1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thời thơ ấu - Macxim Gorki

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 20/03/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XI
    Sau câu chuyện ấy mẹ tôi hình như trở nên vững vàng hơn, cứng rắn hơn và trở thành người chủ thực sự trong nhà, còn ông tôi thì hoàn toàn khác trước, ông tôi thường hay tránh mặt, tư lự và trầm lặng. Hầu như ông tôi không đi ra khỏi nhà nữa, lúc nào cũng ngồi một mình trên gác thượng để đọc một quyển sách bí mật nhan đề là "Ký ức của cha tôi". ông tôi cất quyển sách trong một cái hòm con khóa kín lại và nhiều lần tôi đã thấy ông tôi rửa tay cẩn thận trước khi lấy quyển sách ra xem. Đó là một quyển sách khổ nhỏ, dày cộp, bìa da màu da cam; trên tờ giấy màu xanh nhạt để trắng ở đầu cuốn sách có ghi một dòng đề tặng viết nắn nót bằng bút mực đã bạc màu: "Tặng Vaxili Kasirin kính mến để tỏ lòng biết ơn và để nhớ nhau mãi". Bên dưới là một chữ ký kỳ lạ, nét bút gạch dưới giống như con chim đang bay. Sau khi lật tờ bìa cứng ra một cách thận trọng, ông tôi đeo đôi mục kỉnh gọng bạc và nhăn mũi lại để giữ cặp kính rồi ngắm nghía dòng chữ trên. Nhiều lần tôi hỏi quyển sách đó là sách gì, lần nào ông tôi cũng trang nghiêm trả lời:
    -Việc này cháu không cần biết. Đợi khi nào ông chết ông sẽ để lại cho cháu. Cả cái áo khoác lông gấu chuột nữa. ông tôi chuyện trò với mẹ tôi ít hơn và dịu dàng hơn, ông tôi chú ý lắng nghe lời mẹ tôi nói, mắt long lanh như mắt bác Piôt, rồi khoa tay, lẩm bẩm trong miệng:
    -Thôi được! Mày muốn làm thế nào thì làm... Trong các hòm riêng của ông tôi có lắm thứ áo quần kỳ lạ: những chiếc váy bằng nhiễu, áo tấm bằng xa-tanh, những bộ xaraphan lụa thêu chỉ bạc, các mũ đội có đính ngọc trai, khăn quàng và khăn vuông màu rực rỡ, những chuỗi hột của người Morđvin nặng trình trịch cùng những chuỗi bằng đá màu sặc sỡ. ông tôi ôm tất cả vào buồng mẹ tôi, bày cả lên bàn, lên ghế. Mẹ tôi đứng ngắm nghía những đồ trang sức đó, ông tôi bảo:
    -Thời tao còn trẻ, áo quần đẹp hơn và sang trọng hơn bây giờ nhiều! Người ta ăn mặc quần áo sang hơn, nhưng sống giản dị hơn, hòa thuận hơn. Thời ấy đã qua rồi, không trở lại nữa! Nào, mày cầm lấy mặc thử xem có đẹp không... Một hôm mẹ tôi mang áo quần sang phòng bên cạnh một lúc và khi quay lại trông khác hẳn: người Bộ quần áo của phụ nữ nông dân gồm một cái áo cánh vai bồng và một cái váy mặc ngoài. mặc bộ xaraphan màu xanh thêu kim tuyến, đầu đội mũ có đính ngọc trai. Mẹ tôi cúi rạp trước mặt ông tôi và hỏi:
    -Thưa thân phụ, thử ngắm xem con có đẹp không? ông tôi ầm ừ tán thưởng, mặt tươi hẳn lên, đi một vòng xung quanh mẹ tôi, hai tay dang ra, ngón tay động đậy, và lẩm bẩm như đang mê ngủ:
    -ôi, Vacvara, giá mà mày có nhiều tiền và có những người tốt xung quanh mày... Bây giờ mẹ tôi được ở hai gian phòng về phía trước ngôi nhà. Mẹ tôi thường có khách khứa đến luôn, hay đến chơi nhất là anh em Macximôp: người anh là Piôt, một sĩ quan oai vệ, có bộ râu rậm vàng hoe và đôi mắt xanh; chính ông ta là người chứng kiến việc tôi bị ông tôi nện cho một trận nên thân vì tội nhổ vào đầu lão quý tộc; người em là Epgêni, cũng cao lớn, đôi chân nhỏ nhắn, mặt tái mét, có bộ râu cằm nhọn và đen, đôi mắt to giống như hai quả mận. Epgêni mặc bộ đồng phục màu xanh nhạt có hàng cúc mạ vàng trên vai áo hẹp. ông ta thường lắc đầu rất duyên dáng để hất mớ tóc quăn dài rũ trên cái trán cao và thường hay kể chuyện với giọng khàn khàn, bắt đầu bằng những lời khéo léo:
    -Các người có biết không, theo ý tôi thì... Mẹ tôi nghe ông ta nói, cặp mắt lim dim, mỉm cười và thường ngắt lời ông:
    -Xin lỗi, ông như trẻ con ấy, ông Epgêni Vaxiliêvitạ... Viên sĩ quan đập bàn tay to rộng lên đầu gối và kêu lên:
    -Chính thế, đúng là trẻ con... Năm ấy, những ngày lễ Nôen thật là vui vẻ và náo nhiệt, hầu như tối nào cũng có khách khứa ăn mặc trá hình đến thăm mẹ tôi, mẹ tôi cũng mặc trá hình
    -bao giờ cũng đẹp hơn mọi người
    -và thường cùng với khách đi chơi. Cứ mỗi khi mẹ tôi cùng với đám bạn bè mặc quần áo sặc sỡ ra khỏi cổng là tôi thấy ngôi nhà lại như bị chìm sâu xuống đất, khắp nơi trở nên vắng lặng, buồn chán và dễ sợ. Bà tôi lạch bạch như một con ngỗng già đi khắp các phòng dọn dẹp, còn ông tôi thì đứng tựa lưng vào thành lò sưởi ấm và nói lẩm bẩm một mình:
    -Được, tốt lắm... Rồi xem kết quả ra sao... Sau lễ Nôen mẹ tôi đưa tôi và Xasa, con cậu Mikhain, đến trường. Bố của Xasa lấy vợ kế và ngay từ mấy ngày đầu người dì ghẻ đã tỏ ra không yêu thương gì đứa con chồng, bắt đầu đánh đập nó. Theo lời khẩn khoản của bà tôi, ông tôi nhận đưa Xasa về nuôi. Chúng tôi đi học được một tháng, trong tất cả những điều người ta dạy tôi ở trường, tôi chỉ nhớ là khi có ai hỏi:
    -"Tên em là gì?", thì không được trả lời trống không: "Pêskôp", mà phải nói: "Tên tôi là Pêskôp". Cũng như cấm không được nói với thầy giáo:
    -"Đừng có quát tháo, chẳng sợ đâu..." Ngay từ đầu tôi đã không thích trường học, còn thằng em họ tôi mấy hôm đầu tỏ ý rất thích, nó kết bạn một cách dễ dàng. Nhưng một hôm đang giờ học nó ngủ gật và thình lình trong giấc mơ thét lên một tiếng nghe phát khiếp:
    -Cháu xin chừa... Khi người ta vừa đánh thức nó dậy, nó xin phép ra ngoài, nó bị bạn bè cười cho một mẻ. Cho nên sáng hôm sau, khi hai đứa chúng tôi đang trên đường đi học, đến chỗ khe vực ở quảng rường Xennaia thì nó dừng lại và bảo tôi:
    -Mày đi học đi, tao không đi đâu! Tao đi chơi thích hơn. Nói rồi Xasa ngồi xổm xuống, vùi bọc sách vở cẩn thận vào trong tuyết và bỏ đi. Độ ấy là vào tháng giêng, nền trời trong vắt, mọi vật lấp lánh dưới ánh mặt trời sáng như bạc. Tôi rất muốn đi chơi với Xasa, nhưng cố dằn lòng lại để đi học, vì không muốn làm cho mẹ tôi buồn phiền. Sách vở của Xasa cố nhiên là bị mất, và hôm sau nó lại có lý do chính đáng để không đi học. Đến ngày thứ ba thì ông tôi biết chuyện. Chúng tôi bị đưa ra trước "tòa": ông tôi, bà tôi và mẹ tôi đều ngồi vào bàn trong bếp và hỏi cung chúng tôi. Tôi còn nhớ Xasa trả lời rất ngộ nghĩnh những câu hỏi của ông tôi:
    -Sao mày lại không đến trường? Đôi mắt hiền lành của Xasa nhìn chằm chặp vào mặt ông tôi, nó chậm rãi trả lời:
    -Cháu quên không biết trường ở đâu.
    -Quên à?
    -Vâng, cháu đã tìm mãi, tìm mãi...
    -Sao mày không đi theo thằng Lêcxây, nó nhớ đấy!
    -Cháu lạc mất nó!
    -Lạc mất thằng Lêcxây ấy à?
    -Vâng.
    -Sao lại thế được? Xasa suy nghĩ một lúc, thở dài và nói:
    -Bão tuyết mù mịt, chẳng nom thấy gì cả. Mọi người đều bật cười: hôm ấy đẹp trời và sáng sủa. Xasa cũng cười một cách dè dặt, ông tôi lại nhe răng hỏi một câu giễu cợt:
    -Sao mày không nắm tay hay nắm lấy thắt lưng nó?
    -Cháu có nắm nhưng gió mạnh quá thổi bay cháu đi.
    -Xasa giải thích. Xasa nói với giọng uể oải, không tin tưởng, tôi thấy khó chịu phải nghe những lời nói dối vụng về và vô ích ấy, và rất ngạc nhiên về thái độ bướng bỉnh của nó. Kết quả là cả hai chúng tôi đều bị một trận đòn. Và ngay hôm đó phải thuê một lão già, nguyên là lính cứu hỏa cũ bị gãy tay, để đưa chúng tôi đi học. Lão có nhiệm vụ trông nom Xasa để nó khỏi phá ngang trên con đường tiến vào khoa học. Nhưng biện pháp ấy cũng chẳng ăn thua: ngay hôm sau vừa tới khe vực thì thình lình Xasa cúi xuống tháo chiếc ủng ném đi thật xa, rồi tháo nốt chiếc kia ném về hướng khác và cứ để chân đi tất thế mà chạy băng băng qua quảng trường. Lão già thất vọng kêu lên ầm ĩ, lóc cóc chạy đi nhặt ủng rồi hốt hoảng dẫn tôi trở về nhà. Suốt ngày hôm đó, ông bà tôi và mẹ tôi đi xe khắp thành phố để tìm Xasa, mãi đến chiều mới bắt gặp nó đang nhảy múa làm trò vui cho mọi người trong quán rượu của Tạiêckôp gần tu viện. ông bà tôi và mẹ tôi đều không biết làm thế nào trước thái độ cố tình im lặng một cách bướng bỉnh của thằng bé. Xasa nằm với tôi trên nóc lò sưởi, nó giơ chân lên, dùng gan bàn chân xoa vào trần nhà, và thì thầm bảo tôi:
    -Dì tao ghét tao, bố tao cũng ghét tao, cả ông cũng ghét tao, thế thì tao sống với họ làm gì? Để tao hỏi bà xem bọn ăn cướp ở đâu, tao sẽ trốn đến ở với họ, chừng đó rồi mọi người sẽ biết... Mày có muốn đi cùng với tao không? Tôi không thể trốn đi với nó được, vì lúc này tôi đã có ý định riêng của tôi, tôi muốn trở thành một sĩ quan có chòm râu rậm vàng hoe, và muốn thế thì cần phải học. Khi tôi kể cho Xasa nghe ý định ấy, nó suy nghĩ một lúc rồi cũng đồng ý với tôi:
    -Thế cũng tốt. Khi nào mày thành sĩ quan thì tao đã trở thành một tên tướng cướp, và mày sẽ phải đi lùng bắt tao, trong hai đứa mình sẽ có đứa này phải giết đứa kia, hoặc bắt làm tù binh. Tao thì tao sẽ không giết mày đâu.
    -Tao cũng thế. Và chúng tôi cùng thỏa thuận với nhau như vậy. Chợt bà tôi đến, trèo lên lò sưởi và nhìn chúng tôi hỏi:
    -Gì thế, mấy con chuột nhắt? Chà, mấy chú bé mồ côi, rõ tội nghiệp! Sau khi than thở cho số phận của chúng tôi, bà tôi bắt đầu chửi người dì ghẻ Xasa thậm tệ, đó là mợ Nađejđa béo mập, con gái lão chủ quán rượu. Sau đó bà tôi lại nguyền rủa tất cả các mụ dì ghẻ, bố dượng nói chung và nhân đó kể cho chúng tôi nghe câu chuyện nhà hiền giả ẩn sĩ Iôn lúc còn trẻ đã cùng với mụ dì ghẻ của mình đứng trước Chúa như thế nào, khi mụ này lập mưu giết bố của Iôn, một người dân của thành phố Uglitạơ, làm nghề đánh cá trên Bạch hồ: Có người vợ trẻ mưu sát chồng: Cho chồng uống rượu nồng cao độ, Lại pha thêm một liều thuốc ngủ,
    Rồi đặt người chồng đang ngủ say Vào một chiếc thuyền nhỏ gỗ sồi Như một chiếc quan tài chật chội. Mụ cầm mái chèo đưa đẩy Dẫn thuyền con ra tận giữa hồ, Tới giữa vùng nước xoáy tít mù, Nơi mụ sẽ giở trò độc ác, Mụ khom lưng, nghiêng mình, lúc lắc, Nước ùa vào lật úp thuyền con. Người chồng chìm xuống đáy biệt tăm, Còn mụ bơi vào bờ hấp tấp; Lên tới bờ, mụ nằm lăn ra đất Và gào lên, la khóc não nùng, Như đau thương, như chua xót vô cùng, Khiến những người từ tâm đều tin mụ. Cùng với mụ họ khóc than đau khổ:
    -ôi người quả phụ trẻ đáng thương! Nàng đã gặp điều bất hạnh tai ương Nhưng số chúng ta trời đều định trước, Người đã nắm trong tay quyền sinh sát! Riêng người con chồng tên gọi Iônuskô Là không tin nước mắt kẻ khóc vờ, Chàng đặt bàn tay lên trái tim của mụ, Và dịu dàng chàng bảo người quả phụ:
    -Hỡi ngôi sao chiếu mệnh của ta, Dì là con chim đêm tinh quái, ranh ma, Ta không tin nước mắt dì đâu nhé: Trái tim dì đập rộn ràng vui vẻ! Chúng ta hãy cầu Chúa xét soi, Cầu các đấng thần linh khắp bốn phương trời Hãy xét xử cho vụ án còn khúc mắc: Xin nhờ ai cầm một con dao sắc Tung lên trời, tít tận trời xa, Nếu dì thật lòng -dao sẽ giết ta, Nếu ta đúng -dao đâm dì chết! Người mẹ kế chồm lên kêu thét, Mắt lườm chàng như lửa ác bùng lên:
    -à, mày là đồ bất nghĩa bất nhân, Đồ đẻ non, đồ con hoang ghê tởm, Sao mày dám đặt ra điều quái gở? Mày ăn không nói có lạ lùng sao! Mọi người nhìn họ, nghe họ cãi nhau, Và cảm thấy có điều gì đen tối. Ai nấy buồn phiền, lặng yên nghĩ ngợi, Rồi cùng nhau bàn bạc rì rầm. Cuối cùng có một lão ngư ông Bước ra cúi chào về mọi phía Và dõng dạc đọc to lời quáết nghị:
    -Hỡi những người lương thiện, lại gần đây, Đặt con dao găm lên bàn tay phải này, Tôi sẽ tung lên trời cao vòi vọi, Dao sẽ rơi và sẽ tìm người có tội!
    Người ta trao cho cụ một con dao, Cụ vung tay trên mái tóc trắng phau, Lưỡi dao bay như cánh chim lên thẳng, Chờ đã lâu vẫn thấy dao chưa xuống. Mọi người vẫn nhìn lên trời cao, Cất mũ ra và dịch sát bên nhau, Cùng lặng lẽ như trời đêm lặng lẽ -, Mà dao sắc vẫn còn chưa giáng thế! Chợt giữa hồ rực ánh bình minh, Người mẹ kế mỉm cười, mặt bừng bừng đỏ. Bỗng lưỡi dao lao mình như cánh én Nhằm giữa tim ác phụ phóng xuyên qua. Đám dân lành vội vàng quỳ xuống, Ngợi ca Chúa đã xét sử rõ ràng:
    -Sáng danh Chúa đã công minh chính trực!
