìn tôi và nói khẽ với nhau điều gì, còn tôi ngượng quá bèn tụt xuống đất. Một lần chúng bắt đầu chơi ú tim. Đến lượt thằng anh thứ hai đi tìm, nó đứng vào một xó ở đằng sau nhà kho và lấy hai tay bịt mắt thật kín, còn hai anh em nó thì chạy đi trốn. Thằng anh nhanh nhẹn chui ngay vào trong một cỗ xe trượt tuyết to tướng ở dưới mái hiên nhà kho, còn thằng em thì cuống lên, cứ chạy quanh cái giếng không biết trốn vào đâu trông đến buồn cười. Thằng anh kêu:
    -Một... hai... Thằng em liền nhảy lên thành giếng, nắm lấy dây và đứng vào chiếc gầu không. Chiếc gầu biến mất, đập vào thành giếng phát ra những tiếng âm vang. Tôi sững sờ nhìn chiếc ròng rọc trơn dầu lặng lẽ quay nhanh. Nhưng lập tức, tôi hiểu điều sẽ xảy ra, tôi liền nhảy phắt xuống sân, kêu to:
    -Ngã xuống giếng rồi!... Thằng anh thứ hai chạy tới thành giếng cùng một lúc với tôi, nó nắm lấy dây gầu nhưng bị nhấc bổng lên khiến tay nó bị bỏng rát, nhưng tôi đã kịp chộp lấy sợi dây, và liền lúc đó thằng anh lớn chạy tới giúp tôi kéo chiếc gầu lên. Nó nói:
    -Khẽ chứ nhé!... Chúng tôi kéo được thằng bé lên ngay. Nó cũng sợ, bàn tay phải của nó rớm máu, má bị sây sát. Nó bị ướt đến thắt lưng, mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười. Nó rùng mình, hai mắt mở to, mỉm cười và nói, giọng kéo dài:
    -Em bị ng-ã... ã... ghê-e quá...
    -Mày thật là điên,
    -thằng anh thứ hai nói, ôm lấy thằng bé, và lấy khăn tay lau máu trên mặt nó. Còn thằng anh lớn thì cau mày nói:
    -Đi vào thôi, đằng nào cũng chẳng giấu được...
    -Các cậu liệu có bị đánh không?
    -Tôi hỏi. Nó gật đầu, sau đó chìa tay cho tôi và nói:
    -Cậu chạy đến nhanh lắm! Vui thích vì được khen, tôi chưa kịp nắm lấy tay nó thì nó đã nói với thằng thứ hai:
    -Đi vào nhà thôi, kẻo nó cảm bây giờ! Chúng ta sẽ bảo là nó bị ngã, nhưng đừng nói là ngã xuống giếng!
    -Phải rồi, đừng nói,
    -thằng em vẫn rùng mình, đồng ý.
    -Bảo là em ngã vào vũng nước nhé! Rồi chúng đi vào.
    Tất cả những chuyện đó xảy ra nhanh đến nỗi lúc nhìn lại cành cây từ trên đó tôi đã nhảy xuống, tôi thấy nó vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống. Có đến gần một tuần không thấy ba anh em nhà ấy ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi trên cây, nó gọi, giọng thân mật:
    -Xuống đây chơi với chúng tớ! Chúng tôi leo lên cái xe trượt tuyết cũ để ở dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhìn nhau, vừa nói chuyện rất lâu.
    -Các cậu có bị đánh không?
    -Có,
    -thằng anh lớn trả lời. Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh như tôi, tôi thấy tức thay cho chúng.
    -Sao cậu lại bắt chim?
    -Thằng bé nhất hỏi.
    -Vì chúng nó hót hay lắm.
    -Không nên bắt, cứ để cho chúng nó muốn bay đi đâu thì bay...
    -Được, tớ sẽ không bắt nữa!
    -Nhưng cậu hãy bắt cho mình một con đã.
    -Cậu muốn chim gì?
    -Chim gì hót vui ấy. Để nhốt vào ***g.
    -Thế thì chim bạch yến chứ gì?
    -Mèo nó bắt mất,
    -thằng thứ hai nói,
    -mà bố cũng chẳng cho nuôi đâu. Thằng anh lớn đồng ý:
    -Đúng đấy, bố chẳng cho đâu...
    -Thế các cậu có mẹ không?
    -Không,
    -thằng anh lớn nói. Nhưng thằng thứ hai chữa lại:
    -Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn mẹ, mẹ chúng tớ chết rồi.
    -Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ,
    -tôi nói. Thằng anh lớn gật đầu:
    -ừ. Và cả ba đứa có vẻ suy nghĩ, gương mặt sầm lại. Qua những câu chuyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, vì vậy tôi rất thông cảm với sự yên lặng suy nghĩ của bọn trẻ. Chúng ngồi sát vào nhau, giống nhau như những chú gà con. Tôi nhớ lại chuyện mụ dì ghẻ phù thủy đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng:
    -Mẹ thật của các cậu rồi thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem! Thằng anh lớn nhún vai:
    -Chết rồi cơ mà, về làm sao được... Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra thành từng miếng, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là lại sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy! Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những chuyện của bà tôi. Lúc đầu thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau nó nhẹ nhàng bảo:
    -Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những chuyện cổ tích... Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn thằng này cúi xuống. Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà. Bỗng dưng trước mặt chúng tôi hiện ra một lão già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo nâu, dài lùng thùng trông giống như một giáo sĩ; đầu lão đội chiếc mũ xù lông.
    -Đứa nào đây?
    -Lão già hỏi và chỉ vào tôi. Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông tôi:
    -Nó ở bên kia sang...
    -Đứa nào gọi nó sang? Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi về nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn. Lão già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng. Lão làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng lão bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc òa lên thì đã ở ngoài đường rồi. Lão già dừng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói:
    -Cấm không được đến chỗ tao! Tôi cáu tiết:
    -Tôi có thèm đến với lão đâu, đồ quỷ già! Lão giơ cánh tay dài ngoẵng ra và lại tóm được tôi. Lão lôi tôi đi trên hè phố và hỏi tôi một câu làm tôi choáng váng chẳng khác gì bị một nhát búa nện vào đầu:
    -ông mày có nhà không? Không may cho tôi là ông tôi lại có nhà. Trông thấy lão già hầm hầm, ông tôi đứng dậy. Đầu ngẩng lên, bộ râu vểnh về phía trước, ông tôi nhìn vào cặp mắt đục và tròn như hai đồng xu của lão già, hấp tấp nói:
    -Mẹ nó đi vắng, còn tôi thì bận luôn, thành thử không có ai trông nom nó, xin đại tá tha lỗi cho! Lão đại tá quát ầm cả nhà, rồi lão quay đằng sau trông cứng đờ như một cây gỗ và đi thẳng. Còn tôi thì một lúc sau bị ném ra sân, vào trong chiếc xe của bác Piôt.
    -Chú mày lại bị tóm cổ rồi phải không?
    -Bác vừa hỏi vừa tháo ngựa ra khỏi xe.
    -Tại sao bị đánh? Khi tôi kể chuyện cho bác nghe, bác nổi xung và rít lên:
    -Thế mày chơi với cái lũ con nhà quý tộc, lũ rắn non ấy làm gì? Chơi với chúng nó đã thấy sướng chưa! Bây giờ thì mày đi mà nện cho chúng nó một trận, còn chờ gì nữa! Bác ta nói như thế rất lâu. Bực mình vì trận đòn, lúc đầu tôi còn nghe bác với vẻ đồng tình, nhưng bộ mặt nhăn nheo của bác cứ rung rung mỗi lúc trông một khó chịu thêm và làm tôi nhớ lại rằng những đứa trẻ kia cũng sẽ bị đánh và đối với tôi chúng không có tội gì cả.
    -Sao tôi lại đánh chúng nó? Chúng nó tốt lắm. Bác chỉ toàn nói láo thôi!
    -Tôi nói. Bác nhìn tôi và bất thình lình thét lên:
    -Cút khỏi xe tao ngay!
    -Đồ ngốc!
    -Tôi nhảy xuống đất và hét lên. Bác liền đuổi theo tôi quanh sân, nhưng cứ bắt hụt mãi, vừa chạy bác vừa la, giọng lạc hẳn đi:
    -Tao mà là đồ ngốc à? Tao mà nói láo à? Tao phải cho mày... Bà tôi bước ra cửa bếp, tôi liền chạy tới nép vào bà tôi. Còn bác Piôt thì phàn nàn:
    -Tôi không thể sống được với cái thằng nhãi ranh này! Tôi nhiều tuổi hơn nó đến năm lần mà nó dám réo cha réo mẹ tôi ra mà chửi, bảo tôi là đồ nói láo... Mỗi khi người ta đặt điều ngay trước mặt tôi, tôi thường sững sờ và trở nên đần độn vì kinh ngạc. Lúc này tôi cũng đờ đẫn cả người. Nhưng bà tôi đã trả lời dứt khoát:
    -ối chà, bác Piôt, tự bác đặt điều ra thì có, nó không chửi bác như vậy đâu! Giá phải ông tôi thì ông tôi đã tin lời lão đánh xe rồi. Từ hồi đó trở đi bắt đầu một cuộc chiến tranh âm thầm và gay gắt giữa bác Piôt và tôi: bác ta cố tìm mọi cách giả như vô tình để xô đẩy tôi, lấy dây cương quật tôi, thả chim của tôi ra; một lần bác ta còn đem chim của tôi cho mèo vồ. Bất cứ chuyện gì bác cũng đem mách ông tôi và luôn luôn bịa đặt thêm.
    Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng bác ta cũng là đồ trẻ con như tôi, chỉ có mặc như ông già mà thôi. Về phía tôi, tôi tìm cách tháo giày gai của bác ta ra, tôi bí mật gỡ và cứa đứt những sợi gai để khi bác ta xỏ chân vào thì chúng đứt tung ra. Một hôm tôi đổ hạt tiêu vào mũi của bác làm cho bác ta hắt hơi hàng giờ liền. Nói chung, tôi cố sức trong phạm vi khả năng của tôi không chịu thua kém bác ta. Vào những ngày lễ, suốt ngày bác ta để ý theo dõi tôi và đã nhiều lần bắt gặp tôi nói chuyện với mấy đứa con lão đại tá là điều tôi đã bị cấm. Thế là bác đi tố cáo với ông tôi.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tôi vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé kia và quan hệ giữa tôi với chúng càng ngày càng trở nên thích thú. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà ạpxiannikôp có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào. Mấy đứa con lão quý tộc, lần lượt từng đứa hoặc hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn luôn đứng canh để đề phòng lão đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi. Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi rất buồn. Chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống như thế nào và nhiều chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì không bao giờ chúng nói một lời nào về dì ghẻ và bố chúng. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể chuyện cổ tích. Tôi kể lại những chuyện mà bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào thì tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Điều đó thường làm cho bà tôi rất hài lòng. Tôi cũng kể cho chúng nhiều chuyện về bà tôi. Một hôm thằng lớn thở dài và nói:
    -Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà mình trước cũng rất tốt... Nó thường nói một cách buồn bã như vậy: ngày trước, trước kia, đã có lúc... dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ, những ngón tay thon thon và người nó mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt nó rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất đáng yêu, và cũng gây cho tôi một sự tin cậy hoàn toàn. Tôi luôn luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả. Mải nói chuyện, nhiều khi tôi không biết bác Piôt đã đến bên cạnh. Bác ta giải tán chúng tôi bằng một tiếng quát lè nhè:
    -Lại... nói chuyện?
