1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thống Chế Erwin Rommel - Cáo Già Sa Mạc. Bản sửa lỗi font và up lại (7-2014)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Khucthuydu2, 31/07/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Thưa các đồng chí!

    Tác phẩm biên dịch này của Mod AnHeoInWater bị lỗi font, sau đó được nick Ông Hoàng Bảy sửa và post lại.

    Nhưng chả hiểu sau nick Ông Hoàng Bảy bị banned vĩnh viễn nên tác phẩm lại 1 lần dở dang. Nay cảm kích trước cách hành xử ôn tồn và nhân ái của Mod AnheonWater ở box KTQSNN nên tôi dành thời gian sửa lại bản biên dịch của Mod và úp lại.

    Nhân đây thông báo với Mod thế nhé. Tôi mới được ra tù nên không giao du Inb với cai ngục :D
    maseo, quangphong_hdsouri thích bài này.
  2. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    LỜI MỞ ĐẦU

    “Ông bạn Rommel của chúng ta đã trở nên một ảo thuật gia hay một ông kẹ đối với quân đội chúng ta, thể hiện một mối nguy hiểm trầm trọng. Quân đội đang nói quá nhiều về ông ta. Mặc dầu chắc chắn ông là một người rất cương nghị và có khả năng, nhưng chắc chắn ông không hề là một siêu nhân. Việc binh sĩ của chúng ta gán cho ông những quyền lực siêu nhiên quả là một điều đáng tiếc… Điều quan trọng là chúng ta không bao giờ được dùng từ Rommel mỗi khi muốn nhắc đến kẻ thù của chúng ta tại Lybie. Chúng ta phải gọi là “người Đức” hay “địch quân”, và dứt khoát không để cho bị thôi miên vì cái tên Rommel nữa. Tất cả những cấp chỉ huy đều phải hiểu rằng đây là một điểm tâm lý cực kỳ quan trọng.”

    Bản mật văn trên đây của Bộ Tư Lệnh Tối Cao Anh Quốc trong cuộc chiến trên sa mạc Châu Phi đã nói lên một cách hùng hồn. Nó chứng tỏ rằng trong số các tướng lĩnh quân sự của Thế Chiến thứ Hai, Erwin Rommel là một trong những người tạo nhiều huyền thoại nhất.

    Cuộc hành quân tại Pháp năm 1940 và các kế hoạch chống đổ bộ ở Normandie năm 1944 của ông thường bị bỏ quên hay lu mờ trước những trận đánh của ông tại Phi Châu trong tư cách là Tư Lệnh Quân Đoàn Châu Phi – Afrika-Korps. Quả thật thời đó là thời kỳ cực thịnh trong binh nghiệp của một người được mệnh danh là : Cáo Già Sa Mạc. Cũng vì những trận đánh tại đây mà ông được thăng lên cấp Thống Chế (Field Marshall) . Ông là vị Thống Chế trẻ nhất của Quân Đội Đức, khi ấy ông mới 50 tuổi. Và bên cạnh đó là Huân Chương Thập Tự Sắt, huân chương cao quý nhất của nước Đức.

    Liệu Rommel có phải là một thiên tài quân sự như vài người đã miêu tả hay chỉ là một kẻ lợi dụng thời cơ? Hay gặp quá nhiều may mắn? Hay đối phương quá kém cỏi? Nhưng tính khí liều lĩnh điên cuồng và những hành động quá táo bạo của ông là không thể chối cãi. “Tốc độ là quan trọng nhất”, ông thường tuyên bố ý tưởng đó. Nhưng, sau bao nhiêu là chiến công, rốt cuộc đạo quân Afrika Korps cũng phải đầu hàng.

    Nhiều lần, Erwin Rommel đã thoát chết một cách kỳ diệu trên nhiều chiến trường khác nhau. Nhưng trái lại, ông là một trong những nạn nhân của âm mưu chống lại Hitler cùng cuộc mưu sát Hitler ngày 20-7-1944., Vai trò của Rommel như thế nào trong vụ này là một trong những điều tuyệt mật. Nhưng ông đã phải chọn một trong hai thứ: Thuốc độc hay Toà Án Nhân Dân? Ông đã lựa chọn liều thuốc độc.

    Nơi Rommel qua đời, hiện nay chỉ còn một tảng đá tưởng niệm.

    Trên đó ghi: "Hier Hier wurde Gfm. Erwin Rommel am 14.10.1944 zum Freitod gezwungen! Er nahm den Giftbecher und opferte sich, um das Leben seiner Familie vor den Schergen Hitlers zu retten."wurde Gfm. Erwin Rommel am 14.10.1944 zum Freitod gezwungen! Er nahm den Giftbecher und opferte sich, um das Leben seiner Familie vor den Schergen Hitlers zu retten."

    Tiếng Việt: "Ở nơi này, Thống chế Erwin Rommel đã bị ép buộc phải tự sát vào ngày 14 tháng 10 năm 1944. ông phải uống thuốc độc và hy sinh bản thân để cứu gia đình ông khỏi bọn tay sai của Hitler.
    Pinkolous, bloodheartvnanheoinwater thích bài này.
  3. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    CHIẾN TRẬN TẠI PHÁP

    Người lính Đức phóng chiếc thiết giáp về phía trước trong một dáng điệu tuyệt vọng. Tiếng súng nổ vang đã làm anh ta giật mình, ngay vào lúc mà mọi sự dường như rất yên tĩnh.

    9h sáng. Mặt trời đã lên cao trong buổi sáng tháng 5 năm 1940 ấy.. Màn sương mai bao phù hai bên ở sông Meuse tan dẩn. Sau những cuộc giao tranh gay go hôm trước và cuộc vượt sông khó khăn, những chiến binh trong chiếc thiết giáp Đức giờ đây đang nghỉ ngơi. Họ đang cho chiến xa chạy từ từ men theo bịa rừng. Khu rừngàyên tĩnh dường như không ẩn giấu một mối đe dọa nào. Người ta đã quên mất, hay gần như quên, là cuộc du ngoạn này đang rất nguy hiểm bởi vì họ đang tiến sâu vào đất của địch.

    Bỗng cách vài trăm mét về phía Tây, tiếng súng đột ngột nổ dữ dội. Hoả lực thật mạnh mẽ gồm cả trọng pháo và pháo chống tăng. Đất bắn tung tóe chung quanh chiếc thiết giáp Đức. Một quả đạn còn rơi trúng vào thành phía trên của pháo tháp. Một quả khác làm vỡ tung chiếc kính tiềm vọng.

    Vài mét cách đó là rừng rậm, là nơi có thể ẩn nấp. Nhấn hết ga, chiếc thiết giáp lùi sâu vào chỗ nấp. Chỉ trong vài phút, nguy hiểm tạm thời đã qua.

    Nhưng trong khi điều khiền chiếc xe một cách quá gấp rút, người lính lái xe không đủ thời gian để tránh chướng ngại vật: Một bờ dốc nghiêng gần thẳng đứng. Động cơ chết lịm. Chiếc thiết giáp nằm bất động, gần như bị lật nghiêng.

    Cách đấy 500m, các xạ thủ Pháp có thể nhìn thấy rõ rệt mục tiêu bằng mất thường. Như một cái hộp giấy. Nhắm kỹ một lúc, họ khai hoả

    Những người trên xe nhảy xuống đất. Viên sĩ quan đè chặt dòng máu chạy xối xả từ vết thương trên đầu. ông chạy vài bước và nhảy bổ vào chỗ ẩn nấp.

    Quá muộn, một nhóm bộ binh Pháp đã cắt đứt con đường nối vào rừng. những binh sĩ Đức đã vào bẫy. Họ chỉ còn được chọn lựa giữa cái chết và trại tù binh.

    Nhưng không, bởi vì đột nhiên tình thế đảo ngược. Đến phiên quân Pháp phải chạy trốn. những chiếc Panzer đột nhiên xuất hiện và tấn công quân địch.

    Trong vòng vài phút của ngày 14 tháng 5 năm 1940 ấy, Thiếu Tướng Erwin Rommel vừa thoát chết hai lần, hay là thoát khỏi bị bắt. Vị Tư Lệnh của Sư đoàn 7 Panzer ?" Sư đoàn Ma, vị Tư Lệnh tương lai của Quân đoàn Phi Châu ?" Afrika Korps, một trong những vị tướng uy danh lừng lẫy của Đệ Tam Quốc Xã Đức, đã tránh khỏi bị chấm dứt một binh nghiệp mà nghịch lý thay, mới chỉ được bắt đầu. Nếu những binh sĩ Pháp biết họ đã từng có lúc nắm giữ số mạng của Erwin Rommel ngay trên nòng súng, chắc họ sẽ khóc vì oán hận và tiếc nuối.

    Quả thật, một binh nghiệp kỳ lạ, một định mệnh lạ lùng. Một trận chiến kiều mẫu đầu tiên, rồi đến 20 năm phục vụ trung thành nhưng âm thầm, rồi tiến lên như sấm sét về ánh hào quang danh vọng.

    Trong khu rừng bé nhỏ ở Bỉ ngày hôm ấy, trong khi băng bó vết thương, ông Tướng quả thật không biết có chiếc chìa khóa đang mở cửa cho tương lai mình. Một tương lai vừa vĩ đại, vừa bi hùng nhưng ngắn ngủi. Bởi vì ông chỉ còn có bốn năm trước mặt.

    Ông cũng không có thời gian để nhìn về quá khứ của mình.

    Sinh ngày 25 tháng 11 năm 1891 tại Heidenheim, một thành phố nhỏ thuộc vùng Wurtemberg, Erwin Johannes Eugen Rommel (tên đầy đủ của ông) dường như không còn vẻ gì hứa hèn một tương lai sáng chọi trong Quân đội. Thân phụ và ông nội của vì Thống chế tương lai đầu là những nhà toàn học danh tiếng. Người ta gọi họ là Herr Prõessor, và những người giàu còn quì phải ở Heidemheim vẫn giờ nòn chào họ mỗi khi gặp mặt ngoài phố.

    Bà Rommel nhũ danh Helena Von Luz, thân phụ là Thống đốc vùng Wurtemberg (tiểu bang của Đức ở vùng Tây Nam). Rất môn đfng hệ đối.

    Hồi bé, Erwin Rommel là một cậu bé trái ngược hẳn với mẫu người â tâm trì nóng nảy, bư?ng chạy như sau này. Cậu bé còn vẻ xanh xao và yếu đuối. Người ta thấy rằng ông giống mẹ. Bà chỉ ông, Hèlene và hai em trai đã đặt tên cho ông là Gấu trắng do làn da xanh và mái tóc hoe vàng của ông.

    Tại Heidemheim, cuộc sống thật êm đềm. Con cái gia đình Rommel hoàn toàn thoải mái. Chúng tự do chạy nhảy trong vườn, đi dạo trên các con đường của thành phố cổ kính nhỏ bé này.

    Một hôm, Erwin Rommel tạo nên một thành tích ấn tượng đối với bạn bè. Trong một lần đi chơi, cả nhóm gặp hai công nhân thông ống khói lò sưởi, mặt đen xì vì bụi than, quần áo đen đủi. Sợ hãi, bạn bè bỏ chạy tháo thân. Erwin Rommel nhún vai, tiến đến gần một cách nghiêm trang và bắt tay hai người.

    Kể từ lúc ấy, Erwin Rommel tỏ ra chẳng sợ điều gì cả. Danh tiếng ấy ông giữ cho đến lúc chết.

    Buồn thay, lúc lên bày, cậu bé đã phải rời khỏi thành phố tuổi ấu thơ của mình. Cha ông được bổ nhiệm làm giám đốc thao trường Gymnasium ở Alen. Việc thay đổi nơi cư trú tỏ ra không thành công lắm với Rommel. Cậu bé chán ghét nhà trường và trở nên biếng nhác, lơ đễnh.

    Nếu nó viết được một bài chính tả không còn lỗi, chúng tôi sẽ thuê một ban nhạc và tất cả chúng tôi sẽ du ngoạn ở đồng quê. Thầy giáo tuyên bố.

    Cho đến khi trưởng thành, Erwin Rommel vẫn là một cậu bé mơ mộng, không còn nhiều nhiệt tâm và đúng ra là chẳng lưu tâm đến cái gì cả.

    Đột nhiên ông bừng tình vào lúc trưởng thành, tỏ ra cực kỳ thích môn toán và đam mê xe đạp, xe trượt tuyết. những thành công đầu tiên trong ngành hàng không cũng làm ông say sưa. Cùng với một bạn học, ông quyết định sẽ trở thành một kỹ sư và nghĩ đến lúc vào làm việc trong nhà máy Zeppelin.

    Nhưng cha Rommel đã chống lại các dự tính của con trai, ông không mấy tin tưởng vào tương lai của ngành hàng không.

    Lúc đó Erwin Rommel bèn quay về phía Quân đội. Năm 1910, ông gia nhập vào Trung đoàn 124 Bộ binh tại Weingarten, rồi theo học tại Trường chiến tranh Danzig.

    Chính tại đó ông quen với Lucie, người vợ tương lai của ông. Hai người trẻ tuổi đã trao nhau tình yêu không bao giờ phai nhạt. Quả thật, người ta không thấy còn một bóng dáng người phụ nữ nào khác trong cuộc đời của Rommel.

    Ông cưới Lucie ngay khi chiến tranh còn tiếp diễn, vào ngày 27 tháng 11 năm 1916 trong một dịp nghỉ phép.

    Lucie và chiến trận, mỗi bên luân phiên tiếp bước bên kia. Nhưng luôn luôn đấy là hai mối tình của ông.

    Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Trung đoàn 124 Bộ binh Đức đồn trú tại Weigarten nhận được để trang bị để ra chiến trường. Ngay hôm sau, đơn vị được gửi đến mặt trận Pháp. Thiếu uý Erwin Rommel, 23 tuổi, vừa tốt nghiệp quân trường Danzig, rất vui vẻ chuẩn bị ra trận lần đầu.

    Chiến công đầu tiên của ông đã đến ba tuần sau đó, ngày 22 tháng 8.

    Lúc đó Rommel đang đi tuần tiễu ven làng Bleid, một ngôi làng nhỏ gần Longwy, thuộc vùng Lorraine. Thời gian là 5h sáng. Ánh sáng ban mai bắt đầu ló dạng nhưng vẫn còn lờ mờ trong sương mù mùa hạ. Viên Thiếu uý ra lệnh cho tiểu đội của mình dừng lại cách những ngôi nhà đầu tiên vài mét. Anh ta đem theo ba người cùng với mình tiến lên thám sát con đường nhỏ đầy bất trắc. Không còn bóng một con mẹo, không một tiếng động. Đằng kia, con đường đi vào một khùc ngoặt.

    Vừa đến chỗ quẹo, anh trông thấy một nhóm binh sĩ Pháp chừng 20 người cách vài chục mét. Người sĩ quan Đức còn đủ thời gian để rút lui tập họp binh sĩ của mình để tung ra một đợt tấn công. Đây là một hành động cẩn thận và khôn ngoan, nhưng đây cũng là một việc làm mất thời gian và viên Thiếu uý rất sợ bị mất thời gian. Anh ta quyết định tấn công ngay, 4 chống 20. Tiểu đội binh sĩ được tiếng súng báo động chạy lên tiếp viện. Ngôi làng bị quét sạch, từ nhà này sang nhà khác.

    Một tháng sau, ngày 24 tháng 9, Rommel bị thương lần đầu tiên và cũng nhận được huy chương đầu tiên: Huy Chương Thập Tự sắt Hạng Nhì. Suốt 3 tháng trời ông dài người trên giường bệnh trong một Bệnh việc ở hậu cứ.

    Ngày 29 tháng Giêng năm 1915, chàng sĩ quan trẻ tuổi được thăng cấp Trung uý và được ban thưởng Huy Chương Thập Tự sắt Hạng nhất.

    Từ tháng 10 năm ấy, ông chứng tỏ khả năng chiến đấu của mình dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Sprosser, trong một đơn vị chuyên chiến đấu trong rừng, Tiểu đoàn Wurtemberg, trực thuộc Quân đoàn Alpen Korps. Quân đoàn này đang dàn quân tại mặt trận Ý trong thung lũng Isonzo, phía Đông Nam Caporetto.

    Ai mà được đưa vào phục vụ trong một đơn vị ưu tú như Tiểu đoàn Wurtemberg thì biết ngay rằng không còn được nghỉ nhơi nhàn hạ. Mà rơi vào đơn vị do Trung uý Rommel chỉ huy thì còn xui xẻo hơn nữa.

    Con người ấy dường như sinh ra là để chiến đấu. Ông ta chẳng biết đói khát mệt mỏi là gì. Lại còn ít biết đến sợ hãi hơn nữa. Ông theo đuổi chiến công như một định mệnh còn sẵn và chỉ dừng lại khi nào đã đạt được chiến công một cách trọn vẹn.

    Từ 48 giờ qua, binh sĩ chưa được một chút nào nghỉ ngơi. Hôm trước, từ lúc rạng đông, Rommel đã dẫn hai đại đội của mình tiến qua phòng tuyến Ý. Chẳng phải bắn phát súng nào, ông đã dùng lưỡi lê đoạt được cả một khẩu trọng pháo của địch. Địch quân không còn có cả thời gian để kịp nổ súng. Rồi ông trở lui giải thoát cho một toán quân đang bị cả một Tiểu đoàn địch tấn công. Bị kẹp giữa hai hoả lực, quân Ý phải đầu hàng. Gần 1.000 tù binh bị bắt được giải về hậu cứ. Người ta nghĩ rằng viên Trung uý đã hài lòng với thành tích đạt được chỉ trong một ngày là như vậy.

    Vậy là chưa biết gì về Rommel. Vì là đã mở được một kẽ hở, vì là những lực lượng chính của Ý đang bị những Tiểu đoàn Áo-Đức cầm chân tại mặt trận, thế thì tại sao lại không tiếp tục cuộc tấn công chọc thủng phòng tuyến, tiến sâu vào hậu cứ địch quân hơn nữa.

    Rommel trình bày kế hoạch của mình cho thượng cấp là Thiếu tá Sprosser. Ông này đặt sự tin tưởng hoàn toàn vào Rommel. Kể từ khi viên Trung uý 26 tuổi này đến phục vụ trong đơn vị của ông, vị Thiếu tá đã có đủ thời gian để đành giá khả năng của thuộc cấp. Trước hết là mặt trận Rumania, rồi mặt trận Ý. Chiến thuật không bao giờ thay đổi: Táo bạo và mau lẹ. Như những nhát búa tiểu phu giáng vào thân cây, anh ta tiến càng sâu vào đất địch càng tốt, không hề bận tâm một chút nào về những gì xảy ra đằng sau lưng mình. Rồi anh ta tấn công vào mạn sườn địch, rồi đành thúc vào sau lưng, gieo rắc hoảng loạn khắp hàng ngũ địch quân.

    Kết quả thật kỳ lạ. Và trong Quân đội Đức, người ta đã nói đến chiến công, đến tù binh của Rommel.

    Viên Thiếu tá không một giây ngần ngại. Sáu Đại đội ưu tú được đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan chỉ là Trung uý Rommel. Và đoàn quân được phép tiến lên.

    Binh sĩ Đức lặng lẽ tiến lên theo hàng dọc. Họ đã ỏ sâu trong phòng tuyến Ý đến 4 km. Trên con lộ chính của Monte-Matajur, ông chạm trán với một đoàn tiếp viện của Ý, địch quân ngẩn ngơ đầu hàng ngay, không hề còn một dấu hiệu tự vệ nhỏ nào hết: 2.000 binh sĩ cùng 50 sĩ quan bị bắt làm tù binh. Tiếp đó, ông quyết định cắt đường rút lui của địch, ngang qua cánh đồng tiến về phía Monte-Matajur, đấy là cứ điểm then chốt của lực lượng Ý.

    Suốt đêm, viên Trung uý không hề biết mệt mỏi đã thúc đẩy đám binh sĩ đuối sức tiến lên. Bình minh ngày 26 tháng 10, đoàn quân đã tiến đến ngay bờ rào doanh trại của Lữ đoàn Ý. Sau cùng ông ra lệnh dừng chân, binh sĩ chuồi mình vào bãi cỏ còn đẫm hơi sương để nghỉ ngơi.

    Cần 5 người tình nguyện theo tôi.

    Ông Trung uý vẫn không nằm xuống. Quân Ý ở kia, kế ngay bên, còn đang đợi ánh mặt trời lên. Còn lâu họ mới nghĩ mình đang bị đe doạ. Mặt trận rất xa họ, cách đến 20km đường chim bay.

    Súng ngắn cầm tay, cùng 2 hạ Sĩ quan và 5 binh sĩ, Rommel đi băng qua doanh trại địch quân, bước những bước dài trước mặt những người lính canh Ý đang hoa mắt vì choáng váng, vạch một đường ngang qua những binh sĩ Ý còn ngủ và tiến tới Bộ Chỉ huy đơn vị.