    -Còn lão ngư ông tay nắm Iônuska Đưa chàng tới tu viện phương xa, Trên bờ sông Kecjênê xanh biếc, Gần thành phố vô hình Kitiêc. * Hôm sau, lúc thức dậy tôi thấy mình mẩy đầy những nốt đo đỏ: tôi bị bệnh đậu mùa. Người ta đưa tôi lên gác thượng sau nhà, tôi phải nằm ở đó rất lâu như một người mù, tay chân bị bó chặt bằng những dải băng rộng khổ, và đã trải qua những cơn ác mộng hãi hùng, có lần một cơn mê đã làm tôi suýt chết. Chỉ có bà tôi là thường lên cho tôi ăn uống, bón thức ăn bằng thìa như bón cho trẻ con, kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích dài vô tận và luôn luôn mới. Có lần vào buổi chiều khi tôi đã đỡ và nằm thoải mái sau khi được cởi băng
    -chỉ có ngón tay là phải cho vào bao tay vì sợ tôi cào mặt
    -bà tôi không hiểu vì sao đến thăm tôi chậm hơn mọi lần làm cho tôi rất lo. Rồi thình lình tôi tưởng như thấy bà tôi, nằm xoài sau cánh cửa trên sàn nhà đầy bụi, mặt úp sấp, tay dang rộng ra, cổ bị cắt một nửa giống như bác Piôt. Từ một góc tối bụi rậm, có một con mèo lớn lừ lừ tiến đến chỗ bà tôi, đôi mắt xanh của nó trố ra với vẻ thèm thuồng. Tôi nhảy phóc từ trên giường xuống, dùng chân và hai vai đập vỡ hai khung kính cửa sổ rồi lao ra sân, ngã xuống một đống tuyết. Chiều hôm ấy mẹ tôi có khách, không ai nghe thấy tôi đập kính và phá khung cửa sổ cả, tôi phải nằm giữa đống tuyết khá lâu. Tôi không bị gẫy xương, chỉ có xương bả vai bị sai khớp và bị mảnh thủy tinh làm toác cả da thịt, nhưng chân tôi tê cứng lại, thế là tôi phải nằm liệt Sông chảy vào sông Vonga ở phía dưới Nijni -Nôpgôrôt 50 cây số. Theo truyền thuyết, năm 1138 khi quân Tacta của Hãn Batđô định chiếm thành phố Kitiêc thì thành phố liền biến mất. Tuy nó vẫn tồn tại, nhưng mắt người không thể nhìn thấy được. Chỉ đến ngày tận cùng của thế giới thì nó mới hiện ra trước mặt Chúa. gần ba tháng trời, không hề nhấc chân lên được. Tôi nằm và lắng nghe cuộc sống trong ngôi nhà mỗi ngày một ầm ĩ hơn, tiếng các cửa ra vào ở tầng dưới đóng mở luôn luôn, tiếng chân nhiều người đi lại. Tôi nghe thấy những cơn bão tuyết buồn chán xào xạc trên mái nhà, gió rít lên ở ngoài cửa gác thượng, thổi qua ống khói nghe như một điệu nhạc đưa đám, những chiếc nắp ống khói bị đập kêu lẻng kẻng, ban ngày quạ kêu quang quác, và những đêm yên tĩnh tiếng chó sói rú lên thê thảm vang từ ngoài đồng vào
    -chính điệu nhạc ấy đã ru tâm hồn trẻ thơ của tôi và làm cho nó trở nên dày dạn. Rồi mùa xuân e lệ và kín đáo bắt đầu liếc nhìn vào cửa sổ một cách rụt rè và lặng lẽ, nhưng ngày càng dịu dàng hơn, bằng con mắt trong sáng của ánh nắng tháng ba. Trên mái nhà và trên gác thượng lũ mèo kêu ngoao ngoao, tiếng rì rào của mùa xuân xuyên qua những bức tường: những nhũ băng trong như thủy tinh vỡ ra, lớp tuyết đang tan cứ tuột dần từ cái đầu ngựa gỗ trang điểm trên mái nhà xuống, và tiếng chuông nhà thờ vang lên nghe trầm trầm hơn dạo mùa đông. Khi bà tôi đến thăm tôi, tôi để ý thấy hơi thở của bà ngày càng sực mùi rượu vôtka. Sau đó bà tôi bắt đầu mang theo cả một ấm trắng to tướng, giấu dưới giường tôi và nháy mắt bảo tôi:
    -Cháu yêu, cháu đừng nói gì với lão quỷ già ... bà muốn nói là ông ấy mà.
    -Sao bà lại uống rượu?
    -Im! Lớn lên rồi cháu sẽ biết... Bà mút vòi ấm tu rượu, đưa ống tay áo lên lau mồm, rồi mỉm cười một cách âu yếm và hỏi tôi:
    -Này, cháu yêu, hôm qua bà đã kể cho cháu nghe những gì rồi?
    -Kể chuyện bố cháu.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    -Đến quãng nào rồi? Tôi nhắc lại. Thế là bà tôi tiếp tục kể, và câu chuyện mạch lạc của bà tôi cứ tuôn mãi ra như những dòng suối nhịp nhàng. Chính bà tôi đã bắt đầu kể chuyện về bố tôi cho tôi nghe. Một hôm không uống rượu, nom có vẻ buồn rầu và mệt mỏi, bà tôi bảo tôi:
    -Bà nằm mơ thấy bố cháu, hình như bố cháu đang đi băng qua cánh đồng, tay cầm gậy gỗ hồ đào, vừa đi miệng vừa huýt sáo, một con chó khoang chạy theo sau, lưỡi lè ra. Không hiểu sao dạo này bà bắt đầu nằm mơ thấy Macxim Xapvatêitạ luôn, chắc là linh hồn nó lo lắng không được yên nghỉ... Mấy tối liền, bà tôi kể chuyện bố tôi cho tôi nghe, câu chuyện đó cũng thú vị như mọi chuyện khác mà bà tôi kể. Bố tôi là con một người lính đã đóng đến sĩ quan và bị đày đi Xibêri vì tội đối xử tàn nhẫn với cấp dưới. ở đấy, một nơi nào đó trong vùng Xibêri, bố tôi đã ra đời. Bố tôi đã sống một thời thơ ấu cực nhọc, từ bé bố tôi đã thường bỏ nhà trốn đi. Có lần ông nội tôi đã dẫn chó vào rừng để tìm bắt bố tôi như người ta săn thỏ vậy. Một bận khác tìm được bố tôi, ông tôi đánh cho một trận nên thân, đến nỗi hàng xóm phải giằng lấy bố tôi và giấu biệt đi.
    -Thế ra trẻ con bao giờ cũng bị đánh phải không bà?
    -Tôi hỏi. Bà tôi thản nhiên đáp:
    -Phải. Bà nội tôi chết sớm khi bố tôi hãy còn bé. Khi bố tôi lên chín tuổi thì ông nội tôi cũng mất luôn. Một người thợ mộc là cha đỡ đầu của bố tôi nhận bố tôi đem về nuôi, ghi tên bố tôi vào phường thợ mộc của thành phố Pecmơ và bắt đầu dạy nghề cho bố tôi. Nhưng chẳng bao lâu bố tôi bỏ trốn đi và dắt những người mù lòa đi các hội chợ để kiếm ăn. Năm mười sáu tuổi, bố tôi đến thành phố Nijni và vào làm công cho một người thầu khoán đồ gỗ trên các tàu thủy của Kônạin. Năm hai mươi tuổi thì bố tôi đã trở thành một người thợ mộc chuyên làm hàng quý, thợ trang trí và thợ bọc lành nghề. Xưởng làm việc của bố tôi nằm sát bên khu nhà ông ngoại tôi ở phố Kôvalikha.
    -Hàng rào giữa hai nhà thì thấp, mà bọn thanh niên thì táo bạo lắm,
    -bà tôi cười và nói.
    -Một hôm bà cùng với Varya đang hái phúc bồn tử trong vườn, tự nhiên bố cháu nhảy vọt qua hàng rào làm bà sợ hết hồn. Nó đi giữa vườn táo, dáng người khỏe mạnh, mặc áo sơ-mi trắng, quần nhung, chân đi đất, đầu không đội mũ, mớ tóc dài được khoanh gọn trong một chiếc dây da. Bố cháu tới cầu hôn như thế đấy! Trước đó bà cũng đã có thấy bố cháu, mỗi khi nó đi ngang qua cửa sổ bà lại nghĩ bụng: "Anh chàng này trông khá quá!" Bố cháu đến gần, bà hỏi: "Này, sao anh không đi qua cửa như mọi người mà lại băng hàng rào thế? " Bố cháu quỳ sụp xuống rồi nói: "Bác Akulina Ivanôpna ạ, con xin thẳng thắn, chân thành đến thưa với bác, con yêu Varya! Bác hãy vì Chúa mà giúp đỡ chúng con, chúng con muốn lấy nhau". Khi ấy bà sửng sốt quá không nói được một lời. Bà nhìn lại mẹ cháu, con quái ấy nấp sau cây táo, mặt đỏ ửng lên như quả phúc bồn tử, nó ra hiệu cho bố cháu và rưng rưng nước mắt. Bà bảo: "Chao ôi, rõ khổ thân chúng mày! Sao chúng mày lại đâm đầu vào cái chuyện ấy thế? Mày lú lấp ruột gan rồi à, con Vacvara? Còn anh nữa, anh hãy suy nghĩ kỹ đi: anh không sợ với cao quá à?" Dạo đó ông cháu giàu lắm, của cải chưa chia cho con cái, trong tay có bốn tòa nhà, rất nhiều tiền, là một người danh giá.
    Cách đấy Bọc thảm, vải, da, giấy bồi... cho đồ gỗ hoặc nhà cửa. ít lâu ông cháu lại được cấp một bộ lễ phục và một chiếc mũ có dải thêu kim tuyến vì ông cháu đã đứng đầu một phường thợ suốt chín năm trời. Hồi ấy ông cháu đang tự cao lắm! Tuy nói vậy nhưng bà sợ run lên, bà thương hại chúng nó quá: trông chúng nó thật là thiểu não. Rồi bố cháu nói: "Con biết là bác Vaxili Vaxiliep sẽ không bằng lòng gả Varya cho con đâu, nên con sẽ bắt cóc Varya, có điều là xin mẹ giúp đỡ chúng con". Nó còn nhờ tao giúp đỡ nữa kia đấy! Bà đã vung tay định đánh, nhưng bố cháu không buồn tránh: "Mẹ có lấy đá ném con, con cũng xin chịu, miễn mẹ giúp đỡ chúng con là được, dù sao con cũng chẳng chịu lùi đâu!" Lúc đó Vacvara liền đến bên bố cháu, đặt tay lên vai nó rồi nói: "Chúng con đã lấy nhau từ lâu rồi, từ hồi tháng năm kia, chúng con chỉ thiếu có phép cưới ở nhà thờ nữa thôi!" Thế là bà cười phá lên: cha mẹ ôi! Bà tôi cười, toàn thân rung lên, rồi hít thuốc lá, lau nước mắt, thở phào khoan khoái và nói tiếp:
    -Cháu chưa hiểu được thế nào là lấy nhau, thế nào là làm phép cưới đâu. Có điều là nếu con gái chưa làm phép cưới mà đã có con thì thật là tai vạ! Cháu nhớ lấy đấy. Lớn lên cháu đừng làm cho bọn con gái lâm vào cái nông nỗi ấy, cháu làm thế là phạm một tội ác tày trời đấy, cô gái sẽ khổ và đứa con sẽ không được pháp luật thừa nhận. Cháu nhớ lấy nhé, cẩn thận đấy! Cháu nên thương đàn bà, thực lòng yêu họ, chớ xem họ như trò chơi, đó là bà khuyên cháu nên ăn ở cho phải đạo! Bà ngồi trầm ngâm, khẽ lắc lư trên ghế, rồi bỗng bà giật mình và nói tiếp:
    -Còn biết làm thế nào nữa? Bà bợp cho thằng bố Macxim cháu một cái, và kéo bím tóc con mẹ cháu. Nhưng bố cháu nói rất có lý: "Không phải dùng đánh đập mà dàn xếp được mọi chuyện đâu!" Mẹ cháu cũng bảo: "Mẹ nên liệu xem nên làm gì, rồi có đánh đập gì thì hãy đánh sau!" Bà hỏi bố cháu: "Anh có tiền không?"
    -"Có.
    -Bố cháu đáp
    -Nhưng con đã đem mua nhẫn cho Varya rồi".
    -"Vậy thì anh có được bao nhiêu? Ba rúp ư?"
    -"Không, khi ấy con có được ngót một trăm".
    -Thời ấy tiền còn có giá, hàng họ rẻ. Bà nhìn chúng nó, bố mẹ cháu ấy, và nghĩ: thật là đồ trẻ ranh ngu ngốc! Mẹ cháu lại bảo: "Con giấu chiếc nhẫn ở dưới sàn nhà vì sợ bố mẹ nom thấy, có thể đem bán đi được đấy!"
    -Hừ, chúng nó thật là trẻ con quá! Nhưng rồi cuối cùng ba mẹ con cũng thỏa thuận với nhau là một tuần nữa sẽ làm phép cưới ở nhà thờ, bà sẽ tự lo liệu với cha cố. Bà khóc ghê lắm, lòng se lại, bà sợ ông cháu, cả Vacvara cũng rất lo. Thế rồi mọi việc đã được quáết định!
    -Có điều là bố cháu bị một kẻ đem lòng thù ghét, đó là một gã thợ, một kẻ độc ác, từ lâu hắn đoán biết hết mọi chuyện và để ý theo dõi mấy mẹ con bà. Hôm ấy bà cho cô con gái độc nhất của bà ăn mặc trang điểm những thứ đẹp nhất trong nhà rồi đưa nó ra cổng, một chiếc xe tam mã đang đứng đợi ngoài góc đường, mẹ cháu lên xe, Macxim huýt sáo, và họ lên đường. Bà quay về nhà, nước mắt giàn giụa, đột nhiên bà gặp gã thợ ấy, thằng đê tiện nó bảo: "Tôi là người lương thiện, tôi sẽ không quấy nhiễu đời tư của ai làm gì, nhưng bác Akulina Ivanôpna ơi, bác phải đưa cho tôi năm mươi rúp thì mới yên chuyện được!" Bà thì không có số tiền đó, tính bà không hám tiền, không ký cóp dành dụm; bà không suy nghĩ bảo nó ngay: "Tao không có tiền, và sẽ chẳng cho mày gì đâu!"
    -"Bác hứa cũng được!"
    -"Cứ hứa bừa đi rồi đào đâu ra mới được chứ?"
    -Nó bảo: "Hừ, chồng giàu thế thì khó khăn gì mà không lấy được một ít nhỉ?" Đáng lý bà phải giả vờ mặc cả với nó để giữ chân nó lại, nhưng bà ngốc quá, bà lại đi nhổ toẹt vào mặt nó và đi về! Nó chạy về tới sân nhà trước bà và làm ầm lên! Bà tôi nhắm mắt lại, vừa mỉm cười vừa nói:
    -Mãi đến nay bà vẫn còn thấy rợn người khi nhớ lại cái chuyện táo bạo ấy! ông cháu la hét, gầm lên như thú dữ
    -Với ông thì chuyện ấy có phải là chuyện đùa đâu ? ông cháu vẫn thường nhìn Vacvara và ra vẻ đắc ý lắm: ta sẽ gả nó cho con nhà quý tộc, cho một lãnh chúa! Vậy mà bây giờ Vacvara đã lấy nhà quý tộc ấy đấy, vị lãnh chúa ấy đấy! Đức Mẹ Đồng trinh biết việc xe duyên kết nghĩa rõ hơn chúng ta nhiều. ông cháu ***g lộn lên giữa sân như người bị thiêu rồi ông ấy gọi thằng Iakôp, Mikhain, cầu cứu cả gã thợ mặt rỗ ấy, và bác đánh xe Klim. Bà thấy ông cháu vớ lấy một quả chùy, cháu biết không, đó là một quả tạ có cán. Còn thằng Mikhailô thì vớ lấy một khẩu súng; hồi ấy nhà có mấy con ngựa rất khỏe, chạy băng và một cỗ xe rất nhẹ. Bà nghĩ bụng: họ đuổi kịp chúng nó mất! Bỗng nhiên thần hộ mệnh của Vacvara mới mách nước cho bà: bà lấy một con dao, ra cứa sợi dây thắng gần càng xe với há vọng là dây thắng sẽ đứt dọc đường. Cơ sự đã xảy ra đúng như thế: càng xe văng ra ở dọc đường, ông cháu, thằng Mikhailô và bác Klim suýt nữa thì mất mạng. Họ phải dừng lại để chữa xe, khi đến nhà thờ thì Varya và Macxim đã làm phép cưới xong và đang đứng ở bậc thềm nhà thờ, nhờ ơn Chúa!
    -Cả bọn xông vào, toan giã cho Macxim một trận, nhưng bố cháu rất khỏe, sức lực của nó thật là phi thường! Nó hất thằng Mikhain lăn từ trên bậc thềm xuống trẹo cả cánh tay, bác Klim cũng bị đánh sây sát, còn ông cháu, thằng Iakôp và gã thợ thì sợ quá không dám xông vào.
    -Ngay trong cơn giận, bố cháu vẫn không mất bình tĩnh. Nó bảo ông cháu: "Bố bỏ chùy xuống, tôi là người không thích gây gổ, cái gì tôi đã dành được tức là Chúa đã ban cho tôi và không ai có thể tước đoạt được. Tôi chẳng đòi hỏi gì hơn đâu". Cả bọn lùi lại, ông cháu leo lên xe ngựa và hét: "Vacvara, từ nay thì tao từ mày, mày không phải là con gái tao nữa, và tao không muốn nhìn mặt mày nữa, mày muốn sống thế nào thì sống, có chết đói cũng mặc xác mày". Về nhà ông cháu đánh bà, chửi bà, bà chỉ biết kêu rên nhưng không nói nửa lời và nghĩ bụng: Mọi việc rồi đâu sẽ lại vào đấy thôi, muốn hay không muốn cũng chẳng được! Sau đấy ông cháu bảo bà: "Này Akulina, bà không còn con gái nữa đâu, bà nhớ lấy nhé!"
    Bà lại nghĩ bụng: ông chỉ nói gàn thế thôi, lão già tóc hung ạ, cơn giận cũng giống như băng tuyết, chỉ gặp ngày nắng ấm là tan ngay! Tôi lắng nghe bà tôi một cách say mê chăm chú. Trong câu chuyện của bà tôi có một cái gì làm cho tôi ngạc nhiên. ông tôi kể chuyện làm phép cưới cho mẹ tôi hoàn toàn khác hẳn. ông tôi nhận là ông tôi phản đối câu chuyện cưới xin ấy, và sau khi cưới ông tôi không cho mẹ tôi về nhà, nhưng theo lời ông tôi thì lễ cưới không phải được cử hành vụng trộm như vậy và ông tôi cũng có mặt ở nhà thờ lúc hai người làm phép cưới. Tôi không muốn hỏi bà tôi là ai nói đúng, vì câu chuyện của bà tôi kể hay hơn và tôi thích hơn. Lúc kể chuyện, bà tôi cứ luôn luôn lắc lư người như đang ngồi trên thuyền. Nói đến đoạn nào buồn hoặc khủng khiếp bà tôi lại càng lắc lư mạnh hơn, với tay về phía trước như đỡ lấy một vật gì trong không khí. Bà tôi thường lim dim đôi mắt, và trong những nếp nhăn trên đôi má, thấp thoáng một nụ cười hiền hậu hồn nhiên, hai hàng lông mày rậm như rung lên. Đôi khi sự hiền từ khoan dung đến mù quáng muốn hòa giải hết thảy ấy làm tôi cảm động, nhưng cũng có khi tôi muốn cho bà tôi tức giận, la hét lên.