    Tôi nhận thấy rằng càng ngày bác càng hay có những cơn thẫn thờ ủ rũ. Thậm chí tôi còn đoán biết trước được tâm trạng của bác mỗi khi bác ta đi làm về: thường thường bác mở cổng rất thong thả, bản lề cổng rít lên một tiếng dài vẻ như uể oải, còn nếu bác đánh xe có điều gì bực bội thì bản lề rít lên ngắn ngủi, nghe như một tiếng kêu đau đớn. Từ ngày đứa cháu câm của bác ta về nhà quê lấy vợ, bác Piôt sống một mình ở trên chuồng ngựa. Trong căn gác thấp với chiếc cửa sổ bé tí tẹo, sực mùi da mốc, mùi hắc ín, mùi mồ hôi và thuốc lá, vì thế không khi nào tôi vào chỗ ở của bác cả. Bác lại để đèn khi đi ngủ, khiến ông tôi rất không bằng lòng:
    -Coi chừng, không khéo bác thiêu cả tôi đi đấy, bác Piôt!
    -Không đâu, cụ cứ yên trí! Ban đêm bao giờ tôi cũng để ngọn đèn vào trong bát nước,
    -bác ta trả lời, mắt nhìn lảng đi chỗ khác. Nói chung bây giờ bác ta không nhìn thẳng vào mặt ai nữa. Đã từ lâu bác không tham dự những buổi tối uống trà của bà tôi nữa. Bác cũng không thết mứt mọi người nữa, mặt bác khô héo lại, những nếp nhăn hằn sâu hơn, bác đi lảo đảo, hai chân kéo lê như một người ốm. Có lần, vào một buổi sáng trong tuần, tôi đang cùng với ông tôi dọn sân, vì đêm trước tuyết rơi rất nhiều, bỗng thấy then cổng kêu lạch cạch rất lạ và một viên cảnh sát bước vào trong sân. Y lấy lưng đóng cổng lại và giơ ngón tay màu xám béo múp vẫy ông tôi. ông tôi bước tới, viên cảnh sát cúi về phía ông tôi, tưởng chừng như cái mũi to tướng của y bổ vào trán ông tôi. Y bắt đầu nói cái gì nghe không rõ, còn ông tôi thì hấp tấp trả lời:
    -Vâng, ở đây! Bao giờ? Trời, để tôi nhớ lại xem nào... Bỗng ông tôi giật nẩy mình nom đến buồn cười và kêu lớn:
    -Trời ơi, thật thế ư?
    -Khẽ chứ,
    -viên cảnh sát nói giọng nghiêm nghị. ông tôi quay lại phía sau và trông thấy tôi.
    -Nhặt lấy xẻng rồi đi vào trong nhà. Tôi nấp vào sau một góc nhà thấy ông tôi và viên cảnh sát đi lên buồng bác đánh xe. Viên cảnh sát tháo chiếc găng ở tay phải ra, đập vào lòng bàn tay trái và nói:
    -Hắn biết trước nên đã bỏ ngựa và biến mất rồi... Tôi chạy vào bếp kể lại cho bà tôi tất cả những gì tôi vừa trông vừa nghe thấy. Bà tôi đang nhào bột trong thùng để làm bánh, đầu đầy bụi lắc la lắc lư. Sau khi nghe tôi kể bà tôi điềm tĩnh nói:
    -Chắc là ăn cắp cái gì... Đi chơi đi, việc gì đến mày! Tôi lại vội trở ra sân, và thấy ông tôi đang đứng gần cái cổng nhỏ. ông tôi bỏ mũ, ngửa mặt lên trời và làm dấu. Nét mặt ông tôi đầy vẻ bực tức, một chân run run.
    -Tao đã bảo mày đi vào kia mà!
    -ông tôi quát và giậm chân xuống đất. Rồi ông tôi bước theo tôi, đi vào bếp và gọi bà tôi:
    -Bà nó ơi, lại đây! Hai người đi sang phòng bên và thì thầm ở trong đó rất lâu. Khi bà tôi trở vào bếp, tôi biết chắc có chuyện gì ghê gớm đã xảy ra.
    -Bà sợ à?
    -Im đi, nghe không?
    -Bà tôi khe khẽ đáp lại. Suốt ngày trong nhà có không khí khó chịu, sợ hãi. ông tôi và bà tôi nhìn nhau lo lắng, nói năng thì thầm: những lời nói cộc lốc và khó hiểu của ông bà tôi khiến cho nỗi lo của tôi càng tăng thêm.
    -Bà nó hãy đi thắp tất cả đèn trước tượng thánh lên!
    -ông tôi húng hắng ho, ra lệnh. Bữa ăn trưa mọi người ăn vội vàng và miễn cưỡng, như thể đang chờ đợi ai. ông tôi phồng má có vẻ mệt nhọc và càu nhàu:
    -Quỷ sứ quả là mạnh hơn người thật!... Nó có vẻ ngoan đạo lắm, nó đi nhà thờ... Và rồi thì thế đấy... Hừ! Bà tôi thở dài. Cái ngày mùa đông u uất ấy chìm đắm trong một màu sương mù đục và bàng bạc hầu như kéo dài mãi không dứt. Không khí trong nhà mỗi lúc một trở nên lo âu và nặng nề hơn. Buổi tối một viên cảnh sát khác lại đến, người to béo, tóc màu hung. Hắn ngồi trên chiếc ghế dài ở trong bếp và lim dim ngủ, miệng thở khò khè, đầu chốc chốc lại chúi xuống. Khi bà tôi hỏi hắn: "Làm thế nào mà biết được chuyện đó, hở bác?"
    -hắn đận đà mãi mới trả lời, giọng khàn khàn:
    -Cái gì chúng tôi cũng biết hết, cụ không lo! Tôi còn nhớ lúc ấy tôi ngồi cạnh cửa sổ, ngậm trong miệng một đồng xu cổ cho nóng lên để tìm cách in lên lớp băng bám trên cửa kính hình thánh Jorjơ đâm con rồng. Bỗng phòng ngoài có tiếng ồn ào, cánh cửa mở tung và mụ Pêtrôpna hiện ra trên ngưỡng cửa, mồm kêu the thé:
    -Này, ra mà xem, đằng sau nhà bác có cái gì ấy! Nhìn thấy viên cảnh sát, mụ định bỏ chạy, nhưng lão cảnh sát đã nắm được váy mụ ta và cũng hốt hoảng kêu ầm lên:
    -Đứng lại, mụ là ai? Mụ bảo ra mà xem cái gì? Vấp phải bậc cửa, mụ Pêtrôpna ngã khuỵu xuống đất và kêu ầm lên, tiếng đứt quãng, giọng nghẹn ngào đầy nước mắt:
    -Tôi đi vắt sữa bò, bỗng tôi thấy có cái gì ở trong vườn nhà Kasirin. Tôi nghĩ bụng: cái gì thế kia, có vẻ như một chiếc ủng thì phải? Đến lượt ông tôi cũng gào lên, giậm chân như điên dại:
    -Nói láo, mụ đần độn kia! Mụ làm thế nào mà thấy được có gì ở trong vườn nhà tao, hàng rào thì Một loại tiền bằng đồng trị giá hai kôpêch, một mặt có khắc hình Thánh Jorjơ cưỡi ngựa cầm giáo đâm con rồng. cao, khe hở không có, chỉ nói láo! ở đây không có gì hết!
    -Cha mẹ ôi!
    -Mụ Pêtrôpna khóc nức nở, một tay chìa về phía ông tôi, tay kia ôm lấy đầu.
    -Phải rồi, tôi nói láo đấy! Tôi đang đi về phía hàng rào nhà bác thì thấy có những vết chân ở một chỗ tuyết bị giẫm lún be bét, tôi bèn nhìn qua hàng rào thì thấy hắn ta nằm...
    -Ai... i...? Những tiếng kêu hỗn loạn của mọi người kéo dài rất lâu tưởng như không bao giờ chấm dứt. Nhưng bỗng như phát điên, mọi người chen nhau ra khỏi bếp và chạy ra vườn. Tại đây, bác Piôt nằm trong một cái hố phủ một lớp tuyết xốp, lưng dựa vào một thanh gỗ cháy dở, đầu gục xuống ngực. Phía dưới tai bên phải bác ta có một vết rạch dài sâu hoắm, đỏ như một cái miệng; từ đó lòi ra những mảnh thịt tim tím như những cái răng. Tôi sợ quá, nhắm mắt lại và qua hai hàng lông mi tôi nhìn thấy trên đầu gối bác Piôt có con dao cắt da mà tôi đã quen thuộc, và cạnh đó những ngón tay đen sì, co quắp của bàn tay phải. Cánh tay trái vật sang một bên và ngập trong tuyết. Tuyết bên dưới cái xác đã tan hết, thân hình bé nhỏ của bác đánh xe thuê lún sâu trong đống tuyết trắng mịn và trông càng giống một đứa trẻ con. Phía bên phải bác, một hình màu đỏ kỳ dị loang trên mặt tuyết trông như hình một con chim; phía bên trái, tuyết còn nguyên chưa bị động đến, mặt tuyết phẳng lì và sáng chói. Đầu bác ta cúi xuống vẻ ngoan ngoãn, cằm gập vào ngực khiến cho bộ râu rậm và xoăn xòe ra, một chiếc thánh giá lớn bằng đồng nằm giữa những dòng máu đỏ đã đông lại trên bộ ngực để trần. Đầu tôi nặng trình trịch. Tiếng nói ồn ào làm tôi chóng mặt. Mụ Pêtrôpna không ngớt mồm kêu la; viên cảnh sát cũng quát tháo và sai anh Valây đi đâu không rõ. ông tôi thì gào lên:
    -Không được giẫm mất dấu! Nhưng bỗng ông tôi cau mặt lại, nhìn xuống đất và nói to với viên cảnh sát, giọng hách dịch:
    -Làm gì mà cứ kêu ầm ĩ lên thế, cái nhà bác này! Đây là sự trừng phạt của Chúa, đây là bàn tay của Chúa, vậy mà bác cứ giở mãi những câu ngu xuẩn ấy ra... Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... Lập tức mọi người đều im lặng, tất cả đều nhìn vào người chết, thở dài và làm dấu. Có nhiều người từ ngoài sân chạy vào trong vườn, họ leo qua hàng rào từ phía nhà mụ Pêtrôpna sang bị ngã, họ càu nhàu. Những việc đó đều xảy ra trong yên lặng cho đến lúc ông tôi nhìn xung quanh và kêu lên với vẻ thất vọng:
    -Bà con láng giềng ơi, làm gãy hết phúc bồn tử của tôi rồi! Không biết xấu hổ à!