    Trong các anh, ai là người chỉ huy ở đây?

    Người ta thấy một sự ngạc nhiên tột độ trong Ánh mắt của các sĩ quan Ý.

    Quý vị đã bị bao vây rồi. Tôi khuyên quý vị hãy đầu hàng.

    Và 1.500 binh sĩ cùng 43 sĩ quan hạ vũ khí. Không một giọt màu để.

    Một lúc sau, khi đứng trên đỉnh Monte-Matajur, Rommel phóng hoả châu báo hiệu chiến thắng.

    Trong các cuộc hành quân của Rommel, ông đã bắt được 9.000 tù binh, 150 sĩ quan và 81 khẩu pháo.

    Chiến công chói lọi đó đã giúp ông được vinh thăng Đại úy và Ban thưởng Huy chương dành cho những Người Xứng Đáng, loại huy chương thường chỉ dành cho các tướng lĩnh.

    Nhưng nó cũng làm cho ông bị bổ nhiệm vào một vị trí buồn chán: Về phục vụ trong một vôn phòng của Bộ Tham mưu. Ông đã phục vụ tốt tại đấy nhưng cũng lâm vào cảnh buồn chán chết người trong suốt thời gian còn lại của Thế Chiến Thứ nhất. Đấy cũng là mặt trái của chiếc huy chương.

    Trước ngày 31 tháng 3 năm 1920, Quân đội Đức không thể có hơn 7 Sư đoàn bộ binh và 3 Sư đoàn kỵ binh. Sau ngày ấy, tổng số binh sĩ vẫn bị giới hạn không quá 100.000 người, kể cả sĩ quan và công nhân quốc phòng. Số sĩ quan không cao quá con số 4.000.

    Như thế là điều 160 Hiệp ước Versailles chỉ để lại cho nước Đức bại trận một Quân đội bé nhỏ, chỉ đủ phục vụ duy trì an ninh nội bộ.

    Đối với nhiều sĩ quan chuyên nghiệp, lệnh giải ngũ có nghĩa là thất nghiệp. Nhưng trong một nước Đức xâu xé, chia rẽ, luôn luôn ở bên bờ vực nội chiến, trong một nền cộng hoả khập khiễng đầy âm mưu đảo chính, các đội quân biệt động sẽ là nơi ẩn nấp của những người này. Bởi họ không biết có nghề gì khác hơn là chiến tranh, không có viễn ảnh nào khác hơn là sự phục hận. Khi thời cơ đến, Quân đội Quốc Xã tương lai sẽ nhanh chóng thành hình.

    Chính đội quân Reichswehr sẽ là khung sườn của Quân đội Wehrmacht tương lai. Một khung sườn vững chắc như sốt thép, một cái nhân trung tâm vô cùng kỷ luật mà dựa theo nó, Hitler sẽ xây dựng nguyên khí của chủ nghĩa bành trướng điên cuồng.

    Tất nhiên là Erwin Rommel có tham dự vào. Thành tích chiến đấu của ông cực kỳ chói sáng. những huy chương được ân thưởng một cách quá Đặc biệt so với cấp bậc và tuổi tác của ông đã bù trừ cho điểm thiếu sót là ông không thuộc giai cấp quân sự xuất thân ngay từ đầu trong các quân trường nước Phổ, ông không phải là một Junker.

    Ngày 21 tháng 12 năm 1918, ông gặp lại Trung đoàn 124 bộ binh tại Weigatern, là đơn vị mà ông gia nhập từ những ngày đầu của cuộc đời binh nghiệp. Cho đến khi thời cơ cho phép ông chứng tỏ trở lại tại năng chiến đấu của mình, ông bình thản tiếp tục công việc của một sĩ quan cần mẫn. Không để cho mình dính líu chút gì đến các âm mưu, các sự kiện đồi thay trong khoảng thời gian giữa hai cuộc Thế Chiến.

    Viên Đại úy và vợ không để cho ai nói đến họ. Cuộc đời yên bình trôi từ nơi đồn trú này đến nơi đóng quân khác. Bạn bè thì chỉ có vài chiến hữu cũ ở chiến trường Rumani, Ý.

    Rommel đọc binh thư, làm việc vặt trong nhà. Lucie may vá, bà cũng đan tã cho bé Manfred ra đời trước Giáng Sinh 1928, 12 năm sau đám cưới. Và bé là đứa con duy nhất của họ.

    Ngày 1 tháng 10 năm 1929, Rommel được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tại Trường bộ binh Dresden. ông ở đó 4 năm. Và ông tập trung toàn bộ bài giảng của mình thành một cuốn sách mà sau này sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp của ông: Infanterie Greift an. (Bộ binh tấn công). Tác phẩm này làm Fuhrer chú ý đến ông.

    Hiện tại, chúng ta chưa đến giai đoạn đó. Chế độ Quốc Xã chưa thành hình, Fuhrer chưa xuất hiện. Duy nhất một Thủ tướng mới được vị tổng thống lão thành Hindenburg triệu dụng vào trưa ngày 30 tháng Giêng năm 1933: Adolf Hitler.

    ông “Hauptmann” ấy không có vẻ gì là bối rối cả. ông còn vui mừng là đằng khác. Cũng như hầu hết đồng bảo mình, ông coi Hitler như là một con người đầy lý tưởng, một người ái quốc, một người có tư tưởng thuần khiết có thể sẽ thành công trong việc đoàn kết nước Đức khốn khổ lại, mang vinh quang và tư thế vĩ đại đã bị mất về lại cho đất nước và cứu nước Đức khỏi bị chủ nghĩa Bolshevik ngự trị.

    ông chỉ có một điều dè dặt: Những người Nazi (Quốc Xã) xung quanh Hitler trông như một băng đảng vô lại. Thật đáng buồn cho một người như Hitler lại bị bao quanh bởi một bọn hạ lưu như thế??

    Nhưng suy cho cùng, chính trị không phải là việc của ông.

    Cùng năm đó, ngày 10 tháng 10 năm 1933, Thiếu tá Rommel nhận chức vụ chỉ huy Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 17 Bộ binh. Điều này làm ông tràn ngập hân hoan. Sau các bàn giấy của quân trường, rốt cuộc là khung trời mở rộng, là đồi núi, là trượt tuyết. Thật vậy, Trung đoàn 17 là một Trung đoàn sơn cước (Lực lượng tinh nhuệ), đồn trú tại Goslar.

    Tại Goslar, lần đầu tiên, vị tư lệnh tương lai của Afrika Korps đã gặp Adolf Hitler, Đấy cũng là nơi ông gặp một trong những kẻ cận thần của ông chủ nước Đức sau này.

    Giờ chúng ta đang ở vào năm 1935. Đích thân Fuhrer đến Goslar chủ tọa một trong những cuộc diễu binh mà Trung đoàn 17 rất ưa thích. Cả thị trấn bé nhỏ ấy gần như sắp tham chiến đến nơi. Người ta treo cờ chữ Vạn la liệt, trang trí các lan can mặt tiền bằng những tràng hoa, biểu ngữ. Dán khẩu hiệu và bích chương đầy tường vách ca ngợi vinh quang của Đệ Tam Quốc Xã. Tất cả dân quê trong quận đều đến diễu hành trongày phục cổ truyền. Những ban quân nhạc lặp đi lặp lại bài Horst Vessel Lied và bài Deutschland uber Alles. Hiệu kỳ tung bay trước gió, hàng ngũ chính tề, đồng phục mới tinh, những thanh niên thiếu nữ thuộc lực lượng Hitlerjugend đã thu xếp mọi chi tiết cho cuộc diễu hành của họ.

    Phần Trung đoàn sơn cước, do Rommel dẫn đầu cũng phải diễu hành. Vài ngày trước, một sĩ quan SS Đặc trách tổ chức tìm đến ông. Ông ta thông báo cho Thiếu tá Rommel biết rằng Hitler sẽ đến. Có đoàn hộ tống lo an ninh đi theo. Các quân nhân SS sẽ đi ngay đằng sau lãnh tụ để dẫn đầu cuộc diễu hành.
    Thiếu tá Rommel hướng một cái nhìn lạnh lẽo về người đối thoại:

    -Trong trường hợp này, Trung đoàn 17 của tôi sẽ không bước ra diễu hành.

    Hôm sau, Rommel được triệu đến một khách sạn trong thành phố, nơi đó có hai trong số các chức sốc Quốc Xã tối cao bước ra: Himmler và Goebbels.

    Viên Thiếu tá đến theo lệnh triệu tập, với ý định cương quyết là không nhượng bộ gì cả. ông đã soạn sẵn lời bảo chữa, tập trung các luận cứ: Danh dự của Quân đội, vị thế của Quân lực Wehrmacht, sự xúc phạm đến hiệu kỳ, đến binh sĩ thuộc đơn vị của ông

    Nhưng ông không cần đến tại hùng biện. Cực kỳ ngạc nhiên, ông được chào đón bằng những nụ cười cởi mở và được mời ăn trưa. Goebbels nói lời kính trọng để trấn an ông, đoan quyết rằng đã có một sự hiểu lầm. Himmler nhìn chăm chú, không nói lời nào, ngồi quan sát viên Thiếu tá. Bữa ăn diễn tiến trong một không khí thân mật.

    Và Trung đoàn 17 dẫn đầu đoàn diễu hành.

    Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Hitler và Rommel diễn ra rất ngắn ngủi, hoàn toàn có tính chất nghi thức.

    Nhưng viên Tiểu đoàn trưởng từ đó thoát ra khỏi tư thế còn tương đối vô danh của mình. Các cấp lãnh đạo Nazi đã chú ý đến ông Thiếu tá tại Goslar. Sự ngưỡng mộ Quân lực Wehmacht của ông, tính nhạy cảm đối với tất cả những gì đụng chạm đến vẻ cao quý của nghề nghiệp, đã không làm cho họ thất vọng.

    Đại Đức Quốc đang cần gấp những sĩ quan khí phách như ông Thiếu tá này.

    Như vậy là ông đã được chú ý đến. Và được mến phục. Hitler đã đọc cuốn khảo luận về bộ binh của ông với tất cả hứng thú. Tháng 10 năm 1938, vào lúc khởi đầu cuộc xâm chiếm miền Sudetes, khi Fuhrer tìm kiếm một sĩ quan có khả năng để giao trọng trách chỉ huy Tiểu đoàn Fuhrerbegleitbataillon, Tiểu đoàn phụ trách vấn để an ninh cá nhân của Fuhrer, chính Erwin Rommel là người được chọn lựa.

    Trong vòng một năm, đến 1937, Rommel được thăng cấp Đại tá và sống kề cận với Hitler.

    Ngày 15 tháng 3 năm 1939, sau nước Áo, sau miền Sudètes, con quỷ Quốc Xã nuốt luôn phần còn lại của Tiệp Khắc. Prague rơi vào tay Quân đội Đức. Thủ đô Tiệp có vẻ chịu thần phục. Hitler đã đến ngưỡng cửa thành phố với Tiểu đoàn hộ tống riêng. Nhưng Fuhrer còn ngần ngại chưa muốn tiến vào một cách chính thức. ông nhìn viên sĩ quan:

    -Ở địa vị tôi anh sẽ làm gì?

    Khi được giao trách nhiệm bảo vệ an ninh cho một nhân vật quan trọng đến thế, người ta thường ngại ngùng. Trong một đô thị vừa bị mất tự do, ngay giữa một đám dân chúng phẫn nộ và thù hận, chuyện bất hạnh có thể xảy đến.

    Rommel chỉ tay về phía một lâu đài cổ chế ngự cả thành phố, nằm phía bên kia sông Moldan:

    -Tôi sẽ ngồi xe mui trần chạy lên đến lâu đài Hradschin!

    Hitler nghe theo lời khuyên của viên sĩ quan phụ trách an ninh. May cho binh nghiệp của viên sĩ quan này, Hitler lã lên đến nơi mà không gặp rắc rối gì cả.

    Về sau, trong cuộc xâm lăng Ba Lan, Rommel nhận thấy rằng cảm nhận đầu tiên của ông về Hitler là đúng. Hitler là một con người can đảm.

    Erwin Rommel tâm sự với vợ: Ông ấy gây cho tôi rất nhiều lo âu. Ông ta luôn luôn muốn có mặt giữa các toán quân tiền phong. Hình như ông ấy thích thú khi ở tuyến lửa.

    Thái độ này của Hitler làm cho lòng kính phục của Erwin Rommel càng tăng thêm. Đối với Rommel , lòng can đảm là điểm cốt yếu.

    Vả chăng, nhìn chung thì mối quan hệ giữa hai người rất tốt đẹp. Mãi rất lâu về sau này mối quan hệ đó mới dần hư hỏng đi.

    Chắc chắn Hitler có một thứ ma lực quyến rũ, Rommel ghi nhận vào thời đó. Rõ ràng ông ta có một đức tin vào sứ mệnh của Thượng Đế, sứ mệnh dẫn dắt dân tộc Đức đến vinh quang.

    Ông ta nói với giọng của một nhà tiên tri, và luôn hành động bởi những thúc đẩy nội tâm chứ không bao giờ bị lý trí ép buộc.

    Vả lại, mưu đồ sát nhập lãnh thổ của Hitler cũng không làm cho lương tâm một quân nhân như Rommel thấy ái ngại. Cũng như Hitler, ông nghĩ rằng Đức Quốc Xã phải mạnh mẽ và vĩ đại. Một quan điểm được đa số người Đức chia sẻ. Goebbels rất rành rẽ nghề của ông ta, và sự tuyên truyền Quốc xã hiện diện khắp nơi.

    Đối với những gì liên quan đến Danzig, Rommel đều trực tiếp quan tâm. Chính mảnh đất ấy là nơi ông thụ huốn quân sự. Chính mảnh đấy ấy là nơi ông gặp gỡ vợ ông. Gia đình vợ của ông vẫn còn sống bên kia phần lãnh thổ bị chia cắt của nước Đức, phần Đông Phổ. Do đó, dĩ nhiên là ông hoan hô quyết định tấn công Ba Lan.

    Hơn nữa, cuộc chiến tại Ba Lan đã đem đến rất nhiều bài học cho ông Thống chế tương lai. ông khám phá ra tầm quan trọng của sự phối hợp giữa Không quân và Lục quân, tính hiệu quả của các mũi dùi tấn công thọc sâu rồi khoét rộng tối đa, bất chấp mối đe doạ bị cắt ngang. Và cuối cùng, ông hiểu biết vai trò cốt yếu của thiết giáp, được sử dụng một cách tập trung thành những đơn vị lớn.

    Một công cuộc chuẩn bị vũ trang kịch liệt và có hệ thống đã được Hitler bắt đầu kể từ khi ông ta nắm quyền. Và bây giờ nước Đức đã sẵn sàng. Kể từ 1935, hiệp ước Versailles đã chết. Đạo quân Reichswehr với 100.000 quân cũng thế, nó đã nhường chỗ cho Quân Lực Wehrmacht, một guồng máy chiến tranh kinh khủng trong đó binh chủng thiết giáp đóng vai trò hàng đầu.

    Tuy nhiên, thiết giáp Panzer cũng gặp nhiều khó khôn khi muốn chiếm vị trí quan trọng đó. Phải có cả một thứ đức tin của những nhà tiên tri như tổng Tư lệnh tương lai của Quân đội Đức, Von Brauchitsch hay Tư lệnh tương lai của quân đoàn 19, Heinz Guderian, Kết quả mới được như vậy.

    Ngay từ những năm 1930, những nhân vật này đã hiểu vai trò và tầm quan trọng của binh chủng thiết giáp. Và họ không ngừng nghỉ thuyết phục Hitler.

    Không phải không có khó khôn. Họ đụng phải những quan niệm lỗi thời của cả Bộ Tư lệnh Tối Cao Đức, quan niệm coi thường, khinh miệt đối với những động cờ, coi binh chủng thiết giáp như là một thứ mộng tưởng và muốn hạ cấp các đơn vị cơ giới xuống ngang hàng với kỵ binh.

    Cũng vào thời kỳ ấy, bên kia biên giới, một viên Đại tá trẻ tuổi vô danh cũng đã thực hiện những nghiên cứu phân tích như các đồng nghiệp Đức của ông, cũng chung một quan niệm và cũng gặp những chống đối tương tự. Đó là Đại tá Pháp De Gaulle.

    Nhưng trong khi Đại tá De Gaulle bị hụt hơi trong khi thuyết giảng ở sa mạc thì những Guderian và Brauchitsch rốt cuộc áp đặt được ý kiến của họ. Ngay từ 1933, Guderian đã trình bày cho Hitler những quan niệm của ông, điều động diễn tập các đơn vị thiết giáp cho Hitler xem. Và Hitler đã bị chinh phục. Đây rồi những gì tôi cần đến. Đây rồi những gì tôi phải có!? Kể từ lúc ấy, cuộc bại trận của nước Pháp đã được quyết định trước, Guderian được rảnh tay trui rèn các đạo quân thiết giáp Đức.

    Từ năm 1938, 5 sư đoàn thiết giáp đã được tổ chức xong, tiếp ngay sau đó là 3 sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ. Cùng trong thời gian này, số lượng các sư đoàn thông thường đã lên đến con số 96 sư đoàn. Và Không quân, công trình của Goering, đã có 93 phi đoàn hoàn hảo. Tiêm kích, ném bom, trinh sát đủ cả.

    Ngày 26 tháng 9 năm 1939, vào lúc 4h45 sáng, các đơn vị Đức tràn ngập Ba Lan. Ngày 3 tháng 9, lúc 11h, Anh quốc tuyên chiến với Đức. Đến 17h cùng ngày, đến lượt Pháp tuyên bố điều không thể trành được. Đệ Nhị Thế Chiến bắt đầu. Trong vòng 8 tháng, người ta chứng kiến một vụ vén màn lịch sử kỳ lạ nhất, tuyên chiến nhưng không đành nhau. Cho đến hừng đông ngày 10 tháng 5 năm 1940, Cuộc chiến tranh kỳ cục? mới chấm dứt. Cuộc chiến tranh thật sự bắt đầu.

    Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã sắp xong hành lý. Hy vọng không phải là vô ích. Trong những ngày sắp đến, bà sẽ biết được tất cả tin tức qua báo chí. Đừng lo lắng, mọi chuyện sẽ tốt đẹp.

    Vài chữ nguệch ngạc vội vàng đó là bức điện tín từ biệt vợ của Thiếu tướng Erwin Rommel. Lúc ấy là tối ngày 9 tháng 5.

    Thế là đã 4 tháng trời Erwin Rommel đã phải nóng nảy chờ đợi giây phút này. Người ta có cảm tưởng ông không thể nào ngồi yên một chỗ. Một hôm nhân lúc vui đùa, Hitler hỏi ông: Này Rommel, vậy cái gì làm ông thích thú nhất??

    Câu trả lời vọt ra ngay lập tức: Chỉ huy một sư đoàn thiết giáp!?

    Chính vì thế mà ngày 15 tháng 2 năm 1940, Erwin Rommel nhậm chức Tư lệnh sư đoàn 7 Panzer. Tối ngày 9 tháng 5, sư đoàn dàn quân đối diện vùng núi Andernes thuộc Bỉ, chờ lệnh tấn công.

    Đơn vị gồm 4 thành phần:

    1.Thiết giáp : Trung đoàn 25 thiết giáp do Đại tá Rothenburg chỉ huy. Và Tiểu đoàn 37 trinh sát. Tất cả là 218 chiến xa.

    2.Bộ binh cơ giới: 2 trung đoàn và 1 tiểu đoàn. Bao gồm Trung đoàn 6 Bộ binh hạng nặng (Grenadier" có người dịch là pháo thủ, hoặc lính ném lựu đạn, hoặc lính phóng lựu) của Trung tá Von Unger, Trung đoàn 7 của Đại tá Von Bismarck và Tiểu đoàn 7 cơ động bằng xe mô tô.

    3.Công binh: Tiểu đoàn 58.

    4.Pháo binh: Trung đoàn 7 pháo dã chiến, Tiểu đoàn 42 phòng không DCA.

    Đấy là các đơn vị trong tay Rommel. Người ta có thể tin tưởng vào ông vì ông sẽ sử dụng họ rất tốt. Sau này Sư đoàn 7 Panzer được lịch sử ghi nhận với cái tên Sư đoàn Ma.

    Vậy là cuộc tấn công toàn diện đã được phát động. Chiến dịch kéo dài trong 60 ngày. Sư đoàn luôn được đặt làm mũi dùi của chiến dịch.

    Ngày 10 tháng 5, chiến xa vượt qua rộng Ardennes, trở ngại không đáng kể. Quân Đồng minh đã thiết lập một số pháo đài kiên cố nhưng chỉ có một lớp bộ binh rất mỏng để bảo vệ khu vực. Lực lượng phòng thủ bị đẩy phăng không thương xót.