    -Lúc đầu, khoảng hai tuần liền, bà cũng không biết Varya và Macxim ở đâu, sau đó mẹ cháu có nhờ một thằng bé khá lanh lợi đến cáo cho bà biết chỗ ở của bố mẹ cháu. Bà đợi đến thứ bảy giả vờ đi lễ, nhưng kỳ thực là đến thăm bố mẹ cháu! Bố mẹ cháu sống ở xa, tận dốc Xuêtinô. Hai vợ chồng sống trong một gian nhà gỗ. Ngôi nhà chật ních những người thợ khác ở; trong sân đầy rác rưởi, bẩn thỉu và ồn ào, thế mà hai vợ chồng cứ thản nhiên như không, suốt ngày nói nói cười cười, vui đùa như đôi mèo con. Bà đưa đến cho bố mẹ cháu tất cả những thứ gì có thể mang đi được: nào trà, nào đường, nào bột mì và đủ các loại bột, nào mứt, nấm khô và cả một ít tiền nữa, bà không nhớ là bao nhiêu, bà lấy trộm của ông cháu
    -người ta có thể ăn cắp, nếu không phải là ăn cắp cho mình! Bố cháu không chịu nhận một thứ gì cả, và giận dỗi bảo: "Chúng con có phải là ăn mày đâu?" Và Vacvara cũng phụ họa theo: "Mẹ mang các thứ ấy đến để làm gì kia chứ? ..." Bà mắng: "Thằng ngốc kia, tao là ai? Tao là ******, còn con ngốc kia, mày có phải là con gái tao không? Chúng mày không được làm phiền lòng tao: hễ khi nào làm cho mẹ ở trên đời này phải đau lòng thì Đức Mẹ trên trời cũng đau khổ khóc than đấy!" Macxim liền nắm lấy tay bà, bế xốc bà lên và nhảy múa khắp gian buồng
    -nó khỏe như con gấu ấy! Còn Vacvara thì tỏ vẻ kiêu hãnh vênh vang, nó hãnh diện về bố cháu, như một con bé con hãnh diện về con búp bê mới. Mẹ cháu ngước mắt lên và luôn mồm kể chuyện nhà chuyện cửa nghiêm trang y như là một bà nội trợ thành thạo vậy, trông đến buồn cười! Nhưng đến bữa trà mẹ cháu dọn bánh ngọt ra mời bà, thì đến chó sói nhai món bánh ấy cũng phải gãy răng, còn món phó-mát trắng thì lổn nhổn như lẫn sỏi!
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    -Tình hình cứ như vậy một thời gian dài, mẹ cháu cũng sắp đến ngày sinh cháu, ông cháu vẫn làm thinh, cái lão quỷ già ấy đến là bướng! Bà thì cứ lén lút tới thăm nom bố mẹ cháu, ông cháu cũng biết đấy, nhưng cứ lờ đi. ông còn cấm cả nhà nhắc đến tên Varya, nên không ai dám nhắc tới, cả bà cũng phải ngậm miệng, nhưng bà biết là tấm lòng của người cha không thể trơ trơ mãi được. Rồi một hôm giờ phút mong đợi ấy đã đến! Đêm đó bão tuyết dữ dội, gió lùa qua cửa sổ ào ào như có đàn gấu muốn xông vào nhà, gió rít lên qua các ống khói, dường như lũ quỷ sứ đã giật đứt xiềng xích trốn khỏi địa ngục. Bà nằm cạnh ông cháu nhưng không ngủ được, bà bảo ông: "Người nghèo khổ đêm nay thật đáng thương, nhưng những người lương tâm có điều gì day dứt không yên lại còn khổ hơn!" Bỗng tự nhiên ông cháu hỏi: "Chúng nó sống ra sao? "
    -" m đẹp thôi, bà đáp, chúng nó sống khá lắm!" ông lại hỏi: "Bà có biết tôi hỏi về ai không?"
    -"Hỏi chuyện con gái Vacvara với thằng con rể Macxim chứ còn hỏi chuyện ai nữa".
    -"Sao bà lại đoán ra là tôi hỏi chuyện chúng nó?" Bà bảo: "Thôi đi ông, ông đừng giả vờ ngơ ngẩn nữa, cái trò hề ấy kéo dài quá lâu rồi, chẳng hay ho gì đâu!"
    -ông cháu thở dài và nói: "Chà, lũ chúng bay là đồ quỷ, đồ quỷ xám!" Rồi ông cháu lại hỏi: "Trông nó có vẻ ngốc, có thật nó là một thằng ngốc, một thằng đại ngốc không?"
    -ông nói về bố cháu đấy. Bà mới bảo: "Ai không muốn làm lụng mà chỉ chực ngồi lên cổ kẻ khác ăn bám mới là đồ ngốc, ông hãy xem hai thằng Iakôp và Mikhain đấy, chúng chẳng sống như hai thằng ngốc là gì? Trong nhà này ông xem ai là người làm lụng, ai là người kiếm ra tiền? ông. ông tưởng chúng nó giúp ông nhiều lắm à?" ông liền chửi bà, nào là đồ đê tiện, đồ ngu ngốc, đồ ma cô, bà chẳng biết là những gì gì nữa! Bà cứ lặng thinh. ông cháu bảo: "Sao lại có thể để cho một cái thằng như thế nó bịp được? Chẳng ai biết nó là người như thế nào, ở đâu tới?" Bà vẫn bấm bụng làm thinh. Đến khi ông cháu nói chán chê bà mới bảo: "ạng nên đến thăm chúng nó, xem chúng nó ăn ở ra sao, ông sẽ thấy chúng nó sống ung dung lắm!"
    -"Tao mà đến thì quá vinh dự cho chúng nó, cho chúng nó tới đây đã là phúc lắm rồi..."
    -Bà khóc nức lên vì sung sướng. ông cháu tháo bím tóc của bà ra, vì ông thích nghịch tóc bà, và khẽ nói: "Đừng khóc nữa, bà ngốc lắm, bà tưởng tôi lòng lim dạ sắt hay sao? " Cháu thấy không, thời ấy ông cháu là người rất tốt, nhưng chỉ từ khi tự cho mình là thông minh tài giỏi nhất trên đời này thì ông mới sinh ra độc ác và đần độn như thế.
    -Thế rồi một bữa chủ nhật, nhân ngày lễ xá tội, bố mẹ cháu đến, cả hai đều gọn gàng sạch sẽ. Macxim tiến đến trước mặt ông cháu, ông cháu chỉ cao ngang vai bố cháu, và nói: "Bố ạ, hãy vì Chúa, bố đừng tưởng con đến để xin của hồi môn đâu; không, con đến chỉ để tỏ lòng tôn kính đối với bố vợ!" Nghe thấy thế ông cháu bằng lòng lắm. ông mỉm cười và nói: "Chà, thật là một thằng xác vâm, thằng tướng cướp! Thôi được, rồi đâu khắc có đó, vợ chồng mày về đây ở với tao!" Macxim cau mày: "Chuyện đó thì tùy ở Varya, con thì thế nào cũng được!" Thế là hai bố con cãi nhau rất găng, chẳng ai chịu nghe ai cả. Bà nháy mắt ra hiệu cho bố cháu và ngầm đá vào chân bố cháu dưới bàn, nhưng bố cháu vẫn cứ theo ý mình! Đôi mắt của bố cháu thật là đẹp, tươi vui, trong sáng; còn cặp lông mày thì đen, hễ mỗi lần bố cháu cau mặt lại thì lông mày như che kín cả mắt, mặt rắn đanh lại như đá, đầy vẻ bướng bỉnh. Những khi đó bố cháu không chịu nghe ai cả, chỉ nghe bà thôi. Bà yêu bố cháu hơn cả con đẻ. Bố cháu cũng biết thế và cũng rất yêu bà! Thỉnh thoảng bố cháu lại ôm ghì lấy bà, có khi nắm chặt lấy tay lôi đi khắp phòng và nói: "Mẹ thực là mẹ đẻ của con, là đất nuôi dưỡng con, con yêu mẹ hơn cả Vacvara!" Mẹ cháu rất tinh nghịch và vui tính bèn xông vào bố cháu và hét tướng lên: "Sao anh lại có thể nói như thế được, đồ tàn nhẫn?". Mấy mẹ con cùng nô đùa vui vẻ như vậy, sống rất hạnh phúc, cháu yêu của bà ạ! Bố cháu nhảy múa rất giỏi, thuộc toàn những bài hát hay học của những người mù, mà người mù thì chẳng ai hát hay bằng họ.
    -Bố mẹ cháu ở trong một căn nhà nhỏ trong vườn; cháu cũng ra đời ở đó, đúng vào giữa trưa, khi bố cháu về ăn trưa. Bố cháu mừng rỡ rối rít cả lên, cuống cuồng như điên, vồn vã vuốt ve mẹ cháu, thằng Đất là mẹ nuôi của người
    -Trong các tác phẩm dân gian Nga thường hay ví như vậy, tưởng như đẻ được một đứa con là khó khăn ghê gớm lắm ấy! Bố cháu vác bà lên vai chạy qua sân tìm gặp ông cháu để cáo tin cho ông cháu biết là thêm một đứa cháu nữa của ông ra đời. ông cháu cũng phải bật cười mắng: "Macxim ạ, mày là thằng quỷ sứ!".
    -Các cậu cháu không ưa bố cháu vì bố cháu không uống rượu, lại bạo mồm bạo miệng và nghĩ ra lắm trò tinh quái. Chính vì những chuyện ấy mà bố cháu phải khốn khổ! Một hôm vào tuần chay, trời nổi gió đùng đùng và bỗng thình lình trong nhà vang lên những tiếng rít, tiếng hú kinh khủng. Cả nhà đều hoảng sợ, không biết có chuyện ma quái gì xảy ra thế này? ông cháu cũng mất hồn mất vía, vội vàng sai thắp đèn khắp nơi, chạy lui chạy tới và quát: "Phải cầu kinh đi, phải cầu kinh đi!". Nhưng tự nhiên tiếng hú im bặt. Cả nhà lại càng sợ hơn. Cậu Iakôp đoán: "Chắc là Macxim lại giở trò đây!" Quả thật, về sau bố cháu thú nhận là đã đem các chai lọ lớn bé đặt ở chỗ cửa sổ lộng gió, gió lùa vào miệng chai, mỗi chai phát ra một thứ tiếng khác nhau. ông cháu đe dọa: "Những trò đùa ấy rất có thể làm cho mày lại trở về Xibêri đấy, Macxim ạ!".
    -Có một năm, trời rét như cắt thịt, chó sói mò cả vào thành phố, khi thì chúng bắt chó, khi thì chúng làm cho ngựa phát hoảng lên, có lần chúng ăn thịt một người gác cổng say rượu, thành phố nhốn nháo cả lên vì cái nạn chó sói! Bố cháu vác khẩu súng săn, đi đôi thanh gỗ trượt tuyết, đêm đến mò ra đồng, thế rồi thấy bố cháu vác chó sói về, khi thì một con, khi thì hai con. Bố cháu đem lột da, thuộc đầu sói, lắp vào đó một đôi mắt giả bằng thủy tinh
    -trông đến là khéo! Một hôm cậu Mikhailô ra ngoài đi giải, bỗng dưng nó chạy bổ trở vào, tóc gáy dựng lên, mắt trợn ngược, cổ họng tắc không nói được một lời. Quần nó tụt xuống, nó vướng chân ngã sấp xuống, mồm thì thầm: "Chó sói!".
    Mọi người ai gặp gì vớ nấy, chạy ùa cả ra đầu nhà, mang theo đèn, nến sáng trưng. Quả thực có một con sói từ trong hòm gỗ nhô đầu ra! Thế là mạnh ai người ấy đánh, bắn, con sói vẫn cứ trơ trơ ra! Xem kỹ lại thì té ra đó chỉ là một bộ da và cái đầu sói rỗng, hai chân trước được đóng đinh chặt vào chiếc hòm! Hôm ấy ông cháu giận Macxim thật sự. Thế rồi thằng Iakôp cũng bắt chước bố cháu: bố cháu dùng bìa cứng làm đầu người, cũng đủ mắt, mũi, miệng, lấy xơ đay giả làm tóc, rồi nó với thằng Iakôp rủ nhau đi khắp các phố, thò cái mặt nạ gớm ghiếc ấy vào cửa sổ nhà người ta, cố nhiên là ai cũng hoảng hồn, kêu la ầm ĩ. Đêm đêm chúng lại khoác vải trải giường đón đường dọa cả cha cố, ông ta chạy vào vọng gác của cảnh sát, người gác cũng hoảng hốt kêu cứu ầm lên. Chao ôi, chúng bày đặt ra không biết bao nhiêu là trò tai quái, không sao bảo được chúng nó. Bà đã nhiều lần bảo chúng bỏ những trò đùa ấy đi. Varya cũng can, nhưng chúng có chịu thôi cho đâu! Macxim còn cười: "Được xem thiên hạ hoảng hồn mà chạy bán sống bán chết vì một cái trò bố láo, thú vị lắm!" Nói với nó cũng bằng thừa...
    -Cũng vì những trò tinh nghịch ấy mà về sau bố cháu suýt mất mạng: cậu Mikhain giống ông cháu, hay giận, hay thù vặt, nó nghĩ cách hại bố cháu. Một tối đầu mùa đông bốn người đi chơi về: Macxim, hai cậu cháu và một người phụ lễ
    -về sau hắn ta bị đuổi vì đã đánh chết một người đánh xe ngựa. Họ từ phố Iamxkaia về và các cậu cháu rủ bố cháu đến đầm Điukôp nói là để trượt băng như bọn trẻ con vẫn chơi, đến đó họ đẩy Macxim xuống một cái hố đục giữa lớp băng trên mặt đầm. Bà đã kể cho cháu nghe chuyện ấy rồi.
    -Sao các cậu lại ác thế hở bà?
    -Không, chúng nó không ác đâu,
    -bà tôi thản nhiên trả lời và hít thuốc lá.
    -Chúng chỉ là những đứa ngu ngốc mà thôi! Thằng Miska là một đứa láu cá nhưng ngu xuẩn; còn Iakôp thì chỉ là một đứa ngờ nghệch, thế thôi... Bị đẩy xuống nước, bố cháu cố ngoi lên, bám lấy miệng hố; chúng đánh vào tay bố cháu, dùng gót giày giẫm lên những ngón tay bố cháu.
    Cũng may là bố cháu thì tỉnh, còn các cậu cháu thì say rượu. Nhờ Chúa phù hộ, bố cháu duỗi người ra được, nằm nép dưới lớp băng, ngửa mặt lên giữa hố để thở, nên các cậu cháu không với tới được. Chúng ném băng vụn vào đầu bố cháu một lúc và cho rằng bố cháu sẽ chết đuối nên bỏ đi! Nhưng bố cháu bò lên được và chạy đến đồn cảnh sát. Đồn cảnh sát ở cạnh đấy, ngay trên quảng trường. Viên cảnh sát khu biết bố cháu và cũng biết cả nhà ta, lão mới hỏi đầu đuôi câu chuyện xảy ra như thế nào. Bà tôi làm dấu và nói với một vẻ biết ơn:
    -Lạy Chúa cho Macxim Xapvatêiô được hưởng phúc đời đời, nó xứng đáng được như thế! Bố cháu không hé răng kể với đồn cảnh sát một tí gì! Bố cháu bảo: "Tôi say rượu nên đi lạc ra đầm và sẩy chân ngã xuống hố". Viên cảnh sát bảo: "Nói láo, anh có uống rượu bao giờ đâu!" Rồi người ta lấy rượu xoa nóng người bố cháu, mặc quần áo khô cho bố cháu và khoác áo tulup cho rồi đưa bố cháu về nhà. Viên cảnh sát và hai người nữa cùng đi theo. Lúc ấy Iaska và Miska chưa về đến nhà, còn đang la cà ở các quán rượu nói xấu bố mẹ chúng. Bà và mẹ cháu nhìn Macxim, mãi mới nhận ra được: người bố cháu đỏ tía, ngón tay giập nát, ứa máu, tóc bên thái dương trăng trắng như có tuyết bám, nhưng tuyết ấy không tan, tóc bố cháu đã bạc rồi! áo bằng da cừu, lông ở mặt trong -áo mùa đông của nông dân Nga. -Vacvara hét váng lên: "Họ làm gì anh thế này?". Viên cảnh sát dò xét tất cả mọi người, căn vặn, bà cảm thấy có việc chẳng lành gì đây! Bà để Varya ra đối phó với viên cảnh sát, còn tự mình thì đến hỏi khẽ Macxim: có chuyện gì xảy ra thế? Bố cháu thì thầm: "Mẹ ra đón Iaskôp và Mikhain, khi chúng nó về thì dặn chúng nó rằng viên cảnh sát có hỏi thì khai là chúng nó chia tay với con ở phố Iamxkaia, rồi đến nhà thờ Pôkrôpka, còn con thì rẽ sang đường Priađinnưi. Đừng nói nhầm, nếu không thì lôi thôi to với cảnh sát đấy!". Bà đi tìm ông cháu và bảo: "ông dậy đi và sang tiếp chuyện lão cảnh sát, còn tôi phải ra cổng chờ chúng nó về". Rồi bà kể cho ông nghe câu chuyện tai vạ ấy. ông cháu vừa mặc áo vừa run nói lẩm bẩm: "Tôi đã biết mà! Tôi đã chờ đợi chuyện này mà!"
    -Nói thế thôi chứ ông ấy có biết gì đâu! Bà ra đón, gặp các cậu cháu về, tát cho mỗi đứa một cái. Thằng Miska sợ quá liền tỉnh rượu ngay, còn thằng Iasenka thì tội nghiệp, líu cả lưỡi, nói lí nhí: "Con chẳng biết gì hết, Mikhailô gây ra cả đấy chứ! Anh ấy là đầu têu!" Phải nói mãi viên cảnh sát mới chịu nghe
    -lão ấy là người tốt! Nhưng lúc ra về lão ấy bảo: "Coi chừng đấy, nếu nhà này có xảy ra tai họa gì thì tôi sẽ tìm ra ngay thủ phạm đấy!" ông cháu đến bên Macxim và nói: "Cảm ơn con, người khác mà ở địa vị con thì họ không làm thế đâu, tao biết điều đó lắm! Và cảm ơn con, con gái của bố, con đã tìm cho nhà ta một chàng rể hiền!". ông ngoại cháu hễ lúc nào hứng lên thì nói rất hay, chỉ có sau này vì ngu xuẩn nên ông mới khóa chặt lòng mình lại.
    Mọi người đi ra cả, chỉ còn lại ba người, bà và bố mẹ cháu, bố cháu mới khóc và nói như mê sảng: "Sao họ lại đối xử với tôi như vậy, tôi có điều gì không nên không phải với họ đâu? Mợ ơi, sao họ lại làm thế?" Bố cháu không gọi bà là mẹ, mà gọi là mợ như trẻ con ấy, mà kể ra thì tính tình bố cháu cũng chẳng khác gì một đứa trẻ. "Sao họ lại làm thế?"