    Bà tôi nắm lấy tay tôi và dắt tôi vào nhà, vừa đi vừa khóc thút thít...
    -Bác ấy làm sao thế?
    -Tôi hỏi. Bà tôi trả lời:
    -Mày không trông thấy hay sao? Suốt buổi tối cho đến khuya, ở dưới bếp và trong căn phòng bên cạnh lúc nào cũng có đông người lạ tụ tập, la hét. Cảnh sát ra lệnh; còn một người trông giống như thầy phụ lễ thì hí hoáy viết và hỏi mọi người, giọng nghe chẳng khác gì tiếng vịt kêu:
    -Sao? Sao? Bà tôi mời mọi người uống nước trà ở trong bếp. Một người béo tròn, mặt rỗ, có ria mép dài ngồi vào bàn và kể lại, giọng nói rin rít:
    -Tên thật của hắn là gì không ai rõ, chỉ biết hắn là người quê ở Elatma. Còn thằng câm thực ra chẳng câm gì hết, nó đã thú nhận cả rồi. Thằng thứ ba cũng nhận rồi, ở đây còn có thằng thứ ba nữa. Chúng đi ăn trộm các nhà thờ đã từ lâu lắm rồi, đó là nghề chuyên môn của chúng...
    -Trời ơi!
    -Mụ Pêtrôpna thở dài, mặt mũi đỏ bừng và đầm đìa mồ hôi. Tôi nằm trên nóc lò sưởi và nhìn xuống, tôi có cảm tưởng hình như tất cả mọi người đều lùn, to béo và đáng sợ...
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    X
    Sáng sớm một ngày thứ bảy tôi vào vườn rau nhà mụ Pêtrôpna để bẫy chim sơn thước. Tôi rình rất lâu, nhưng những chú chim kiêu hãnh phô bộ ức đỏ, không chịu mắc bẫy. Dường như muốn lấy vẻ đẹp chọc tức tôi, chúng cứ diễu qua diễu lại nhởn nhơ trên lớp tuyết cứng lóng lánh như bạc; chúng đậu trên những cành cây phủ một lớp băng dày và đung đưa như những bông hoa thật làm tuyết rơi lả tả trông như những tia lửa màu xanh biếc. Cảnh đó đẹp đến nỗi tuy không bẫy được chim tôi cũng không thấy bực mình. Tôi vốn không ham săn bắn lắm, hay nói cho đúng hơn, tôi thích việc đi săn hơn là kết quả. Tôi thích quan sát đời sống của những con chim nhỏ và tôi hay nghĩ đến chúng. Thật thú vị khi ngồi một mình ở bên bờ cánh đồng phủ tuyết và nghe tiếng chim hót líu lo giữa cảnh tĩnh mịch trong suốt của một ngày băng giá, xa xa đâu đó vẳng lên tiếng nhạc của một cỗ xe tam mã chạy qua
    -con chim sơn ca buồn bã của mùa đông nước Nga... Bị lạnh cóng và cảm thấy hai tai đã tê cứng, tôi thu dọn bẫy và ***g chim, leo qua hàng rào để trở lại vườn của ông tôi và đi về nhà. Cổng ra đường mở Thị trấn trên sông ska cách Nijni -Nôpgôrôt 200 cây số về phía tây nam. một bác mujich to lớn dắt ở trong sân ra ba con ngựa đã được thắng vào một cỗ xe trượt tuyết lớn có mui che kín; ba con ngựa thở ra những làn hơi dày đặc. Bác mujich vui vẻ huýt sáo... Tôi giật mình:
    -Chở ai đến thế bác? Bác ta quay lại, đưa tay che mắt nhìn tôi rồi nhảy lên chỗ ngồi và nói:
    -Giáo sĩ! ồ, chuyện ấy không liên quan gì đến tôi cả. Nếu là giáo sĩ thì chắc ông ta đến chỗ những người ở thuê.
    -Nào, những chú gà con này!
    -bác mujich hét, huýt sáo và giật dây cương, làm cho bầu không khí yên tĩnh trở nên tràn đầy vui vẻ. Ba con ngựa nhất tề lao về phía cánh đồng. Tôi nhìn theo chúng rồi khép cổng lại, nhưng khi tôi bước vào gian bếp vắng vẻ thì nghe thấy ở phòng bên cạnh vang lên giọng nói rất to của mẹ tôi. Tôi nghe rõ tiếng mẹ tôi nói:
    -Bây giờ các người định làm gì? Định giết tôi hay sao? Không kịp cởi áo khoác ngoài, tôi ném ***g chim, chạy vào phòng ngoài và xô phải ông tôi. ông tôi nắm lấy vai tôi, nhìn vào mặt tôi bằng cặp mắt dữ tợn và vừa nuốt nước bọt vẻ khó nhọc vừa nói giọng khàn khàn:
    -****** về đấy, vào mà gặp ******! Nhưng khoan đã... ông tôi lay người tôi mạnh đến nỗi tôi loạng choạng suýt ngã, rồi đẩy tôi về phía cửa buồng:
    -Đi, đi đi thôi... Tôi đụng đầu vào chiếc cửa bọc nỉ và vải sơn. Hai bàn tay tôi run lên vì lạnh và vì hồi hộp, mãi không tìm được quả đấm. Cuối cùng tôi khẽ mở cửa ra và dừng lại ở ngưỡng cửa, hai mắt hoa lên:
    -Nó đây rồi!
    -Mẹ tôi nói
    -Trời ơi, nó lớn quá! Sao, không nhận ra mẹ à? ông bà cho nó ăn mặc gì mà lạ thế này, trời... Mà sao hai tai nó lại trắng thế kia! Mẹ lấy cho con xin ít mỡ ngỗng nhanh lên... Mẹ tôi đứng giữa phòng, cúi xuống và lột quần áo ở người tôi ra. Mẹ tôi xoay tôi như vần quả bóng. Thân hình to lớn của mẹ tôi mặc một chiếc áo dài màu đỏ, sờ vào ấm và mịn, rộng như áo tơi choàng của nông dân, có một hàng khuy lớn màu đen chạy suốt từ vai chéo xuống tận gấu. Tôi chưa bao giờ nom thấy chiếc áo dài nào như vậy cả. Tôi cảm thấy khuôn mặt mẹ tôi nhỏ hơn và trắng hơn xưa kia, hai con mắt to và có vẻ sâu hơn, tóc vàng óng hơn. Mẹ tôi vừa cởi quần áo cho tôi, vừa ném ra cửa. Cặp môi đỏ thẫm của mẹ tôi trề ra có vẻ dè bỉu, và vẫn bằng giọng nói như ra lệnh, mẹ tôi hỏi:
    -Sao con cứ lặng thinh thế? Con có bằng lòng không? Khiếp, cái áo mới bẩn chứ...
    Sau đó mẹ tôi lấy mỡ ngỗng sát vào tai cho tôi. Tôi đau quá, nhưng người mẹ tôi tỏa ra mùi thơm mát dịu khiến tôi cảm thấy bớt đau. Tôi áp chặt vào người mẹ tôi và nhìn vào mắt mẹ tôi, cảm động không nói gì được. Lẫn với tiếng nói của mẹ tôi, tôi nghe thấy giọng nói nhỏ và buồn của bà tôi:
    -Nó nghịch lắm, không ai bảo được, ngay cả ông nó nó cũng không sợ... ôi, Varya, Varya...
    -Đừng than phiền nữa mẹ ạ, rồi sẽ ổn cả thôi! Bên cạnh mẹ tôi, tất cả mọi vật xung quanh đều nhỏ bé, đáng thương và già cỗi. Tôi cũng cảm thấy tôi già như ông tôi. Siết chặt tôi trong hai đầu gối rắn chắc, mẹ tôi đưa bàn tay nặng nề, ấm áp vuốt tóc tôi và nói:
    -Phải cắt tóc đi. Và nó cũng đến tuổi đi học rồi đấy. Con có muốn đi học không?
    -Con đã học xong rồi.
    -Phải học thêm một ít nữa. ồ, con khỏe quá! Rồi mẹ tôi cười đùa với tôi, tiếng cười êm dịu và ấm áp. ông tôi bước vào, vẻ mặt xám xịt, cau có, hai mắt đỏ ngầu. Mẹ tôi lấy tay đẩy tôi ra và hỏi to:
    -Thế nào, bố? Con đi chứ? ông tôi dừng lại bên cửa sổ, lấy móng tay cạo lớp băng đóng trên cửa kính và im lặng rất lâu. Không khí xung quanh bỗng trở nên căng thẳng và tôi cảm thấy sờ sợ. Cũng như mọi khi, trong những phút căng thẳng như vậy, tôi cảm thấy như trên khắp người tôi có mọc thêm mắt và tai, ngực tôi căng lên một cách lạ lùng và tôi muốn hét lên.
    -Lêcxây, đi ra ngoài kia!
    -ông tôi nói giọng khàn khàn.
    -Sao vậy?
    -Mẹ tôi hỏi và lại ôm tôi vào người.
    -Không đi đâu cả, Varya, tao cấm đấy... Mẹ tôi đứng dậy, lượn đi lượn lại trong phòng tựa như một đám mây hồng trong buổi hoàng hôn và dừng lại sau lưng ông tôi.
    -Bố ơi, bố nghe con nói... ông tôi quay lại và rít lên:
    -Im đi!
    -Hừ, quát tôi là không được đâu,
    -mẹ tôi nói khẽ. Bà tôi đang ngồi trên ghế đi-văng liền nhổm dậy, giơ ngón tay ra đe:
    -Vacvara! ông tôi ngồi xuống ghế, nói lắp bắp:
    -Đừng có láo, mày không coi tao ra gì phải không? Hử? Sao mày lại dám nói thế? Và bỗng ông tôi gào lên, giọng lạc hẳn đi:
    -Mày đã làm nhục tao, Varika!...
    -Ra ngoài kia!
    -Bà tôi ra lệnh cho tôi.