    Địch quân đã chuẩn bị đủ loại chướng ngại vật trong mấy tháng qua, Rommel ghi trong nhật ký hành quân, tất cả các trục lộ, các đường băng rừng đều bị cắt đứt bởi các rào chắn chiến xa, mìn đã được cho nổ để tạo các hố sâu trên các con đường chính. Nhưng phần nhiều rào chắn đã không được phòng vệ.

    Do đó, Sư đoàn Ma tiến lên không mấy khó khăn. Gặp khi không thể chạy vòng một chướng ngại vật, tất cả mọi người nhảy ra khỏi xe và phá tan nó, con đường lại được khai thông.

    Một ngày trôi qua gần như không phải đánh nhau gì cả.

    Ngày 11 tháng 5, ngày thứ hai của cuộc tấn công, những đơn vị tiền phương của Pháp tung ra trận chiến quan trọng đầu tiên chống thiết giáp Đức, nhưng bị tan vỡ. Tướng Corap tư lệnh Lộ quân IX của Pháp ra lệnh rút lui. Con đường tiến tới sông Meuse mở rộng.

    Lu yêu dấu, hôm nay là lần đầu tiên tôi mới có chút thời gian để viết thư (Lu là cách viết tắt của Rommel nhằm gọi Lucie vợ ông). Cho đến giờ phút này mọi chuyện đều tuyệt vời. Tôi đã tiến trước, các cánh quân bạn ở hai bên. Tôi phải la hét, ra lệnh đến khan tiếng. Tôi chỉ được ngủ có ba giờ và thỉnh thoảng nghỉ ngơi một lúc. Ngoài chuyện đó, tôi vẫn rất khoẻ.

    Cuộc chiến khởi đầu quá tốt đẹp đối với ông tướng nóng nảy, quả là một cuộc đi dạo giữ sức khoẻ. Bức thư này Rommel viết cho vợ để ngày 11 tháng 5. Ngày 12, các đơn vị tiền phong của Sư đoàn 7 đã đến sông Meuse. Ông được lệnh vượt qua chướng ngại vật thiên nhiên này càng sớm càng tốt và phải thiết lập một đầu cầu vững chắc bên tả ngạn sông. Ngày 13 sẽ là một ngày vất vả.

    Lẩn này họ sẽ chống cự. Chúng ta sẽ gặp những khó khăn, Schrapler!?

    Nằm bên cạnh sĩ quan tuỳ viên, Rommel dùng ốm nhỏm quan sát bờ sông bên kia, bên phía đối phương mà binh sĩ của ông từ sáng sớm đến giờ đã không thể nào đặt chân lên được.

    Đã ba lẩn, binh sĩ của Trung đoàn 6 Bộ binh hạng nặng thà xuổng cao su xuống nước và tiến về phía hoà lực địch. Quân Pháp ẩn kín bên kia bờ sông đã dễ dàng dập tốt những âm mưu ấy. Và dòng nước vẩn đục của con sông Meuse cuốn đi nhiều xác chết của binh sĩ Đức cùng những mảnh xuổng rách nát.

    Chắc không bao giờ có thể tiến qua đó được, Von Unger, trung đoàn Trưởng Trung đoàn 6 thở dài. Chúng ta cần một màn khói. Nhưng chúng ta lại không có đạn khói.

    Rommel chen vào:

    -Scharpler! Ra lệnh đốt cháy tất cả nhà cửa dọc theo bờ sông. Tôi cho rằng thế là đủ, phải vượt qua bằng mọi giá.

    Trong suốt cả ngày 13 ấy, Rommel hiện diện khắp nơi. ông chạy từ điểm vượt sông này qua điểm khác, nhận xét tiến triền của toán quân này, thất bại của toán khác. ông ra lệnh, khuyên bảo rồi quay về hậu cứ để chuyển dịch vị trí pháo binh?

    Vào cuối ngày, ông quyết định bốt một chiếc cầu phao tại điểm vượt sông thuộc Trung đoàn 7. ông dàn chiến xa dọc theo bờ sông với nhiệm vụ tưới đạn liên tục vào phía bên kia bờ. Binh sĩ công binh đã bắt tay vào việc, người họ ngập xuống nước đến tận cổ, nhưng ông Tướng vẫn cho rằng mọi việc tiến triền vẫn chưa được như ý muốn.

    -Tôi giúp các anh một tay.

    Trước các sĩ quan ngần người vì ngạc nhiên, Rommel lội xuống dòng nước lạnh giá và giúp nâng những chiếc đà cầu. Cho đến nửa đêm, chiếc cầu đã hoàn tất và thiết giáp bắt đầu vượt qua sông. Hư?ng đông ngày 14 tháng 5, Sư đoàn 7 chiếm một vùng đầu cầu từ 4 đến 5 km bề rộng và từ 3 đến 4 km bề sâu trên tả ngạn sông Meuse.

    Chính trong ngày hôm ấy ông đã hai lần thoát chết vào lúc 9h sáng.

    15 tháng 5, Quân đội Hà lan đầu hàng. Phòng tuyến phía Bắc bị cắt đứt trên cao nguyên Gembloux, bên cạnh Namur. Và quan trọng nhất là, thiết giáp Đức đã vượt sông Meuse.

    Chỉ trong có 5 ngày mà Quân đội Quốc Xã đã tạo nên chiến công lớn như vậy. Chính cả Bộ Tư lệnh Tối Cao Đức cũng choáng váng. Tướng Von Rundstedt Tư lệnh Binh đoàn A (phần lớn lệ thuộc vào các sư đoàn thiết giáp của Guderian và Rommel) lấy làm lo ngại vì mũi dùi tấn công quá mau lẹ của các đơn vị xung kích thuộc quyền ông. Mệnh lệnh được chuyển xuống các đơn vị không cho vượt quá các vùng đầu cầu đã được thiết lập bên tả ngạn sông Meuse.

    Cả Guderian lẫn Rommel đều bất chấp lệnh ấy. Hai ngày sau, chính Hitler cũng cố gắng kềm giữ đà tiến của chiến xa. Nhưng cũng vô ích, con thú dữ đã xổng chuổng.

    Kề từ ngày đó chiến trận tại Pháp có thể được mô tả Tóm tắt như là một cuộc thi tốc độ lạ lùng giữa các Pazerdivisionen (sư đoàn thiết giáp).

    Chiều tối ngày 15 tháng 5, Rommel hạ trại trên đồi Cerfontaine, cách Philippeville vài cây số. Các chiến xa của ông đã tiến 40km trong ngày hôm ấy. Trước thiết giáp Đức, quân Pháp và Hà Lan t u tán tan tác như luf chim se

    Tuy nhiên tại ngưỡng cửa một ngôi làng nhỏ, vài chiến xa Pháp đã cố chống cự. Việc ấy không kéo dài quá lâu, lính Pháp đầu hàng mau lẹ. Và vì không thể giam giữ chiến xa Pháp tại chỗ được nên chúng gia nhập vào đoàn thiết giáp Đức, vẫn do lính Pháp lái.

    Trên đình đồi cao, ông tướng nhìn xuống cánh đồng đang chìm dẩn vào bóng đêm. Khắp nơi là những cột bụi bốc cao, bụi từ những bước tiến của thiết giáp Sư đoàn Ma.

    Dấu hiệu khích lệ, ông ghi lại, chứng tỏ rằng cuộc tiến quân của Sư đoàn 7 Panzer trên đất địch đã bắt đầu..

    Rommel cảm thấy rất hài lòng. Ngay từ ngày 16 tháng 5, vào lúc chập choạng tối, Sư đoàn Ma tiến đến sát phòng tuyến Pháp, phía Nam Clairfayts. Biên giới, đã bị vượt qua, nước Pháp đang bị chia cắt. Say sưa trong niềm vui tột độ, ông tiếp tục tiến quân sâu hơn và từ chối không chịu dừng quân nghỉ đêm.

    ông chạy dẫn đầu với Trung đoàn 25 thiết giáp , nhắm thẳng đến Avesnes, dưới ánh trông, gieo rắc một tình trạng hỗn loạn không tưởng tượng được dọc con đường đi qua. Quân Pháp ngây người chỉ nhảy xuống hố để trốn. Còn người dân bị tiếng ổn thiết giáp đánh thức vào lúc nửa đêm, há mô?m không tin vào mất mình nữa.

    Trong một ngôi làng mà quân Đức dừng nghỉ giây lát, một phụ nữ tiến đến gần vị Tư lệnh Sư đoàn Ma. Một cuộc đàm thoại ngoài sức tưởng tượng:

    -Có phải các ông là người Anh không?

    -Thưa quý bà, không, chúng tôi là người Đức.

    Người đàn bà u? té chạy trốn như vừa trông thấy quỷ.

    Tại Avesnes, đồn binh của Pháp rất vững chắc. Nhiều trận đụng độ nghiêm trọng trong thành phố đã chặn đứng đà tiến của quân Đức ít lâu. Trận chiến kéo dài cho đến 4h sáng. Avesnes thất thủ. Sư đoàn 7 Panzer lại tiếp tục tiến.

    Mục tiêu kế tiếp: Landrecies, trên sông Sambre.

    Rommel không nhận được lệnh lạc gì. ông đã mất liên lạc với hậu cứ từ lâu. ông đang ở ngay giữa lòng hậu cứ địch. ông bắt đầu thiếu đạn dược bởi vì kề từ khi bắt đầu cuộc tấn công mới này, ông chưa hề được tiếp tế. Mặc kệ, ông tiến sâu mãì

    Maroiller thất thủ, rồi Landrecies và chiếc cầu trên sông Sambre. Trên bờ sông bên kia có một trại binh đầy ắp quân Pháp.

    -Hanke, qua đấy bảo họ đã là tù binh!

    Viên Trung uý Đức đi thẳng vào trại binh và ra lệnh cho các sĩ quan Pháp tập hợp binh sĩ. Gương một họ như từ trên mây rơi xuống đất?

    Và Rommel lại tiến tới: Pommereuil và sau đó là Cateau. Bình minh bắt đầu ló dạng. Lúc đó là 6h, bộ phận tiền quân của Sư đoàn Ma và vị Tư lệnh đã vượt qua 80km. Chỉ có 35 binh sĩ Đức từ trận và 59 bị thương.

    Nhưng quân Pháp từ trận và bị bắt làm tù binh đến 10.000 người, 100 xe tăng, 30 thiết giáp, 27 trọng pháo bị tiêu diệt và tịch thu.

    Chiến thắng quá lớn, hành động trà thủ quá xứng đáng cho người chiến sĩ đã bại trận hồi Đệ Nhất Thế Chiến. Cuộc tiến quân toàn thắng này đã thay thế được cho bữa ăn, giấc ngủ của quân Đức? Erwin Rommel bơi lội trong niềm say sưa chiến thắng.

    Và ông viết: Hai mươi hai năm trước, chúng tôi đối diện với cùng địch thủ ấy trong bốn năm rưỡi liền, chúng tôi đạt được thắng lợi này đến thắng lợi khác mà rốt cuộc lại bại trận. Và giờ đây chúng tôi chọc thủng phòng tuyến Maginot danh tiếng. (***) Chúng tôi đang tiến sâu vào đất địch! Đây không phải là giấc mơ, đây đang là sự thật.

    (*** Chú ý: ở đây Rommel hơi lố một chút: Phòng tuyến Maginot chưa bao giờ bị chọc thủng thật sự. Điểm xuyên thủng của quân Đức là Ebel Emael, nơi kết nối khá yếu giữa Maginot và phòng tuyến của Bị.)

    Đối với Rommel, ngày 17 tháng 5 sẽ là một ngày đầy ngạc nhiên. Dẫn đầu đoàn Panzer, ông đã thọc sâu vào đất Pháp như một ngón tay thọc vào một tàng bơ. Nhưng khi đứng trên đồi cao phía Đông Cateau ngắm các cụm khói bốc lên từ những cuộc đụng độ trộn lẫn với sương sớm, đột nhiên Rommel ý thức được ông đang le? loi một mình.

    ông chỉ có một tiểu đoàn Panzer và một phần của tiểu đoàn mô tô. Chung quanh, hai bên mạn sườn ông, quân Pháp ở khắp nơi và được vũ trang đầy đủ. Vậy thì phần chính của Sư đoàn Ma đang làm gì Nhiều điện văn đã được gửi về phía sau nhưng không hề nhận được phúc đáp.

    -Rothenburg, anh nắm quyền chỉ huy Tiểu đoàn mô tô và giữ vững vị trí. Tôi quay lại xem sao? Chắc họ không còn xa mấy.

    Trên chiếc xe chỉ huy được hộ tống bởi một chiếc Panzer III duy nhất, ông Tướng lại đi ngược trở lại con đường đã chinh phục được hôm trước.

    Một cuộc thám hiềm kỷ dị. Hai bên đường là hàng chục, hàng trăm quân Pháp nhìn hai chiếc chiến xa Đức chạy ngang với vẻ khó tin. Và Rommel đâm nổi giận vì không thể bốt họ làm tù binh. Họ đông quá mà ông chỉ có một dúm người.

    Thỉnh thoảng có một chiến xa Đức đang bốc cháy, chứng tỏ có sự kháng cự của quân Pháp. Lại có nhiều chiếc Panzer khác bị nằm đường vì hết xăng. Nhưng cái sư đoàn khốn kiếp đang làm gì vậy kìà

    Sau Landrecies, Rommel gặp hai binh sĩ mô tô Đức bị thương đang ở bên đường. Họ ra dấu chọ đồng đội bằng những cử chỉ tuyệt vọng. Không dừng lại được , Rommel la lớn. Không có thời gian..

    Đoạn, cả một đoàn convoy của quân Pháp xuất hiện tại giao lộ trên con đường cất ngang. Rommel bốt chiếc xe dẫn đầu dừng lại, ra lệnh cho sĩ quan tuỳ viên lên ngồi cạnh viên sĩ quan Pháp và dẫn luôn về Avesnes. Không thể nào để lọt đám quân xa này. Cả đám này là 40 xe vận tải đầy ắp lính Pháp được vof trang đầy đủ, giờ đã là tù binh.

    Đến 16h, ông Tướng mới gặp lại đại quân của mình. Chỉ còn vấn để chiếm đóng các khu vực lãnh thổ đã chinh phục được, Rommel liền trở lại vị trí tiền quân của ông, tự cho phép mình ngủ một giờ rưỡi. Rồi ông lại tung cả sư đoàn về phía trước. Lúc đó đã quá nửa đêm một chút.

    Chiều tối ngày 18 tháng 5, sau mặt trận đụng độ ngắn giữa các chiến xa, Cambrai bị chiếm đóng.

    Thế là trong suốt 10 ngày liền, binh sĩ của Rommel gần như không được chợp mất. Mười ngày tiến quân như vũ bão của Sư đoàn Ma đã không để cho họ một phút nào để nghỉ ngơi. Họ đi, họ di chuyển trên xe, chiến đấu say sưa vì chiến thắng ngày càng trở nên hiền nhiên, hông say vì vị Tư lệnh không biết mệt mỏi là gì dường như đang dẫn họ đi xa hơn để mang chiến thắng vĩ đại về cho Đức Quốc.

    Họ, những binh sĩ của Rommel cũng biết rằng các sư đoàn thiết giĂp khác thuộc Binh đoàn của Von Rundstedt cũng không để mất thời gian. Rằng Reinhard và Guderian cũng thúc đẩy những chiếc Panzer của họ tiến càng xa càng tốt, tiến song song với Sư đoàn Ma nhưng xa hơn về phía Nam. Họ cũng đã tiến tới sông Sambre và Oise, cũng đã chọc thủng vào trung tâm nước Pháp.

    Sự ganh đua không phải là một từ ngữ vô ích trong tâm trì người Đức. Tinh thần tập thể cũng vậy. Và cuộc chạy đua ào àt của những chiếc Panzer trở nên không còn sức mạnh nào cầm giữ lại được, ngay cả những lo Ău của BT Tư L?nh, của Hitler. Cuộc chạy đua đó có thể giải thích được phần nào bởi sự cảnh tranh nội Bộ. Trong quân đội hù?ng mảnh nhất thế giới, ai cũng muốn được coi là tifu đoàn ưu tú nhất, sư đoàn ưu tú nhất.

    Cần phải tỏ ra công bằng với họ. Các lãnh thù của Quân lực Wehrmacht, các triẮt gia của tư tưởng quốc gia xàf hội chủ nghĩa (Quốc Xàf), các chuyên gia tuyên truyền, những nhác sĩ, thi sĩ của chế độ đã thực hiện nhiệm vụ của họ một cách hoàn hào. Guổng mày chiến tranh của Hitler không còn kẽ hở.

    Nhưng ngay cả đến siĂu nhân thì đối lúc cũng cẩn thở.

    Do đó, Rommel chấp nhận cho binh sĩ 24h nghỉ ngơi. Ông lợi dùng thời gian này để lo cho vấn đề cấp bách là tiếp liệu. Vì thế ngày 19 trôi qua bình thản.

    Ngày 20, lúc 1h40, dưới Ánh trfng, Sư đoàn Ma lại lên đường tấn công. Mục tiêu: Arras. Trận đánh sẽ rất gay go.

    Gay go đến nỗi, đây là lần đầu tiên kể từ khi quân Đức khởi sự tấn công, đã có lúc Rommel nghĩ ông không thể thắng được. lần đầu tiên ông chạm trán với chiến xa của Anh với lớp vỏ thép Thật dày.

    Cuộc phản công của Anh mở rộng trong suốt ngày 21, giáng cho quân Đức những tổn thất nặng nề nhất kể từ khi bắt đầu cuộc chiến. Về nhân màng: 300 từ trận và bị thương hay mất tích. Về vật chết: 10 Panzer III và IV bị phá hủy cùng nhiều chiến xa hàng nhè. những tổn thất trong một ngày độc nhất chiến đấu quanh Arras đã lớn gấp bắn lần số tổn thất của Sư đoàn Ma kể từ 10 tháng 5 đến nay.

    Cũng trong trận đánh Arras này mà Rommel đã hai lần thoát khỏi sự đứt ngang sự nghiệp nhà binh của mình.

    lần đầu tiên khi bị phục kịch trong chiếc xe chỉ huy, ông phải chạy trốn dưới làn đạn đại pháo của Pháp, phải bỏ con đường lớn và chơi trò cùt bắt trong cánh đồng nhiều giờ liền. Cũng tại đấy, trung thành với chiến thuật cố hữu, Rommel với Trung đoàn 25 thiết giĂp đã tiến quả xa với thành phần chủ lực của sư đoàn. Một lần nữa, ông lại phải trở lui để xem tin tức ra sao. Và ông suỳt bỏ màng tại đó. Rất cuộc, hậu quân lên kịp và cứu ông thoát khỏi Tình trạng khó khăn.

    Một lần nữa, vào lúc cao điểm cuộc phản công của quân Anh ngày 21. Trài lộ thường, ông tướng rời xe. Đồ chặn đứng đợt tấn công của quân Anh, ông trực tiếp chỉ huy pháo binh. Ông chạy từ trận địa pháo này sang trận địa pháo khác, chạy từ khẩu này sang khẩu kia. Người sĩ quan trung thành với ông, Most, luôn luôn theo sát ông như hình với bóng, đã trùng đạn và chết khi cách ông chỉ hai mét.

    Sau cùng cuộc tấn công cũng bị chặn đứng, quân Anh bắt buộc phải rút lui. Nhưng quân Đức cũng phải đi vòng qua Arras mất hai ngày 22 và 23. Tinh thần binh sĩ xuống thấp. Chiến tranh không còn vẻ nhè nhàng dễ dàfi như những ngày trước đó. Rommel phải mất hai ngày tròn mới chính đến lại hàng ngũ sư đoàn của ông lại được.

    â Giờ đây trận đánh tại Lille đã chấm dứt, chúng tôi là những người đầu tiên tiến đến đầu lẮi ra phía Tây thành phố, chúng tôi được nghỉ ngơi đằng sau mặt trận. Ngày 26 tháng 5, Trung uý SS Hanke, nhân danh Fuhrer trong một buổi Lễ cực kỳ long tròng đã gần cho tôi HuĂn chương Thập Tự sắt và chuyển đến tôi những lời khen ngợi nổng nhiệt nhất của Fuhrer.

    Rommel viết thư này cho vợ vào ngày 29 tháng 5. Quân hết những buồn phiền tại Arras, một nhọc và ngờ vực tan biến, vị Tư lệnh Sư đoàn Ma đang sung sướng. Hà chẳng phải ông là người đầu tiên đặt chân đến thành phố Lille hay sao? Ông chẳng nhận được HuĂn chương Thập Tự sắt từ tay viên sĩ quan SS Hanke là gì? Fuhrer đã chẳng rất vừa lòng về ông đó sao?