    -Bố cháu nhắc lại. Bà khóc nức nở, còn biết làm thế nào nữa. Iakôp và Mikhailô dầu sao cũng là con bà, bà thương hại chúng nó! Mẹ cháu giật đứt hết cả khuy áo, ngồi đấy, đầu tóc rối bù như vừa đánh nhau xong, gầm lên: "Ta phải đi khỏi nơi này thôi, Macxim ạ! Anh em mà như kẻ thù ấy, em sợ họ lắm, ta đi thôi!" Bà phải quát mẹ cháu: "Đừng đổ thêm dầu vào lửa nữa, thế cũng đã đủ để đốt cháy rồi!" ông cháu bắt các cậu cháu phải vào xin lỗi, mẹ cháu nhảy xổ đến tát vào mặt thằng Miska: này xin lỗi này! Còn bố cháu trách: "Sao các cậu lại làm thế? Các cậu có biết là vì các ở đây trong nguyên bản dùng chữ "mama" là tiếng trẻ con thường dùng để gọi mẹ cho ngắn gọn, đáng lẽ phải gọi là "mamasa" cũng có nghĩa là mẹ, nhưng là cách xưng hô thân mật của người Nga. Chúng tôi tạm chuyển sang tiếng Việt như vậy, tuy chưa được thích hợp lắm. cậu tôi có thể trở thành người tàn tật suốt đời không? Mất hai bàn tay thì còn làm ăn gì được nữa?" Cuối cùng, chúng nó gượng gạo làm lành với nhau. Bố cháu ốm liệt giường gần bảy tuần lễ, và luôn mồm bảo: "Chà, mợ ơi, mợ đi với chúng con đến thành phố khác đi, ở đây chán lắm!" ít lâu sau có dịp, bố cháu dọn đi Axtrakhan. Hồi ấy vào mùa hè, ở đấy người ta đang sửa soạn đón rước Nga Hoàng; bố cháu được giao cho việc xây dựng cổng chào. Bố mẹ cháu đi chuyến tàu thủy đầu tiên: bà chia tay bố mẹ cháu mà tim thắt lại, bố cháu cũng buồn rười rượi và khẩn khoản bảo bà cùng đi về Axtrakhan. Còn Vacvara thì sung sướng lắm, vui ra mặt, đồ không biết ngượng... Và bố mẹ cháu ra đi... Thế là hết... Bà tôi uống một ngụm rượu vôtka, rít thuốc lá và nói tiếp, đăm chiêu đưa mắt nhìn qua cửa sổ ngắm bầu trời xanh xám:
    -Phải, tuy bà và bố cháu không cùng máu mủ, nhưng lòng dạ rất giống nhau... Đôi lúc, bà tôi đang kể chuyện thì ông tôi bước vào. ông tôi ngẩng bộ mặt giống như con chồn hôi lên, phồng chiếc mũi nhọn đánh hơi, ngó bà tôi với một vẻ nghi ngờ, lắng tai nghe câu chuyện của bà tôi và lẩm bẩm:
    -Lại những chuyện xuẩn ngốc của bà... Đột nhiên ông tôi hỏi tôi:
    -Lêcxây, bà mày uống rượu đấy à?
    -Không ạ.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    -Mày nói láo, nhìn mắt mày tao đủ biết. Rồi ông tôi ngập ngừng bước đi. Bà tôi nhìn theo nháy mắt và nói một câu pha trò:
    -ông đi đi cho được việc, ngựa thì làm sao mà dọa nổi... Một hôm, ông tôi đứng giữa phòng, nhìn xuống sàn nhà và hỏi khẽ:
    -Bà nó này!
    -Gì?
    -Bà có biết công việc ra sao rồi không?
    -Có.
    -Bà nghĩ thế nào?
    -Cái số nó thế, ông ạ! ông có nhớ xưa kia ông vẫn nói rằng phải là một quý tộc đấy không?
    -Có.
    -Thì đấy, gã quý tộc của ông đấy.
    -Nghèo rớt mùng tơi.
    -ồ, đấy là chuyện của con Vacvara! ông tôi đi ra. Cảm thấy lo lắng, tôi hỏi bà tôi:
    -ông bà nói chuyện gì đấy?
    -Cái gì cháu cũng muốn biết cả,
    -bà tôi vừa lầm bầm vừa đưa tay xoa xoa chân tôi.
    -Còn bé mà cái gì cũng biết cả thì lớn lên còn gì mà hỏi nữa?...
    -Rồi bà tôi lắc đầu cười.
    -Chà! ông ơi, ông ơi, ông chỉ là một hạt bụi nhỏ trước mắt Chúa mà thôi. Liônka, cháu đừng nói với ai điều này nhé: ông cháu đã bị phá sản sạch sành sanh rồi! ông ấy giao một số tiền rất lớn, hàng mấy nghìn rúp cho một lão quý tộc, và lão ta vừa bị vỡ nợ... Bà tôi mỉm cười, ngồi im lặng hồi lâu, đăm chiêu suy nghĩ, khuôn mặt to lớn của bà tôi cau lại, tối sầm và trở nên u buồn.
    -Bà nghĩ gì thế? Bà tôi giật mình:
    -à, bà nghĩ về câu chuyện sắp kể cho cháu nghe. Chuyện Epxtinhê, cháu có muốn nghe không? Chuyện thế này: Xưa có lão phụ lễ Epxtinhê, Tự cho mình thông minh nhất bậc. Từ giáo sĩ lẫn các nhà quý tộc, Đến lũ chó săn lão luyện cũng không bằng! Như con gà tây, lão đi lại vênh vang, Ví mình như chim Siren tuyệt mỹ. Lão la mắng láng giềng ầm ĩ, Rằng thế này, rằng thế nọ, thế kia... Nhìn nhà thờ, lão bảo: thấp ghê! Ngắm đường phố, lão kêu: hẹp quá! Quả táo chín, lão chê: chưa đỏ! Mặt trời lên, lão gắt: sớm chưa? Ai bảo gì lão cũng phán bừa: Bà tôi phùng má, trợn mắt, khuôn mặt hiền hậu của bà tôi lúc này trông đần độn, buồn cười, bà kể tiếp, giọng trầm, lè nhè:
    -ồ, cái này có gì là lạ? Ta có thể làm hơn thế nữa, Nhưng ta đây chẳng có thì giờ. Ngừng một lát bà tôi mỉm cười khe khẽ kể tiếp: Và thế rồi đâu bỗng một đêm kia Lũ quỷ kéo đến nhà lão, la hét:
    -Này, thầy sáu, ở đây lão không thích, Vậy xin mời lão tếch xuống âm tá, Than đỏ lửa hồng rực rỡ mê lá! Lão phụ lễ mũ chưa kịp đội Lũ quỷ đã kéo lão đi vội Chúng vừa cù, vừa thét, vừa lôi. Hai quỷ con leo tót lên vai, ấn lão ngã xuống lò lửa cháy.
    -Epxtinhê, lão có vui lòng ở với chúng tớ không đấy? Trong thần thoại Há Lạp, những nhân vật hoang đường hình chim, đầu và ngực đàn bà, tay cầm một chiếc thụ cầm; giọng hát của nó rất êm ái và quyến rũ những người đi biển làm cho họ đâm tàu vào đá ngầm. Lão cháy sém hết người, đảo mắt nhìn quanh, Chống nạnh ngang hông, lão đứng tay khuỳnh, Bĩu môi, lão kiêu ngạo nói:
    -Chốn địa ngục các anh sao mà khói thế! Bà tôi kết thúc câu chuyện bằng một giọng lè nhè, ề à. Rồi bà tôi thay đổi nét mặt, khe khẽ cười và giải thích cho tôi:
    -Lão Epxtinhê ấy không chịu thua, vẫn khăng khăng bướng bỉnh, giống như ông cháu ấy! Thôi, cháu ngủ đi, khuya rồi... Mẹ tôi ít khi lên thăm tôi, có lên thì cũng không nán lại lâu, nói ít, vì lúc nào mẹ tôi cũng vội vội vàng vàng. Tôi thấy mẹ tôi hình như ngày càng xinh ra, ăn mặc diện hơn, nhưng ở mẹ tôi, cũng như ở bà tôi, tôi cảm thấy có cái gì khang khác, mà ai cũng cố giấu tôi, tôi chỉ cảm thấy thế và đoán thế thôi. Những câu chuyện cổ tích của bà tôi càng ngày tôi càng ít thấy thích, cả đến những câu chuyện về bố tôi mà bà tôi thường kể cũng không làm cho tôi dịu bớt nỗi lo lắng mơ hồ nhưng ngày càng tăng lên trong lòng. Tôi hỏi bà tôi:
    -Tại sao vong hồn bố cháu lại không yên, hở bà?
    -Bà biết làm sao được?
    -Bà tôi lim dim mắt trả lời.
    -Đó là việc của Chúa, chúng ta không hiểu được... Đêm đêm, những khi không ngủ được, nhìn qua cửa kính màu xanh, tôi ngắm nhìn những vì sao lênh đênh trôi chầm chậm trên trời, và tôi tưởng tượng ra lắm chuyện buồn mà vai chính bao giờ cũng là bố tôi. Lúc nào tôi cũng thấy bố tôi đi đâu ấy, lủi thủi một mình, tay chống gậy, có một con chó xồm lẽo đẽo theo sau...
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XII
    Một hôm tôi ngủ thiếp đi từ lúc chập tối. Khi thức dậy tôi có cảm giác như chân tôi cũng thức dậy. Tôi thả chân xuống giường thì lại thấy hai chân tê cứng, nhưng lúc này tôi tin chắc rằng chân tôi vẫn còn nguyên và tôi vẫn đi được. Cảm giác đó rõ ràng đến nỗi tôi hét lên vì vui sướng. Hai chiếc chân không sao mang nổi thân tôi và tôi ngã lăn ra, nhưng tôi cũng bò được đến cửa và lần xuống cầu thang. Tôi tưởng tượng mọi người ở dưới nhà sẽ ngạc nhiên như thế nào khi trông thấy tôi. Tôi không nhớ vì sao tôi lại mò được vào buồng mẹ tôi và ngồi lên lòng bà tôi. Trước mặt bà tôi có mấy người lạ đang đứng. Một bà lão người khô đét vận đồ xanh nói giọng nghiêm khắc, át cả tiếng mọi người:
    -Cho nó uống phúc bồn tử rồi trùm kín đầu lại... Tất cả mọi thứ trên người bà lão toàn là màu xanh: từ áo, mũ cho đến khuôn mặt điểm một nốt thịt thừa dưới mắt, đều xanh, thậm chí đến túm lông mọc trên nốt thịt thừa cũng xanh như một búi cỏ. Bà lão trề môi dưới xuống, vểnh môi trên lên và nhe những chiếc răng xanh ra nhìn tôi, đưa bàn tay đi găng đen không ngón rua đăng-ten giơ lên che mắt.
    -Ai đấy?
    -Tôi rụt rè hỏi. ông tôi trả lời bằng một giọng nghe rất khó chịu:
    -Đấy là bà mới của mày đấy... Gượng cười, mẹ tôi đẩy Epgêni Macximôp lại phía tôi:
    -Bố con đấy... Mẹ tôi nói gì rất nhanh và khó hiểu. Macximôp nheo mắt, cúi xuống gần tôi và nói:
    -Bố sẽ cho con một hộp thuốc màu. Trong buồng rất sáng; góc phía trước, trên một cái bàn, có đặt những giá nến bằng bạc, trên mỗi giá có năm ngọn nến đang cháy. Giữa những giá nến đó là bức tượng thánh "Xin Đức Mẹ đừng khóc" mà ông tôi rất quý; những hạt ngọc trai gắn trên bức tượng lấp lánh và hình như chảy ra; những viên ngọc thạch lựu đỏ thẫm trên nền vàng của bức tượng phát ra những tia hào quang chói lọi. Những khuôn mặt lờ mờ, tròn trĩnh nom như những cái bánh tráng cùng với những cái mũi bẹt lặng lẽ như dán vào những tấm kính cửa sổ tối om trông ra phố. Tất cả mọi vật xung quanh tôi đều chập chờn nghiêng ngả. Còn bà lão vận đồ xanh thì đưa những ngón tay lạnh buốt sờ vào phía sau tai tôi và nói:
    -Nhất định rồi, nhất định rồi...
    -Nó ngất rồi,
    -bà tôi nói và bế tôi ra cửa. Nhưng tôi không ngất, tôi chỉ nhắm mắt lại thôi. Lúc bà bế tôi lên cầu thang, tôi hỏi bà:
    -Sao bà không bảo cháu chuyện ấy từ trước?
    -Chà... thôi im đi!
    -Các người là đồ lừa dối... Đặt tôi vào giường xong, bà tôi rúc đầu vào gối và khóc, toàn thân rung lên. Hai vai rung động, bà tôi nghẹn ngào, nói lắp bắp:
    -Cháu khóc đi... khóc đi... Tôi không muốn khóc. Căn gác tối và lạnh; tôi run lên, chiếc giường rung chuyển và kêu ken két. Bà lão vận đồ xanh vẫn hiện lên trước mắt tôi. Tôi giả vờ như ngủ, và bà tôi đi ra. Mấy ngày trống rỗng trôi qua một cách đơn điệu như một dòng nước nhỏ. Sau lễ ăn hỏi mẹ tôi đi đâu mất, không khí trong nhà trở nên vắng vẻ một cách nặng nề. Một buổi sáng ông tôi lấy ra một cái đục, đi tới cửa sổ và cậy mát-tít trát ở khung cửa hồi mùa đông. Bà tôi đi tới, tay bưng chậu nước với chiếc giẻ lau. ông tôi khe khẽ hỏi bà:
    -Thế nào, mụ già?
    -Cái gì kia?
    -Mừng lắm phải không? Bà tôi trả lời cũng giống như trả lời tôi lúc đi lên cầu thang:
    -Chà... thôi im đi! Những lời đơn giản đó lúc này có một ý nghĩa đặc biệt, chúng che giấu một sự kiện gì lớn, đáng buồn không cần phải nói ra nhưng mọi người đều biết. ông tôi thận trọng tháo khung cửa và đưa ra ngoài. Bà tôi mở rộng cánh cửa sổ. Trong vườn tiếng sáo sậu kêu, tiếng chim sẻ ríu rít. Mùi thơm ngây ngất của đất sau khi tuyết tan ùa vào trong phòng. Trên thành lò sưởi những viên gạch men hình vuông màu xanh nhạt ngượng nghịu ngả sang màu trắng, nhìn chúng đủ cảm thấy lạnh lẽo. Tôi bò từ trên giường xuống sàn nhà.
    -Không được đi chân đất.
    -Bà tôi nói.
    -Cháu muốn ra vườn.
    -Hãy chờ ít lâu nữa có hơn không, ngoài ấy chưa khô đâu!
    Tôi không muốn nghe lời bà tôi, thậm chí nhìn mặt người lớn tôi cũng cảm thấy khó chịu. Trong vườn những ngọn cỏ non xanh mượt đã nhú lên, những nụ táo đã mọng ra và nở tung, rêu trên mái nhà nhỏ của mụ Pêtrôpna có một màu xanh nom thật thích mắt. Chỗ nào cũng thấy có nhiều chim. Tiếng chim hót rộn ràng, làn không khí thơm mát làm cho đầu óc tôi ngây ngất. Trong cái hố chỗ bác Piôt cắt cổ tự tử có những bụi cỏ dại màu vàng hoe bị tuyết đè nát, rối tung. Nhìn cái hố đó thật khó chịu, nó không có một vẻ gì là mùa xuân cả; những mẩu gỗ cháy dở đen bóng trông thật buồn thảm. Sự vô dụng của nó như chọc tức tôi. Tôi bực mình muốn nhổ tung những bụi cỏ dại đi, nhặt những viên gạch vỡ ra và những mẩu gỗ cháy dở vứt ra ngoài, dọn hết tất cả những thứ bẩn thỉu, vô ích đi, sửa sang cái hố thành một chỗ ở thật sạch sẽ và mùa hè sẽ sống trong đó một mình, không có người lớn. Tôi liền bắt tay ngay vào việc. Công việc đó làm cho tôi xa cách tất cả những gì xảy ra trong nhà suốt một thời gian dài, và tuy những chuyện ấy hãy còn làm cho tôi rất bực mình, nhưng càng ngày chúng càng làm tôi ít quan tâm hơn.
    -Làm sao mà mày cứ quằm quặm thế? -Bà tôi hoặc mẹ tôi thường hỏi tôi như vậy.
    Tôi thấy lúng túng mỗi khi bà và mẹ tôi hỏi câu đó. Nào tôi có giận gì bà và mẹ tôi đâu, tôi chỉ cảm thấy mọi thứ trong nhà đều trở nên xa lạ đối với tôi. Vào những bữa ăn trưa, chiều và những bữa trà tối thường có mặt bà lão vận đồ xanh, nom hệt như một cái cọc mục ở giữa dãy hàng rào đổ nát. Cặp mắt của bà ta như được đính vào mặt bằng những sợi chỉ vô hình. Từ trong hai hốc mắt xương xẩu chúng nhẹ nhàng lăn ra và chuyển động thoăn thoắt. Hai con mắt đó nhìn không sót một cái gì. Chúng rướn lên mái nhà mỗi khi bà ta nói đến Chúa và cụp xuống má khi bà ta nói đến việc nhà. Cặp lông mày của bà ta trông như cám và như dán vào da. Những chiếc răng to, trơ trụi lặng lẽ nhai tất cả những gì bà ta nhét vào mồm, cánh tay khòng khòng trông đến buồn cười, ngón út chìa ra. Quanh tai bà những cục xương tròn chạy đi chạy lại. Hai tai luôn luôn cử động, cả đến túm lông xanh trên nốt thịt thừa cũng động đậy giống như đang bò trên lớp da vàng khè, nhăn nheo và sạch bóng đến phát ghét lên được. Bà lão cũng sạch sẽ như người con trai
    -chạm vào họ người ta cảm thấy ngượng nghịu và khó chịu. Mấy hôm đầu có lúc bà ta định đưa bàn tay như tay người chết ra sờ vào môi tôi
    -bàn tay có mùi hương và xà phòng Kazan. Tôi vội vàng quay đi và chạy mất. Bà ta thường nói với con trai:
    -Thằng bé này nhất định phải giáo dục cẩn thận, hiểu không Giênáa? Người con trai cúi đầu ngoan ngoãn, cau mày và im lặng. Trước mặt bà ta ai cũng đều nhăn nhó cả. Tôi hết sức căm ghét bà lão, và cả con trai bà ta nữa. Cũng chính vì cái tình cảm nặng nề đó mà tôi đã phải ăn nhiều trận đòn. Một lần đang ăn trưa, bỗng bà lão nói, hai mắt trố ra trông rất khủng khiếp:
    -Chà, Aliôsenka, đi đâu vội mà cắn những miếng to thế? Khéo không lại nghẹn đấy. Tôi lôi miếng đang nhai dở trong mồm ra, cắm lại vào dĩa và chìa ra trước mặt bà ta:
    -Này, bà tiếc thì cầm lấy... Mẹ tôi kéo tôi ra khỏi bàn ăn, tôi bị đuổi lên gác thượng một cách nhục nhã. Bà tôi đi lên và bịt miệng cười:
    -Cha mẹ ơi, ai bảo mày nghịch tinh nghịch quái như thế! Cầu Chúa che chở cho mày.