    Tôi xuống bếp, trong lòng nặng trĩu. Tôi leo lên nóc lò sưởi và lắng nghe rất lâu những tiếng nói ở bên kia vách; khi thì mọi người đều nói cùng một lúc, người nọ ngắt lời người kia; khi thì tất cả đều im lặng giống như bỗng dưng mọi người đều ngủ thiếp đi. Câu chuyện nói về đứa em mà mẹ tôi đã đẻ ra rồi đem gửi người nào đó. Nhưng tôi không hiểu được vì sao ông tôi cáu: có phải vì mẹ tôi đẻ mà không xin phép ông tôi không, hay vì mẹ tôi không đem em bé về cho ông tôi? Một lúc sau ông tôi bước vào bếp, đầu tóc rối bù, mặt mũi đỏ bừng, có vẻ mệt nhoài. Theo sau là bà tôi vừa đi vừa lấy vạt áo lau nước mắt ở hai má. ông tôi ngồi xuống ghế dài, hai tay chống lên ghế, lưng cúi lom khom, răng cắn lấy cặp môi xám run run. Bà tôi quỳ xuống trước mặt ông tôi, nói khẽ và tha thiết:
    -ông ơi, xin ông hãy vì Chúa mà tha thứ cho nó! Ngựa có hay mấy đi nữa cũng có lúc dở chứng.
    Những người quyền quí, giàu có mà chẳng có những chuyện như vậy sao? Đàn bà là thế đấy! Thôi, hãy tha thứ cho nó. ở đời chẳng có ai là không có tội lỗi cả... ông tôi ngả người vào tường, nhìn vào mặt bà tôi và càu nhàu. ông nhếch mép cười, miệng méo xệch, rồi nghẹn ngào nói:
    -Phải rồi! Sao nữa? Bà thì ai mà bà chẳng tha thứ, bà sẵn lòng tha thứ tất. Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... ông tôi cúi xuống, nắm lấy hai vai bà tôi mà lắc, miệng thì thầm rất nhanh:
    -Thế còn Chúa, Chúa có tha thứ không? Chúng ta sắp sửa xuống lỗ rồi mà còn bị Chúa trừng phạt đây. Gần trót đời rồi mà cũng chẳng được yên thân, chẳng được sung sướng! Bà hãy nhớ lấy lời tôi nói: rồi chúng ta sẽ chết như những đứa ăn mày cho mà xem, phải, sẽ chết như đồ ăn mày ấy! Bà tôi cầm lấy tay ông tôi, ngồi xuống bên cạnh và khẽ cất tiếng cười nhẹ nhàng, vô tư lự:
    -Rõ khổ! Như đồ ăn mày thì đã sao? ông sợ à. ông cứ việc yên trí ngồi nhà, tôi sẽ đi ăn xin. ông không lo, người ta sẽ cho, chúng ta sẽ không đói đâu! Thôi, ông đừng nghĩ nữa! ông tôi bỗng cười khẽ và quay cổ lại, trông giống hệt như một con dê, ôm lấy cổ bà tôi, áp vào người bà, trông ông bé nhỏ, dúm dó. ông nức nở:
    -ôi, ngốc quá, bà ngu ngốc một cách ngây thơ, dại dột, trên đời này tôi chỉ còn có mình bà thôi! Bà chẳng thương tiếc cái gì cả, bà chẳng hiểu gì hết! Bà hãy nhớ lại xem: chẳng phải là vì chúng nó mà chúng ta đã làm việc, mà tôi đã mắc tội hay sao?
    Bây giờ chỉ mong sao chúng đền đáp lại cho chúng ta chút ít... Tôi cũng nghẹn ngào và không nén được nữa, tôi nhảy từ trên lò sưởi xuống, chạy lại chỗ ông bà tôi. Tôi khóc vì sung sướng, vì chưa bao giờ tôi thấy ông bà tôi nói với nhau những lời đẹp đẽ như vậy. Tôi khóc vì đau xót, vì tôi chia sẻ nỗi đau đớn của ông bà tôi, tôi cũng khóc vì mẹ tôi đã về. ông bà tôi để tôi cùng khóc, coi tôi như một người ngang hàng. Hai người ôm lấy tôi, siết chặt tôi trong tay, nước mắt giàn giụa. ông tôi áp mặt vào mặt tôi thì thầm vào tai:
    -ôi, thằng quỷ con, mày cũng ở đây à? ****** về rồi, bây giờ mày sẽ ở với ******, còn ông, lão quỷ già độc ác này thì chẳng được tích sự gì nữa rồi! Cả bà vẫn hay nuông chiều mày nữa, cũng sẽ bị quên đi, có phải không? Chao ơi, lũ chúng bay... y... y thật là... Rồi đẩy bà cháu tôi ra, ông tôi đứng dậy, nói to, giọng giận dữ:
    -Chúng nó bỏ ta đi cả, mỗi đứa đi một ngả, đứa nào lo thân đứa ấy. Nào, gọi nó vào đây! Cho xong chuyện đi... Bà tôi đi ra. ông tôi cúi đầu và quay về các tượng thánh:
    -Lạy Chúa nhân từ, xin Chúa biết cho con!
    Rồi ông nắm lấy tay đấm vào ngực thình thịch đến nỗi tôi thấy khó chịu, nói chung tôi không ưa cái kiểu ông tôi cầu Chúa, vì lúc nào ông tôi cũng có vẻ như muốn khoe khoang trước Chúa. Mẹ tôi bước vào, cái áo màu đỏ của mẹ tôi làm cho gian bếp có vẻ như sáng hơn. Mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế dài cạnh bàn, ông và bà tôi ngồi hai bên; hai ống tay áo rộng thùng thình của mẹ tôi trải ra trên vai ông bà tôi. Mẹ tôi dịu dàng và nghiêm trang nói với ông bà tôi, còn ông bà tôi thì im lặng ngồi nghe, không ngắt lời. Lúc này ông bà tôi có vẻ trở thành nhỏ bé bên cạnh mẹ tôi và tôi có cảm tưởng như mẹ tôi đang ngồi giữa hai đứa con. Mệt mỏi vì xúc động, tôi ngủ thiếp đi trên nóc lò sưởi. Đến chiều, ông bà tôi mặc bộ quần áo ngày lễ và đi dự lễ nhà thờ. ông tôi mặc bộ lễ phục của phường trưởng, ngoài khoác chiếc áo bằng lông gấu chuột, quần bỏ ngoài ủng. Bà tôi vui vẻ nháy mắt về phía ông tôi và bảo mẹ tôi:
    -Nhìn ****** kìa, rõ như một con dê non! Mẹ tôi cười vui vẻ. Khi còn lại một mình với tôi ở trong phòng, mẹ tôi ngồi xuống đi-văng, xếp chân vòng tròn, lấy tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên cạnh:
    -Lại đây với mẹ! Thế nào, con sống ra sao, kể chuyện cho mẹ nghe. Khổ lắm phải không? Tôi sống ra sao ư ?
    -Con không biết.
    -Tôi trả lời.
    -ông có đánh con không?
    -Bây giờ thì không hay đánh mấy.
    -Thế à? Con kể chuyện cho mẹ nghe đi, chuyện gì cũng được, nào! Tôi không muốn kể về ông tôi. Tôi bèn nói rằng trong căn nhà này trước kia có một người rất đáng mến ở thuê, nhưng chẳng ai ưa bác ta cả, cuối cùng ông tôi đuổi bác ta đi. Xem ra mẹ tôi không thích chuyện này, mẹ tôi bảo:
    -ừ, thế còn chuyện gì nữa? Tôi bèn kể chuyện ba thằng bé, chuyện lão đại tá đuổi tôi ra khỏi nhà lão. Mẹ tôi ôm chặt lấy tôi, nói:
    -Quân chó má! Rồi mẹ tôi im lặng, nheo mắt nhìn xuống sàn nhà, lắc đầu. Tôi hỏi mẹ tôi:
    -Tại sao ông lại giận mẹ?
    -Vì mẹ có lỗi với ông.
    -Đáng lẽ mẹ nên đem em bé về cho ông... Mẹ tôi giật mình, cau mày, cắn môi. Rồi mẹ tôi phá lên cười, ôm chặt lấy tôi.
    -Thằng quỷ quái! Cấm không được nói đến chuyện ấy, nghĩ đến cũng không được, nghe chưa! Mẹ tôi nói rất lâu, giọng thì thầm, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng tôi không hiểu mẹ tôi nói gì. Một lúc sau mẹ tôi đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng, vừa lấy ngón tay gõ gõ vào cằm, cặp lông mày rậm luôn luôn chuyển động. Trên bàn, một ngọn nến mỡ bò đang cháy. Nến chảy ra, ánh nến chiếu vào khoảng không trong tấm gương. Những bóng đen bẩn thỉu bò trên sàn nhà. Trong góc phòng, trước tượng thánh, một ngọn đèn dầu cháy chập chờn. Dưới ánh trăng, những tấm kính cửa sổ phủ băng lóng lánh như bạc. Mẹ tôi đưa mắt nhìn xung quanh như muốn tìm kiếm một vật gì trên trần nhà và trên những bức tượng trơ trụi:
    -Bao giờ con đi ngủ?
    -Chốc nữa.
    -à, mà buổi trưa con đã ngủ rồi.
    -Mẹ tôi nhớ ra và thở dài. Tôi hỏi:
    -Mẹ muốn đi phải không?
    -Đi đâu?
    -Mẹ tôi ngạc nhiên hỏi lại và, nâng đầu tôi lên, mẹ tôi nhìn vào mặt tôi rất lâu, lâu đến nỗi nước mắt tôi ứa ra.
    -Sao thế con?
    -Mẹ làm con đau cổ. Tôi thấy đau cả trong tim nữa. Tôi cảm thấy ngay rằng mẹ tôi sẽ không thể sống ở cái nhà này đâu và mẹ tôi sẽ lại đi thôi.
    -Con lớn lên sẽ giống bố,
    -mẹ tôi nói và lấy chân đá tấm thảm chùi chân sang bên.
    -Bà có kể chuyện gì về bố cho con nghe không?
    -Có.
    -Bà rất yêu bố Macxim con, yêu lắm! Bố con cũng rất yêu bà...
    -Con biết rồi. Mẹ tôi nhìn ngọn nến, nhăn mặt. Mẹ tôi thổi tắt nến đi và nói:
    -Thế này dễ chịu hơn! Đúng vậy, tắt nến đi người ta có cảm giác mát mẻ và sạch sẽ hơn. Những bóng đen bẩn thỉu biến mất và không còn nhảy múa nữa. Trên sàn nhà trải ra những vệt màu xanh nhạt. Những tia lửa vàng rực lấp lánh trên cửa kính.
    -Độ trước mẹ ở đâu? Như nhớ lại một điều gì đã quên từ lâu lắm, mẹ tôi vừa kể tên một số thành phố, vừa đi lại trong phòng, nhẹ nhàng như một con chim cắt.
    -Thế mẹ lấy đâu ra chiếc áo dài này?