    Khi sung sướng, ông như cậu bé con.nếu như trong cùng bức thư ấy còn viết: â Một trong các chỉ huy Trưởng đơn vị của tôi bị từ trận vì đạn của quân ta thì cũng kẶ. Không còn chiến tranh nào mà không để lại những vốt hẳn, đụng không? Và chăng, câu chuyện đáng tiếc ấy Bộ đã không chứng minh rằng ông được hưởng một thiên Ăn đặc biệt, một sự che chở là lùng đó sao? Bởi vì viên sĩ quan ấy, Thiếu tê Erdman cũng từ trận y như Most là cách ông còn hai mét. Điều này ông nghĩ nói rõ cho vợ hiểu là vô ích.

    Cũng như ông cũng đã không kể lại câu chuyện đi dạo trên đường phố tại Lille.

    Người ta sẽ làm gì khi được nghỉ ngơi trong một ngày nf́ng Ắm, nhất là con người đó không bao giờ biết ngồi yên một chỗ là gì? Một cuộc du ngoàn bằng xe hơi, Thật hay, bởi Rommel chưa biết gì về thành phố Lille.

    Ông cũng không biết rằng bên trong thành phố vẫn còn đầy dẫy quân Anh và quân Pháp.

    Ông chạm họ ngay, nhưng may là ông cũng còn kịp thời gian để quay xe trở lui trước khi địch quân kịp phản ứng, họ cũng khá bất ngờ.

    Phải, Rommel rất sung sướng trong ngày 29 tháng 5 ấy, ông viết:

    Cần là người Pháp sẽ từ bỏ cuộc chiến đấu mà từ nay đã trở nên vô vọng, nếu không, chúng tôi sẽ nghiền nát họ cho đến tận cùng xứ sở này.

    Vậy thì đây là thời gian Sư đoàn 7 Panzer đang nghỉ dưỡng quân. Giai đoạn đầu tiên của cuộc tấn công đã kết thúc. Bản kết toán tháng 5 này quả thật tai hại cho Đồng minh.

    Quân đội Đức đã tiến đến được bờ biển của Pháp gần Abbeville. Mặt trận phía Nam hiện đang dàn ra từ Bắc Hải cho đến phòng tuyến Maginot vốn không bị động chạm đến, dọc theo sông Somme và sông Aisue. Mặt trận đi ngang qua các thành phố Abbeville, Amiens, Peronne, Ham, La Fe?re và Chauny. Đối diện với quân Đức, để chống đỡ mặt trận đang mở rộng hơn lúc ban đầu, Weygand, người thay thế Tướng Gamelin trong chức vụ Tư lệnh Tối Cao, đã dự định trong tuyệt vọng: Xây dựng thật nhanh vài pháo đài kiên cố. Thật phí công, binh sĩ Quốc Xã đã lên giờ tấn công và họ không khó khăn gì để đập tan phòng tuyến Weygand? ấy.

    Nhưng thời khốc đó vẫn chưa đến. Trước hết phải kết thúc khu vực xa hơn về hướng Bắc, với một nửa của Lộ quân 1 Pháp bị bao vây trong vùng Lille, công cuộc tảo thanh được làm xong ngày 31 tháng 5.

    Cần nhất là chiến thắng quân Anh. Phần chủ lực của lực lượng Anh, được gia tăng thêm phần còn lại của các Lộ quân 1 và 7 Pháp, đã bị đánh chạy cho đến tận bờ biển ngày 26 tháng 5. Trong chín ngày, cho đến 4 tháng 6, là công cuộc di tản không tưởng tượng nổi tại Dunkerque. Dưới sự bắn phá không ngừng của những chiếc Stukas Đức, 338.000 binh sĩ Anh lên được tàu và trở về Anh quốc. Đó là nhờ sự hy sinh của hàng ngàn binh sĩ Pháp, những người ở lại chặn hậu can đảm. Những người còn sống sót thì gia nhập vào con số 1 triệu tù binh của trận chiến chớp nhoáng ba tuần lễ này.

    lần này chúng tôi đã đạt đến đích, quân Anh đã bị đá văng ra biển. Người ta không còn nhắc đến người Bỉ lẫn Hà Lan nữa. Quân đội Pháp còn lại một mình, bị đánh tan tác mất 30 sư đoàn, chỉ còn lại 66 cộng thêm 2 sư đoàn khốn khổ của Anh.

    Trận chiến tại Pháp sắp kết thúc. Nó còn đúng 20 ngày nữa. những ngày đau đớn nhất của lịch sử nước Pháp. Nhưng là những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Erwin Rommel.

    Giai đoạn thứ hai của cuộc tấn công bắt đầu từ hôm nay. Chúng tôi vượt qua con kênh trong một giờ đồng hồ. Chúng tôi có thời gian và do đó mọi chuyện được chuẩn bị kỹ lưỡng. Tôi sẽ quan sát cuộc tấn công từ khá xa ở phía sau. Tôi hy vọng rằng trong vòng 15 ngày nữa chiến tranh sẽ kết thúc. Hàng đống thư từ hàng ngày được chuyển đến chúng tôi. Ai ai cũng gửi lời khen ngợi. Tôi không thể đọc đến một nửa số thư ấy. Không có thời gian!

    Lúc ấy là 3h30, rạng ngày 5 tháng 6. Rommel viết thư cho vợ. Trong nửa giờ nữa, vào lúc tở mở sáng, một cơn mưa lửa đạn sẽ chụp xuống các vị trí quân Pháp, từ Pérone đến biển.

    Trong vài giờ nữa, phụ nữ và trẻ con Đức sẽ thức dậy. Họ sẽ nghe radio như mỗi buổi sáng thường lệ. Và họ sẽ nghe giọng nói cuồng nhiệt của Adolf Hitler.

    Tôi ra lệnh kéo chuông nhà thờ trong ba ngày trên toàn lãnh thổ Đức. Tiếng chuông sẽ hoà lẫn vào tiếng cầu nguyện mà dân tộc Đức đọc để theo sát bước chân con em mình. Vì ngay sáng nay, các sư đoàn Đức và các phi đội không quân đã bắt đầu giai đoạn hai của cuộc chiến đấu mà chúng ta đã dấn thân cho tương lai và tự do của dân tộc chúng ta.

    Sư đoàn 5 và 7 Panzer tạo thành cánh phải trong thế dàn quân của Đức. Cuộc tấn công của Rommel đã được chỉ định khu vực.

    Ông Tướng đã chuẩn bị rất kỹ càng. Ông đã chọn chiến trường, đó là một đầm lầy chết rộng chừng 1500 mét phân cách vị trí quân Đức trên hữu ngạn sông Somme, quân Pháp bên tả ngạn thì dàn quân trên một triền dốc nghiêng.

    Ông đã khai thác tối đa những sai lầm của địch quân. Quân Pháp đã phá huỷ tất cả các cây cầu bắc qua sông Somme. Họ chỉ quên có 4 chiếc cầu nằm trong khu vực đầm lầy mà Rommel chọn lựa chỉ vì đó là 4 cây cầu xe lửa. Tối ngày 4, đêm trước cuộc tấn công, 4 cây cầu bị bí mật bao vậy. Suốt đêm ông cho gỡ sạch đường ray và các chướng ngại vật chắn ngang, tạo một lối đi hẹp nhưng vừa đủ cho những chiếc Panzer của Sư đoàn Ma. Đến 6h sáng, những chiếc Panzer đầu tiên vượt qua sông.

    Đến 9h, chúng bò lên tấn công các bờ dốc do quân Pháp trấn giữ, họ kháng cự mạnh mẽ.

    Vào giữa trưa, Rommel đã thiết lập được một đầu cầu vững chắc giữa hai ngọn đồi.

    16h, trận đánh triển khai quanh Quesnoy-Sur-Airaines. Thật kinh khủng, quân Pháp chiến đấu trong tuyệt vọng. Người ta trông thấy những binh sĩ Sénégal lao vào tấn công những chiếc Panzer Đức. Họ đi chân đất, cố gắng chặt, chém chiếc chiến xa bằng những cây mã tấu, bằng những con dao bầu. Nhưng chẳng có thứ gì, Đặc biệt là dao với mã tấu của những binh sĩ Sénégal, có thể ngăn chặn được những chiếc Panzer. Quesnoy, Hangest, Longpré, Condé-Folie lẩn lượt thất thủ.

    Dùng ống nhỏm theo dõi và điều quân các đơn vị, Rommel ghi chú với sự hài lòng: Các binh chủng khác nhau đã hành động phối hợp một cách tuyệt hào, y như một cuộc tập trận thời bình??

    Vào chập tối khi ông nhận được lệnh phải ngừng mũi tấn công lại, tính ra Sư đoàn 7 Panzer đã tiến sâu vào sau phòng tuyến Pháp 13 km.

    Ông điện về hậu cứ: Trước một chúng tôi hoàn toàn yên tĩnh. Địch quân tan thành từng mảnh.

    Rồi ông dành vài giờ nghỉ ngơi, ngày mai sư đoàn sẽ điều động về phía sông Seine!

    Người đàn ông, một nông dân chừng 50 tuổi, hấp tấp trở gót và tháo lui về nhà.

    Rommel và các sĩ quan đứng chung quanh ông cười lớn: những người Pháp ấy thật là hài hước.

    Từ khi cuộc chiến bắt đầu, lúc nào người Đức cũng thấy vẻ sợ hãi do họ gieo rắc.

    Trời đất, họ tưởng rằng họ sẽ bị ăn thịt hết!?

    Trước những chiến xa Đức, đoàn người tị nạn ngày càng phồng lên thêm. Trong những ngôi làng mà ông đi qua, Rommel đã thấy những ánh mắt kinh hãi, sợ sệt.

    Thật khó thể nào nói rằng họ chẳng có gì để sợ hãi, rằng họ có thể ở lại nhà. Không có cách nào để trấn an họ. Nhìn kìa, một kẻ lại lủi trốn như con thỏ? Kìa, ông ta lại xuất hiện kìa.

    Nhưng người này không sợ, ngày nông dân vùng Menerval. Không những ông trở lại mà còn dắt theo cả vợ con. ông đến bắt tay các sĩ quan Đức, những người đã dành cho ông cái vinh dự là đã dừng chân một lát trước cửa nhà ông.

    Ông vui lòng uống với chúng tôi một ly rượu chứ??

    lần đầu chính ông tướng mở to mất! Người đàn ông nói bằng một thứ tiếng Đức tuyệt hào. Đấy là một cựu tù binh chiến tranh thời 1914-1918.

    Tôi luôn được đối xử từ tế tại đất nước các ông, ông ta nói, tôi còn giữ lại một kỷ niệm tuyệt vời về xứ sở của ông.

    Mein Gott! Rommel thở dài và bước lên xe chỉ huy. Anh nghĩ gì thế Schrapler? Tiếc thay tất cả đều không giống ông ấy.

    Lu yêu dấu, ngày sinh nhật của bà là một chiến thắng thật sự. Chúng tôi rất vất vả. Địch quân có dấu hiệu ngày càng phân tán. Tất cả chúng tôi đều khoẻ mạnh. Tôi ngủ như một con chuột núi.

    Chắc chắn là ông cảm thấy dễ chịu khi chu toàn xong nhiệm vụ. Phải nói rằng trong những ngày 7 tháng 6 ấy, Rommel không để mất thời gian.

    Sáng ngày 6, cuộc tấn công bắt đầu vào lúc 10h. Sư đoàn Ma dàn quân trên hai km chiều rộng của mặt trận và 20km chiều sâu, bắt đầu lên đường như đang diễn tập.

    Để tránh những làng mạc thường lởm chởm những rào cản và các trục lộ ngổn ngang người tị nạn, Rommel quyết định băng qua các cánh đồng.

    Chiến xa đi đầu mở đường, nghiến nát các hàng rào, san bằng những ụ đất, tàn phá lúa mì. Và đằng sau là phần còn lại của đoàn quân.

    Mặc dầu bị quân Pháp tấn công nhiều lần, những chiến xa đầu tiên chỉ dừng lại khi còn cách sông Seine 32 km, vào chập tối.

    Ngày hôm sau, 7 tháng 6, hơn 80km đã đi qua kề từ khi cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 5. Lộ quân X của Pháp đã thật sự bị cất làm hai. Sáng hôm sau, lại tiến sâu hơn nữa vào bức màn phòng thủ mỏng manh của quân Anh tại Andelle, chướng ngại sau cùng để đến sông Seine.

    Đến 8h tối, Rommel phái các đơn vị pháo binh và phòng không DCA cùng một đơn vị thiết giáp bảo vệ đến cách Rouen không hơn 10km.

    Kế hoạch của ông rất đơn giàn: pháo kích thành phố, làm cho địch tin là sẽ có cuộc tấn công cấp kỷ vào đấy. Trong khi đó thọc sâu vào Elbeuf, xa hơn về phía Đông để chiếm các cầu và vượt qua sông Seine.

    Cuộc điều quân phải được thực hiện trong đêm, làm tăng thêm khó khăn. Nhưng cuối cùng mọi nổ lực đều hoài công. Khi Rommel đến được Elbeulf vào lúc 2h sáng, ông ta ngạc nhiên và bực điên lên khi thấy hai cây cầu bị giật sập ngay trước mũi mình.

    Ông không vượt qua sông Seine trong đêm 8 rạng ngày 9 ấy, Sư đoàn 7 Panzer được giao cho một nhiệm vụ khác: Thọc sâu về phía biển để cắt đứt đường rút lui khá dĩ của hai hay ba sư đoàn Anh và Pháp cùng một hay hai tiểu đoàn thiết giáp đang chạy về phía hải cảng Le Havre.

    Bộ tổng Tư lệnh Tối Cao Đức không còn cho phép diễn ra một vụ Dunkerque nữa. Không được để cho hàng ngàn binh sĩ chạy trốn về Anh quốc, thoát khỏi cầm tù nữa.

    Rommel sẽ cố gắng hoàn thành sứ mạng mới của mình.

    Trong đêm 10 rạng ngày 11, ông tiến chiếm các cao điểm chế ngự Saint- Valéry-en-Caux. Thành phố đang được Sư đoàn 51 Anh trấn giữ (quân Scotland) do tướng Fortune chỉ huy và còn có thêm các đơn vị tàn mát của Pháp.

    Tất cả đều sẵn sàng cho công cuộc chuyển lên tàu thủy để rút đi. những tàu lớn, tàu nhỏ, xà lúp? đã khởi hành từ Cherbourg. Nhiều chiếc khác đang tến từ Portsmouth. Nhưng Saint- Valéry-en-Caux không phải là Dunkerque. những bờ biển đá vôi dựng đứng vùng Normandie không thuận tiện cho việc di chuyển như các bờ biển ở miền Bắc.

    Chỉ có chừng một ngàn quân Anh là chạy thoát được. Số còn lại, 46.000 người, phải đầu hàng chiều ngày 12 tháng 6 sau hai ngày kháng cự một cách tuyệt vọng.

    Người chiến thắng viết thư cho vợ:

    Tại đây trận đánh đã chấm dứt. Một Tư lệnh Quân đoàn và 4 Tư lệnh sư đoàn đã đến trình diện tôi hôm nay tại vòng xoay chợ Saint-Valéry, bị sư đoàn của tôi bắt buộc đầu hàng. Giây phút tuyệt vời.

    Với lại, tất cả đều được quay phim. Bà có thể xem qua phim thời sự??

    Chiến trận tại Pháp tiếp diễn.

    Tôi biết là pháo đài Cherbourg sẵn sàng đầu hàng nên tôi ra lệnh ngưng bắn ngay lập tức. Tôi yêu cầu các đồn binh trong pháo đài giương cờ trống báo hiệu đầu hàng, rồi sắp hàng đi bộ từ Cherbourg đến Pieux??

    Hành động chiến sự sau cùng của Rommel trong trận chiến này, việc Cherbourg đầu hàng, đã xảy ra vào lúc 17h ngày 19 tháng 6. Chính phù Pháp đã để nghị ngưng bắn. Lá cờ chữ vạn đã bay phấp phới trên điện Champ Elysées.

    Erwin Rommel tìm lại cuốn nhật ký hành quân của mình và chăm chỉ thiết lập bàn kết toán của một tháng chín ngày chiến tranh:

    Sư đoàn 7 Panzer tổn thất 682 từ trận, 1646 bị thương và 296 mất tích. Đi kèm đó là 42 chiến xa.

    Nhưng Sư đoàn Ma đã bốt được 96.648 tù binh, chiếm được 277 khẩu pháo, 64 pháo chống tăng, 458 chiến xa và xe bọc thép, hơn 4.000 xe vận tải, 1.500 xe hơì

    Dường như không có gì có thể thêm vào hào quang chiến thắng của vị Thống chế tương lai nữa. tuy nhiên, không phải tại nơi đây, phải ở một chiến trường khác, Rommel mới đi vào sự tích truyền kỷ.
  4. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Binh đoàn Bắc Phi “Afrika Korps”

    Ngày 12 tháng 1 năm 1941, một chiếc Ju-52 bắt đầu xin đáp xuống phi trường Tripoli. Trong ánh mặt trời mùa hạ, cánh của chiếc máy bay sáng lên trong nắng khi lượn vòng đáp xuống đường băng. Erwin Rommel nghiêng người nhìn qua khung cửa kính, hứng khởi nhìn xuống Châu Phi, nơi mà cả vinh quang khi chiến thắng và cả cay đắng khi thoái lui đang chở ông.

    Ông ngắm thành phố màu trắng nổi bật bên một biển xanh và cảm thấy xúc động lạ lùng. Ông sắp nhậm chức Tư lệnh quân Đức tại Phi Châu. Ông có cảm tưởng là đã kết nối truyền thống của những tay thực dân của Cameroun, của Tongo, của vùng Đông Phi Châu. Đức quốc lao mình quá chậm vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm thuộc địa trong thế kỷ trước. Anh và Pháp xén phần ngon lành nhất của miếng bánh. Một trong những thành quả từ chiến thắng trong cuộc xung đột hiện nay không phải là ban cấp cho Đức quốc những thuộc địa của những kẻ bại trận hay sao?

    Đấy chính là tư tưởng mà một quân nhân có thể suy tính trong đầu khi tiếp xúc với Phi Châu. Nhưng trong trí Rommel thì không phải, sứ mạng của ông không phải là chinh phục thuộc địa. Sứ mạng của ông là chiến thắng cuộc chiến tranh, chỉ có thế.

    Chính vì vậy mà cái nhìn của ông hướng trực tiếp đến hải cảng nơi hai chiếc tàu hàng đang hoạt động. Và Rommel biết rằng những người đang đổ bộ, những kiện hàng đang dỡ xuống là dành cho ông.

    Chiếc Ju chạm đường băng, lắc lư bỏ đến trước kiến trúc vuông vức của phi trường. Một nhóm sĩ quan Ý có vẻ đỏm dáng tiến đến chào khách. Tướng Rommel là người đầu tiên bước xuống máy bay, sau đó là Đại tá Schmundt, tùy viên chính của Fuhrer, có nhiệm vụ đi theo ông Tướng trong một chuyến đi được coi như học hỏi. Tiếp theo đó là Đại úy Aldiuger, bạn hồi nhỏ và giờ là tùy viên của Rommel.

    Ông Tướng đặt chân xuống đất Lybie. Nếu ông có vài ý tưởng về mảnh đất ông đang bước đi thì cũng không có thời gian để diễn tả. ông cần phải gặp các tướng lĩnh Ý ngay.

    Tuy nhiên, lịch sử hàng ngàn năm đang chờ đợi ở đây. những người đầu tiên là người Pheniciens đã phát triền buôn bán của họ dọc theo bờ biển chói sáng những khốc khổ này. Họ đã đánh dấu những nơi dừng chân trên con đường tìm váng hướng về phía vịnh Guinee và trên con đường tìm thiếc hướng về phía Bretagne xa xâm, bí mật, đầy sương mu Rồi đến lượt người La Mã sau cuộc chiến tranh La Mã ?" Carthage. Tại cửa sông Lebda, Leptis Magna trở thành một thị trấn Phổn vinh trứ danh mà Tibere, Trajan, Hadrien. Caracalla đã đem đến những kiến trúc đẹp đef, những lâu đài huy hoàng trước khi chính thành phố sàn sinh cho La Mã một Hoàng đế.

    Và rồi, sau nhiều thế kỷ đen tối, đến phiên những kỵ binh của Thánh Allah tràn ngập bờ biển Marique, vùng duyên hải Syrtes, Tripolitaine. Và chính những người À rập mà Rommel thoáng thấy sau toán người Ý, những người À rập trong trang phục Djellabah, họ dừng dưng trước mọi sự, nhất là dừng dưng trước cuộc chiến tranh mà những người từ lục địa khác đem đến mảnh đất của họ.