    Tôi không thích bà tôi bịt miệng lại như vậy. Tôi chạy đi chỗ khác. Tôi leo lên mái nhà và ngồi nấp phía sau ống khói một lúc lâu. Đúng, tôi rất muốn nghịch ngợm, tôi muốn nói với tất cả mọi người những lời cay độc. Khó mà dập tắt được ý muốn đó, Tức Epgêni Macximôp. vậy mà vẫn phải dập tắt như thường. Một hôm tôi lấy nhựa anh đào bôi vào ghế của ông bố dượng tương lai và người bà mới của tôi, và cả hai đều bị dính vào ghế. Cảnh đó trông thật là buồn cười. Sau khi tôi bị ông tôi đánh, mẹ tôi lên gác thăm tôi. Mẹ tôi kéo tôi vào lòng, kẹp chặt tôi giữa hai đầu gối và hỏi:
    -Nghe đây, sao con lại chơi ác như thế? Giá con biết được điều đó làm mẹ đau lòng như thế nào! Mắt mẹ tôi rưng rưng những giọt lệ long lanh, mẹ tôi áp đầu tôi vào má. Tôi thấy đau khổ quá, thà mẹ tôi cứ đánh cho tôi một trận còn hơn. Tôi hứa sẽ không bao giờ xúc phạm đến hai mẹ con Macximôp nữa, miễn là mẹ tôi đừng khóc.
    -Phải đấy, -mẹ tôi nói nhỏ, -con không nên nghịch ngợm nữa! ít lâu nữa bố mẹ sẽ làm lễ cưới rồi sau đó sẽ đi Matxcơva. Sau đó bố mẹ trở về và con sẽ ở với mẹ. Epgêni Vaxiliêvitạ rất tốt và rất thông minh, ở với bố, con sẽ sung sướng. Rồi con sẽ vào trường trung học, sau đó sẽ trở thành sinh viên giống như bố bây giờ và rồi sẽ thành bác sĩ hoặc làm gì tùy ý. Người có học vấn thì muốn làm gì cũng được. Thôi, đi chơi đi con... Tôi cảm thấy những tiếng "sau đó" mà mẹ tôi lần lượt nói ra đó là một cái thang đi xuống một nơi sâu thẳm nào đấy mỗi lúc một xa mẹ tôi, đi sâu vào bóng tối, vào cảnh cô độc và điều ấy làm cho tôi buồn rầu vô hạn. Tôi rất muốn nói với mẹ tôi:
    -Mẹ đừng đi lấy chồng mẹ ạ, con sẽ nuôi được mẹ! Nhưng tôi không sao nói được điều đó. Mẹ tôi luôn luôn gợi lên trong tâm trí tôi rất nhiều ý nghĩ âu yếm về người, nhưng không bao giờ tôi muốn nói những ý nghĩ ấy cả. Công việc của tôi ở trong vườn tiến hành rất trôi chảy: tôi lấy con dao lớn rẫy hết cỏ dại đi, xung quanh miệng hố, chỗ nào đất bị lở, tôi lấy gạch đắp lại. Tôi xếp gạch thành một chỗ ngồi rộng, có thể nằm được là đằng khác. Tôi nhặt thật nhiều mảnh thủy tinh màu và bát đĩa vỡ đem nhét vào những khe hở giữa các hàng gạch và lấy đất sét trát lại. Khi ánh nắng chiếu vào hố, chúng rực sáng lên những màu sắc rực rỡ giống như ở trong nhà thờ.
    -Khéo nghĩ đấy!
    -Một hôm ông tôi ngắm nghía công trình của tôi và nói.
    -Có điều là cỏ nó sẽ làm mày gay đấy: rẫy cỏ mà không đánh hết rễ! Để tao xới lại đất cho, vào lấy cái mai ra đây! Tôi đem ra một chiếc xẻng bằng sắt. ông tôi nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, vừa lẩm bẩm vừa đưa chân ấn sâu chiếc xẻng xuống lớp đất màu mỡ.
    -Nhặt rễ đi!... Rồi tao sẽ trồng ở đây cho mày mấy cây hướng dương và cây cối xay! Đẹp lắm... Và bỗng ông tôi im bặt, lặng người đi, người vẫn cúi trên chiếc xẻng. Tôi để ý nhìn: từ trong cặp mắt nhỏ thông minh giống như mắt chó của ông tôi, những giọt lệ lăn tăn liên tiếp nhỏ xuống đất.
    -ông làm sao thế? ông tôi giật mình, đưa tay lau mặt và nhìn tôi bằng cặp mắt mờ đục.
    -ông toát mồ hôi đấy! Trông kìa, bao nhiêu là giun! Rồi ông tôi lại tiếp tục đào và bỗng nhiên nói:
    -Mày làm những cái này chỉ tổ phí công thôi, cháu ạ, tao sắp sửa bán nhà rồi, độ mùa thu này là bán. Cần có tiền để làm của hồi môn cho ******. Thôi thì cũng chỉ còn mong sao cho ****** được sung sướng, cầu trời phù hộ cho ******... ông tôi vứt xẻng xuống đất, phẩy tay và đi về phía sau nhà tắm ở góc vườn, chỗ có đặt những chiếc nồi nấu nước.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Đến lượt tôi đào và bị xẻng đâm toạc ngay một ngón chân. Vì vậy tôi không đưa mẹ tôi đến nhà thờ để làm lễ cưới được. Tôi chỉ có thể ra cổng nhìn mẹ tôi khoác tay Macximôp và cúi đầu thận trọng đặt từng bước trên nền gạch của lề đường, trên những bụi cỏ xanh từ trong các kẽ gạch nhô lên, tựa như mẹ tôi đang đi trên những đầu đinh nhọn vậy. Lễ cưới rất âm thầm; sau khi ở nhà thờ về mọi người uống trà một cách buồn tẻ. Mẹ tôi đi thay quần áo ngay rồi vào buồng ngủ xếp đặt hòm xiểng. ông bố dượng tôi ngồi xuống cạnh tôi và nói:
    -Bố có hứa cho con một hộp thuốc màu, nhưng ở đây không có loại nào tốt. Còn hộp của bố thì bố không thể cho con được, lên đến Matxcơva bố sẽ gửi về cho con vậy...
    -Con lấy thuốc màu làm gì?
    -Con không thích vẽ à?
    -Con không biết vẽ.
    -Thôi được, bố sẽ gửi cho con một thứ gì khác vậy. Mẹ tôi bước đến:
    -Bố mẹ sẽ về ngay thôi mà. Khi nào bố con thi xong, tốt nghiệp là bố mẹ trở về... Tôi lấy làm thích thú thấy hai người nói chuyện với tôi như nói với một người lớn, nhưng tôi rất lấy làm lạ thấy một người đã có râu mà vẫn còn đi học. Tôi hỏi:
    -Bố học gì?
    -Đạc điền... Tôi cũng chẳng buồn hỏi đó là cái gì. Một sự im lặng buồn tẻ bao trùm căn nhà, có tiếng gì sột soạt như tiếng len dạ cọ sát vào nhau, mọi người như chỉ mong sao cho trời chóng tối. ông tôi đứng tựa lưng vào lò sưởi, nheo mắt nhìn ra cửa sổ. Bà lão vận đồ xanh giúp mẹ tôi xếp sắp đồ đạc, vừa làm vừa càu nhàu và kêu rên. Còn bà tôi thì say rượu từ trưa, mọi người sợ xấu hổ nên lôi bà tôi lên gác thượng và nhốt ở trên ấy. Sáng sớm hôm sau mẹ tôi lên đường. Khi từ biệt, người ôm lấy tôi, khẽ nhấc tôi lên khỏi mặt đất, nhìn vào mắt tôi bằng cặp mắt xa lạ rồi hôn tôi và nói:
    -Thôi, con ở nhà nhé.
    -Bảo nó ở nhà phải vâng lời tao,
    -ông tôi vừa nói, giọng vẫn gắt, vừa nhìn lên bầu trời còn đang ửng hồng.
    -Con phải vâng lời ông nhé!
    -Mẹ tôi nói và giơ tay làm dấu cho tôi. Tôi chờ đợi mẹ tôi sẽ nói những gì khác kia, và tôi rất bực ông tôi đã làm cho mẹ tôi không nói nữa. Hai vợ chồng lên xe ngựa. Tà áo của mẹ tôi bị móc vào cái gì gỡ mãi không được, mẹ tôi phát cáu.
    -Lại giúp ******, không trông thấy gì à?
    -ông tôi bảo tôi. Tôi vẫn đứng im, nỗi buồn nặng trĩu trong lòng. Macximôp chịu khó xếp đôi chân dài thuỗn bó sát trong hai ống quần xanh vào xe. Bà tôi giúi vào tay Macximôp mấy cái tay nải, ông ta cầm đặt lên đầu gối, lấy cằm đỡ cho khỏi đổ, khuôn mặt tái mét nhăn lại với một vẻ hốt hoảng.
    -Đủ rồi...
    -Macximôp nói, giọng kéo dài. Bà lão vận đồ xanh với người con trai cả là một sĩ quan lên một chiếc xe khác. Bà lão ngồi ngay như tượng, còn người con trai thì lấy chuôi kiếm cọ vào râu và chốc chốc lại ngáp.
    -Thế là anh ra trận đấy hả?
    -ông tôi hỏi.
    -Nhất định rồi!
    -Tốt lắm! Cần phải đánh cho bọn Thổ Nhĩ Kỳ...
    Xe chuyển bánh. Mấy lần mẹ tôi quay lại giơ khăn tay vẫy. Bà tôi, một tay chống vào tường, cũng giơ tay lên vẫy vẫy, nước mắt đầm đìa. ông tôi cũng lấy ngón tay quệt nước mắt và nói càu nhàu, giọng đứt quãng:
    -Rồi chẳng... có gì tốt đâu... chẳng có... Ngồi trên một khúc gỗ, tôi nhìn hai chiếc xe vừa chạy vừa nảy trên mặt đường. Khi chúng đã khuất vào một góc phố, thì trong lòng tôi hình như cũng có một cái gì thắt lại. Trời hãy còn sớm lắm, cửa sổ ở các nhà vẫn còn đóng kín. Đường phố không một bóng người, tôi chưa bao giờ thấy nó vắng tanh vắng ngắt tiêu điều như thế. Từ xa vẳng lại điệu nhạc u uất của một gã mục đồng. Đây nói đến cuộc chiến tranh Nga
    -Thổ năm 1877 -1878.
    -Đi uống trà thôi -ông tôi nắm lấy vai tôi kéo đi và nói.
    -Số phận mày là ở với tao; cho nên mày còn phải đụng chạm với tao như que diêm xát vào gạch vậy. Từ sáng đến chiều tôi với ông tôi mê mải làm việc ở trong vườn. ông tôi đánh luống, buộc các khóm phúc bồn tử, cạo rêu cho các cây táo và bắt sâu. Còn tôi thì chỉ loay hoay xây dựng và trang hoàng cho chỗ ở của tôi. ông tôi lấy rìu chặt bớt đoạn cuối của cây gỗ cháy dở đi và cắm xuống đất những cái cọc bằng gỗ, tôi đem mấy ***g chim treo lên những cái cọc đó. Tôi lấy cỏ khô đánh một tấm gianh thật dày và làm thành cái mái ở phía trên chiếc ghế dài để che nắng che sương. Chỗ ở của tôi thế là tươm rồi. ông tôi nói:
    -Cháu tập lo liệu lấy một mình như vậy là rất tốt. Tôi rất coi trọng những lời của ông tôi. Thỉnh thoảng ông tôi tới nằm trên cái ổ cỏ của tôi và bằng một giọng chậm rãi, như cậy ra từng lời khó nhọc, ông khuyên tôi:
    -Bây giờ mày đã lìa khỏi ****** như một miếng bánh đã cắt rời ra. Rồi ****** sẽ có con khác, đối với ****** chúng nó sẽ thân thiết hơn mày. Còn bà mày thì đã bắt đầu uống rượu rồi. ông tôi im lặng một lúc lâu như nghe ngóng cái gì, sau đó lại miễn cưỡng buông ra những lời nặng nề:
    -Bà mày uống lần này là lần thứ hai đấy. Khi thằng Mikhailô phải đăng lính bà mày cũng đã uống rồi. Lúc ấy, bà mày còn năn nỉ tao mua cho nó một cái giấy miễn đi lính nữa chứ, cái mụ già ngu ngốc ấy! Giá cứ đi lính quách thì bây giờ có thể nó lại khác... Chao ôi, lũ chúng bay... y... thật là... Còn tao thì đã gần kề miệng lỗ rồi, như thế là mày sẽ còn lại có một mình thôi, mày phải lo liệu lấy tất, phải tự kiếm lấy miếng ăn, hiểu không? Thế đấy! Phải tập chỉ trông cậy vào chính bản thân mình, đừng để kẻ khác dắt mũi mình! Hãy sống lặng lẽ, bình thản, nhưng phải cứng cỏi! Ai nói gì cũng nghe, nhưng cứ việc làm theo cách có lợi cho mình. Suốt mùa hè, tất nhiên trừ những hôm trời mưa gió, tôi đều sống ở ngoài vườn, thậm chí cả vào những đêm ấm trời tôi còn ngủ luôn ở đấy trên tấm thảm của bà tôi cho. Chính bà tôi cũng hay ngủ ở ngoài vườn. Bà tôi đem ra một ôm cỏ khô, rải gần chỗ tôi nằm rồi bà tôi nằm xuống và kể cho tôi nghe những câu chuyện rất dài, thỉnh thoảng lại ngừng kể và đột nhiên nói xen vào:
    -Trông kìa, một ngôi sao sa! Chắc đó là linh hồn trong sạch của ai buồn nhớ đến đất Mẹ đấy! Như thế tức là ở đâu đấy lại mới có một người tốt ra đời. Hoặc bà tôi chỉ cho tôi xem:
    -Nhìn kìa, một ngôi sao mới hiện ra! Trông long lanh như một con mắt ấy! ôi, bầu trời, bầu trời xinh đẹp, ngươi là tấm áo khoác lộng lẫy của Chúa... ông tôi càu nhàu:
    -Bà cháu mày rồi đến cảm lạnh mà ốm mất thôi, lũ ngốc ạ...
    Kẻ trộm mà vào thì nó bóp cổ... Đôi khi, vào lúc chiều tà trên bầu trời tỏa ra vô số suối lửa. Chúng tàn dần và đổ xuống vườn cây xanh mượt như nhung một lớp tro màu đỏ pha sắc vàng óng ánh. Một lúc sau tất cả cảnh vật xung quanh đều tối sẫm nhanh chóng, lan rộng mãi ra, phồng lên, chìm vào trong màn đêm nóng bức. Những chiếc lá được tắm no ánh nắng rủ xuống, những ngọn cỏ nằm rạp xuống mặt đất. Tất cả đều trở nên êm dịu hơn, lộng lẫy hơn: muôn hương nhẹ nhàng tỏa ra, dịu dàng như tiếng nhạc. Tiếng nhạc từ cánh đồng xa vọng về: đó là tiếng kèn điểm danh trong trại lính. Đêm xuống dần, và cùng với đêm một cái gì mạnh mẽ, tươi mát như sự âu yếm dịu hiền của người mẹ tràn vào ***g ngực.
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Cảnh tĩnh mịch như một bàn tay ấm áp mịn như nhung khe khẽ vuốt ve trái tim. Và tất cả mọi ấn tượng xấu xa, tất cả làn bụi li ti và nóng bỏng trong ngày hôm đó đều bị xóa mờ đi trong tâm trí. Thật thú vị khi nằm ngửa mặt lên trời, ngắm những vì sao mỗi lúc một sáng thêm khiến cho bầu trời càng thêm sâu thẳm. Cái vực sâu thăm thẳm đó cứ vươn cao lên mãi, làm hiện ra những vì sao mới, nó nhẹ nhàng nâng bổng ta lên khỏi mặt đất và làm cho ta có một cảm giác thật là kỳ lạ: lúc thì ta cảm thấy toàn bộ trái đất thu nhỏ cho hợp với ta, lúc thì ta cảm thấy lớn lên một cách tuyệt vời, tỏa rộng và lan xa, hòa vào mọi vật xung quanh. Trời mỗi lúc một tối hơn, không khí mỗi lúc một thêm lặng lẽ. Nhưng khắp mọi nơi như có căng những sợi dây đàn vô tình rất nhậy; mỗi một âm thanh, tiếng chim hót trong giấc ngủ, tiếng nhím chạy qua hoặc một giọng nói nhỏ ở đâu đó -tất cả những âm thanh đó đều được bầu không khí lặng như tờ làm vang lên, đều ngân lên rất đặc biệt, khác hẳn lúc ban ngày. Tiếng phong cầm, tiếng cười của phụ nữ, tiếng gươm kéo lê trên nền gạch hè đường, tiếng chó sủa -tất cả những âm thanh vô ích đó đều giống như những chiếc lá rụng cuối cùng của một ngày tàn. Có những đêm ở ngoài đồng hoặc trên đường phố bỗng dội lên tiếng hát của người say rượu, tiếng chân người chạy thình thịch nặng nề, nhưng những cái đó đã quá quen thuộc và không còn ai chú ý đến nữa. Bà tôi thao thức rất lâu, bà tôi nằm, đầu gối lên hai bàn tay bắt chéo và kể chuyện với niềm hào hứng nhẹ nhàng, không hề để ý xem tôi có nghe hay không. Bao giờ bà tôi cũng khéo chọn những truyện cổ tích khiến cho đêm càng thêm ý vị và đẹp đẽ. Giọng nói du dương của bà tôi thường làm tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết và tôi tỉnh dậy vào lúc chim hót. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt tôi, không khí ban mai run rẩy nhẹ nhàng, mỗi lúc một thêm ấm áp. Lá táo rũ những hạt sương xuống đất, những ngọn cỏ xanh ướt đẫm mỗi lúc một sáng rực lên, một làn hơi mỏng manh trong suốt như pha-lê bốc lên từ mặt cỏ. Trên bầu trời tim tím những tia nắng mỗi lúc một tỏa rộng như chiếc quạt đang xòe dần ra, bầu trời chuyển thành màu xanh. Tiếng chim sơn ca hót tít trên cao, và tất cả những màu sắc, âm thanh thấm vào lòng như những giọt sương mai, khơi lên một niềm vui thanh thản khiến người ta muốn dậy ngay, làm việc và sống hòa thuận với tất cả mọi sinh vật xung quanh mình. Đây là thời kỳ phẳng lặng và thơ mộng nhất trong đời tôi, và chính trong mùa hè này cảm giác tự tin vào sức mình đã nảy nở và lớn mạnh.