    -Mẹ khâu lấy đấy. Mọi thứ mẹ đều làm lấy cả. Tôi lấy làm sung sướng thấy mẹ tôi không giống một người nào khác. Nhưng tôi buồn vì mẹ tôi ít nói quá, nếu tôi không hỏi thì mẹ tôi chẳng nói gì hết. Một lúc sau mẹ tôi lại ngồi xuống đi-văng bên cạnh tôi. Hai mẹ con cứ ngồi sát bên nhau, im lặng mãi đến khi ông bà tôi trở về, người nồng nặc mùi sáp và hương trầm, thái độ dịu dàng và lặng lẽ một cách trang trọng. Mọi người ăn tối có vẻ khách khí giống như đi ăn cỗ. Trong lúc ăn, mọi người nói ít và thận trọng, dường như sợ làm mất giấc ngủ chập chờn của một người nào đấy. ít lâu sau mẹ tôi quáết định dạy tôi học chữ cái phổ thông. Mẹ tôi hăng hái bắt tay vào việc đó. Mẹ tôi mua về những cuốn sách nhỏ, trong đó có cuốn "Vần quốc ngữ". Tôi học theo cuốn sách ấy và chỉ trong vài ngày đã đọc được chữ phổ thông. Nhưng rồi mẹ tôi bắt tôi đọc thuộc lòng các bài thơ, và thế là từ đó chúng tôi bắt đầu làm khổ lẫn nhau. Bài thơ như thế này: Con đường thẳng, con đường dài, Ngươi lấy của Trời bao khoảng không gian. Xẻng, rìu đâu dễ mà san, Đường êm vó ngựa, đường toàn bụi bay... Chữ cái Nga (xem chú thích ở trang ).
    Tôi đọc "vó ngựa" thành "vó cựa".
    -Nào, hãy nghĩ kỹ đi,
    -mẹ tôi khuyên tôi.
    -Sao lại "vó cựa"? Thằng quỷ quái! "Vó ngựa" chứ, hiểu chưa?
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tôi hiểu, nhưng vẫn cứ đọc là "vó cựa", chính tôi cũng lấy làm lạ. Thế là mẹ tôi cáu, bảo tôi là đần độn và bướng bỉnh làm tôi thật khổ tâm. Tôi cố gắng nhớ những câu thơ đáng nguyền rủa ấy, và khi tôi đọc thầm thì không sai, nhưng hễ đọc to lên là thế nào cũng bị nhầm. Tôi đâm ra căm thù những dòng chữ khó nắm được đó. Giận quá, tôi bèn cố tình xuyên tạc. Tôi chọn những chữ đồng âm vô nghĩa đọc liền một mạch. Tôi rất thích thú khi những câu thơ ma quỷ đó không còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng trò chơi của tôi đã phải trả bằng một giá khá đắt. Một lần sau một buổi học có kết quả, mẹ tôi hỏi tôi đã học thuộc bài thơ chưa. Buột miệng, tôi nói lẩm nhẩm: Con đường, bức tường, ngôi trường, cái giường. Vó ngựa, ghế tựa, dao rựa... Khi tôi nhớ ra thì đã muộn. Mẹ tôi chống hai tay lên bàn, đứng dậy và hỏi rành rọt từng tiếng:
    -Như thế nghĩa là gì?
    -Con không biết,
    -tôi thất kinh, trả lời.
    -Sao?
    -Con đọc vậy thôi ạ.
    -Đọc vậy là thế nào?
    -Để đùa thôi ạ!
    -Đứng vào góc nhà kia!
    -Để làm gì ạ? Mẹ tôi nhắc lại, không hề to tướng nhưng có vẻ hăm dọa:
    -Vào góc nhà!
    -Góc nào cơ ạ? Mẹ tôi nhìn chằm chằm vào mặt tôi không trả lời khiến tôi bối rối. Tôi không hiểu mẹ tôi muốn gì. Trong góc nhà, phía dưới các tượng thánh, có một chiếc bàn tròn nhỏ, bên trên để chiếc bình đựng những loại cỏ và hoa khô rất thơm. ở góc trước mặt tôi có kê một chiếc hòm, trên phủ một tấm thảm. Góc thứ ba kê một chiếc giường, còn góc thứ tư thì không có, vì chỗ đó là cái cửa.
    -Con không hiểu mẹ muốn cái gì.
    -Tôi nói giọng tuyệt vọng. Mẹ tôi ngồi phịch xuống, im lặng, lấy tay xoa trán và hai má. Sau đó mẹ tôi hỏi:
    -Mày đã bị ông bắt đứng vào góc nhà bao giờ chưa?
    -Bao giờ ạ?
    -Một hôm nào đó, tao biết làm sao được!
    -Mẹ tôi thét và giơ tay đập hai cái xuống mặt bàn.
    -Không, con không nhớ.
    -Mày có biết phải đứng vào góc nhà tức là bị phạt không?
    -Không. Tại sao lại phạt ạ? Mẹ tôi thở dài.
    -Hừ, lại đây! Tôi bước lại gần và hỏi mẹ tôi:
    -Sao mẹ lại gắt con?
    -Thế tại sao con cứ cố tình đọc sai bài thơ đi như vậy? Tôi cố sức giải thích cho mẹ tôi hiểu rằng mỗi khi tôi nhắm mắt lại thì tôi nhớ được bài thơ in trong sách như thế nào, nhưng hễ tôi cứ đọc lên là thế nào cũng lẫn sang những tiếng khác.
    -Con không giả vờ đấy chứ? Tôi trả lời là không, nhưng ngay lúc đó tôi lại nghĩ: "Có thể là mình giả vờ chăng?". Rồi đột nhiên tôi thong thả đọc lại bài thơ và đọc rất đúng. Điều đó làm tôi kinh ngạc, và tôi sững sờ cả người. Đứng trước mẹ tôi, tôi cảm thấy mặt tôi bỗng như sưng lên, hai tai đỏ bừng và nặng trình trịch, đầu óc choáng váng. Tôi ngượng chín cả người. Qua nước mắt tôi thấy mặt mẹ tôi tối sầm lại, buồn rầu, hai môi mím chặt, cặp lông mày nhíu lại.
    -Thế là thế nào?
    -Mẹ tôi hỏi, giọng lạc hẳn đi.
    -Vậy ra là con nói dối mẹ?
    -Con không biết. Con không chủ tâm làm thế... Mẹ tôi cúi đầu xuống, nói:
    -Tao thật khổ với mày! Thôi, đi đi! Từ đó trở đi mẹ tôi càng bắt tôi học thuộc lòng nhiều thơ hơn. Nhưng trí nhớ của tôi thì càng ngày càng khó tiếp thu những dòng chữ đơn điệu ấy. ở tôi, cái ý muốn tai ác xuyên tạc các câu thơ, chọn những chữ khác để thay vào, mà tôi không tài nào cưỡng lại được, càng ngày càng mạnh. Việc đó đối với tôi thật dễ dàng: những chữ không cần thiết cứ hiện ra hàng đống trong đầu tôi và trong chốc lát chúng làm xáo trộn tất cả những chữ ở trong sách mà tôi phải học. Nhiều khi cả một dòng chữ như trở thành những vật vô hình đối với tôi, và dù cho tôi cố gắng đuổi bắt thế nào, chúng cũng không chịu lọt vào trí nhớ tôi. Bài thơ đem lại cho tôi nhiều nỗi phiền nhất có lẽ là bài thơ đầy ai oán của hoàng thân Viazemxki: Sáng sớm hay chiều tối, Bao ông già, bà góa, trẻ côi . . . . . . . . . . . . . . . Xin người vì Chúa giúp chúng tôi. Còn câu thứ ba: Xách bị kêu van ngoài cửa sổ. thì tôi thường bỏ mất. Bực mình, mẹ tôi đem chuyện ấy mách ông tôi. ông tôi đe:
    -Đồ hư thân mất nết! Nó nhớ được chứ có phải không nhớ được đâu: Kinh thánh nó còn thuộc hơn tao. Nó nói láo đấy: cái gì nó đã học được thì cứ như là khắc vào đá ấy! Mày cứ nện cho nó một trận! Bà tôi cũng kể tội tôi:
    -Chuyện cổ tích nó nhớ hết, bài hát nó cũng nhớ, mà bài hát chẳng là thơ thì là cái gì? Tất cả những điều ấy đều đúng cả. Tôi cảm thấy tôi có lỗi, nhưng hễ tôi cứ ngồi vào đọc thơ là những chữ khác ở đâu lại bò đến như những con gián và tự động xếp thành những dòng chữ đều đặn. Ngoài cổng nhà ta, Có bao người già và trẻ mồ côi Kêu van xin hạt cơm rơi, Xin được liền mang tới Nhà mụ Pêtrôpna, Bán cho mụ nuôi gà, Rồi ra vực uống rượu. Ban đêm nằm với bà tôi trên lò sưởi, tôi hay đọc lại cho bà tôi nghe đến chán tai tất cả những gì tôi học được qua sách vở và tất cả những gì tôi tự đặt ra. Đôi khi bà tôi cười, nhưng thường thì bà mắng tôi:
    -Đấy, mày chẳng thấy mày có thể học thuộc lòng được là gì! Nhưng không được chế giễu những người ăn mày. Cầu Chúa hãy phù hộ cho họ! Ngày trước Chúa cũng nghèo và tất cả các thánh cũng vậy... Tôi lẩm nhẩm: Tôi không thích ăn mày, Cũng chẳng ưa ông ngoại, Biết làm sao bây giờ? Lạy Chúa, hãy tha tội! ông tôi luôn tìm cớ Để mà đánh đập tôi...
    -Mày nói cái gì thế? Đem mà cắt lưỡi đi!
    -Bà tôi nổi nóng.
    -Nhỡ ông mày nghe thấy thì sao?
    -Mặc kệ!
    -Cháu không nên nghịch tinh nghịch quái làm khổ mẹ cháu! Cháu không hư, mẹ cháu cũng đã có nhiều điều khổ tâm rồi.
    -Bà tôi khuyên tôi bằng giọng âu yếm và có vẻ đăm chiêu.
    -Sao mẹ cháu lại khổ tâm.
    -Thôi, im đi! Mày không hiểu được đâu..
    -Cháu biết rồi, tại vì ông...
    -Mày có im đi không nào!