    Phi trường tên là Castel Benito. Đi đầu nhóm người Ý là một sĩ quan Đức mặc quân phục màu sáng. Đó là Trung tá Heggenreiner. Sĩ quan liên lạc của Tướng Von Rutelen, do Bộ tổng Tham Mưu Quân Lực biệt phái cạnh Bộ Tổng Tư Lệnh Tối Cao Ý tại Rome.

    Trung tá Heggenreiner mang đến cho Rommel một tin tức quan trọng. Thống chế Graziani, tổng Tư lệnh Quân lực Ý tại Lybie vừa từ chức và giao trọng trách lại cho Tướng Gariboldi. Đó là hậu quả sau cùng của cuộc bại trận nghiêm trọng mà người Ý vừa gánh chịu. Đây là sự thể hiện rõ ràng nhất của tình hình bi đát mà Đồng minh của Đức phải đương đầu.

    Do đó, Rommel phải đến trình diện Thượng cấp của mình, Tướng Gariboldi. Hiện tại, phần nào đang khó chịu trong người vì chuyến hành trình, bị chóa mất vì nống Địa Trung Hải, ông khó mà nhớ lại những biến cố trong những ngày trước.

    Vài ngày trước, ông có một tại Bordeaux, nơi đặt Bộ Chỉ huy Sư đoàn 7 thiết giáp danh tiếng, Sư đoàn Ma trong chiến trận tại Pháp. Cho đến ngày 2 tháng 2, toàn bộ nước Pháp run r y dưới một màu xám mùa đông cực kỳ lạnh giá. những trục lộ phía Tây Nam đóng thành bông, hoạt động của sư đoàn giảm thiều dưới hình thức huấn luyện những tân binh. Rommel lợi dụng cơ hội để xin nghỉ phép, từ lâu ông cứ bị hẹn lẩn hẹn lữa. Và cả lẩn này ông cũng không gặp may. Được phép nghỉ, nhưng chỉ có hai ngày sống bên cạnh Lucie và con trai Manfred thì một sĩ quan tùy viên của Fuhrer đã đến trình diện và đưa ông đến Bộ tổng Tham Mưu. Tại đó, Thống chế Von Brauchitsch, tổng Tư lệnh quân lực cho ông biết nhiệm vụ mới.

    Để cứu vãn tình hình nguy ngập của quân Ý tại Bắc Phi, hai sư đoàn, bao gồm một sư đoàn khinh binh và một sư đoàn thiết giáp sắp được gửi qua đó. Rommel được giao quyền chỉ huy đoàn quân viễn chinh này và được yêu cầu đến Châu Phi càng sớm càng tốt để tìm hiều khả năng vận dụng lực lượng chiến đấu mới của mình.

    Chiều ngày ấy, Tại Staatsen, ông đã đến thăm Fuhrer và được vị nguyên thủ mô tả tình hình chiến trường Bắc Phi căn cứ trên những gì ông ta được biết. ông ta còn cho Rommel xem những tạp chí Anh Mỹ kể lại những cuộc tiến quân của Tướng Wavell về phía Tripoli, và vạch ra những nét chính liên quan đến nhiệm vụ sắp tới của Rommel: Tập hợp lực lượng trong khu vực Tripoli, chuẩn bị cho một cuộc tấn công sắp tới của Wavell, và cuối cùng, sẵn sàng cho một cuộc phản công.

    Trước hết, Rommel còn trài qua 48h tại Bộ tổng Tham Mưu để nghiên cứu tỉ mỉ nhiệm vụ. Sau đó ông bay sang Rome. Sáng ngày 11 tháng 2, ông có một tại Comando Supremo (Bộ Tổng Tư Lệnh Tối Cao Ý) và được Tướng Gurroni, tham mưu Trưởng tiếp kiến. Kế hoạch phác họa tại Staatsen đã thành hình và được người Ý chấp nhận. Đó là một kế hoạch nhằm thiết lập một mặ trận phòng thủ duyên hải thuộc vịnh Syrte để hafm đà tiến của quân Anh.

    Đối với Rome thì thế là đủ. Cùng ngày hôm đó, Rommel đáp máy bay đi Catane, thuộc Sicile, nơi Không đoàn 10 của Không lực Đức do Tướng Geissler chỉ huy, vừa chuyển đến thiết lập căn cứ tại đây vào tháng trước. Tại đó, ông nhận được những tin tức mới nhất về mặt trận Bắc Phi. những tin tức đó làm tăng thêm sự lo âu. Chúng cho thấy rằng Wavell đang chuẩn bị một bước tiến sâu nhằm đưa các chiến xa Anh đến dưới các Bức tường thành Tripoli. Erwin Rommel lập tức yêu cầu Tướng Geissler ngay trong đêm mai, tung ra các đợt không kích nhắm vào Benzaghi, một hải cảng quan trọng mà ngày Anh dùng để tiếp nhận hàng tiếp tế quân dụng.

    Đối với Rommel, lời yêu cầu ấy đã làm lộ ra một vấn để mới trong nhiệm vụ của ông. Tướng Geissler tỏ ra lúng túng không nói ra lời, sau đó ông ta mới bộc lộ: Chính những người Ý đã yêu cầu ông ta, cho dù có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa cũng không được oanh tạc Benzaghi. Lý do là ở đó có nhiều nhà cửa, bất động sàn thuộc sở hữu của nhiều sĩ quan và công chức cấp cao Ý.

    Lẽ dĩ nhiên đó không phải là loại luận cứ có thể làm Rommel chấp nhận. ông gạt bỏ sự phản đối và ngay đêm đó, các oanh tạc cơ cất cánh bay về phía Đông Nam, oanh tạc Benzaghi.

    Giờ đây, Rommel đến trình diện vị Tư lệnh Bắc Phi, Tướng Gariboldi. Đằng sau những ngôi sao cấp bậc, những cầu vai và vẻ đẹp mã bề ngoài, Rommel nhìn thấy trước mặt ông là một con người chủ bại. Kế hoạch của Rommel lập phòng tuyến dài 500km về phía Đông không làm cho ông ta nở nụ cười. ông ta muốn rằng các đơn vị quân Đức sang tăng cường phải dùng để bảo vệ trước hết là Tripoli cái đã. ông ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông Tướng Đức vốn chưa hề đặt chân đến Phi Châu lại có vẻ nắm vấn để khá vững. Rommel bằng những lời lẽ rõ ràng, chính xác, không mập mở, trình bày kế hoạch của mình. Đó là không lùi một bước nào cả, đưa toàn diện không lực vào tham chiến ồ ạt, sử dụng các đơn vị cơ hữu cộng với các đơn vị Đức vào khu vực Syrte.

    Thật thế, Rommel bảo, quân Anh sẽ còn tiếp tục tiến tới khi họ còn chưa gặp sự kháng cự. Ngược lại, tôi tin rằng họ sẽ không tấn công nếu họ cảm thấy bị bắt buộc phải tung ra các trận đánh lớn.

    Ngay trước khi trời tối, Rommel và Đại tá Schmundt leo lên một chiếc Heinkel-111 và thực hiện cuộc không thám đầu tiên trên xứ sở này, nơi mà huyền thoại Rommel sắp được phát triền. Và trong khi chăm chú nhìn con đường Littoreana, con đường kỳ lạ do Thống chế Balboxây dựng, một dài màu đen trải dài đến ngút ngàn dọc theo bờ biển, dài đến 1.800km, vị Tư lệnh đoàn quân viễn chinh Đức miên man sắp xếp lại các sự kiện đã đưa đến tình hình hiện tại.

    Thật thế, ông cho rằng quân Anh sẽ còn tiếp tuc tiến quân khi nào họ chưa gặp phải một sư chống cự nào cả. Ngược lại, ông tin rằng địch quân sẽ không tấn công nếu họ thấy bị bắt buộc phải đối diện với những trận đánh khác.

    Ngay trước khi trời tối, Rommel và Đại tá Schmundt leo lên một chiếc Heinkel-111 và thực hiện cuộc không thám đầu tiên trên xứ sở này ,nơi mà huyền thoại Rommel sắp được phát triển .Và trongkhi chăm chú nhìn con đường Littoreana, con đường kì lạ do thống chế Balbo xây đắp ,trải dài một dài màu đen đến ngút ngàn dọc theo bờ biển, trên một đoạn dài 1800 cây số ,vị tư lệnh đoàn quân viễn chinh Đức cố sắp xếp lại các biến cố đưa đến tình hình hiện tại.

    Ngay từ tháng 9 năm 1939 ,các Bộ Tham mưu Đức và Đồng minh đã thiết lập các kế hoạch dài hạn bao trùm Không những chiến trường Âu Châu mà còn cả Bắc phi .Lục địa phi Châu nầy quả là lạ lùng.phía tả mạn thì nó thuộc Pháp: Maghreb, Maroc, Algerie, Tunisie. Rồi từ biên giới Tunisie và Lybie ,nó lại thuộc
    Ý với vùng Triponitaine và Cyrenaique. Nhưng đấy chỉ là một sa mạc rộng gấp ba nước Pháp, chỉ có 2% đất đai là khả canh .Phần còn lại là sa mạc Sahara.

    Còn phía đông Cyrenaique , Phi Châu lại thuộc về Đồng minh, vì Ai Cập và Soudan đều nằm dưới quyền thống trị và ảnh hưởng của Anh. Trong khi đó xa hơn về phía Nam ,với Erythree và Abyssinne ,nó lại thuộc Ý.

    Phía Đồng minh dự định đặt Lybie vào gọng kềm Bắc Phi thuộc Pháp và Ai Cập thuộc Anh ,rồi sau đó tung quân tấn công vào Erythree. Trong khi đó, các tướng lãnh phe Trục lại có ý định từ Lybie tấn công vào Ai Cập, kiểm soát kênh đảo Suez và cắt đứt Anh Quốc với thuộc địa của mình.

    Sự sụp để của nước Pháp tháng 5 - 1940 và sự trung lập của Bắc Phi thuộc Pháp sau đó , đã làm xáo trộn tất cả các kế hoạch ấy. Người Ý không còn sợ gì từ mạn sườn phía Tây .Họ còn được đảm bảo bởi một nền trung lập được kiểm soát kỹ càng bởi một số quân nhân Pháp, sau thảm kịch tại Mers_kebir, nơi đã xảy ra những phản ứng chống Anh dữ dội trong Quân đội.

    Do đó ,ngày 13 tháng 9 năm 1940, Tthống chế Graziani ,người chiến sĩ kỳ cựu của Ý tại Phi Châu tung quân bất thần tấn công vào Ai cập. Lúc đó ,người Anh chỉ có một quân lực rất yếu kém đặt dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Trung Đông, Tướng Sir Archibald Wavell . ông này chỉ có một màng lưới phóng thủ mong manh để chống lại quân Ý , phòng tuyến trải dài trên 300 km từ bắc đến Nam, từ Sollum nằm trên bờ Địa Trung Hải cho đến ốc đảo Siwa.

    Grazini làm cho phóng tuyến ấy tan nát mau lẹ. Trong vòng 24 tiếng, binh sĩ của ông đã đã đến tận Sidi Barani, một địa phương nằm cạnh bờ biển mà quân Ý đã chiếm lược sau một trận đánh ngắn. Quân Anh vừa đành vừa rút lui, con đường đi đến Alexandrie mở rộng cho quân Ý .

    Người ta tưởng rằng họ sẽ ùa vào đó. Nhưng trái với mọi sự chờ đợi, Thống chế Grazinani dừng lại. ông ta lo tổ chức cần thận các vùng đất mới chiếm được, xây cất các điểm tựa, các căn cứ vững chắc để sẵn sàng xuất phát một cuộc tấn công mới.

    Lúc ấy, người ta nghĩ rằng việc Graziani bỏ qua cơ may của ông có thể là đôi phần có lý do. Vũ khí của Ý cũ kĩ và yếu ớt. Và vào vào thời ấy ba mươi ngàn chiếc xe tại lại phải được tập trung tại Ý để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Nam Tư, nhưng cuộc tấn công lại bị huỷ bỏ sau đó. Hơn nữa, đồ tiếp liệu như nước, xăng, đạn dược chuyên chở đến rất khó khôn. ông muốn thiết lập các kho dự trữ để bảo đàm cơ may thắng trận.

    Thật ra ông đã dành cho đối phương các cơ may ấy. Wavell không để phí một giờ phút nào mà Graziani đã dành cho ông . ông nhanh chóng liên kết tất cả các lực lượng cơ hữu. Trong khi đó Churchill , hoàn toàn ý thức được t m quan trọng của Ai Cập với kênh đảo Suez, đã không ngần ngại lấy ra một lữ đoàn thiết giáp từ lực lượng phòng vệ Anh quốc, ngay trong khi lực lượng phòng vệ đang ráo riết chuẩn bị chống lại một cuộc tấn công được coi là sắp xảy ra nhằm vào nội địa nước Anh, để đưa đến bờ sông Nil ,qua ngả Đại Tây Dương ,vòng qua mũi Hảo Vọng.

    những ngày đầu của tháng 12 năm 1940 có tầm quan trọng quyết định. Thống chế Graziani đã phần nào có kinh nghiệm qua trận đánh Sidi Barani, thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đặt một đường ống dẫn nước tiếp tế cho Quân đội trên con đường tiến đến Alexandrie, dưới sự bảo vệ của các toán quân tiền phong. ông ân định ngày 9 tháng 12 là ngày J của cuộc tấn công lần thứ hai.

    Phần Wavell thì mở hết tốc lực. Ngày 9 tháng 12 ông ta tung ra tất cả những chiến xa có trong tay để tấn công các vị trí của quân Ý, và mặt trận ảo tưởng của Graziani bổng chốc tan vỡ. Bình minh hôm sau ,quân Anh để ra, đằng sau các chiến xa của Sư đoàn 7 thiết giáp do Tướng O?Tmoore Creagh chỉ huy là Sư đoàn 4 bộ binh Ấn Độ dưới quyền Tướng Beresford, cùng hai lữ đoàn và Sư đoàn 6 bộ binh của Úc thuộc quyền Tướng Mackay.

    Các điểm phòng thủ của Ý không được kết nối chặt chẽ với nhau, tức khắc bị cô lập và thất thủ. Quân Ý chạy ngược về phía Tây bỏ lại vô số quân dụng, thực phẩm và tù binh. Mục tiêu của cuộc chạy trốn là đèo Halfaya, một dốc đứng hiểm trở chế ngự biên thùy Lybie với Ai Cập mà chúng ta sẽ còn nhắc đến trong suốt câu chuyện chiến tranh tại sa mạc này. Tuy nhiên quân Anh đã đến bít chặt con đèo trước khi quân Ý chạy về kịp. Điều này giúp cho tướng Maitland Wilson, người chỉ huy tất cả quân Anh tại chiến trường bao vây Bardia từ phía Nam, một địa phương sát bờ biển không có chiến tuyến phòng thủ kiên cố nào, trong đó tướng Bergouzoli và 45.000 quân Ý đang tìm chổ ẩn náu tạm thời. Graziani không thể làm gì để giải vây vì lực lượng thiết kỵ duy nhất đã bị tiêu diệt. Và ngày 5 tháng 1 năm 1941 , đài phát thanh Luân Đôn có thể công bố tin tiêu diệt 8 đơn vị lớn của địch quân và bắt được 75.000 tù binh.

    Còn quân Ý, cuộc rút lui biến thành cuộc chạy loạn, Tình trạng ràf ngũ tăng lên đến một mức độ đáng ngạc nhiên. Tình trạng này do hai nguyên nhân: Nguyên nhân thứ nhất nằm ở trong bàn chết các trận đánh mà người Ý đã tiến hành trên mảnh đất khô cằn vf́ng vẻ này từ năm 1912. Đò chỉ là vấn đề xác định sức mạnh. Các Bộ lạc thể dân xuất hiện trước quân Ý đèf dàng bị đành bài, cho dù quân dùng và vũ khí của quân Ý thuộc hàng cổ Lễ. Thăm vào đó là việc người Ý đã nghĩ đến việc xòa bỏ sa mạc bằng cách mang đến đó các yếu tế sống tiện nghi, lìch sự, vôn minh và tinh tế thay vì àp đặt các luật lộ khf́t khe. Nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn khốc liệt như hiện tại, Quân đội ấy không thể thích nghi và bị thanh toàn, ít ra là về mặt tâm lý.

    Lý do thứ hai rất rõ ràng: Ưu thế kỹ thuật quân sự của quân Anh quả lớn. Đến nỗi với một quân số hàn chế họ cũng chẳng khó khăn gì để đẩy lui địch quân đông hơn mình.

    Sau cùng, một yếu tế cuối cùng mà chúng ta luôn gặp phải trong kiểu chiến tranh trên sa mạc này. Đó là sự cách xa nhau giữa các điểm phòng thủ. Khiến cho mỗi khi bỏ một vị trí, người ta bắt buộc phải chạy lui hàng chục, thậm chỉ hàng trăm km. Thế nên rút lui trên sa mạc xa xôi khô cằn không nước uống như vậy dễ dàng làm tan rã các đơn vị.

    Ngày 7 thông 1, quân Anh bao vây Tobrouk, quân Ý chỉ chống cự được còn 18 ngày. Trong thời gian đó, chiến xa Anh cản quét khắp vùng. Ngày 29 thông 1, họ tiến đến tận Mechilli là ngã tư của các con đường xuyên qua vùng Cvrenaique. Sau cùng ngày 9 thông 2, toàn tiền phong của đoàn quân sông Nil còn mặt tại El Aghela, tận cùng của vịnh Syrte, ranh giới các tình thuộc Cyrenaique và Tripolitaine.

    Thiếu tá Bauer, sử gia người Thụy Sĩ chuyên về các trận đánh chiến xa đã làm bàn kết toàn thành quả cuộc tấn công chớp nhoàng này: Với cái giá 500 người tử trận, 1.373 bị thương và 55 mất tích, người Anh đã bắt được 130.000 tù binh, tịch thu hay phá hủy 845 khẩu pháo, 180 chiến xa hajng trung và 200 chiến xa hạng nhẹ. Tung ra và chiến thắng bắn trận đánh trực diện rồi vượt qua 900 km. Tức là trong hai tháng liền, trung bình mỗi ngày tiến được 15 km. Tóm lại, theo những tỷ lệ trên, người Châu Âu nhìn thấy sự râp khuôn từ chiến trận tại Pháp.

    Đó là tình hình mà Tướng Rommel nhận thấy khi đến Tripoli. Nò còn tệ hơn cả những gì mà Rome đã miêu tả cho ông, tệ hơn cả những gì mà Bộ Tổng Tham Mưu của Fuhrer đã nói với ông. Tối hôm mới đến, ông đã dùng máy bay từ trên cao thực hiện cuộc tiếp xúc đầu tiên với chiến trường mới. Trong khi các thành phần tiên phong của Sư đoàn 5 Khinh binh đổ bộ lên hải cảng, những mệnh lệnh ban đầu của ông chỉ nằm trong các biẶn pháp khẩn cấp liên quan đến việc chặn đứng quân Anh tại Syrte.

    Nhưng Rommel chưa hoàn toàn ý thức được, đối thủ của ông là Tướng Wavell cũng vậy, về tầm mức rộng lớn của bàn cờ mà trên đó ông sắp đi quân.

    Vào đầu năm 1941, số phận của chiến tranh rất có thể được quyết định tại vùng Địa Trung Hải. Quân Đức đã tràn ngập Châu Âu với tổn thất chẳng đáng kể gì. Gần như toàn Bộ lực lượng còn nguyên vẹn, ngoài trừ không lực là có thiệt hài đáng kể trong Trận chiến nước Anh . Mặt khác, những tổn thất ấy được bù đắp mau lẹ nhờ vào một guổng mày kỹ nghệ sản xuất vũ khí đang thời kỳ tăng tốc cực độ.

    Hiệp Ước Moskva do Ribbentrop và Molotov ký kết đã loại bỏ mối nguy hiểm từ Liên Xô. Hitler đã từ bỏ chiến dịch Seelowe, tiến hành cuộc xâm lược nội địa Anh. Và lúc ấy Anh quốc lại mất hết các Đồng minh. Ít ra cũng trong lúc ấy, Anh hoàn toàn bị cô lập.

    Và đầy nhược điểm.

    Là bài tủ của Anh là làm chủ biển cả giúp duy trì đường liên lạc với các thuộc địa và các căn cứ tại Địa Trung Hải, từ đó có thể tổ chức các cuộc phản công từ phía Nam. Do đó một số chiến lược gia thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Đức đã thiết lập một chiến lược cho vùng Địa Trung Hải. Trong đó, trước hết là hoả giải với Pháp bằng những nhượng bộ chính trị, khéo léo khai thác trạng thài tinh thần do vụ Mers El Kebir tạo ra. Tiếp theo là chiếm Gibraltar và đảo Malte, Ổ khóa và chìa khóa của Địa Trung Hải. Sau cùng, khi vô hiệu hóa được các điểm then chốt, chiếm kênh Suez và cắt đứt cuống rốn nuôi dưỡng Anh quốc từ các thuộc địa ở Phương Đông.