    Tôi trở thành con người thờ ơ, thích cô độc. Nghe tiếng lũ trẻ nhà ạpxiannikôp la hét tôi cũng mặc kệ. Bọn em họ có đến chơi tôi cũng không mừng rỡ chút nào, mà chỉ sợ chúng phá mất những công trình của tôi ở ngoài vườn -sự nghiệp đầu tiên do tôi tự tạo nên. Cả những lời nói của ông tôi cũng không còn làm cho tôi bận tâm nữa, càng ngày giọng của ông tôi càng trở nên khô khan, gắt gỏng, than vãn. ông tôi bắt đầu hay cãi cọ với bà tôi và đuổi bà tôi đi. Bà tôi lúc thì đến nhà cậu Iakôp, lúc thì đến nhà cậu Mikhain. Đôi khi đến mấy ngày liền bà tôi không về, ông tôi phải thổi nấu lấy; bị bỏng tay, ông tôi la lối, chửi bới và đập phá bát đĩa. Tính keo kiệt của ông tôi ngày càng tăng. Thỉnh thoảng ông tôi vào lều của tôi, ngồi chễm chệ lên ổ cỏ và lẳng lặng nhìn tôi một lúc lâu, rồi đột nhiên hỏi:
    -Sao cứ im thin thít thế?
    -Cháu vẫn thế... Sao kia ạ? Và ông tôi bắt đầu "lên lớp" cho tôi:
    -Chúng ta không phải là bọn quý tộc. Không ai dạy chúng ta hết. Chúng ta phải tự hiểu lấy tất cả. Người ta thì có sách vở để xem, có trường để học, còn chúng ta thì chẳng có cóc khô gì sất. Phải tự hiểu lấy tất...
    Rồi ông trầm ngâm suy nghĩ, ngồi trơ trơ không nhúc nhích và im bặt, có thể nói là rất khủng khiếp. Đến mùa thu thì ông tôi bán nhà. Trước khi bán ít lâu, một hôm trong lúc uống trà buổi sáng ông tôi bỗng bảo với bà tôi bằng một giọng buồn rầu, nhưng cương quáết:
    -Này, bà nó ạ, tôi nuôi bà như thế đã đủ rồi! Bây giờ thì bà đi kiếm lấy mà ăn.
    Bà tôi tỏ ra hết sức thản nhiên đối với những lời đó, dường như bà tôi đã biết từ lâu là ông tôi sẽ nói như vậy và đang chờ đợi điều đó. Bà tôi thong thả moi hộp thuốc ra, lấy thuốc lá nhét vào cái mũi xôm xốp và nói:
    -Thôi được! Đã vậy thì... ông tôi thuê hai căn buồng nhỏ tối om om ở dưới hầm một ngôi nhà cũ trong một ngõ cụt, phía dưới một ngọn đồi. Khi dọn nhà, bà tôi lấy một chiếc giày gai cũ, cầm sợi dây giày ném vào bếp lò. Rồi bà ngồi xổm và bắt đầu gọi gia thần:
    -Gia thần, gia thần, xe đã sẵn sàng, xin Người hãy cùng đi với chúng tôi tới nơi ở mới, đến với hạnh phúc mới... ông tôi ở ngoài sân nhòm vào cửa sổ, quát lên:
    -Đợi đấy, sẽ có xe đấy, mụ tà giáo kia! Cứ liệu, đừng có bêu diếu tôi.
    -ôi, ông nó ơi, coi chừng kẻo khốn đấy!
    -Bà tôi nói với ông tôi, giọng nghiêm trang. Nhưng ông tôi nổi nóng và cấm bà tôi không được đưa gia thần đi theo. Bàn ghế và những đồ đạc linh tinh khác ông tôi đem bán cho những người Tacta buôn đồ cũ suốt hai ba hôm mới xong. ông tôi đặt giá và chửi bới om sòm, còn bà tôi thì đứng ở cửa sổ nhìn ra, lúc khóc, lúc cười, miệng khẽ lẩm bẩm:
    -Lôi cả đi! Đập hết đi!... Tôi cũng muốn khóc, tôi tiếc cái vườn và túp lều của tôi quá. Chúng tôi dọn nhà đi chỉ cần có hai chiếc xe ngựa. Tôi ngồi trên xe, giữa những đống đồ đạc linh tinh. Xe xóc một cách kinh khủng, dường như muốn hất tôi xuống đất. Và tôi đã sống với cảm giác bị lắc lư liên miên như muốn hất tôi đi như vậy trong khoảng hai năm trời, cho đến tận ngày mẹ tôi mất. Mẹ tôi trở về sau khi ông tôi dọn đến căn hầm được ít lâu. Mẹ tôi trông xanh nhợt, gầy còm, hai mắt mở to, ngỡ ngàng ánh lên như trong cơn sốt. Mẹ tôi nhìn một cách chăm chú kỳ lạ như mới trông thấy ông bà tôi và tôi lần đầu vậy. Mẹ tôi lặng lẽ nhìn cả nhà, còn bố dượng tôi thì cứ đi đi lại lại ở trong phòng, hai tay chắp sau lưng, miệng huýt sáo khe khẽ, chốc chốc lại húng hắng ho, mấy ngón tay khẽ búng vào nhau.
    -Trời, sao con lớn khiếp thế này!
    -Mẹ tôi nói, hai bàn tay nóng hổi áp vào má tôi. Mẹ tôi ăn mặc trông rất xoàng xĩnh: chiếc áo dài màu da cam rộng thùng thình, ở nơi bụng lại phình ra. ông bố dượng chìa tay cho tôi:
    -Chào cậu cả! Độ này thế nào? Rồi ông ta hít hít không khí và nói:
    -Này, ở đây ẩm ướt lắm! Cả hai người như vừa mới qua một cuộc chạy dài, dáng mệt mỏi, quần áo trên người đều nhàu nát, phai bạc. Hai người hình như không còn muốn gì hơn là được nằm nghỉ. Mọi người uống trà trong bầu không khí buồn tẻ. Nhìn những giọt nước mưa chảy trên cửa kính, ông tôi hỏi:
    -Như vậy là cháy sạch cả à?
    -Cháy sạch,
    -bố dượng tôi trả lời, giọng quả quáết.
    -Chúng con phải khó khăn lắm mới lao ra được...
    -Hừ, lửa chứ có phải chuyện đùa đâu! Mẹ tôi áp sát vào vai bà tôi và nói thì thầm vào tai bà. Bà tôi nheo mắt lại như gặp ánh sáng chói. Không khí trong nhà mỗi lúc một buồn hơn. Bỗng ông tôi nói rất to, giọng thản nhiên và có vẻ cay độc.
    -Epgêni Vaxiliep, sao tôi nghe nói là chẳng có cháy chiếc gì cả, mà chỉ vì anh đánh bạc thua hết. Không khí yên lặng như dưới mồi, chỉ nghe thấy tiếng ấm xamôva sôi phì phì và tiếng mưa rơi đập vào cửa kính. Một lúc sau mẹ tôi nói:
    -Bố...
    -Bố cái gì?- ông tôi thét nghe đến đinh tai.
    -Còn muốn gì nữa? Tao đã chẳng bảo rằng ba mươi tuổi đầu đừng có đi lấy đứa hai mươi là gì? Đấy, mày đã được thỏa mãn,; ông chồng thanh lịch của mày đấy! Mày đã là bà lớn, oai ghê! Thế nào, cô quý nữ của tôi! Cả bốn người đều la hét ầm ĩ, la to nhất là bố dượng tôi. Tôi bỏ ra phòng ngoài, leo lên ngồi trên đống củi và lặng đi trong nỗi kinh ngạc: mẹ tôi đã bị người ta làm thay đổi hẳn, hoàn toàn không còn giống như trước nữa. Cảm giác này khi ở trong phòng ít thấy rõ hơn, nhưng ở đây, trong bóng tối lờ mờ, tôi nhớ lại rõ ràng mẹ tôi trước kia như thế nào. Tôi không còn nhớ rõ lắm tại sao về sau tôi lại ở Xôrmôvô, tại một ngôi nhà trong đó tất cả mọi thứ đều còn mới, tường không có giấy bồi, những khe hở giữa các cây gỗ thì bịt bằng sợi gai và có rất nhiều gián ở trong. Mẹ tôi và bố dượng tôi ở hai phòng có cửa sổ trông ra đường, còn tôi với bà tôi thì ở gian bếp chỉ có mỗi một chiếc cửa sổ nhỏ. Vượt lên trên các mái nhà, những ống khói nhà máy đâm thẳng Một khu phố ở Nijni-Nôpgôrôt có những nhà máy quan trọng nhất ở nước Nga. ở Nga nhà gỗ thường làm bằng những cây gỗ nguyên ghép lại. lên trời trông như những ngón tay đen sì và nhả ra những làn khói dày đặc, xoắn tít. Gió mùa đông thổi chúng bay đi khắp xóm. Trong những căn phòng lạnh lẽo của chúng tôi lúc nào cũng có mùi dầu mỡ khét lẹt. Sáng sớm tiếng còi rú lên như tiếng chó sói:
    -U..., u
    -u... u... u... Đứng lên ghế dài nhìn qua những tấm kính bên trên của cửa sổ và qua các mái nhà, có thể thấy cái cổng nhà máy sáng rực ánh đèn. Cánh cổng mở toang trông như cái mồm móm đen ngòm của một lão hành khất đang há ra cho đám người bé nhỏ lũ lượt tuồn vào. Giữa trưa tiếng còi lại rúc lên, hai cánh cổng nom như cặp môi đen sì lại há ra, để lộ cái hốc mồm sâu hoắm; những con người đã bị nhà máy nuốt chửng lại như bị tuôn ra. Họ đổ ra đường như một dòng nước đen sì. Một cơn gió mang theo tuyết trắng như bông thổi lùa vào đường phố, xua đuổi và dồn họ về những căn nhà của họ. Bầu trời trên xóm làng rất ít khi nhìn thấy: ngày này qua ngày khác phía trên các mái nhà, trên các đống tuyết đen kịt muội bồ hóng, người ta thấy lơ lửng một cái mái khác màu xám và bằng phẳng; nó đè trĩu lên óc tưởng tượng và làm lóa mắt người ta bởi cái màu sắc đơn điệu buồn tẻ của nó. Tối tối trên bầu trời nhà máy lập lờ một vừng sáng màu đỏ đục chiếu vào các đỉnh ống khói; người ta có cảm tưởng như các ống khói từ trong đám khói nhô ra, không phải vươn lên trời, mà là chúc xuống đất.
    Chúng tuôn ra những tia lửa đỏ rực, gào rú lên. Nhìn tất cả những cái đó tôi cảm thấy bực dọc vô hạn, một nỗi buồn chua xót da diết trong lòng. Bà tôi trở thành người làm bếp; bà tôi nấu nướng, cọ sàn, bổ củi, xách nước, quần quật suốt từ sáng đến tối, và khi đi nằm bà tôi rã rời cả chân tay, vừa than vãn, vừa rên rỉ. Thỉnh thoảng sau khi làm lụng xong, bà tôi mặc một chiếc áo cánh bông ngắn, vén váy lên thật cao và đi ra phố.
    -Xem lão già ở trên đó sống ra sao...
    -Cho cháu đi với!
    -Cháu sẽ chết rét mất thôi. Xem bão tuyết kia kìa! Rồi bà tôi đi hơn bảy vecxta trên con đường bị ngập giữa những cánh đồng tuyết. Mẹ tôi người vàng bủng, có chửa, co ro trong chiếc khăn san rách màu xám, có tua xung quanh. Tôi căm ghét chiếc khăn đó, nó làm cho thân hình to lớn, cân đối của mẹ tôi xấu xí hẳn đi. Tôi ghét và thường rứt đứt những tua ở xung quanh khăn. Tôi căm ghét cả ngôi nhà, xưởng máy và xóm làng. Mẹ tôi đi một đôi ủng bẹp dúm dó, mỗi khi ho thì cái bụng to phình lại lắc lư trông thật quái gở. Cặp mắt xanh xám của người ánh lên những nét khô khan và giận dữ, và thường hay nhìn trừng trừng vào những bức tường trơ trụi như bị dán chặt vào đó. Đôi khi mẹ tôi nhìn hàng giờ qua cửa sổ ra đường. Đường phố trông giống như một hàm răng, một số răng vì già nua nên đã đen kịt, khấp khểnh; một số đã rụng, và người ta đã vụng về thay vào đó những chiếc răng mới to quá khổ so với hàm.
    -Chúng ta ở đây làm gì?
    -Tôi hỏi. Mẹ tôi trả lời:
    -ôi, im đi con ạ... Mẹ tôi ít nói với tôi, mà thường chỉ ra lệnh:
    -Đi đi... Đưa đây... Đem lại đây... Tôi ít khi được ra đường; lần nào về nhà tôi cũng bị bươu đầu sứt trán vì bị tụi trẻ con đánh. Đánh nhau là thú vui duy nhất của tôi. Cho nên tôi đánh nhau rất say mê. Mẹ tôi lấy thắt lưng quất tôi, nhưng sự trừng phạt chỉ kích thích tôi thêm và lần sau tôi càng đánh nhau với tụi trẻ con một cách điên khùng hơn, và mẹ tôi cũng lại trừng phạt tôi nghiêm khắc hơn.
    Một lần tôi cáo trước cho mẹ tôi biết rằng nếu mẹ tôi không thôi đánh tôi thì tôi sẽ cắn tay mẹ tôi, rồi chạy ra đồng và ở lỳ đến chết cóng ở đó. Mẹ tôi sửng sốt đẩy tôi ra, rồi đi đi lại lại trong phòng và vừa thở với vẻ mệt nhọc vừa nói:
    -Đồ bất trị! Chiếc cầu vồng sinh động, lung linh của những tình cảm mà người ta gọi là lòng thương yêu đã phai nhạt đi trong tâm hồn tôi và càng ngày càng hay bùng lên những ngọn lửa xanh đầy thán khí
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    -ngọn lửa tức giận đối với tất cả mọi thứ; nỗi bất bình nặng nề, cảm giác sống cô độc trong cái thế giới vô nghĩa, một màu xám xịt và điêu tàn này, cứ âm ỉ trong trái tim tôi. Bố dượng tôi rất nghiêm khắc đối với tôi và ít khi nói chuyện với mẹ tôi. Suốt ngày ông ta chỉ huýt sáo miệng, ho và sau bữa trưa thì đứng trước gương lấy tăm xỉa những chiếc răng khấp khểnh rất cẩn thận và rất lâu. Càng ngày bố dượng tôi càng hay cãi nhau với mẹ tôi, gọi mẹ tôi bằng "cô" một cách giận dữ. Lối xưng hô đó làm cho tôi tức giận ghê gớm. Những lúc cãi nhau bao giờ bố dượng tôi cũng đóng chặt cửa thông vào bếp, có lẽ ông ta không muốn cho tôi nghe thấy lời nói của mình, tuy vậy tôi vẫn lắng nghe được cái giọng trầm trầm, khàn khàn của ông ta. Một lần ông ta giậm chân và hét:
    -Chỉ vì cái bụng chướng mắt của cô mà tôi không thể mời ai đến chơi được, thật là giống bò cái! Tôi sửng sốt và tức giận như điên dại đến nỗi tôi nhảy bắn lên ở trên lò sưởi, đập cả đầu vào trần nhà và cắn vào lưỡi đến chảy cả máu. Cứ đến thứ bảy là có hàng chục người đem phiếu thực phẩm đến bán cho bố dượng tôi. Người ta đã trả công cho họ bằng phiếu thay cho tiền mặt, và họ sẽ dùng phiếu để mua thực phẩm ở cửa hàng nhà máy. Bố dượng tôi mua lại những phiếu đó chỉ bằng nửa tiền. ông ta tiếp họ ở trong bếp; ngồi sau một chiếc bàn, vẻ mặt quan trọng và cau có, ông ta cầm phiếu và nói:
    -Một rúp rưỡi.
    -Epgêni Vaxiliep, ông hãy nể Chúa một chút...
    -Một rúp rưỡi. Cuộc sống vô nghĩa, tối tăm đó kéo dài không lâu. Trước khi mẹ tôi ở cữ, tôi được đưa tới chỗ ông tôi. Lúc này ông tôi đã về ở Kunavinô, ông ở trong một căn phòng chật hẹp có lò sưởi Nga và hai cửa sổ trông ra sân trong một ngôi nhà hai tầng ở phố Pêxtạanaia. Phố này chạy dưới chân một quả đồi xuống đến hàng rào khu nghĩa địa của nhà thờ Đức Bà Đồng trinh.
    -Sao?
    -ông tôi hỏi khi thấy tôi và cất tiếng cười the thé.
    -Ngày xưa người ta nói: "Không có người nào đáng yêu hơn mẹ đẻ", còn bây giờ có lẽ chúng ta phải nói: "Không phải mẹ đẻ, mà chính là ông ngoại quái quỷ này!" ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là...