    Cuộc sống của tôi thật nặng nề. Tôi có cái cảm giác gần như tuyệt vọng, nhưng không hiểu sao tôi cứ muốn giấu nó đi, tôi làm ra bộ thản nhiên và nghịch ngợm. Mẹ tôi bắt tôi học càng ngày càng nhiều, nhưng càng ngày tôi càng không hiểu những điều mẹ tôi dạy. Tôi học toán rất dễ dàng, nhưng tôi rất ghét môn chính tả, còn ngữ pháp thì tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Nhưng điều làm cho tôi khổ tâm nhất là tôi đã thấy rõ mẹ tôi phải sống đau khổ trong cái nhà này. Mẹ tôi càng ngày càng hay cau có, nhìn mọi người bằng cặp mắt xa lạ, và thường ngồi rất lâu bên cửa sổ, yên lặng nhìn ra vườn. Mẹ tôi có vẻ tiều tụy hẳn đi. Những ngày đầu tiên mới về mẹ tôi nhanh nhẹn, tươi vui. Trái lại, bây giờ mắt mẹ tôi thâm quầng. Suốt ngày mẹ tôi đi tha thẩn trong nhà, đầu tóc rối bù, quần áo nhàu nát, cúc áo không buồn cài. Tôi khổ tâm thấy mẹ tôi tiều tụy như vậy. Mẹ tôi lẽ ra bao giờ cũng phải đẹp đẽ, nghiêm trang, ăn mặc sạch sẽ hơn tất cả mọi người chứ? Trong giờ học, cặp mắt mẹ tôi sâu thăm thẳm thường nhìn vào tường, nhìn ra ngoài cửa sổ như không trông thấy tôi. Người hỏi tôi bằng giọng mệt mỏi, quên cả những câu tôi trả lời và ngày càng hay cáu gắt. Điều đó cũng làm cho tôi khổ tâm: tôi muốn mẹ tôi phải là người công minh hơn hết thảy mọi người, như trong các chuyện cổ tích vậy! Thỉnh thoảng tôi hỏi mẹ tôi:
    -Mẹ ở đây khổ lắm phải không? Mẹ tôi trả lời giọng bực tức:
    -Không phải việc của mày! Tôi cũng nhận thấy hình như ông tôi đang mưu mô một việc gì khiến cho bà và mẹ tôi rất lo sợ. ông tôi thường ngồi lì trong buồng mẹ tôi, và ông tôi than vãn, la hét, giọng nghe khó chịu như tiếng sáo gỗ của lão chăn cừu gù lưng Nikanôrơ. Trong một cuộc cãi nhau như vậy mẹ tôi hét ầm cả nhà:
    -Không, đừng có hòng! Mẹ tôi đóng sầm cửa lại, còn ông tôi thì quát tháo ầm lên. Lúc bấy giờ là buổi tối, bà tôi đang ngồi khâu vá cho ông tôi bên cạnh chiếc bàn ở trong bếp, miệng lẩm bẩm cái gì một mình. Khi có tiếng cửa đóng sầm lại, bà tôi lắng tai nghe và nói:
    -Nó lại đến chỗ bọn ở thuê rồi. Trời ơi! Bỗng ông tôi từ ngoài xộc vào bếp, chạy lại chỗ bà tôi và nện một quả đấm vào đầu bà. Đoạn, vừa lắc bàn tay bị đau, ông vừa rít lên:
    -Đừng có bép xép, mụ phù thủy kia!
    -ông là một lão già ngốc,
    -bà tôi vừa vấn lại tóc bị xổ vừa điềm tĩnh nói.
    -Dễ thường ông tưởng tôi sẽ im chắc? Tôi mà biết được những mưu mô gì của ông là tôi sẽ nói tất cho nó biết cho mà xem...
    ông tôi lao về phía bà tôi và giơ nắm đấm nện liên tiếp xuống đầu bà tôi. Bà tôi không chống đỡ, cũng không đẩy ông tôi ra, bà tôi chỉ nói:
    -Được, cứ đánh đi, đánh nữa đi, đồ ngốc! Đấy, đánh đi! ở trên lò sưởi tôi liền lấy chăn, gối và ủng ném vào hai người, nhưng ông tôi đang cơn giận nên không nhìn thấy. Bà tôi ngã lăn ra đất. ông tôi lấy chân đá vào đầu bà tôi, cuối cùng ông tôi vấp ngã lăn ra, làm đổ lênh láng cả thùng nước. ông tôi bò dậy, khạc nhổ và thở phì phì, nhìn ngó xung quanh bằng cặp mắt hung dữ rồi bỏ chạy lên phòng riêng trên gác thượng. Bà tôi đứng dậy, rên rỉ, rồi ngồi xuống ghế gỡ tóc. Tôi ở trên lò sưởi nhảy xuống. Bà tôi, giọng bực tức, bảo tôi:
    -Thu dọn chăn gối lại rồi cất tất cả lên trên lò sưởi kia! Tưởng thế là hay lắm! Việc gì đến mày? Cái lão quỷ già ấy, đang tự nhiên thì nổi cơn lên... Đồ ngốc! Bỗng bà tôi nhăn mặt và rên rỉ rồi cúi đầu, gọi tôi lại:
    -Thử xem xem chỗ này làm sao mà đau thế. Tôi rẽ mớ tóc dày của bà tôi ra xem: thì ra một chiếc kim gài đầu đã đâm sâu vào trong da đầu bà tôi. Tôi lôi chiếc kim đó ra, nhưng lại thấy một chiếc khác. Ngón tay của tôi như bị tê dại đi.
    -Để cháu gọi mẹ cháu, cháu sợ lắm! Bà tôi xua tay:
    -Mày điên à? Gọi ****** ấy ư? Cám ơn Chúa, may mà ****** không nghe thấy, không trông thấy! Thôi, đi đi! Rồi, với những ngón tay mềm mại của một người thợ thêu đăng-ten, bà tôi tự tìm lấy trong mớ tóc đen và dày của mình. Đánh bạo, tôi giúp bà tôi lôi ra được hai chiếc kim nữa to và cong.
    -Bà có đau không?
    -Không sao. Mai bà sẽ đun nước, gội đầu một cái là hết. Rồi, bà tôi dịu dàng hỏi tôi:
    -Cháu yêu của bà, nhất là cháu đừng có nói gì với mẹ cháu rằng ông đánh bà đấy nhé! Nghe chưa? ông cháu và mẹ cháu đã giận nhau sẵn rồi. Đừng nói nhé?
    -Vâng.
    -Được, nhớ đấy! Bây giờ bà cháu ta phải dọn dẹp chỗ này lại. Mặt bà có sây sát gì không? Tốt, thế là mẹ cháu sẽ không hay biết gì hết... Bà tôi bắt đầu lau sàn nhà. Tôi thành thật bảo bà tôi:
    -Bà thật là một bà thánh! Bà bị hành hạ mãi như thế mà bà vẫn chịu được!
    -Đừng có nói nhảm! Tao mà là thánh à? Học được ở đâu cái ấy đấy?
    Bà tôi vừa bò trên mặt sàn để lau, vừa làu bàu rất lâu. Tôi ngồi trên bậc lò sưởi, nghĩ cách trừng trị ông tôi trả thù cho bà. Chưa bao giờ tôi thấy ông tôi đánh bà tôi tàn nhẫn và khủng khiếp như vậy. Trước mặt tôi, trong bóng tối lờ mờ, tôi như thấy hiện ra bộ mặt đỏ tía của ông tôi với đám tóc hung lất phất. Lòng tôi giận sôi lên, tôi bực mình vì không tìm được cách trả thù cho thật đích đáng. Nhưng khoảng hai ba hôm sau, không hiểu có việc gì tôi trèo lên gác thượng vào buồng ông tôi. Tôi thấy ông đang ngồi trên sàn, trước một cái hộp mở ngỏ và đang soạn những giấy tờ gì ở trong đó. Trên ghế có cuốn lịch Nhà thờ mà ông tôi rất quý: đó là mười hai tờ giấy dày màu xám, chia thành những ô vuông căn cứ theo số ngày trong một tháng, và trong mỗi ô vuông lại có in hình tất cả vị thánh của ngày đó. ông tôi rất quý quyển lịch ấy, chỉ hãn hữu những khi nào vì lý do gì đấy rất bằng lòng về tôi, ông tôi mới cho tôi xem. Còn tôi thì bao giờ cũng ngắm nghía những hình màu xám in xít nhau nhỏ xíu và rất đáng yêu đó, với một cảm giác đặc biệt.
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tôi có biết sự tích của một số vị thánh trong đó như Kirich và Ulita, Vacvara tử vì đạo, Pantêlâymôn và nhiều vị thánh khác. Đặc biệt tôi thích nhất sự tích buồn thảm của thánh Alêcxây, người của Chúa, và những bài thơ tuyệt diệu về Người mà bà tôi thường đọc cho tôi nghe một cách cảm động. Nhìn thấy hàng trăm hình ảnh thánh đó tôi lại thầm nghĩ để tự an ủi rằng bao giờ thì cũng vẫn có những người đau khổ. Nhưng bây giờ tôi quáết định phải cắt nát cuốn lịch đó ra. Thừa lúc ông tôi đi lại phía cửa sổ để đọc một tờ giấy màu xanh có in hình chim phượng hoàng, tôi liền thủ luôn mấy tờ lịch và chạy thật nhanh xuống dưới nhà. Tôi lấy chiếc kéo trong ngăn bàn của bà tôi rồi leo lên nóc lò sưởi và bắt đầu cắt đầu các vị thánh. Cắt được một hàng, tôi bỗng thấy tiếc đã làm hỏng cuốn lịch, tôi bèn cắt theo đường kẻ chia các ô vuông. Nhưng tôi chưa kịp cắt xong hàng thứ hai thì ông tôi hiện ra, leo lên bậc lò sưởi và hỏi:
    -Ai cho mày lấy lịch của tao? Nhìn thấy những miếng ô vuông rải rác trên mặt lò, ông tôi nhặt lên xem rồi vứt đi, rồi lại nhặt một ô vuông khác. Mồm ông tôi méo xệch, chòm râu rung rung. ông tôi thở mạnh đến nỗi những mảnh giấy nhỏ bay tung cả xuống đất.
    -Mày làm gì thế này?
    -Cuối cùng ông tôi hét lên, và cầm chân tôi lôi thật mạnh. Tôi ngã lộn xuống, bà tôi giơ hai tay ra đỡ lấy tôi. Nhưng ông tôi giơ nắm đấm đánh bà tôi và tôi, miệng thét:
    -Tao sẽ giết chết nó. Thánh Vacvara tử vì đạo ở thế kỷ XV, bị bố là quan lại La Mã giết chết.
    Mẹ tôi chạy đến. Tôi nấp vào góc nhà, cạnh lò sưởi. Mẹ tôi đứng chắn trước mặt tôi, rồi vừa đỡ và gạt những cánh tay ông tôi đang vung trước mặt vừa nói:
    -Thật quá tệ! Bố hãy bình tĩnh lại! ông tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế dài ở bên cửa sổ, tru tréo:
    -Chúng nó giết tôi! Tất cả chúng nó đều chống lại tôi, ôi...
    -Bố không biết xấu hổ à?
    -Mẹ tôi nói, giọng khàn khàn.
    -Làm gì mà bố lúc nào cũng cứ giả vờ giả vịt như vậy? ông tôi la hét, giậm hai chân xuống ghế, chòm râu vênh lên nom đến buồn cười, hai mắt thì nhắm nghiền lại. Tôi cũng cảm thấy như ông tôi ngượng với mẹ tôi và ông tôi quả có giả vờ thật, vì thế nên mới nhắm mắt lại.
    -Rồi con sẽ lấy vải dán lại những tờ lịch đó cho bố, lại chẳng đẹp và chắc hơn ấy à,
    -mẹ tôi vừa nói vừa ngắm nghía những tờ lịch còn nguyên và những mảnh đã bị cắt vụn ra.