    Một chiến lược như thế, một chiến lược mà nếu được thực hiện ngay từ thời điểm đầu 1941 khi mà người Anh không thể kháng cự gì nhiều, đã có thể giáng cho quân Anh một đòn,nếu không phải là giãy chết thì ít ra cũng â trầm tròng hơn việc Luân Đôn bị đành chiếm như chính người Anh phát biểu.

    Rủi thay cho các chiến lược gia Đức, họ không thể nào thuyết phục được Hitler. Ngay từ thời kỳ ấy, Hitler đã quyết định sẽ tấn công Liên Xô và toàn Bộ tư tưởng của ông bị lôi cuốn vào việc chuẩn bị cho cuộc hành quân Barbarossa. Mối thủ hận Bolshevik sâu xa đến nỗi ông ta chỉ còn mỗi một điều lo sợ: Sợ người Nga tấn công trước. Cho dù đây là một điều nằm ngoài ý muốn, hay ít ra là cũng nằm ngoài khả năng của Stalin.

    Điều này giải thích rằng, chiến trường Địa Trung Hải đối với Hitler luôn luôn là thứ yếu. Do đó không còn chuyện ông sẽ đưa đến đấy những lực lượng mà ông cẩn để chinh phục Liên Xô, Như vậy là ông đã tròi chặt số phận của Rommel. Dẫu cho viên Tư lệnh Afrika Korps còn tại ba đến đâu, rất cuộc rồi cũng đi đến giới hạn không tránh được khi mà phương tiện của Đồng minh tập trung áp đảo những gì ông còn trong tay.
  5. quangphong_hd

    quangphong_hd Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/09/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    57
    Em cũng từng khóc mất 1% nước mắt khi thấy đứa con tinh thần của bác Heo bị dị tật. Giờ đây vô cùng cám ơn cụ Khucthuydu2 bỏ công ra chỉnh hình-phục hồi chức năng cho cháu nó.
    Không biết làm sao để nói hết lên lòng ngưỡng mộ, em xin kính cụ mấy ly ;););).
    Cũng kính mong cụ sau khi chỉnh hình xong thì biên tập luôn 1 file pdf để ae mang về lưu giữ phòng khi forum trái gió trở trời.
    Khucthuydu2 thích bài này.
  6. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Cuộc tấn công Mers El Kebir

    Cuộc tấn công vào Mer El Kebir là một phần thuộc chiến dịch Catapult , hay còn được biết đến với cái tên Trận chiến Mer El Kebir. Đó là một cuộc tấn công vào bờ biển Algieria thuộc Pháp vào năm 1940. Được thực hiện bởi một Lực lượng đặc nhiệm của Hải quân Hoàng Gia Anh, tấn công và tiêu diệt phần lớn Hạm đội Pháp, giết chết 1.297 thủy thủ Pháp. Pháp và Anh lúc ấy không có chiến tranh, nhưng Pháp đã ký một thỏa thuận ngưng bắn với Đức, và người Anh sợ rằng Hạm đội Pháp cuối cùng cũng sẽ lọt vào tay Hải quân Đức. Mặc dù Đô đốc Pháp Darlan đã cam kết với Thủ tướng Anh Churchill rằng Pháp sẽ không bao giờ giao hạm đội của mình vào tay người Đức. Người Anh vẫn hành động với giả định rằng cam kết của Darlan không đủ để bảo đảm. Cuộc tấn công đã chứng minh cho thế giới, đặc biệt là cho Hoa Kỳ, thấy quyết tâm của Anh quốc trong việc tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh với Đức.

    Bối cảnh:

    Vào năm 1940, trong WWII, tiếp theo sự ngưng bắn giữa Pháp và Đức Quốc Xã, nước Anh lo sợ người Pháp sẽ chuyển giao hạm đội Pháp cho người Đức. Một Hạm đội Đức to lớn có nghĩa là cán cân sức mạnh trên biển sẽ nghiêng về Đức hơn là Anh. Như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả nông vận tải tiếp tế cho nước Anh từ những thuộc địa của họ thông qua Đại Tây Dương. Chính phủ Anh lo lắng rằng người Đức có thể giÁnh lấy quyền kiểm soát những chiến hạm, bất chấp Điều 8 Khoản 2 của Hiệp định ngừng bắn, điều khoản mà trong đó chính phủ Đức nghiêm túc và kiên quyết tuyên bố rằng Đức không có ý định đặt ra những đòi hỏi về vấn để hạm đội của Pháp trong các cuộc đàm phán họa bình. Điều khoản giữa Pháp với Ý cũng vậy. Vả lại, vào ngày 24 tháng 6, Đô đốc Darlan với tư cách cá nhân đã bảo đảm với Churchill sẽ chống lại bất kỳ những sự đồi thay nào, (thực vậy, sau này người Đức cũng chỉ cố gắng ngăn cản Hạm đội còn lại của Pháp không cho họ tự đành đắm những con tàu của mình vào năm 1942 ở Toulon, hơn là chiếm quyền điều khiển hạm đội ấy.) Và sau này rõ ràng là Hitler cũng chẳng tỏ ra có ý muốn hay hành động nào để làm việc ấy. Bất chấp tất cả, Winston Churchill đã ra lệnh rằng Hạm đội Pháp (Marine Nationale) hoặc gia nhập vào trong Hải quân Hoàng Gia Anh hoặc phải bị vô hiệu hóa bằng cách nào đó để trành những chiến hạm đó có thể rơi vào tay người Đức hoặc Ý.

    Hạm đội Pháp bị phân tán rộng. Một số chiến hạm đang bỏ neo trong các càng ở Pháp, một số đã trốn thoát từ Pháp sang các càng do Anh kiểm soát, chủ yếu là ở chính nước Anh và Alexandria, Ai Cập. Chiến dịch Catapult là nhằm mục đích chiếm quyền điều khiển các chiến hạm Pháp, hoặc tiêu diệt chúng nếu mục đích trên không thực hiện được. Trong màn dạo đầu, những chiến hạm Pháp ở các càng Plymouth và Portsmouth của Anh chỉ đơn giản là bị quân Anh lên tàu chiếm lấy vào đêm 3 tháng 7 ?" 1940. Trên chiếc tàu ngầm lớn nhất thế giới thời ấy, chiếc Surcouf, chiếc tàu đã tìm kiếm sự nương náu ở Portsmouth sau khi Đức xâm lăng Pháp tháng 6 -1940, thủy thủ đoàn đã kháng cự, hai sĩ quan Anh và một thủy thủ Pháp đã bị giết. những chiếc tàu khác bị chiếm đoạt bao gồm: Hai thiết giáp hạm cũ kỹ Paris và Courbert, hai chiếc khu trục Triomphant và Leopard, tám tàu phóng lôi, năm tàu ngầm và một số tàu nhỏ hơn. Đa số, bao gồm cả Surcouf, sau này được sử dụng trong Lực lượng Pháp Tự Do (Free French). Một số thủy thủ gia nhập vào Free French trong khi một số khác hồi hương quay về nước Pháp. Cuộc tấn công vào các chiến hạm Pháp ở bến càng đã gieo rắc mầm mống giận dữ trong người Pháp đối với mối quan hệ Đồng minh với Anh, và tăng thêm bất đồng giữa Churchill và lãnh đạo Lực lượng Pháp Tự Do, Charles De Gaulle.

    Tối hậu thư.

    Sự tập trung sức mạnh chiến hạm lớn nhất của Pháp lúc ấy là Hải đội đang đóng ở càng Mers ?"El Kebir, ở Algieria thuộc Pháp. Nó gồm có những thiết giáp hạm cũ Provence và Bretagne, hai thiết giáp hạm hiện đại Dunkerque và Strassbourg, tàu chở máy bay (Dạng tiền thân của hàng không mẫu hạm sau này) Commandant Teste, và sáu khu trục hạm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Marcel Bruno Gensoul. Đô đốc Anh James Somerville của Lực lượng H đóng ở Gibraltar đã được ra lệnh chuyển cho người Pháp một tối hậu thư, nội dung:

    Thật là điều không thể đối với chúng tôi, những người đồng chí hướng nhất với các bạn cho đến hiện nay, để cho phép những con tàu tốt của các bạn rơi vào trong sức mạnh của kẻ thù Đức. Chúng tôi kiên quyết chiến đấu cho đến khi mọi chuyện kết thúc, và nếu chúng tôi chiến thắng, mà chúng tôi nghĩ là sẽ như vậy, chúng tôi sẽ không bao giờ quên rằng nước Pháp là Đồng minh của chúng tôi, rằng những lợi ích của chúng tôi cũng là của nước Pháp, và rằng kẻ thù lớn nhất của chúng ta là nước Đức. Vậy chúng ta có nên cản trở việc chúng ta cùng trọng thể tuyên bố rằng sẽ khôi phục lãnh thổ và sự vĩ đại của nước Pháp? Bởi vì ý định này mà chúng tôi phải chắc chắn rằng những con tàu tốt nhất của Hải quân Pháp không được sử dụng bởi kẻ thù chống lại chúng ta. Trong tình huống này, Chính phủ của Hoàng Gia đã hướng dẫn tôi phải yêu cầu Hạm đội Pháp đang ở Mers El Kenir và Oran phải hành động phù hợp với một trong hai điều sau:

    a. Ra khơi cùng với chúng tôi và tiếp tục chiến đấu cho đến khi chiến thắng người Đức.

    b. Ra khơi với số lượng thủy thủ tối thiểu và theo sự điều khiển của chúng tôi để đến một cảng Anh quốc. Số lượng thủy thủ tối thiểu đi theo tàu sẽ được hồi hương vào thời điểm sớm nhất.

    Nếu một trong hai hướng đi trên được chấp nhận bởi các bạn, chúng tôi sẽ trao trả những chiếc tàu cho nước Pháp vào khi chấm dứt chiến tranh hoặc sẽ đển bù xứng đáng nếu chúng bị hư hại.\

    c. Như một sự lựa chọn, nếu các bạn cảm thấy bị ngăn trở vì quy định không được sử dụng tàu các bạn chống lại quân Đức khi nào họ chưa phá vỡ Hiệp định ngừng bắn, thì hãy ra khơi chúng chúng tôi với số lượng thủy thủ hạn chế để đến những càng của Pháp ở Đông Ấn Độ - Martinique là một ví dụ - nơi những chiếc tàu có thể giải giáp để làm chúng tôi yên lòng, hoặc có thể giao phó cho Hoa Kỳ và để đấy an toàn cho đến khi chấm dứt chiến tranh, thủy thủ đoàn sẽ được hồi hương.

    Nếu các bạn từ chối những lời để nghị tốt đẹp trên, tôi phải rất tiếc nuối sâu sắc mà yêu cầu các bạn phải tự đành đắm tàu của các bạn trong vòng 6 giờ.

    Cuối cùng, nếu những điều trên không thành, tôi được lệnh của Chính phủ Hoàng Gia sử dụng mọi sức mạnh cần thiết để phóng ngừa việc những chiếc tàu của các bạn có thể rơi vào tay người Đức.

    Somerville không đích thân giao tối hậu thư này. Thay vào đó, nhiệm vụ này được giao cho một sĩ quan nói tiếng Pháp, Hạm trưởng Cedric Holland của hàng không mẫu hạm HMS Ark Royal. Đô đốc Gensoul, cảm thấy bị sỉ nhục vì phải thương thuyết với một sĩ quan cấp thấp, đã đưa ra trung úy tùy viên của ông, Bernard Dufay, điều này đã gây ra đủ thứ chậm trễ và nhầm lẫn.

    Cuộc thương lượng đang giằng co, nó cho thấy rõ ràng chẳng có bên nào chịu nhượng bộ. Bộ trưởng Hải quân Pháp là Đô đốc Darlan không bao giờ nhận được bản tối hậu thư đầy đủ từ Đô đốc Gensoul. Chỉ có một số thông tin đa phần là hướng về sự lựa chọn di chuyển hạm đội sang hải phận Hoa Kỳ, một lựa chọn giống với mệnh lệnh của Darlan gửi cho Gensoul từ trước, sẽ được thực thi nếu có một sức mạnh ngoại bang nào đó muốn tóm lấy những chiếc tàu dưới quyền chỉ huy của ông ta.

    Trước khi cuộc thương thuyết chính thức chấm dứt, các máy bay Fairey Swordfish được hộ tống bởi những chiếc Blackburn Skuas cổ lỗ đã cất cánh từ hàng không mẫu hạm Ark Royal để thả mìn từ trường dọc theo lối thoát ra biển của các con tàu Pháp. Lực lượng này bị những chiếc chiến đấu cơ Curtiss H-57 của Pháp nghênh cản. Phải cảm ơn những chiếc Skuas hộ tống vì không có chiếc Swordfish nào bị bắn hạ, nhưng lại có một chiếc Skuas bị chiến đấu cơ Pháp bắn rơi và đâm đầu xuống biển, phi hành đoàn tử trận, và đó cũng là tai họa duy nhất trong chiến đấu của người Anh.

    3. Tấn công.

    Lực lượng Anh gồm có Tuần dương hạm hạng nặng HMS Hood, các thiết giáp hạm HMS Valiant và HMS Resolution, hàng không mẫu hạm Ark Royal, được hỗ trợ bởi các tuần dương hạm và các khu trục hạm. Mặc dù thua kém tương quan lực lượng, người Anh lại có được tình thế thuận lợi. Hạm đội Pháp đang thả neo trong một cái vịnh chật hẹp, và theo những lời lẽ mập mờ không rõ ràng của tối hậu thư thì không có để cập đến sự tấn công, nên họ hoàn toàn chưa chuẩn bị gì để tác chiến. Các vũ khí đạn dược trang bị chính của Dunkerque và Strassbourg thì đang được tập trung ở mũi tàu và không thể ngay lập tức đem ra chống trả được. những chiến hạm chính của Anh, với pháo 381mm của chúng, cũng bắn ra những quả đạn lớn và mạnh hơn so với các chiến hạm Pháp. (Pháo lớn nhất của các chiến hạm hiện đại Pháp là Dunkerque, Strassbourg chỉ có 330mm.)

    Người Anh khai hỏa từ tầm rất xa, vào lúc 16h56 ngày 3/07/1940. Người Pháp rốt cuộc cũng phải bắn trả nhưng không hiệu quả. Loạt đạn thứ ba từ các chiến hạm Anh là loạt đầu tiên bắn trúng , vào ngay số đạn còn trên boong của chiếc Bretagne, nó chìm vào lúc 17h09, 977 thủy thủ bị giết. Sau khoảng 13 loạt đạn, những con tàu Pháp im tiếng súng. Trong khi đó, lực lượng Anh chuyển hướng chạy để trành hỏa lực pháo bờ biển của Pháp. Provence, Dunkerque và khu trục hạm Mogador bị hư hại và thủy thủ đoàn phải cho chúng lao vào bờ biển, chúng mắc cạn nên không chìm.

    Strassbourg cố gắng di chuyển để trốn thoát cùng với bắn khu trục hạm. Khi cả năm thoát ra được biển lớn, họ lại bị tấn công bởi những chiếc Swordfish mang bom của Ark Royal. Hai chiếc Swordfish bị rơi (phi hành đoàn sau đó được khu trục hạm HMS Wrestler cứu thoát) và đợt tấn công bằng bom có hiệu quả rất thấp. Thế là Somerville ra lệnh cho lực lượng của ông ta bắt đầu truy đuổi vào lúc 18h43. Hai tuần dương hạm Arethusa và Enterprise báo cáo đã có đụng độ với một khu trục hạm Pháp. Vào lúc 20h20, Somerville ngừng cuộc săn đuổi, vì cho rằng những chiếc tàu của ông đang rơi vào thế không thuận lợi khi phải chiến đấu ban đêm. Sau khi trành khỏi một đợt tấn công khác của những chiếc Swordfish vào lúc 20h55 mà không bị hư hại gì, chiếc Strassbourg về đến càng Toulon của Pháp vào ngày 4 tháng 7.

    Rồi sau đó, vào ngày 4 tháng 7, tàu ngầm Anh HMS Pandora đã đành đắm một tàu chiến nhỏ của Pháp (gunboat), chiếc Rigault de Genouillym đang ra khơi từ Oran. Đêm đó, những oanh tạc cơ Pháp đã ném bom trả đũa vào hạm đội Anh ở Gilbarltar nhưng không có Kết quả gì đáng kể. Lúc ấyì người Anh cho rằng những hư hỏng trên Dunkerque và Provence không nghiêm trọng lắm, họ đã cho những chiếc Swordfish từ Ark Royal không kích vào Mers El Kebir ngày 6 tháng 7. Một quả ngư lôi đã trúng tàu tuần tra Terre-Neuve, chiếc tàu đang thả neo ngay bên cạnh Dunkerque và đang chở theo một số bom chìm. Terre-Neuve chìm nhanh chóng và số bom chìm đã tạo nên một vụ nổ long trời, làm hư hại trầm trọng chiếc Dunkerque.

    4. Kết quả.

    Ở Mers-El-Kebirs, 1,297 thủy thủ Pháp bị giết và 350 bị thương tật. Mối quan hệ giữa Pháp và Anh trở nên gay gắt trầm trọng trong nhiều khoảng thời gian và người Đức có được cơ hội cơ hội tuyên truyền.

    Đô đốc Anh Somerville đã không mấy nhiệt tình lắm trong hành động tấn công này, ông cho rằng đó là một sự sai lầm chính trị lớn nhất trong thời đại hiện đại và thức tỉnh cả thế giới chống lại chúng ta.... toàn bộ chúng ta phải hổ thẹn nhục nhã... Trên thực tế, hành động đó đã minh chứng cho quyết tâm của Anh quốc tiếp tục theo đuổi chiến tranh và đồng thời đã tập hợp Đảng Bảo Thủ Anh về xung quanh Churchill (mặc dù Thủ tướng Churchill chưa phải là lãnh đạo đảng). Đích thân Churchill sau đó tuyên bố hành động đó nhằm xoay chuyển Chính phủ Mỹ... không còn thắc mắc gì về những cam kết của người Anh. Harold Nicholson điều trần trước Hạ viện Anh, củng cố thêm những báo cáo của Churchill về hành động đó.

    Những con tàu Pháp ở Alexandria dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Rene-Emile Godfoy, bao gồm thiết giáp hạm cũ Lorraine và bắn tuần dương hạm, đã bị giữ chặt trong càng vào ngày 3 tháng 7 và nhận được nhữngàyêu cầu giống như ở Mers-el-Kebir. Sau những cuộc đàm phán tế nhị, theo hướng dẫn của Đô đốc Anh Cunningham, Đô đốc Pháp đồng ý vào ngày 7 tháng 7 là giải giáp hạm đội của ông ta và ở nguyên trong càng cho đến khi hết chiến tranh. Chúng đã ở đó cho đến khi rốt cuộc cũng tham gia vào quân Đồng minh vào năm 1943.

    Phần cuối cùng của Chiến dịch Catapult là cuộc không kích từ hàng không mẫu hạm HMS Hermes tấn công vào thiết giáp hạm hiện đại Pháp Richelieu, ở Dakar. Một quả ngư lôi đã trúng đích và làm hư hỏng con tàu.

    Như là một sự trả đũa cho hành động ở Mers-el-Kebir và Dakar, oanh tạc cơ Pháp nhiều lần không kích Gibraltar. Trong đó có cả những lần tấn công không thật tình lắm, như vào ngày 14 tháng 7 khi đa số oanh tạc cơ đã thả bom xuống biển. Nhưng các cuộc oanh tạc trở nên nặng nề hơn vào các ngày 24 và 25 tháng 9. Đầu tháng 6-1940, khoảng 13,500 thường dân đã được di tản từ Gilbarltar sang Casablanca, vùng Marocco thuộc Pháp.

    Các chiến hạm Dunkerque, Provence và Mogador được sửa chữa tạm thời để ra khơi và quay về Toulon.

    Vào ngày 27 tháng 11 năm 1942, người Đức cố gắng chiếm giữ hạm đội Pháp đang đóng tại Toulon trong một phần của chiến dịch Case Anton, chiến dịch đành chiếm nước Pháp Vichy của người Đức. Tất cả các con tàu có giá trị quân sự đều bị người Pháp tự đành đắm trước khi quân Đức đến kịp, kể cả Dunkerque và Strassbourg.
    gakocanh, Pinkolousanheoinwater thích bài này.
  7. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Song, vận đen ấy không chỉ đè trĩu lên vai Rommel, nó cũng đè nặng lên đối thủ của ông, Tướng Wavell. Vào lúc mà người Ý chờ đợi ông ta xâm chiếm vùng Tripolitaine, khi này ông đã trấn đóng vững vàng vùng Cyrenaique, còn quân Ý thì đang hấp tấp rút phần còn lại của lực lượng về phòng tuyến bao quanh Tripoli được thiết lập cách thành phố 20 km, thì Wavell lại dừng lại ở El-Asheila.