    Tôi chưa kịp quen với chỗ ở mới thì bà và mẹ tôi với em bé tôi tới. Bố dượng tôi bị đuổi khỏi nhà máy vì tội bòn mót của anh em thợ, nhưng ông ta chạy chọt và được tuyển ngay vào làm chân bán vé tại nhà ga. Sau những ngày không có việc gì xảy ra, tôi lại được đưa về ở với mẹ tôi trong tầng hầm một ngôi nhà đá. Lập tức mẹ tôi tống tôi đến trường. Nhưng ngay từ ngày đầu tiên trường học đã làm tôi chán ghét. Tôi đến trường với đôi giày của mẹ tôi, mặc chiếc áo bành tô nhỏ, nguyên là áo của bà tôi chữa lại, một chiếc sơ-mi màu vàng và một cái quần dài bỏ ống ra ngoài ủng. Cách ăn mặc lố lăng đó lập tức bị đem ra chế giễu. Vì chiếc áo sơ-mi màu vàng mà tôi bị gọi là "thằng tù". Với tụi trẻ con tôi đã hòa hợp được nhanh chóng, nhưng thầy giáo và ông giáo sĩ thì vẫn ghét tôi. Thầy giáo tôi có nước da vàng bủng, đầu hói, thường xuyên chảy máu cam, với hai lỗ mũi nhét đầy bông, ông ta bước vào lớp, ngồi vào bàn và hỏi bài bằng giọng mũi. Đang nói nửa chừng ông ta bỗng im bặt, rút bông ở lỗ mũi ra, ngắm nghía rồi lắc đầu. Mặt ông ta trông nhẵn lì, nước da như màu đồng gỉ; giữa những nếp nhăn có những vệt xanh xanh, nhất là cặp mắt màu thiếc hoàn toàn thừa trên bộ mặt đó lại càng làm cho nó thêm xấu xí. Hai con mắt ấy dính chặt vào mặt tôi rất khó chịu khiến tôi luôn luôn muốn đưa bàn tay lên lau má. Mấy hôm đầu tôi ngồi ở dãy bàn trên cùng, ngay bàn đầu, gần sát với thầy giáo. Ngồi ở đây thật khó Những người tù bị khâu vào lưng áo một miếng vải hình vuông đỏ hoặc vàng. Tôi có cảm giác như ông ta không nhìn thấy ai hết, ngoài tôi ra. Suốt buổi ông ta nói bằng giọng mũi:
    -Pêxkôp, thay áo sơ-mi đi! Pêxkôp, đừng động đậy chân! Pêxkôp, nước ở giày lại chảy ra thành vũng rồi! Tôi trả thù ông ta bằng những trò nghịch ngợm quỷ quái. Một lần tôi kiếm được nửa quả dưa hấu ướp lạnh. Tôi đem khoét ruột ra và lấy một sợi chỉ buộc nó vào chiếc ròng rọc ở cửa ra vào chỗ phòng ngoài tranh tối tranh sáng. Khi mở cửa thì quả dưa chạy lên trên, và khi thầy giáo khép cửa lại thì quả dưa chụp vào cái đầu hói của thầy y như một cái mũ vậy. Người gác trường dẫn tôi về nhà cùng với lá thư của thầy giáo, và vì trò tinh nghịch đó tôi đã bị một trận đòn nên thân. Một lần khác tôi rắc loại thuốc lá dùng để hít vào ngăn bàn thầy. Thầy bị hắt hơi đến nỗi phải bỏ lớp về và cử anh con rể đến dạy thay. Người con rể đó là một sĩ quan, y bắt cả lớp hát bài "Chúa hãy cứu giúp Nga hoàng" và bài "ôi, tự do, tự do của ta". Những ai hát không đúng bị y lấy thước kẻ gõ vào đầu. Y gõ rất kêu, nhưng không đau. Và làm cho cả lớp cười rộ lên. Thầy giáo dạy giáo lý
    -một giáo sĩ trẻ và đẹp trai có bộ tóc rất đẹp
    -rất ghét tôi vì tôi không có cuốn "Thánh sử của Cựu ước và Tân ước thư" và vì tôi hay nhại lại lối nói của ông ta. Vào lớp, việc đầu tiên là ông ta hỏi tôi:
    -Pêxkôp, có đem sách đi không? Đúng. Có đem sách không? Tôi trả lời:
    -Không ạ, con không đem. Đúng.
    -Đúng cái gì?
    -Không đem ạ.
    -Thế thì đi về ngay! Đúng, đi về. Vì tao không có ý định dạy mày. Đúng, tao không định dạy đâu. Điều đó không làm cho tôi buồn lắm. Tôi bỏ ra ngoài và đi tha thẩn trên những con đường bẩn thỉu ở trong xóm cho đến hết giờ học, vừa đi vừa để ý quan sát cuộc sống ồn ào của nó. Viên giáo sĩ có khuôn mặt sùng kính của Chúa Giê-su, cặp mắt dịu dàng như mắt phụ nữ và hai bàn tay nhỏ nhắn cũng dịu dàng đối với tất cả những gì được mó tới. Từ quyển sách, đến cái thước, cái quản bút
    -ông ta đều nhấc lên một cách thận trọng lạ thường, dường như đó là một sinh vật hay vật rất dễ vỡ, ông ta yêu mến mọi vật lắm, chỉ sợ cầm không khéo thì hỏng mất. Đối với trẻ con ông ta không âu yếm như vậy, song chúng vẫn mến ông ta. Mặc dầu tôi học cũng tạm được, Nhưng chẳng bao lâu tôi được cáo rằng tôi bị đuổi ra khỏi trường Quốc ca của nước Nga thời Nga hoàng. vì hạnh kiểm xấu. Tôi chán nản vô cùng, vì chuyện này có thể đem lại cho tôi những rầy rà lớn: mẹ tôi càng đâm ra bẳn tính, và càng hay đánh đập tôi hơn. Nhưng thật là may mắn cho tôi: giám mục Crixanthơ đột nhiên tới trường. ông ta trông giống như một thầy phù thủy, và tôi còn nhớ là ông ta gù lưng. ông ta người nhỏ bé, mặc một chiếc áo đen rộng, đầu đội mũ nom rất buồn cười. Khi ông ngồi vào bàn, thò hai tay từ trong tay áo ra và nói: "Nào, các con chúng ta hãy nói chuyện với nhau!", không khí lớp học lập tức trở nên ấm cúng, vui vẻ, gây nên một cảm giác dễ chịu khác thường. Sau nhiều người, đến tôi được gọi lên bàn ông. ông hỏi bằng giọng nghiêm trang:
    -Con lên mấy?... Thế thôi à? Sao cao ghê thế, anh bạn? Con hay dầm mưa lắm phải không? ông ta đặt bàn tay khô khẳng với những móng tay dài và nhọn lên bàn, mấy ngón tay nắm lấy chòm râu lơ thơ. ông nhìn đăm đăm vào mặt tôi bằng cặp mắt dịu hiền và nói:
    -Nào, con hãy nói cho ta nghe, trong Thánh sử con thích chuyện gì nào? Khi tôi nói rằng tôi không có sách và tôi không học Thánh sử, ông ta đưa tay sửa lại mũ và hỏi:
    -Thế là thế nào? Cần phải học chứ? Có thể là con biết hoặc đã nghe kể về Thánh sử chăng? Con biết Thánh thi à? Giỏi! Cả Kinh thánh nữa chứ? Đó, thấy không? Biết cả sự tích các thánh nữa à? Bằng thơ à? Con giỏi lắm! ông giáo sĩ của chúng tôi bước vào, mặt mũi đỏ bừng, thở hổn hển. Giám mục ban phúc cho ông ta, nhưng khi ông ta bắt đầu nói đến tôi thì giám mục nói và giơ tay lên:
    -Xin phép một chút... Nào, con hãy kể về Thánh Alêcxây, người của Chúa xem nào...
    -Những câu thơ rất hay, phải không anh bạn?
    -ông nói khi tôi quên một câu nào đó và ngừng lại.
    -Còn bài nào nữa không? ... Về vua Đavit à? Ta rất vui lòng nghe! Tôi nhận thấy ông ta quả có lắng nghe và thích bài thơ lắm. ông hỏi tôi rất lâu, rồi bỗng ông ngắt lời tôi rất nhanh và hỏi:
    -Con đọc theo Thánh thi à? Ai dạy? Chắc ông con hiền lắm phải không? ác à? Chẳng có lẽ! Thế con có nghịch ngợm lắm không? Tôi lúng túng, nhưng rồi trả lời:
    -Có ạ.
    Thầy giáo và ông giáo sĩ xác nhận lời thú nhận của tôi bằng những câu nói dài dòng. Giám mục ngồi nghe, mắt nhìn xuống đất, rồi thở dài và nói:
    -Mọi người nói về con những gì con đã nghe thấy chưa? Nào, lại đây! ông đặt tay lên đầu tôi, bàn tay phảng phất mùi gỗ trắc cá, và hỏi tôi:
    -Tại sao con lại nghịch như vậy?
    -Học chán lắm ạ.
    -Chán à? Không đúng thế đâu, anh bạn ạ. Nếu con chán học thì con học phải kém chứ, đằng này các thầy giáo đều nói là con học khá cơ mà! Thế thì ắt phải có nguyên nhân gì khác đấy thôi. ông rút trong ngực áo ra một cuốn sổ nhỏ và ghi:
    -Pêskôp, Alêcxây. Được rồi! Dù sao cũng phải cố dằn lòng mới được, anh bạn ạ, và đừng có nghịch ngợm quá! Nghịch một chút thôi thì được, còn nếu nghịch quá thì sẽ làm cho thiên hạ bực mình! Ta nói có phải không, các con? Nhiều giọng nói vui vẻ đáp lại:
    -Vâng ạ.
    -Cả các con cũng không nghịch ngợm quá phải không? Đám trẻ con mỉm cười ranh mãnh, trả lời:
    -Có chứ! Cũng nghịch lắm ạ! Nghịch lắm ạ! Giám mục ngả người lên thành ghế, ghì chặt lấy tôi và nói một cách hết sức lạ thường đến nỗi tất cả mọi người
    -ngay cả thầy giáo và ông giáo sĩ
    -đều phải bật cười:
    -Thế đấy, các chú em của ta ạ, vào tuổi các em ta cũng là một ông tướng nghịch đấy! Vì sao thế nhỉ, các em? Bọn trẻ con cười, ông ta hỏi han chúng, khéo làm cho cả lớp rối trí, khiến chúng phải tranh cãi với nhau. Không khí mỗi lúc một vui vẻ thêm. Cuối cùng ông đứng dậy và nói:
    -ở đây với các con rất thích, các chú bé nghịch ngợm ạ, nhưng đến lúc ta phải đi rồi! ông giơ tay lên, vén tay áo, khoát tay làm dấu cho tất cả mọi người và chúc:
    -Nhân danh Cha và Con và Thánh thần, chúc cho các con làm được những việc tốt lành! Thôi chào các con! Tất cả bọn trẻ con đều kêu lên:
    -Tạm biệt Đức Cha! Xin mời Đức Cha trở lại đây lần nữa. Giám mục gật đầu, nói:
    -Ta sẽ trở lại! Sẽ trở lại! Ta sẽ đem sách đến cho các con! Vừa nhẹ nhàng rời lớp học, ông vừa bảo thầy giáo:
    -Thầy cho các em về đi! ông nắm tay tôi dắt ra phòng ngoài. Ra đến nơi, ông cúi xuống bên tôi và nói khe khẽ:
    -Con phải tự kiềm chế mình nhé, được không? Ta hiểu vì sao con nghịch ngợm rồi! Thôi, tạm biệt anh bạn nhỏ của ta! Tôi hết sức xúc động, một cảm giác đặc biệt rạo rực trong lòng tôi. Sau khi cho lớp học giải tán, thầy giáo giữ tôi ở lại và bảo tôi rằng từ giờ tôi phải ngoan ngoãn hơn, tôi cũng lắng nghe một cách chăm chú và tự nguyện. ông giáo sĩ vừa khoác áo lông vào người, vừa nói bằng giọng dịu dàng:
    -Từ nay mày phải đến học các giờ của tao! Đúng. Phải đến.
    Nhưng phải ngồi cho nghiêm chỉnh! Đúng. Phải ngồi cho nghiêm chỉnh. Công việc của tôi ở trường tạm ổn thì ở nhà lại xảy ra một chuyện không hay: tôi ăn cắp của mẹ tôi một rúp. Việc này tôi không có chủ ý trước. Một hôm vào buổi tối mẹ tôi đi đâu không rõ, để tôi ở nhà trông em. Ngồi buồn, tôi giở một quyển sách của bố dượng ra xem
    -cuốn "Bút ký của người thầy thuốc" của Đuáma-Bố, và giữa các trang sách tôi nhìn thấy hai tờ giấy bạc: một tờ mười rúp và một tờ một rúp. Cuốn sách tôi đọc không hiểu, tôi bèn gấp lại. Bỗng tôi hình dung ra rằng với một rúp không những tôi có thể mua được quyển "Thánh sử", mà có lẽ còn mua được cả cuốn "Rôbinxơn". Tôi biết đến cuốn sách này trước đó không lâu, trong một buổi học ở trường. Vào một ngày giá rét, trong lúc ra chơi, tôi kể cho bọn trẻ con nghe một truyện cổ tích. Bỗng một đứa trong bọn chúng nhận xét có vẻ khinh miệt:
    -Truyện cổ tích chỉ là chuyện nhảm nhí thôi. "Rôbinxơn" mới thực là truyện! Có mấy đứa nữa cũng đã đọc "Rôbinxơn" rồi, tất cả đều khen cuốn sách đó. Tôi cảm thấy bực mình vì chúng không thích truyện cổ tích của bà tôi. Tôi bèn định bụng đọc "Rôbinxơn" cho bằng được để rồi cũng sẽ bảo cuốn sách đó là chuyện nhảm nhí! Ngày hôm sau tôi mang tới trường cuốn "Thánh sử" và hai tập truyện cổ tích đã nhàu nát của Anđecxen, ba fun bánh mì trắng và một fun xúc-xích. Trong một cửa hàng nhỏ, tối om ở cạnh hàng rào nhà thờ Thánh Vlađimia có bán cả "Rôbinxơn"
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    -một cuốn sách mỏng, bìa vàng, trên trang đầu vẽ một người râu ria xồm xoàm, đầu đội chiếc mũ lông hình chóp, trên vai khoác tấm da thú. Bức tranh đó tôi không thích; còn các truyện cổ tích thì bề ngoài trông cũng đã đáng yêu rồi, mặc dầu nhàu nát. Trong giờ nghỉ giữa buổi, tôi đem phân chia cho bọn trẻ con bánh mì và xúc-xích, rồi chúng tôi bắt đầu đọc truyện cổ tích kỳ lạ "Chim họa mi". Truyện này ngay lập tức đã làm cho chúng tôi háo hức. "ở Trung Quốc mọi người dân đều là người Trung Quốc, cả vua cũng là người Trung Quốc"
    -Tôi còn nhớ câu này đã làm cho tôi ngạc nhiên một cách dễ chịu như thế nào bởi tính cách giản dị của nó, bởi nhạc điệu như mỉm cười vui vẻ và một cái gì đó nữa đẹp đẽ lạ thường. Tôi không đọc được hết "Chim họa mi" ở trường vì không đủ thì giờ. Khi tôi về đến nhà thì mẹ tôi đang đứng bên bếp lò tráng trứng, tay cầm một chiếc chảo nhỏ. Mẹ tôi hỏi tôi bằng giọng rất lạ, gần như hết hơi:
    -Mày lấy một rúp của tao phải không?
    -Phải, con lấy mua sách đấy. Đây, sách đây... Mẹ tôi cầm chảo nện luôn cho tôi một cái rất đau, còn mấy cuốn sách của Anđecxen thì mẹ tôi lấy và giấu biệt đi đâu mất, điều này còn làm tôi xót xa hơn cả bị đòn. Mấy ngày liền tôi không tới trường. Trong thời gian đó hẳn là bố dượng tôi đã đem kể lại cái "thành tích" của tôi cho những người đồng sự nghe, và những người này lại kể cho con cái họ. Một đứa trong số đó đem chuyện này tới trường, và đến khi tôi đi học liền được đón tiếp bằng một cái tên mới: "Thằng ăn cắp". Cái tên thật giản dị và rõ ràng nhưng không đúng, vì tôi có giấu việc tôi lấy đồng rúp đâu. Tôi muốn giải thích điều đó, nhưng người ta không tin tôi. Tôi bèn về nhà và bảo với mẹ tôi rằng tôi sẽ không đi học nữa. Mẹ tôi ngồi bên cửa sổ; lúc đó mẹ tôi lại đang có mang, nước da xám ngoét, cặp mắt trông đờ đẫn và khổ não. Mẹ tôi đang cho Xasa bú, mẹ nhìn tôi, mồm há ra như cá.
    -Mày nói láo,
    -mẹ tôi nói khẽ,
    -không ai có thể biết chuyện mày lấy đồng rúp cả.
    -Mẹ cứ đi mà hỏi xem.
    -Chính mày ba hoa thì có. Nào, nói đi, có phải chính mày đã ba hoa không? Liệu đấy, mai tao sẽ tìm cho ra đứa nào đem chuyện đó đến trường! Tôi nói tên một đứa học sinh. Mặt mẹ tôi nhăn lại vẻ đau đớn và thổn thức khóc. Tôi bỏ xuống bếp, lên giường nằm. Chiếc giường của tôi là những chiếc hòm kê ở đằng sau lò sưởi. Tôi nằm và nghe tiếng nức nở khe khẽ của mẹ tôi ở trong phòng:
    -Trời ơi! Trời ơi!... Không sao chịu nổi cái mùi kinh tởm bốc ra từ những mớ giẻ rách dính mỡ bị đốt, tôi trở dậy và đi ra sân, nhưng mẹ tôi gọi lại:
    -Mày đi đâu thế? Đi đâu? Lại đây tao bảo!... Chúng tôi ngồi trên sàn nhà. Xasa nằm trong lòng mẹ tôi, nó nắm lấy những chiếc khuya trên áo dài của mẹ tôi, cúi xuống và nói:
    -Huy,
    -ý nó muốn nói: khuy. Tôi ngồi sát bên sườn mẹ tôi. Mẹ tôi ôm lấy tôi và nói:
    -Chúng ta nghèo. Đối với chúng ta mỗi kôpêch, mỗi kôpêch... Mẹ tôi vẫn không nói hết một điều gì đó, người ghì chặt tôi trong cánh tay nóng hổi.
    -Đồ vô lại... Đồ vô lại!