    -Lịch của bố cũng đã nhàu nát mủn cả ra rồi đây này... Mẹ tôi nói với ông tôi bằng giọng tựa như nói với tôi trong những lúc bảo tôi học, khi tôi có điều gì không hiểu. Bỗng ông tôi đứng dậy, ra vẻ vội vã, xốc lại áo sơ-mi và gi-lê, khạc nhổ và nói:
    -Mày dán lại ngay trong ngày hôm nay cho tao! Tao sẽ đem xuống cho mày nốt những tờ còn lại... ông tôi bước ra, nhưng đi đến ngưỡng cửa lại quay lại, giơ ngón tay khòng khòng chỉ vào tôi và nói:
    -Còn nó thì phải nện cho nó một trận!
    -Phải rồi!
    -Mẹ tôi đáp. Quay về phía tôi, mẹ tôi hỏi:
    -Sao con lại làm thế?
    -Con cố ý làm thế đấy! Ai bảo ông đánh bà... ông còn đánh bà nữa thì con cắt râu đi ấy chứ! Bà tôi cởi chiếc áo ngoài rách ra, lắc đầu, nói với vẻ trách móc:
    -Thế mà cháu đã hứa với bà là cháu sẽ không nói đấy! Rồi nhổ nước bọt xuống sàn nhà, bà tôi nói thêm:
    -Sao lưỡi mày nó không sưng lên để cho mày đừng ngọ nguậy lưỡi nữa! Mẹ tôi nhìn bà tôi và đi đi lại lại trong bếp, rồi đi tới bên tôi:
    -ông đánh bà bao giờ?
    -Còn mày nữa, Vacvara, mày hỏi nó thế mà không biết ngượng à? Việc gì đến mày nào?
    -Bà tôi bực tức nói.
    Mẹ tôi ôm lấy bà tôi:
    -ôi, mẹ, mẹ yêu quý của con!
    -Thôi đi, mẹ mẹ con con cái gì! Lui ra! Hai người nhìn nhau và bỗng im bặt, buông nhau ra: ở phòng ngoài có tiếng chân của ông tôi. Ngay từ khi mới về, mẹ tôi đã đánh bạn với cái mụ ở thuê rất vui tính là vợ lão nhà binh ở phòng ngoài. Và hầu như tối nào mẹ tôi cũng sang chơi bên nhà mụ ta, ở đó có cả những bà sang trọng và những gã sĩ quan ở nhà Betleng cũng đến. Điều đó khiến ông tôi không thích. Đã nhiều lần, ngồi ăn tối ở trong bếp, ông tôi giơ cái thìa lên dọa nạt, miệng làu bàu:
    -Cái lũ khốn kiếp ấy lại tụ tập với nhau rồi! Từ giờ đến sáng là chúng nó không cho ai chợp mắt được nữa đâu! ít lâu sau ông tôi yêu cầu những người thuê nhà dọn đi nơi khác. Sau khi họ đi rồi, ông tôi chở ở đâu về hai xe toàn những đồ đạc linh tinh. ông tôi đem đặt vào hai phòng ngoài và lấy một cái khóa thật to khóa lại:
    -Chẳng cần cho thuê nữa! Bây giờ tao sẽ mời khách khứa đến chơi! Và từ đó cứ đến ngày lễ là trong nhà lại có khách. Thường đến có bà em gái của bà tôi tên là Matriôna Ivanôpna làm nghề thợ giặt. Bà ta có cái mũi to, hay lắm lời, thường mặc một chiếc áo dài lụa kẻ xọc và trùm một chiếc khăn màu vàng óng. Cùng đi với bà có hai người con trai bà ta: một người tên là Vaxili làm thợ vẽ, để tóc dài, rất tốt và vui tính, thường mặc toàn một màu xám; người thứ hai là Victo thích màu sắc lòe loẹt, đầu như đầu ngựa, mặt dài và đầy tàn hương. Vừa mới đến phòng ngoài, chưa kịp cởi giày cao-su, cậu ta đã hát lên the thé hệt như Pêtruska vậy:
    -Bố Anđrây, bố Anđrây... Cái đó làm tôi rất ngạc nhiên và sợ hãi. Cậu Iakôp thường đến xách theo cây đàn ghi-ta. Cậu hay cùng đến với một bác thợ đồng hồ chột mắt và hói đầu. Bác này mặc một chiếc áo dài đen, trông giống như một thầy tu. Bác ta rất kín đáo, bao giờ cũng ngồi vào một góc, ngoẹo đầu sang một bên một cách kỳ lạ và mỉm cười, ngón tay chống vào chiếc cằm béo hai ngấn, cạo nhẵn. Nước da bác ngăm ngăm đen, con mắt độc nhất của bác nhìn mọi người với vẻ chăm chú đặc biệt. Bác ít nói và thường hay lặp đi lặp lại một câu:
    -Xin đừng phiền hà, thế nào cũng được... Khi nhìn thấy bác ta lần đầu tiên, tôi bỗng nhớ lại một chuyện đã lâu lắm, khi chúng tôi còn ở phố Nôvaia. Một hôm tôi nghe thấy ở ngoài cổng có tiếng trống đánh dồn dập, náo động. Chạy ra xem, tôi thấy một chiếc xe ngựa cao, sơn đen đang đi trên đường từ phía nhà giam tới quảng trường, lính và dân chúng vây chung quanh xe. Ngồi trên xe là một người thấp bé bị xích, đầu đội chiếc mũ tròn bằng dạ, trên ngực đeo tấm bảng đen có ghi những chữ trắng lớn. Người đó ngồi gục đầu xuống, tựa như đang đọc tấm bảng, người lắc lư, tiếng xích kêu lẻng xẻng. Vì vậy khi mẹ tôi bảo với bác thợ đồng hồ: "Đây là con tôi" thì tôi hoảng hốt, vội lùi lại và giấu hai tay ra đằng sau.
    -Xin đừng phiền hà,
    -bác ta nói, mồm nhếch lên phía mang tai bên phải, trông thật đáng sợ. Bác ôm ngang thắt lưng tôi, kéo tôi lại và nhẹ nhàng xoay người tôi một vòng. Sau đó bác buông tôi ra, nói với vẻ khen ngợi:
    -Khá đấy, chú bé khỏe lắm... Tôi lủi vào một góc nhà, ngồi thu lu trên chiếc ghế bành bằng dạ. Chiếc ghế to đến nỗi tôi có thể nằm vào trong đó được. ông tôi rất hãnh diện về chiếc ghế ấy vì cứ theo lời ông tôi nói, thì chiếc ghế đó trước kia là của cá tước Gruzinxki. Ngồi trên đó tôi nhìn cuộc vui chơi tẻ nhạt của người lớn và ngắm nét mặt luôn luôn thay đổi một cách kỳ lạ và khả nghi của bác thợ đồng hồ. Bộ mặt của bác ta lầy nhầy những mỡ, nhão nhoét như sắp tan thành nước. Mỗi khi cười, cặp môi dày của bác lại dồn cả về phía bên má phải, còn chiếc mũi nhỏ xíu cũng di động tựa như quả trứng đặt trên đĩa. Hai cái tai lớn vểnh lên cử động một cách kỳ lạ, lúc thì rướn lên cùng với lông mày của con mắt lành, lúc thì cụp xuống hai bên gò má. Và khi đó người ta có cảm tưởng là nếu muốn, bác ta có thể dùng hai tai che kín mũi, như ta lấy hai bàn tay úp lại vậy. Thỉnh thoảng, những lúc thở dài, bác ta lại để thò ra cái lưỡi đen, tròn như cái chày; rồi bác nhanh nhẹn đưa lưỡi liếm một vòng cặp môi dày và nhờn. Tất cả những cái ấy không có gì thích thú, mà chỉ làm cho tôi ngạc nhiên và khiến tôi nhìn bác thợ đồng hồ không rời mắt. Mọi người uống nước trà pha rượu rum có mùi lá hành cháy; uống các thứ rượu ngọt của bà tôi: có thứ màu vàng như vàng nén, có thứ đen như hắc ín và có thứ màu xanh lá cây; ăn varentại loại ngon và bánh bơ làm với mật có rắc hạt anh túc. Ai nấy mồ hôi đầm đìa, thở phì phò, vừa ăn vừa khen ngợi bà tôi. Cuối cùng, khi đã ăn uống no nê, mặt mũi đỏ bừng, mọi người lễ phép ngồi vào ghế và đề nghị cậu Iakôp chơi đàn, nhưng không tha thiết lắm. Cậu cúi xuống cây đàn ghi-ta vừa gảy vừa hát theo bằng một giọng nghe rất khó chịu: Chúng ta đã sống theo sở thích, Náo động, xôn xao khắp phố phường, Mọi chuyện chúng ta đều kể hết, Cho bà quý tộc ở Kazan... Tôi thấy bài hát ấy thật là buồn.
    -Iasa, mày chơi một bài nào khác đi?
    -Bà tôi nói
    -Một bài thực hay ấy! Môtráa, cô còn nhớ những bài hát ngày xưa không? Sửa lại tấm áo dài kêu sột soạt, bà thợ giặt nói ra vẻ quan trọng:
    -"Mốt" bây giờ khác rồi, bà chị ạ... Cậu Iakôp nheo mắt nhìn bà tôi, như thể bà ngồi cách xa lắm. Cậu vẫn tiếp tục chơi những điệu nhạc buồn, hát những lời nghe đến khó chịu. ông tôi nói chuyện với bác thợ đồng hồ với một vẻ bí mật và tính toán cái gì đó trên mấy ngón tay. Bác này rướn lông mày lên, ngó về phía mẹ tôi và gật đầu. Bộ mặt nát nhẽo của bác ta thoáng rung rung. Mẹ tôi bao giờ cũng ngồi giữa hai anh em Xecgêep. Vẻ mặt trang nghiêm, mẹ tôi thì thầm nói chuyện với cậu Vaxili. Cậu thở dài và đáp:
    -Phải đấy, chuyện ấy cần phải suy nghĩ cho kỹ... Cậu Victo thì cười có vẻ hể hả, lết hai chân sền sệt trên sàn rồi bỗng nhiên hát lên the thé:
    -Bố Anđrây, bố Anđrây... Mọi người ngạc nhiên im bặt, đưa mắt nhìn cậu. Làm ra vẻ quan trọng, bà thợ giặt giải thích:
    -Nó bắt chước rạp hát đấy, chả ở đấy người ta hát như vậy mà... Có đến hai hay ba tối như vậy, những buổi tối thật là chán hết sức đến nỗi tôi không thể quên được. Sau đó, một buổi trưa chủ nhật, ngay sau buổi lễ cuối bác thợ đồng hồ lại tới. Tôi đang ngồi trong buồng giúp mẹ tôi gỡ những hạt cườm trên một bức thêu đã rách. Cửa ra vào bỗng hé mở, bà tôi thò bộ mặt hoảng hốt vào và thì thào:
    -Hắn đến rồi đấy, Varya!