    Lẽ tất nhiên ông ta phải đối phó với các vấn để chính đốn lại hàng ngũ và tiếp liệu. Lẽ tất nhiên là khi khởi hành từ các căn cứ tận Ai Cập thì con đường liên lạc và tiếp vận của ông ta kéo dài một cách nguy hiểm. Nhưng sau cùng, ông ta lại sử dụng được càng Benzaghi và Hải quân Hoàng Gia kiểm soát được toàn bộ lưu thông dọc biển Ai Cập và Lybie. Lý do của cuộc dừng quân không phải là do lo sợ điều gì. Lý do thật sự: Đó là lệnh của thủ tướng Winston Churchill.

    Người lãnh đạo chiến tranh ở Anh quốc thật khác xa Hitler. ông ta thừa hưởng một truyền thống lâu đời về Hải quân, về giao thương, về công cuộc chinh phục thuộc địa. Nên ông ta quen với lối suy nghĩ bằng ngôn ngữ của các chiến lược gia quốc tế. Đối với Churchill, vùng Địa Trung Hải không thể nào là thứ yếu được, trái lại, nó mang t m quan trọng Đặc biệt, ít ra cũng giống như Bắc Hải. Vì thế cho nên khi Mussolini tấn công Hy Lạp ngày 28 tháng 10 năm 1940, Thủ tướng Anh đã hành động ngay lập tức. ông ta gấp rút phái Anthony Eden, ngoại Trưởng Anh đến Athene để để nghị viện trợ quân sự cho Hy Lạp.

    Chính phù Hy Lạp tuyên bố rằng rất xúc động trước để nghị ấy, nhưng đã từ chối khéo. Họ giải thích rằng một sự can thiệp của Anh tại Hy Lạp chắc chắc sẽ dẫn đến hậu quả là Đức sẽ can thiệp, như vậy còn nguy hiểm hơn là quân Ý nữa. Đến khi mối đe dọa của Đức ngày càng rõ rệt, Athene mới thay đổi ý định và chấp nhận cho Anh quốc gửi đến hai sư đoàn rút từ các lực lượng đóng ở Ai Cập của Tướng Wavell. ông này vội báo cáo cho Thủ tướng biết rõ thành quả của cuộc tấn công, trong đó thiết giáp Anh đã đến tận El-Agheila và biên giới Tripoli. Và ông nhận được thư trả lời của Churchill, trong đó có đoạn:

    Chúng tôi rất vui mừng khi thấy ông đạt được mục tiêu sau 3 tuần tiến quân theo kế hoạch đã định. Nhưng điều đó không thay đổi đường lối chỉ đạo đã có từ trước. Trong thực tế, điều đó lại còn khẩng định thêm cho đường lối ấy. Nỗ lực chính của ông giờ đây phải hướng vào việc giúp đỡ Hy Lạp và Thổ Nhif Kỷ. Điều này sẽ loại hơn mọi hành động quy mô nhằm vào Tripoli, mặc dầu vài cuộc hành quân nhỏ hướng về phía ấy vẫn nên được tổ chức để đánh lạc hướng.

    Chính Rommel bình luận: Nếu Wavell tiếp tục tiến về phía Tripoli, không còn một sức để kháng đúng nghĩa nào để có thể chống lại. Nhất là khi cuộc tấn công của ông ta được vạch ra và thi hành một cách quá tốt, chiến thắng sẽ là của ông ta.

    Đợt chiến thắng này của quân Anh mang lại nhiều hậu quả rộng lớn trong dòng lịch sử hơn là người ta tưởng. Về phương diện tâm lý, nó vực dậy tinh thần dân chúng Anh khi mà trong suốt mùa đông 1940-1941 ấy, Liên hiệp Anh phải đơn độc chịu đựng cuộc chiến tranh. Chiến thắng ấy cũng gây ảnh hưởng mạnh đến Tướng Franco (Quốc trưởng Tây Ban Nha), ông đã từ chối tham gia phe Trục và làm cho Hitler cùng Mussolini phải từ bỏ chiến dịch Felix nhằm mục tiêu chiếm eo biển Gibraltar. Sau cùng chiến thắng ấy được bổ túc bởi một chiến thắng khác, trong đó quân Anh một một từ Soudan phía Bắc, một khác từ Kenya, đã đặt vùng Erythree của Ý vào gọng kềm rồi giải phóng cả Somalia lẫn Ethiopie của Vua Negus.

    Nhưng đấy chỉ là một dấu ngoặc. Điều liên quan trực tiếp của chúng ta chính là vào giữa tháng hai năm 1941, hai chỉ huy quân sự lớn đối diện nhau: Rommel và Wavell cùng nhận được mệnh lệnh giống nhau: Đóng quân phòng thủ, đừng làm bất cứ hành động lớn nào.

    Ngày 12 tháng 2 năm 1941, Rommel chưa biết gì về chỉ thị của Churchill gửi cho Wavell. Nên đối với ông là cần phải hành động gấp rút, cần kiểm điểm thực lực ông có trong tay, rồi dẫn họ tiến ra chạm địch trên một phòng tuyến do ông chọn lựa, ngang vùng Syrte.

    Tư cách của Erwin Rommel chỉ là Tư lệnh lực lượng Đức có trách nhiệm hậu thuẫn quân Ý và phải dưới quyền Comando Supremo, nên ông sẽ khó giải quyết được gì. May thay, Tướng Roatta đã từ Rome đến đây để mang theo một sự chấp thuận của Bộ tổng Tư lệnh đối với kế hoạch của ông. Điều này làm cho nhiệm vụ của Rommel và tương quan giữa ông với Tướng Gariboldi được dễ dàng.

    Các binh sĩ Đức mới đổ bộ lên Tripoli chỉ là thành phần tiên phong. Theo lịch trình do Bộ tổng Tham Mưu của Fuhrer thiết lập, lực lượng thuộc quyền Rommel bao gồm một sư đoàn khinh binh, Sư đoàn 5, và một sư đoàn thiết giáp, Sư đoàn 15 Panzer, sẽ tuần tự đổ bộ từ 15 tháng 2 cho đến hết tháng 5.

    Lực lượng của Ý chính yếu gồm có Quân đoàn 10, Sư đoàn Brescia, Sư đoàn Pavia cùng Sư đoàn thiết giáp Ariete. Sư đoàn thiết giáp này theo như Rommel mô tả thì có 60 chiến xa cũ kỹ và quá mỏng manh mà ngày xưa dùng để đánh đuổi thổ dân trong những cánh đồng cỏ Ethiopie.

    Gariboldi đồng ý xuất phát ba sư đoàn của ông tiến về khu vực Syrte-Bouerat, nhưng từ Tripoli đến đó, đoạn đường dài đến 400km mà lại thiếu xe vận tải.

    Bị ám ảnh bởi nguy cơ tiến công cấp kỷ của Wavell, Rommelầyêu cầu Không lực Đức Luftwaffe trám vào chỗ thiếu sót bằng cách tấn công liên tục các vị trí tập trung quân Anh nhằm ngăn cản chúng tiến công.

    Riêng phần ông, ông đã làm nhiều chuyện đến nỗi chỉ trong vòng 48 giờ sau khi ông đến, những thành phần đầu tiên của quân Ý đã bước đi trên đường tiến về phía Đông. Trong khi đó tại Tripoli, các đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 5 Khinh binh đã đến, một đơn vị trinh sát và một đơn vị chống tăng. Rommel bắt buộc phải đổ bộ lên bờ ngay lập tức. Với các phương tiện bốc dỡ ít ỏi tại Tripoli, 6.000 tấn quân dụng đã được bốc lên bờ ngay trong đêm.

    Ngay từ sáng hôm sau, ông Tướng đã có thể đến duyệt xem tình hình binh sĩ trước trụ sở. Và lại ông cũng tự hỏi về trình độ huấn luyện các binh sĩ Đức lần đầu tiên mới đặt chân lên Châu Phi này. Thiếu tá Eddy Bauer viết: Binh sĩ và quân trang quân dụng đã được chuẩn bị một cách khoa học để thi hành nhiệm vụ, bằng những phương pháp chưa từng được áp dụng trong Quân đội Đức hay gần như thế, nhở vô số các cuộc thí nghiệm trong phòng thí nghiệm, nhở các cuộc thực tập trong vùng đất cát hoang vu tại Brandebourg mà điều kiện địa hình khốc nghiệt cũng tương tự như trong sa mạc.

    Nhưng H.G Von Esebeck, phóng viên chiến trường cạnh Bộ Tham mưu Afrika Korps lại quả quyết: Không có việc chuẩn bị nào được thực hiện để binh sĩ làm quen với điều kiện chiến đấu mới. Thế là sau một đợt kiềm tra y tế vội vàng, người ta tuyên bố là họ có đủ sức khoẻ để chiến đấu trong vùng nhiệt đới. Người ta giao cho họ đồ nấu bếp, dạy cách nấu thịt sống, chỉ dẫn họ về cách giữ vệ sinh và các quy tốc tác phong phải tôn trọng trong khi tiếp xúc với người À rập. Dần dần xứ Syrte trở thành quê hương của họ??

    Dầu sao chăng nữa, lúc mới đến, họ cũng gây cho vị Tư lệnh cảm thấy phấn khởi và tin tưởng vào chiến thắng có thể tạo ra cho người dân Ý.

    Nó thật ra thì dân Ý đã rất yên tâm khi biết rằng nhở hậu thuẫn của Đức, quân Anh đã lùi xa khỏi Tripoli, nhưng họ chỉ dành những lời khen vừa phải cho điều đó. Riêng đối với người À rập thì họ vẫn dừng dưng, không gì lay chuyển. Họ đi giữa thành phố giống như đang đi trong sa mạc. Làm như mọi sự di chuyển tới lui, ổn ào, háo chiến của những tay mới đến chẳng liên quan gì đến họ cả. Cho dù nếu chiến tranh có kết thúc theo cách nào đi chăng nữa, thì nó cũng sẽ chấm dứt luôn chế độ thuộc địa.

    Vậy là, ngày 15 tháng 2, các thành phần đầu tiên của Sư đoàn 5 Khinh binh đã duyệt binh trong thành phố rồi cùng lực lượng cơ giới của Thiếu tá Ý Santa Maria lên đường tiến về phía Đông.

    Phần Erwin Rommel thì quay lại với công việc mà ông quan tâm nhất trong những ngày đầu tiên đặt chân lên Phi Châu: Không thám. Khi thì trên chiếc Heinkel-111, khi thì là một chiếc Fieseler Storch (con còn), ông tìm hiểu xứ Lybie.

    Giờ đây thực tại đang diễn ra trước mắt ông. Chung quanh Tripoli, vùng Djeffara, cánh đồng duyên hải trù phú, được những người Ý di dân đến tu bổ. Kế đó là khu vực hoang vu mênh mông. Trên bờ biển, cát trắng phau, chói chang phản chiếu ánh mặt trời gay gắt, xa hơn về phía Nam là vùng đất chết , nứt nẻ, khô cằn chí có vài bụi cây Alfa, vài bụi gai. Đấy là sa mạc mà chỉ có những thổ dân bản xứ mới biết được một vài mạch nước. Đấy là cả một đại dương cát cô độc, mênh mông. Là địa ngục của nắng chói ban ngày, của lạnh giá ban đêm, của đói khát, của chết chóc.

    Đời sống chỉ tập trung chung quanh khu vực duyên hải, nơi đất đai không quá khô cằn và có nước. Tại đấy có những trang trại của người Ý và làng mạc của những người Ả Rập nghèo khó với những túp lều cây cỏ, tường bằng đất. Để kết nối các trung tâm có người sinh sống, con đường nhựa mang tên Littoreanna tại Tripoli và tên Via Balbia tại Cyrenaique chạy dài từ Tunisie đến tận Ai Cập.

    Tại khu vực Tripolitaine, con đường ấy chạy về phía đông, dài 800km đi qua Homs, rồi qua những di tích điêu tàn Leptis Magna, tiến đến tiếp giáp với Misurata, trung tâm định cư của người Ý, trước khi gặp sa mạc cận duyên, sát vịnh Grande-Syrte.

    Rommel đã không nhìn phong cảnh như một khách du lịch. Bằng đôi mắt của một chiến lược gia, một chuyên viên về chiến tranh cơ động, ông hướng cái nhìn về phía những chiến trường tương lai. Khu vực đầy núi non giữa Tarhouna và Homs đối vời ông tỏ ra không thích hợp với sự khai triển các đơn vị cơ giới, trái hẳn với vùng bằng phẳng rộng mênh mông trải dài từ Homs đến Misurata.

    những chuyến bay thám sát này, ông viết, đã củng cố vững chắc kế hoạch của tôi, kế hoạch phóng thủ Syrte và khu vực kế cận, dọc theo con đường cạnh bờ biển, và việc sử dụng các đơn vị cơ giới nhắm vào một hình thức chiến tranh cơ động trong phóng thủ.

    Một hình thức chiến tranh cơ động để phóng thủ?? Chúng ta sẽ quan sát những gì diễn ra trong quan niệm này.

    Phải mất 26 giờ đoàn quân đầu tiên của Đức và phân đội Santa Maria mới đến được khu vực Syrte-Bouerat. Ngày 17 tháng 2, các đợt trinh sát đầu tiên được tung ra để tìm kiếm địch quân. Từ ngày 12, quân Anh đóng tại El-Agheila không hề nhúc nhích động đậy.

    Rommel thì tin rằng đối phương đang bị kềm chặt tại chỗ vì các cuộc không kích liên miên của Không đoàn 10 Luftwaffe đồn trú tại Sicile. ông đâu biết rằng với sự ra đi của hai sư đoàn quân Anh chuyển qua Hy Lạp, lực lượng của Wavell đã bị giảm xuống còn hai sư đoàn thiết giáp thuộc quyền tướng Gambier Parry và Sư đoàn 9 Bộ binh Úc không đầy đủ của tướng Morshead, mà phần lớn lực lượng còn chưa qua khỏi Tobrouk vì thiếu xăng, và Lữ đoàn 3 Ấn Độ dưới quyền của vị tướng vừa đặt chân đến Bắc Phi,, Neame.

    Về phía Anh, Wavel vẫn chưa được thông báo về việc các thành phần đầu tiên của Quân đội Đức đã đến nơi.

    Bên cạnh đó, lực lượng Đức cứ đổ bộ đều đều. Các tàu chở hàng từ Naples, hết chiếc này đến chiếc khác cập càng Tripoli không dứt.

    Chính Rommel có mặt trong khu vực tiến quân. Các toán tuần tra trinh sát đành rất dữ dội. Ngay từ cuối tháng hai, họ đã chiếm được các giếng nước Nufilia. Và binh sĩ đã có được một thứ nước hơi mặn, nhưng dù sao cũng là nước. Quân Ý bắt đầu xây dựng những phóng tuyến theo yêu cầu của ông tướng Đức. những binh sĩ của hai sư đoàn Brescia và Pavia có thể không phải là các chiến binh dũng mãnh, tuy nhiên phải công nhận họ là những tay đảo đất giỏi. Suốt ngày Rommel đi thanh sát hoạt động này, làm cho ông Đại úy khốn khổ Aldinger kiệt sức đến mức độ phải rời khỏi Bắc Phi. Rommel thúc giục không ngừng việc đảo đất, trinh sát, tuần tiễu vũ trang. ông phái một toán đột kích về phía Nam để đáp ứng mối lo âu của người Ý rằng: Các toán quân của Tướng De Gaulle bắt đầu trở nên phiền toái. Tất nhiên đó là Quân đội FFL của Tướng Leclerc mà hiệu kỳ đã phấp phới trên ốc đảo Koufra ngày 2 tháng 3 năm 1941.

    Sau cùng, Rommel đặc biệt giữ liên lac thường trực với Tripoli. Nơi đây, vào ngày 11 tháng 3, các chiến xa cuối cùng của Trung đoàn 15 Panzer đã được Bắc lên bờ. Toàn thể đơn vị này gồm 120 chiến xa, trong đó có 60 chiếc xe tăng Panzer III và Panzer IV.

    Lúc ấy Rommel chuẩn bị tung ra cuộc hành quân đầu tiên vào ngày 24 tháng 3. Trong khi chờ đợi, ngày 19 ông bay về Bộ Tổng Tham Mưu của Fuhrer để phúc trình giai đoạn đầu trong nhiệm vụ của ông.

    Thành quả rất khích lệ. Kể từ khi Rommel đến Bắc Phi, cuộc tấn công của quân Anh đã dừng lại, tuyến phóng thủ đã lập xong. Và ông tướng đã để nghị: Ngay từ cuối tháng 5, sau khi Sư đoàn 15 Panzer đến đầy đủ, sẽ mở cuộc tấn công với mục tiêu tái chiếm vùng Cyrenaique.

    Kế hoạch này mặc nhiên được sự chấp thuận của tổng tư lệnh Von Brauchitsch và của Tham mưu trưởng Halder. Nhưng Brauschitsch cũng cho ông biết đừng trông đợi thêm các sư đoàn tông cường nào khác, và vì vậy, đừng hy vọng có thể dứt điểm chiến trường Bắc Phi. Do đó, Rommel lên đường quay lại Bộ Chỉ huy của mình với chiếc Huân Chương Chữ Thập sắt do chính tay Hitler gắn cho, nhưng với tâm trạng bất bình khi thấy rằng Bộ tổng Tư lệnh phó mặc các cuộc hành quân tại Phi Châu cho phiêu lưu và bất ngờ. Nếu chúng tôi đủ lực để lợi dụng điểm yếu thời ấy của quân Anh, ông viết, chúng tôi đã có thể vĩnh viễn làm chủ tình hình.

    Tại Bộ Tổng Tham Mưu của Hitler, tất cả những kế hoạch đều bị chế ngự bởi hạn kỳ 15 tháng 5. Đó là hạn kỳ được ấn định để khởi sự chiến dịch tấn công Liên Xô. Chiến dịch Barbarosa mà sau đó phải dời lại sáu tuần vì cuộc đảo chính (do người Anh giật dây) ở Belgrade ngày 26 tháng 3, bắt buộc Hitler phải đành chiếm Nam Tư.

    Ngày 2 tháng 3, Lộ quân XII của Đức vượt sông Danube tiến vào Bungari nhằm che chở mạn sườn phía Nam của đạo quân tấn công Liên Xô. Nhưng cùng ngày hôm đó người Anh lại đổ bộ lên Hy Lạp, khiến cho Hitler quyết định, ngày 17 mở rộng chiến dịch cho đến Hy Lạp, các chiến xa Panzer sẽ săn đuổi quân Anh bằng một cuộc tấn công chớp nhoáng.

    Người ta biết rằng chiến trường Lybie đối với các chiến lược gia tại Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Tất cả những gì người ta yêu cầu Rommel là chặn đứng Wavell, giữ Tripolitaine cho phe Trục. Tình hình thực tế sẽ thay đổi các quyết định ấy.

    Ngày 24 tháng 3 năm 1941, như đã định trước, các thành phần tiền phong của Quân đội Đức khởi sự tấn công El-Agheila....

    Ngày 24 tháng 3 năm 1941, như đã định trước, các thành phần tiền phong của Quân đội Đức khởi sự tấn công El-Agheila. Điểm đóng quân trên bờ vịnh này chỉ quan trọng là bởi vì nó đành dấu điểm tiến quân xa nhất của quân Anh, và vì nó được dùng làm côn cứ xuất phát cho các cuộc tuần tiễu đành phá các đoàn xe tiếp tế cho ốc đảo Merada ở xa hơn về phía Nam, ốc đảo mà người Ý và Đức đã chiếm giữ để che chở cho mặt trận phía Nam.

    Trước sự ngạc nhiên của quân tiến công, quân phóng vệ chỉ chống đỡ yếu ớt. Họ rút khỏi điểm đóng quân, bỏ lại vài tù binh. Cuộc thẩm vấn những người tù binh cho thấy là đến lúc đó người Anh còn chưa biết đến sự có mặt của quân Đức tại Bắc Phi, hay ít ra là cấp chỉ huy của quân Anh cho rằng thông báo về sự hiện diện của quân Đức cho binh sĩ biết là không cần thiết hoặc không có lợi.