    -Mẹ tôi bỗng nhiên thốt ra những tiếng mà có lần tôi đã nghe thấy mẹ tôi nói. Xasa nhắc lại:
    -Vô nại! Xasa là một thằng bé kỳ lạ: vụng về, đầu to, nó nhìn tất cả mọi vật xung quanh bằng cặp mắt xanh rất đẹp, miệng khẽ mỉm cười và hình như đang chờ đợi một cái gì. Nó biết nói sớm một cách lạ thường, không bao giờ khóc, luôn luôn sống trong trạng thái vui vẻ bình thản. Nó rất yếu ớt, chỉ bò được đôi chút và rất vui mừng mỗi khi nhìn thấy tôi. Nó hay đòi tôi bế và thích mân mê tai tôi bằng những ngón tay mềm mại nhỏ xíu mà không hiểu sao lại phảng phất mùi hoa viôlet. Nó chết đột ngột, không ốm đau gì cả. Buổi sáng nó còn vui vẻ, yên lành như mọi ngày, nhưng đến lúc lễ tối, nó đã nằm ở trên bàn rồi. Việc này xảy ra ít lâu sau ngày sinh đứa em thứ hai Nikôlai. Mẹ tôi làm đúng như đã hứa; sinh hoạt của tôi ở trường lại trở lại bình thường. Nhưng rồi tôi lại bị quẳng đến ở với ông tôi. Một hôm trong bữa trà tối, lúc ở sân đi vào bếp, tôi bỗng nghe thấy tiếng mẹ tôi kêu não nuột:
    -Epgêni, tôi xin anh, tôi xin anh...
    -Ngu vừa vừa chứ!
    -Bố dượng tôi nói.
    -Thì tôi biết là anh đến với cô ta mà lại!
    -Thì sao? Trong mấy giây cả hai đều im lặng. Cuối cùng mẹ tôi vừa ho sù sụ vừa nói:
    -Anh thật là một tên vô lại độc ác!... Tôi nghe thấy tiếng bố dượng đánh mẹ tôi, tôi liền chạy bổ vào phòng thì thấy mẹ tôi ngã khuỵu xuống đất, lưng và khuỷu tay dựa vào ghế, ngực ưỡn ra, đầu ngửa lên, thở khò khè, hai mắt long lanh trông thật đáng sợ, còn bố dượng tôi thì ăn mặc sạch sẽ trong bộ lễ phục mới, đang giơ cái cẳng dài ngoẵng ra đạp vào giữa ngực mẹ tôi. Tôi vớ lấy con dao có chuôi bằng xương mạ bạc dùng để cắt bánh mì ở trên bàn
    -vật duy nhất mẹ tôi còn giữ được sau khi bố tôi chết
    -và lấy hết sức đâm vào sườn bố dượng tôi. May quá, mẹ tôi đã kịp đẩy Macximôp sang bên. Con dao sượt qua sườn làm toạc mất một mảng lớn trên bộ lễ phục và chỉ làm sầy da thôi. Bố dượng tôi kêu "ối", bỏ chạy ra khỏi phòng, tay ôm lấy sườn, còn mẹ tôi thì vồ lấy tôi, nhấc lên và ném tôi xuống sàn nhà cùng với một tiếng rú. Bố dượng tôi từ ngoài sân trở vào, giằng lấy tôi. Tuy thế, bố dượng tôi vẫn cứ đi đến khuya, khi bố dượng tôi đã đi khỏi, mẹ tôi leo lên lò sưởi với tôi. Người khẽ ôm lấy tôi, hôn tôi và khóc:
    -Con tha thứ cho mẹ, mẹ có lỗi với con! ôi, con yêu quý, sao con lại có thể làm như thế được. Dùng đến cả dao ư? Với một thái độ hết sức chân thành và hiểu rất rõ những điều mình nói, tôi bảo mẹ tôi rằng rôi sẽ đâm chết bố dượng rồi cắt cổ tự tử luôn. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm như thế lắm, hoặc dù sao tôi cũng thử làm. Mãi đến nay tôi vẫn còn nhìn thấy cái chân dài ngoẵng đáng nguyền rủa đó với cái nẹp sặc sỡ chạy dọc theo ống quần. Tôi nhìn thấy nó vung lên trong không khí và phóng mũi giày vào ngực mẹ tôi. Hồi tưởng lại những chuyện ghê tởm nặng nề này trong cuộc sống man rợ của người Nga, nhiều lúc tôi tự hỏi: có nên nhắc lại hay không? Và mỗi lần, với lòng tin tưởng mới, tôi lại tự trả lời: phải nhắc lại, bởi vì đó là một sự thật dai dẳng, đáng phỉ nhổ, mãi đến nay vẫn chưa bị thủ tiêu. Đó là một sự thật cần phải biết rõ đến tận gốc để nhổ bật gốc rễ nó ra khỏi trí nhớ, khỏi tâm hồn con người, khỏi toàn bộ cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống nặng nề và nhục nhã biết bao. Và có một nguyên nhân khác khẩn thiết hơn đã bắt buộc tôi phải mô tả những sự việc ghê tởm đó. Mặc dầu chúng đáng ghét, thậm chí chúng còn đè nặng lên tâm hồn chúng ta và bóp chết nhiều tâm hồn đẹp đẽ, người Nga vẫn còn có một tâm hồn lành mạnh, trẻ trung đủ để đấu tranh và khắc phục chúng. Cuộc sống của chúng ta kỳ lạ không những vì nó còn chứa đựng một lớp bùn lầy với đủ mọi thứ rác rưởi có khả năng sinh sôi nẩy nở và nhầy nhụa đến thế, mà vì nó còn chứa đựng những mầm mống tươi sáng, lành mạnh, đầy sức sáng tạo, không ngừng xuyên qua lớp bùn ấy để vươn lên một cách đắc thắng
    -những mầm mống tốt lành, nhân đạo vẫn tiếp tục vươn lên, khơi lên niềm há vọng bất diệt vào khả năng tạo ra một cuộc sống tươi sáng hơn và nhân đạo hơn.
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    XIII
    Tôi lại đến ở với ông tôi.
    -Sao thế, thằng tướng cướp?
    -ông tôi kêu lên và đập tay xuống bàn khi thấy tôi.
    -Bây giờ tao không nuôi mày nữa, mặc cho bà mày nuôi!
    -Được, tôi sẽ nuôi,
    -bà tôi nói,
    -ông tưởng việc đó khó lắm đấy!
    -Đấy thì bà nuôi!
    -ông tôi nói to, nhưng lại dịu đi ngay khi cắt nghĩa cho tôi:
    -Tao và bà mày đã dứt khoát ở riêng rồi, bây giờ mọi thứ của ông bà đều riêng biệt. Bà tôi ngồi gần cửa sổ làm đăng-ten nhanh thoăn thoắt, đôi kim đụng vào nhau kêu leng keng nghe rất vui tai, chiếc gối cắm đầy kim găm bằng đồng lấp lánh dưới ánh mặt trời mùa xuân nom như một con chim bằng vàng. Bà tôi cũng giống như một pho tượng đồng vậy, không thay đổi gì cả! Còn ông tôi thì càng ngày càng quắt lại, có nhiều nếp nhăn hơn, mái tóc hung đã chuyển thành xám, phong thái trang trọng được thay thế bằng những cử chỉ hấp tấp nóng nảy, cặp mắt xanh nhìn đầy vẻ nghi kỵ. Bà tôi cười và kể cho tôi nghe câu chuyện chia gia tài giữa hai ông bà: ông chia cho bà tất cả chai lọ, nồi niêu, bát đĩa và bảo:
    -Đấy là những thứ của bà, ngoài ra đừng có xin xỏ gì tôi nữa! Sau đó ông tôi tước hết mọi đồ đạc, quần áo cũ, áo choàng bằng lông cáo của bà tôi và đem bán được bảy trăm rúp, rồi đem số tiền ấy cho đứa con đỡ đầu của ông
    -một người Do Thái buôn bán hoa quả
    -vay lấy lãi. ông tôi trở nên keo kiệt vô độ và không còn biết hổ thẹn là gì nữa: ông tôi đến nhà những người quen biết cũ
    -những người trước đây cùng ở trong phường thợ với mình
    -đến nhà những phú thương, than thở rằng mình đã bị phá sản vì con cái và xin họ tiền tiêu cho đỡ túng. ông tôi lợi dụng lòng quý trọng của mọi người. Người ta biếu ông tôi những món tiền lớn. Về nhà ông thường vung vẩy những tờ giấy bạc ngay trước mũi bà tôi, và khoe khoang, trêu chọc bà tôi như một đứa trẻ con.
    -Thấy chưa, mụ ngốc! Bà thì một phần trăm số tiền này người ta cũng chẳng thí cho đâu! ông tôi đem số tiền thu nhập được cho hai anh em một nhà buôn vay lãi: ông anh là một người bạn mới của ông tôi
    -một người làm nghề thuộc lông thú, cao lêu nghêu, đầu hói, biệt hiệu trong làng là Khơlưxt, bà em là một mụ bán hàng béo ụt ịt, má đỏ, mắt màu nâu sẫm, làm lụng thì uể oải, nhưng mồm mép lại ngọt như mật. Tất cả mọi thứ trong nhà đều chia hẳn ra: hôm nay bà xuất tiền ra mua thức ăn, hôm sau ông mua và cứ đến lượt ông là bữa ăn kém hơn: bà thường mua thịt ngon, chứ ông thì lần nào cũng chỉ mua lòng, gan, phổi, dạ dày. Trà và đường thì của ai người ấy dùng, nhưng trà thì thường pha chung vào một ấm. ông thường lo lắng hỏi:
    -Khoan, gượm hẵng, bà cho bao nhiêu trà rồi? ông tôi dốc búp trà vào lòng bàn tay và đếm cẩn thận từng búp một, rồi nói:
    -Búp trà của bà bé hơn của tôi, búp trà của tôi vừa to hơn vừa được nước hơn, nên tôi phải cho ít hơn. ông tôi rất chú ý theo dõi xem bà tôi rót nước trà có đặc như nhau không và có uống nhiều hơn không.
    -Uống nốt chứ?
    -Bà tôi hỏi trước khi rót hết nước trà. ông tôi nhìn vào ấm và nói:
    -Thôi được, rót nốt đi! Ngay đến dầu thắp đèn trước tượng thánh hai người đã cùng chung lưng đấu cật với nhau hàng nửa thế kỷ nay cũng mua riêng! Tất cả những trò ti tiện đó của ông tôi, tôi thấy vừa lố bịch vừa ghê tởm, nhưng bà tôi thì chỉ thấy buồn cười thôi.
    -Thôi, cháu đừng nghĩ nữa!
    -Bà tôi an ủi tôi.
    -Cái đó có gì đáng bận tâm đâu? ông lão già rồi nên đâm ra gàn dở đấy! ông cháu đã tám chục tuổi đầu rồi, có phải chuyện đùa đâu! Cứ mặc cho ông cháu gàn dở, có hại gì đến ai đâu? Còn bà sẽ kiếm được đủ miếng ăn cho bà và cháu, không sợ cháu ạ!
    Tôi cũng bắt đầu kiếm tiền: cứ đến ngày chủ nhật và ngày lễ là tôi dậy sớm, vớ lấy cái bị và đến các sân nhà, các phố để nhặt xương bò, giẻ rách, giấy vụn, đinh. Những người mua đồ cũ thường mua hai mươi kôpêch một pút giẻ rách và giấy vụn, sắt cũng vậy, mười hoặc tám kôpêch một pút xương. Cả những ngày thường, cứ tan học là tôi đi nhặt, thứ bảy nào tôi bán các thứ linh tinh cũng được chừng ba mươi hoặc năm mươi kôpêch, có khi gặp may còn được nhiều hơn nữa. Bà tôi cầm lấy số tiền của tôi, vội vàng nhét vào túi váy rồi vừa nhìn xuống đất vừa khen tôi:
    -Cám ơn cháu, cháu ngoan của bà! Cả hai bà cháu mà lại không kiếm nổi miếng ăn hay sao? Có phải là chuyện gì ghê gớm lắm đâu! Một hôm tôi nhìn trộm thấy bà tôi giữ những đồng năm kôpêch của tôi trong lòng bàn tay, nhìn những đồng tiền ấy và lặng lẽ khóc, một giọt nước mắt đục ngầu đọng trên cái mũi xôm xốp như đá bọt. Có một cách kiếm được nhiều tiền hơn đi nhặt giẻ rách, đó là ăn trộm củi và ván trong những kho gỗ ở trên bờ sông ska hoặc Pêxki
    -một hòn đảo, nơi người ta thường buôn bán sắt trong những quán gỗ dựng vội trong kỳ hội chợ. Hội chợ xong người ta dỡ các quán đi, còn cột và ván thì xếp thành từng đống, và gần như chúng cứ nằm ở đó
    -ở Pêxki
    -mãi cho đến kỳ nước lũ mùa xuân. Những tiểu thị dân có nhà mua mỗi tấm ván tốt là mười kôpêch, một ngày có thể lấy được hai ba tấm. Nhưng chỉ có thể làm ăn được vào những ngày xấu trời, khi bão tuyết hoặc mưa xua đuổi và bắt buộc những người gác đi ẩn náu. Chúng tôi tập họp được một bọn rất ăn ý với nhau: thằng Xanka Viakhi lên mười tuổi, con trai một mụ ăn mày người Morđvin, một thằng bé rất đáng yêu, tính tình dịu dàng và luôn luôn vui vẻ điềm đạm; thằng Kôxtrôma không cha không mẹ, tóc lúc nào cũng rối bù, người gầy giơ xương, mắt đen và to (sau này, năm mười ba tuổi nó đã thắt cổ tự tử trong trại giam các trẻ em phạm tội, nó bị đưa vào đây vì ăn cắp một đôi chim bồ câu); thằng bé Khabi người Tacta, một đại lực sĩ mười hai tuổi, tính tình hồn nhiên và tốt bụng; thằng Iaz mũi to bẹt, con một người coi nghĩa địa và đào huyệt, tuổi chừng lên tám, tính tình trầm lặng, bị bệnh động kinh; còn đứa lớn nhất trong bọn chúng tôi là thằng Griska Tsurka, con một bà thợ may góa chồng, nó là một đứa biết suy tính, công bằng và lúc nào cũng sẵn sàng đánh nhau; tất cả đều là trẻ con cùng phố. ở cái xóm ngoại ô này việc ăn cắp không bị coi là một tội lỗi, mà đã thành tập quán và hầu như là cách sinh sống duy nhất đối với những người tiểu thị dân sống bữa no bữa đói. Một tháng rưỡi hội chợ không nuôi sống được cả năm, vì vậy có rất nhiều vị chủ nhà danh giá cũng đi kiếm thêm về đằng sông nước. Họ vớt củi và gỗ bị nước lũ cuốn đi, chuyên chở các hàng hóa nhỏ bằng thuyền gỗ, nhưng chủ yếu là ăn cắp ở các sà-lan. Và nói chung là họ thường "xuất quỷ nhập thần" trên sông Vonga và ska, thó tất cả những gì để hớ hênh bừa bãi. Vào các ngày lễ, người lớn thường đem những "thành tích" của mình ra khoe, bọn trẻ nghe được và bắt chước. Đến mùa xuân, vào thời kỳ sôi nổi nhất trước ngày khai mạc hội chợ, cứ tối đến là trên các đường trong xóm đầy những thợ các xưởng máy, những người đánh xe ngựa và đủ loại thợ thuyền say mềm. Bọn trẻ con trong xóm thường đi móc túi họ, đó là một nghề đã được hợp pháp hóa, được chúng làm một cách bạo dạn, ngay trước mắt người lớn. Chúng đánh cắp dụng cụ của thợ mộc, lấy khóa mô-lết của những người đánh xe khách, lấy nồi trục và những miếng đệm trục xe bằng sắt của những người đánh xe chở hàng. Nhóm chúng tôi không làm những việc như vậy. Một hôm Tsurka tuyên bố dứt khoát:
    -Tớ sẽ không ăn cắp đâu, mẹ tớ không muốn thế.
    -Còn tớ thì sợ lắm!
    -Khabi nói. Kôxtrôma ghét cay ghét đắng những đứa ăn cắp vặt. Hễ nói đến tiếng "thằng ăn cắp " là nó sẵng giọng rất gắt, và khi nhìn thấy những đứa trẻ khác ăn cắp của những người say rượu là nó đuổi đi, còn nếu tóm được đứa nào là nó giã cho nên thân. Thằng bé mắt to, rầu rĩ đó cứ tưởng mình là người lớn, nó có một dáng đi đặc biệt, lắc lư đôi vai như phu bốc hàng, nói thì cố bắt chước cho được cái giọng ồm ồm thô lỗ. Lúc nào nó cũng có vẻ như căng thẳng, không tự nhiên làm cho nó trông già đi. Viakhi thì tin chắc rằng ăn cắp là có tội. Nhưng lấy ván và cột ở Pêxki thì không bị coi là ăn cắp, không đứa nào trong bọn chúng tôi sợ việc đó cả, và chúng tôi đã nghĩ ra một loạt cách giúp chúng tôi có thể làm việc đó rất dễ dàng. Buổi tối hoặc hôm nào trời mưa gió, Viakhi và Iaz vượt qua sông, ở quãng rộng nhất, đi trên mặt băng ẩm ướt đã nổi lên. Chúng đi công khai, cố làm cho những người gác chú ý. Còn bốn đứa chúng tôi thì, lần lượt từng đứa một, lẻn sang bên đó. Trong khi những người gác đang lo ngại vì Iaz và Viakhi, chỉ để ý theo dõi chúng thì chúng tôi tập trung tại một đống gỗ đã định trước, chọn những tấm sẽ lấy về. Rồi trong lúc hai đứa nhanh chân đang trêu chọc những người gác, làm cho họ đuổi theo, thì chúng tôi trở về. Mỗi đứa chúng tôi có một sợi dây, đầu buộc một chiếc đinh lớn uốn cong như cái móc. Chúng tôi móc đinh vào những tấm ván hoặc cột gỗ, rồi kéo đi trên tuyết và trên mặt băng. Những người gác hầu như không bao giờ trông thấy chúng tôi, mà có thấy cũng không sao đuổi kịp. Sau khi bán những thứ đã lấy, chúng tôi chia số tiền thu được thành sáu phần. Mỗi đứa được năm kôpêch, đôi khi được đến bảy kôpêch. Với số tiền đó có thể sống một ngày rất no nê, nhưng Viakhi bị mẹ nó đánh, nếu nó không mang về đủ tiền mua cho bà ta một cốc hoặc nửa chai rượu vôtka. Kôxtrôma dành dụm tiền vì nó đang mơ đi đánh chim bồ câu.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này