    -Và lại biến đi ngay tức khắc. Mẹ tôi vẫn ngồi im, không nhúc nhích. Cửa lại mở và ông tôi hiện ra trên ngưỡng cửa, trịnh trọng nói:
    -Vacvara, con mặc quần áo vào rồi ra đây! Không đứng lên, cũng chẳng buồn nhìn ông tôi, mẹ tôi hỏi:
    -Ra đâu?
    -Đi, cầu Chúa thương cho mày! Đừng cãi nữa! Hắn là người hiền lành, thạo nghề, xứng đáng là bố của thằng Lêcxây...
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    ông tôi nói với vẻ quan trọng khác thường. Hai bàn tay ông tôi cứ sát mãi vào hai bên sườn, hai khuỷu tay quặt ra sau lưng, run run, tựa như chúng muốn nhoài ra đằng trước mà bị ông tôi giữ lại. Mẹ tôi bình tĩnh ngắt lời:
    -Con đã bảo bố rằng không được mà lại...
    ông tôi bước tới gần mẹ tôi, hai tay giơ ra phía trước như người mù, rồi cúi xuống, vẻ giận dữ, nói như rên rỉ:
    -Đi! Nếu không tao sẽ nắm tóc mày lôi đi...
    -Lôi à?
    -Mẹ tôi đứng dậy, hỏi lại. Mặt mẹ tôi tái đi, hai con mắt nhíu lại trông thật đáng sợ. Mẹ tôi nhanh nhẹn cởi tất cả váy và áo ngoài ra, chỉ còn mặc mỗi chiếc áo lót. Sau đó mẹ tôi tiến đến trước mặt ông tôi:
    -Đây, đưa tôi ra! ông tôi nghiến răng lại, giơ nắm tay ra dọa mẹ tôi:
    -Vacvara, mặc áo xống vào! Mẹ tôi lấy tay gạt ông tôi ra, nắm lấy quả đấm cửa:
    -Nào, ta đi ra!
    -Tao sẽ nguyền rủa mày,
    -ông tôi thì thào.
    -Tôi chẳng sợ! Thế nào, ra chứ? Mẹ tôi mở toang cửa ra, nhưng ông tôi nắm lấy vạt áo lót giữ lại rồi quỳ xuống, thì thào:
    -Vacvara, đồ quỷ sứ, mày muốn chết hay sao! Đừng làm nhục tao... Rồi ông tôi rên rỉ khe khẽ, giọng thảm thiết:
    -Bà nó ơi, bà nó ơi... Bà tôi đã đứng chắn lối đi của mẹ tôi và giơ hai tay xua mẹ tôi như xua gà để dồn mẹ tôi vào trong buồng. Bà tôi càu nhàu, tiếng nói rít qua kẽ răng:
    -Varika, mày định làm trò gì thế hở con ngốc kia? Đi vào, rõ không biết dơ! Bà tôi đẩy mẹ tôi vào buồng, cài cửa lại, rồi cúi xuống, một tay đỡ ông tôi dậy, tay kia nhứ nhứ đe dọa:
    -ôi, lão quỷ già này, đồ ngu xuẩn! Bà tôi ấn ông tôi ngồi phịch xuống đi-văng như một con búp bê bằng giẻ rách, mồm há hốc, đầu lắc lư. Bà tôi quát mẹ tôi:
    -Mặc áo xống vào, con kia! Mẹ tôi vừa nhặt chiếc áo dài ở dưới sàn lên, vừa nói:
    -Tôi không ra với lão ta đâu, mẹ hiểu chưa? Bà tôi đẩy tôi từ trên đi-văng xuống:
    -Lấy cho tao gáo nước, nhanh lên! Bà tôi nói khẽ, gần như thì thầm, nhưng giọng bà bình tĩnh và kiên quáết. Tôi chạy ra phòng ngoài. ở gian phòng phía trước nhà có tiếng bước chân đi lại nặng nề và đều đặn. Trong buồng mẹ tôi bỗng có tiếng mẹ tôi thét lên:
    -Mai tôi sẽ đi khỏi đây! Tôi vào bếp, ngồi xuống bên cửa sổ, tưởng như mình đang trong giấc mơ. Có tiếng ông tôi rền rĩ, nức nở, tiếng bà tôi càu nhàu, sau đó có tiếng đóng sập cửa, và không khí lại trở lại yên tĩnh, ghê sợ. Sực nhớ ra là mình bị sai đi làm gì, tôi lấy cái gáo đồng, múc một gáo nước và bước vào phòng ngoài. Tôi gặp bác thợ đồng hồ đi ra, đầu cúi gằm, tay mân mê chiếc mũ lông, miệng làu bàu. Bà tôi chắp hai tay vào bụng, vừa đi theo vừa cúi chào và nói khẽ:
    -Bác cũng biết đấy, ép dầu ép mỡ chứ ai nỡ ép duyên... Bác ta vấp phải bậc cửa, hấp tấp đi ra sân. Bà tôi đưa tay làm dấu, toàn thân run lên, không biết bà tôi đang cười hay đang khóc thầm...
    -Bà làm sao thế?
    -Tôi chạy đến và hỏi. Bà tôi giằng lấy gáo nước, giội vào chân tôi và quát:
    -Mày lấy nước mà đi đâu từ nãy đến giờ?
    Đóng cửa lại! Rồi bà tôi trở vào phòng mẹ tôi, còn tôi lại đi xuống bếp. Tôi nghe thấy ông bà tôi và mẹ tôi ở buồng bên cạnh rên rỉ, than vãn và cằn nhằn lẫn nhau, hệt như đang phải khiêng những vật nặng quá sức từ chỗ nọ sang chỗ kia vậy. Hôm ấy là một ngày trong sáng. Những tia nắng mùa đông chiếu xiên vào hai chiếc cửa sổ, xuyên qua lần cửa kính phủ đầy băng. Trên chiếc bàn đã dọn sẵn để ăn trưa, bát đĩa bằng nhôm lấp lánh một thứ ánh sáng mờ đục, một chiếc bình đựng nước cơvat màu hung đỏ và một chiếc nữa đựng rượu vôtka màu xanh thẫm có ngâm cây hoắc hương và tiểu liên kiều của ông tôi. Qua những chỗ băng tan trên cửa sổ nhìn thấy tuyết trắng xóa lấp lánh trên các mái nhà. Các cột hàng rào và nóc chuồng sáo như đội những chiếc mũ nhỏ lóng lánh bằng bạc. Trong những chiếc ***g tràn đầy ánh nắng treo trên cửa sổ, các chú chim của tôi đang đùa nghịch: những con chim bạch yến vui nhộn, rất dạn người đang hót líu lo, các chú chim sơn thước hót lanh lảnh, chim kim oanh kêu thánh thót. Nhưng cái ngày vui vẻ, trong sáng và rộn ràng đó không làm cho tôi vui được. Tôi cảm thấy nó vô ích và tất cả mọi thứ cũng đều vô ích. Tôi muốn thả những con chim của tôi ra. Tôi bèn hạ ***g xuống. Bỗng bà tôi xộc vào, đập hai tay vào hông, chạy đến bên bếp lò và rủa:
    -Quân khốn kiếp! Quan ôn bắt chúng mày đi! Mình thật là một mụ già ngu ngốc... Bà tôi lôi ở trong bếp ra một chiếc bánh nướng, lấy ngón tay đập đập vào vỏ ngoài rồi giận dữ nhổ toẹt xuống đất.
    -Thôi, thế là khô hết cả rồi! Mình chỉ định nướng lại một tí cho nóng! ôi, quỷ thần, sao không xé xác tất cả các người ra! Còn mày, việc gì mà giương mắt thao láo ra như cú vọ thế kia? Không hiểu tại sao tao lại không đập nát tất cả các người ra như đập những chiếc lọ cũ vậy? Bà tôi khóc mếu máo, cầm chiếc bánh lật đi lật lại, mấy ngón tay gõ vào chiếc vỏ khô cứng. Những giọt nước ắt lớn nặng nề nhỏ xuống vỏ chiếc bánh. ông tôi và mẹ tôi bước vào bếp. Bà tôi cầm chiếc bánh ném mạnh xuống bàn đến nỗi nảy cả bát đĩa lên.
    -Đây, trông xem, tại các người đấy! Sao các người không chết đi cho rảnh mắt! Mẹ tôi, thái độ vui vẻ và bình tĩnh, ôm lấy bà tôi và khuyên bà tôi đừng buồn. ông tôi ngồi vào bàn, vẻ mệt mỏi tiều tụy, buộc chiếc khăn ăn vào cổ. ánh nắng làm cặp mắt sưng húp của ông tôi nheo lại. ông tôi càu nhàu:
    -Thôi được, không sao đâu! Chúng ta cũng đã từng ăn những bánh nướng ngon rồi. Chúa vốn hà tiện. Người ta phụng sự Chúa năm này qua năm khác, nhưng để trả công, Chúa chỉ cho được vài phút hạnh phúc mà thôi... Đối với Chúa đừng có mong gì lời lãi... Nào, ngồi xuống đây, Varya con! Thôi không nói đến chuyện ấy nữa. ông tôi như người điên, suốt bữa ăn chỉ toàn nói đến Chúa, đến Asap tội lỗi, đến nỗi khó nhọc của người làm cha... Bà tôi ngắt lời ông tôi, giọng bực tức:
    -Thôi, ăn đi! Mẹ tôi thì nói đùa, cặp mắt sáng long lanh:
    -Thế nào, ban nãy con sợ lắm phải không?
    -Mẹ tôi hỏi và lấy khuỷu tay hích tôi. Không, lúc ấy tôi không sợ lắm, nhưng bây giờ tôi cảm thấy ngượng nghịu và tôi không hiểu gì cả. Như mọi ngày lễ, mọi người ăn rất nhiều và rất lâu. Và tôi có cảm tưởng như đó không phải là những người nửa giờ trước vừa mới rầy la nhau, chực đánh nhau, vừa mới khóc lóc, sụt sùi. Tôi không thể nào có thể tin những chuyện cãi cọ khóc lóc của họ được nữa. Những giọt nước mắt, những tiếng la hét và những sự giày vò lẫn nhau đó thường xảy ra luôn và cũng chấm dứt rất nhanh, tất cả những cái đó đã trở thành quen thuộc đối với tôi, càng ngày càng ít làm tôi xúc động và chỉ làm cho trái tim tôi rung động rất ít thôi. Mãi rất lâu về sau tôi mới hiểu rằng những người dân Nga, do cuộc sống nghèo khổ và buồn tẻ, nói chung họ ưa giải trí bằng sự đau khổ, họ đùa với nó như con nít và ít khi cảm thấy xấu hổ vì bất hạnh. Giữa những chuỗi ngày vô tận thì sự đau khổ là một ngày hội và cháy nhà là một trò giải trí. Trên một bộ mặt nhẵn thín thì vết sây sát cũng thành một thứ trang sức...
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này