    Ngày cuối cùng của tháng 3, Rommel đến Bộ Chỉ huy tiền phương của tướng Streich, tư lệnh Sư đoàn 5 Khinh binh tại El-Agheila. Giờ đây ông chỉ huy đơn vị DAK, Deutsche Afrika Korps (Binh đoàn Đức Bắc Phi), nhập vào lực lượng khối Trục, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Gariboldi, nhưng ông đã chứng minh chính ông mới là người chỉ huy.

    Ngày 31/3, ông chỉ để nghị thăm dò đối phương. Sau khi quân Anh bỏ El-Agheila, ông lựa chọn một mục tiêu khiêm tốn hơn: Marsa El-Brega, một ngôi làng Ả Rập nhà cửa toàn màu trắng xúm xít chung quanh giáo đường Hồi giáo trên một đỉnh đồi cheo leo nhìn xuống biển. Chiến xa và pháo 88mm được kéo theo, tiến dọc trục lộ Via Balbia. Bên cánh phải là các xe cũ kỹ của quân Ý vừa chiếm lại được khi tiến quân và được lấy gỗ ốp bên ngoài ngụy trang giả làm xe tăng. Làm như thế để cướp tinh thần quân Anh.

    Rommel có mặt tại chỗ. ông đích thân chỉ huy từng giai đoạn của cuộc tấn công. Trước hết là vô hiệu hóa những bãi mìn bằng công binh. Rồi cho pháo khai hỏa, những khẩu DCA 88mm Achtacht nổi tiếng ấy sẽ gây biết bao nhiêu là thiệt hại trong suốt cuộc chiến sau này. Khi pháo binh tấn công thì đã đến giữa trưa, nhiệt độ đến 40 độ C. Lúc này mới cuối tháng 3, Rommel và các sĩ quan tham mưu run rẩy nghĩ đến cảnh trận chiến mùa hè sắp đến.

    Sau pháo binh, đến lượt các oanh tạc cơ chúi mũi xuống tấn công. Mãi đến chiều, ông mới tung bộ binh ra. Trận đánh rất gay go nhưng quân Anh cũng nhanh chóng thua trận. Cho đến chập tối thì những ổ kháng cự cuối cùng của quân Anh trên những ngôi nhà trắng của Marsa El-Brega đều bị thanh toán. Quân Đức tiến vào Cyrenaique.

    Đối phương, giống như vài ngày trước đó tại El-Agheila, lại tiếp tục rút lui. Rommel lại có tù binh để thẩm vấn. ông tự hỏi tại sao Wavell lại rút lui và bỏ rơi một vị trí như vậy, dù vị trí ấy không phải là trọngàyếu nhưng nó là điểm mở đường tiến tới Agedabia, vị trí nằm phía cực Nam vịnh Syrte.

    Tôi tin rằng, ông nói với các sĩ quan tham mưu, Wavell đã tỏ ra khinh suất, quá khinh suất. Chắc ông ta nghĩ rằng chúng ta không có khả nông chiếm giữ gì cả vì quân Ý đã đại bại rồi. ông ta đã lầm. Ngày mai chúng ta sẽ chiếm Agedabia. Và nếu như đối phương đã rút lui rồi thì chúng ta không còn sợ họ đành trả nữa. Trái lại, nếu chúng ta săn đuổi họ thẳng qua vùng Cyrenaique hướng về Derna, chúng ta có rất nhiều cơ may cắt đường rút lui của họ.

    Chiếm Agedabia ngày hôm sau, ít ra là cũng không có gì táo bạo lắm. Cho dù côn cứ vào kế hoạch đã được thiết lập khi ông về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu của Fuhrer, cuộc tấn công vào địa danh này được dự trù thực hiện vào cuối tháng 5.

    Tại đây chúng ta để cập đến một nguyên lý cơ bản của nghệ thuật chiến tranh của Rommel. ông nói:

    Khi một cấp chỉ huy quân sự mới đạt được một chiến thắng quyết định, thông thường ông ta hay phạm lỗi vì tự hài lòng với một mục tiêu chiến lược còn hạn chế. cần phải triển khai thành quả. Chính trong các cuộc truy đuổi, khi địch quân bại trận còn mất tinh thần và rối loạn hàng ngũ, người ta mới bắt được nhiều tù binh và chiến lợi phẩm. những đoàn quân, cho dù phải chạy trốn trong kinh hoàng và hỗn loạn về hậu cứ, nếu không bị truy đuổi thì vẫn có thể nhanh chóng tổ chức lại hàng ngũ, lập thành phóng tuyến và trở thành một đơn vị chiến đấu mạnh mẽ mới.

    Số 600 cư dân tại Agedabia đã di tản khỏi địa phương ấy khi Sư đoàn 5 Khinh binh khởi sự tấn công vào rạng sáng ngày 2 tháng 4. Còn Sư đoàn 15 Panzer, trọng tâm của cuộc tấn công này thì tham chiến ở phía Nam con đường Via Balbia. Chín chiến xa Anh bị bắn cháy, cuộc chiến diễn ra nhanh chóng. Đối phương vừa đành vừa rút. Tối hôm đó, cả Agedaiba và khu vực bao quanh bị chiếm giữ. Quân Đức và quân Ý thuộc đơn vị Santa Maria tiếp tục tiến về phía Đông, họ phát hiện ra dấu hiệu của một đợt rút lui hấp tấp: Thực phẩm, dụng cụ bỏ lại vương vãi, kể cả thư từ được gửi cho binh sĩ của Wavell. Chiến lợi phẩm rất nhiều. hàng dãy tù binh đi ngược về phía sau trong khi quân Đức thu lượm đủ thứ vũ khí, đạn dược, xe cộ.....

    Trung thành với chủ thuyết của mình, Rommel ra lệnh: Phải đuổi theo địch quân bén gót và cố tạo ra càng nhiều bụi càng tốt. bụi sẽ giúp chúng ta tiết kiệm xương máu và đạn dược...

    Con người mới đặt chân lên Phi Châu một tháng ấy đã học được cách sử dụng sa mạc sao cho có lợi nhất. bộ phận thám sát của ông được lệnh theo sát quân Anh đang rút lui chỉ dừng lại cách Agedabia 30km về phía Đông. Mục tiêu ấn định cho cuối tháng 5 đã đạt được trong vòng 3 ngày chiến đấu.

    Rommel dĩ nhiên rút ra được kết luận về bước nhảy vọt đầu tiên này. ông biết rằng các xe hơi ngụy trang giả làm chiến xa đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của ông. ông suy đoán rằng Wavell đã đành giá quá cao lực lượng của ông. Từ đó cần khai thác tình hình. Agedabia nằm về phía cực Đông Nam của vịnh Grande Syrte. Từ đó, bờ biển chạy lên hẳn phía Bắc hướng về phía đỉnh vịnh này là thành phố Benzaghi. Để tiếp tục cuộc tấn công thì có hai cách: 1. Đẩy mạnh cuộc tiến quân thẳng về phía đông, ngang với vĩ độ của Agedabia, xuyên qua sa mạc Cyrenaique. 2. Tấn công lên phía Bắc hướng về Benzaghi. Cuộc tiến công theo cách thứ nhất phải theo một lối mòn bất định mà người Ý cương quyết bác bỏ. Họ gọi con đường ấy là con đường tử thần. Mặt khác hải càng Bengazi vẫn được sử dụng như là một điểm tựa của quân Anh cho đến lúc đó, nên sẽ là một mục tiêu quá lớn đối với một cuộc tiến công học hỏì do Rommel để xuất. Duy có điều là lúc ấy có một sự kiện mới xuất hiện. Một tu sĩ Ý từ Benzaghi tìm đến và tuyên bố rằng quân Anh đã rút lui khỏi thành phố. Lập tức, Rommel tung mũi tấn công của mình do Đại tá Von Wechmar chỉ huy tiến về thủ đô của vùng Cyrenaique.

    Trên bản đồ này còn thiếu ghi chú càng Alexandia, các bồ cứ lấy bờ biển phía Bắc Cairo, chắch sang trái một chút là Alexandria. Ba càng Alexandria, Tripoli và Benghazi là ba mạch máu chính nuôi dưỡng cuộc chiến. Đức Ý tiếp vận bằng càng Tripoli, Anh thì Alexandria, càng Benghazi nằm ở giữa là mục tiêu giÁnh giật của cả hai, ai chiếm được nó thì sẽ rút ngắn con đường tiếp vận của mình và bắt buộc đối phương phải tiếp vận từ càng hậu phương, sau đó mới chuyển đi bằng đường bộ đến tiến tuyến.

    Giai đoạn này, Rommel đã chiếm Agadabia, rất gần Benghazi nên ông cố gắng blitz về phía Bắc để đoạt luôn càng chiến lược này. (Các bồ xem bản đồ phía dưới để xem vị trí Agedabia và Benghazi). Nhưng buồn cười là, kẻ thù của Rommel bây giờ không phải là quân Anh mà là.... tướng lĩnh Ý.

    Hành động đó không phải là không gặp khó khôn với người Ý. Tướng Gariboldi bất ngờ đến Bộ Chỉ huy của Rommel. Khi biết được các kế hoạch của ông tướng Đức, thuộc cấp của mình, ông tướng Ý thét lớn: Các cuộc hành quân ấy đều trái với chỉ thị của Rome. Công cuộc tiếp liệu cho các lực lượng Đức Ý không cho phép thực hiện một hành động có tầm mức rộng lớn như vậy. ông ta từ chối không chịu nhận trách nhiệm với cuộc hành quân này và bắt buộc ngưng tấn công ngay lập tức. ông ra lệnh là bất cứ các cuộc điều động tiến quân nào cũng phải có sự chấp thuận của ông. Giọng điệu của cả hai ông tướng nhanh chóng trở nên gay gắt. Nhưng may thay, khi hai người đang cãi vã thì một điện vôn từ Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Đức gửi đến nơi: Chấp thuận quyết định của Rommel. Gariboldi giận dữ bỏ đi.

    Trong khi đó, bộ phận tiền quân của Von Wechmar lăn bánh nhẹ nhàng về hướng bắc. ông ta đến Sollouch, một khu xóm nghèo nàn toàn lều cây và vách tường bằng phân lạc đà.

    Trụ cây số bên đường cho thấy chỉ còn cách Benghazi 40 km, phóng viên chiến trường Von Esebeck đi theo toán quân thuật lại. Phong cảnh thay đổi dần. Mặt đất được một lớp cỏ khô bao phủ tạo nên quanh cảnh mới lạ. Nhiều con lạc đà đi lang thang vẻ biếng nhác. những bụi cây kim tước chi làm nổi bật những đỉnh cát trắng hướng về bờ biển. Bóng những cây cối đầu tiên xuất hiện, những cây olive lá dày và bạc trắng, những cây đỗ tùng màu sậm, rồi lại đến các cánh đồng lúa mạch nghèo nàn với thỉnh thoảng một cái giếng nước mà người ta múc lên bằng những chiếc gàu da. Không khí tràn ngập mùi cây bách ý hương.

    Quân Đức đến Benghazi trong đêm 3 rạng ngày 4 tháng 4. Tin tức do vị tu sĩ cung cấp rất chính xác. Dân Ý hân hoan đón những người mới đến. Nhiều đám cháy soi thủng màn đêm, quân Anh đã đốt cháy những kho đạn của họ. Từng lớp mây khói bay dày đặc trên thành phố. Rất nhiều nhà cửa bị thiệt hại. Hải càng bày ra một quang cảnh thê thảm gồm những bến tàu hoang vắng, những kho hàng bị đốt cháy, tàu bè bị đành chìm. Nhưng Benghazi không phải là không mang lại cho Rommel một chiến công lớn mà ông sẽ khai thác ngay lập tức. Ngay sáng hôm sau, bộ phận tiền thám được Rommel ra lệnh tiến về hướng đông.

    Phần Rommel thì ở lại Agedabia. Con đường của tử thần có lợi điểm: Nếu cắt qua sa mạc, sẽ tiến đến nối tiếp với vịnh Bomba phía đông Benghazi. Có nghĩa là nếu tiến đủ nhanh, quân Đức có thể chận ngang con đường quân Anh trốn thoát ra khỏi vùng Cyrenaique.

    Nhưng đối với người Ý, dấn thân vào con đường tử thần với xe cộ và binh lính không hề được huốn luyện để chiến đấu tại Phi Châu là một chuyện cực kỳ điên rồ. Một cuộc đụng độ lại xảy ra giữa Rommel và Gardiboldi. ông Tước Đức gạt bỏ mọi cản trở. ông chỉ dành thời gian để tổ chức một cuộc hành quân xa 300 km, để kiếm xăng cho thiết giáp và xe tải của ông. Giữa Agedabia và Derna trên bờ biển, con đường chạy thẳng xuyên qua sa mạc Cyrenaique, từ phía Tây Nam hướng về phía Đông Bắc. Giữa hai địa điểm chỉ có một chướng ngại lớn về mặt quân sự, đó là Mechili do quân Anh cố thủ. Đây là một cuộc đột kích dài 300 km mà các binh sĩ thuộc Sư đoàn 5 Khinh binh thực hiện, bất chấp những cơn gió cực kỳ nóng quét ngang dọc. Một trong các luận cứ mà vị Tướng Ý đưa ra để chống lại cuộc hành quân là tình trạng thiếu kinh nghiệm của binh sĩ thuộc Afrika Korps. Rommel trả lời rằng, đây chính là cơ hội cho các binh sĩ ấy học hỏi về sa mạc. Và họ đã học hỏi thật. Trong một cơn bão cát tối tâm mặt mũi với những mốc dẫn đường duy nhất là các thùng xăng rải dọc đường, xe cộ nối đuôi nhau tiến sâu về phía Đông Bắc. Mỗi chiếc xe tung về sau một đám bụi làm mờ mịt chiếc phía sau, Xe này phải né sang một bên và xe sau nữa cũng như vậy. Đến nỗi sau một thời gian ngắn, con đường bị dãn rộng ra hàng mấy km.

    Cứ như vậy, đoàn quân tiến tới Anletat, một nhóm lều đất sét của dân chúng ghi dấu tích cuối cùng của đời sống con người.

    Kể từ đó, HG Von Esebeck viết, tất cả mọi bản đồ đều tỏ ra thiếu sót. Thành thật mà nói, một khi ở trong sa mạc thì phải biết đọc bản đồ theo lối đặc biệt. những địa danh trong đó không hề tương ứng chút nào với các địa phương trong thực tế. Thường thường là không có địa phương nào có tên như thế cả. Thỉnh thoảng xuất hiện một cái giếng khô ngập đầy cát mà người Ả rập không biết từ đời nào đã đặt cho một cái tên. Hoặc giả người ta dùng một đống sỏi để làm mốc chỉ đường cho các đoàn lữ hành lạc đà. Chỉ có thế. Không một ngọn cây, bụi cỏ. Một cảnh đều đặn buồn tẻ đến nản lòng, một vùng đất trơ trụi. những cơn bão cát phủ lên trên như những đám mây dày. Nếu cơn gió nóng bỏng sa mạc dịu bớt thì không khí trở lại trong tình trạng bất động, liền giúp ánh mặt trời tạo nên những hình ảnh kỳ dị nhất. Làm xuất hiện trước mắt ta những hồ nước trong veo hay một bụi cây gai khổng lồ che khuất cả xe chạy trước, lừa dối con người bằng đủ thứ trò quỷ thuật. Chỉ có thể chạy đúng theo hướng ấn định bằng la bàn. Ngoài ra, vượt qua các khoảng đầy đồi cát là công việc khó khăn đến nỗi các toán quân phải đỏ mắt tìm kiếm những ngọn đèo, vượt qua chậm rãi rồi lại chìm đắm vào sa mạc.

    Trong cuộc hành quân ác mộng này, Rommel trực tiếp ra lệnh cho các đơn vị trưởng. ông hiện diện khắp nơi, sử dụng từ xe hơi cho đến chiếc phi cơ con còn, đáp bất ngờ ngay giữa một đơn vị, rồi ra đi để thúc đẩy một đơn vị khác. Cuộc tiến quân rất khổ nhọc. Nhưng đến sáng hôm sau quân Đức thoát ra khỏi đám đồi cát và xuất hiện trước Mechili, trước mặt đám quân Anh đang kinh hãi.

    Vào lúc đó, cơn gió sa mạc ngưng hẳn. Trời Phi Châu trở lại trong vắt như pha lê. Quân Đức nhìn thấy một thành phố nhỏ với nhà cửa sơn trắng xuất hiện đột ngột trong sa mạc. Quân Anh đang cắm trại ngay giữa những chiếc xe của họ. Thế là những chiếc Panzer bắt đầu gầm thét, chúng biểu diễn những màn kinh dị nhằm gây ấn tượng đối với Mechili. Tối ngày 7, đã hai lần quân Anh được yêu cầu đầu hàng nhưng họ đều từ chối. Vì thế Bình minh ngày 8 tháng 4 năm 1941, chiến xa Panzer khởi sự tấn công. Trận đánh chỉ kéo dài nội trong một buổi sáng. Chỉ một toán quân Anh thoát được khỏi vòng vây. Quân đức bắt gần 2.000 tù binh, phần lớn là người Ấn Độ.

    Các bạn có thể thấy địa điểm xuất phát của Rommel là Agedabia, họ tiến quân theo hướng Đông Bắc lên đến Anletat mà đoạn trên có ghi chú là từ Anletat là điểm cuối cùng ghi dấu sự có mặt của con người. Sau Anletat, cũng theo hướng Đông Bắc, là đoạn hành trình khổ ải trong sa mạc trước khi họ đến tấn công Mecheli. Trên bản đồ cũng cho thấy đích đến của cuộc hành quân là Derna gần Vịnh Bomba.

    Trong khi đó, một bộ phận tiền phong, vốn được giao phó nhiệm vụ xông đến chiếm điểm tựa Derna bên bờ Địa Trung Hải, mà không cần quan tâm đến Mechili, đã đến được mục tiêu trước vẻ ngơ ngác hoàn toàn của người Anh. Và đến cuối ngày 8 tháng 4, Tướng Rommel lập bản kết toán cho những ngày kinh khủng ấy, chiến lợi phẩm bao gồm vật liệu, đạn dược, vũ khí, xe cộ, xăng nhiều quá sức tưởng tượng.

    Trong số tù binh có cả Tướng Neame, người kế vị Tướng Connor chỉ huy Quân đoàn 13, Tư Lệnh tối cao tại Ai Cập và Transjordanie, và là người có ý định xui xẻo là đến thăm mặt trận Lybie. Các Tướng Connor, Gambier Parry và Tướng Carton de Wiart đã từng chỉ huy Quân đội Anh đổ bộ lên Thụy Điển.

    Ngoài tác động tâm lý do chiến thắng này mang lại, tất cả bình nguyên Barce ở phía Đông Benghazi rơi vào tay quân Đức và con đường từ Mer-marique, phần lãnh thổ của Cyrenaique tiếp giáp với Ai Cập từ đó mở rộng cho họ.

    Nước bài tháu cáy của Rommel đã thành công. Ông chứng tỏ tại năng của một lãnh đạo quân sự bằng cách làm cho trận đánh sôi động, bằng cách lợi dụng từng lồ hồng, từng cơ hội nhỏ. Nhưng ông cũng không phải là con người khinh địch: Gần như chúng ta bị bắt buộc tung ra cuộc hành quân này, ông nhắc lại với các sĩ quan. Có thể nói địch quân đã bắt buộc chúng ta làm như thế. Và việc khó nhất để làm vẫn còn đó.

    Nhận định ấy còn khiêm nhường. Trong thực tế, ông đã thấy trước tầm rộng lớn của cuộc tấn công, bởi vì trước khi lên đường vào rạng đông ngày 8 tháng 4, ông viết thư cho vợ: Ngày hôm nay sẽ là ngày quyết định. Lực lượng chính của chúng tôi đã được tung ra, sau một đoạn đường dài 350km xuyên qua đá và cát của sa mạc. Tôi sẽ dùng máy bay để đi tìm và sẽ tìm thấy họ. Bà khó có thể tưởng tượng nổi tôi sẽ vui mừng đến mức nào.

    Một ngày trải qua tại Mechili đối với Rommel có tầm quan trọng đặc biệt. Trong số chiến lợi phẩm có những xe chỉ huy của các Tướng lĩnh Anh.

    Đây là những xe vận tải rộng rãi, chạy bằng xích và được trang bị rất đầy đủ các loại vô tuyến liên lạc và các tiện nghi khác. Rommel lấy một chiếc cho mình và đặt tên là Mammouth, còn một chiếc thì cấp cho viên Tham mưu Trưởng của ông.

    Trong số vật liệu thu lượm được, ông còn tìm thấy một cặp kính lớn được chế tạo để chống ánh nắng mặt trời lẫn bụi cát. Thật là phép màu, ngay cả với một Tướng lãnh! Ông la lên.

    Lập tức ông mang lên mắt thử rồi nâng nó lên gác trên vành nón kết. Ông không bao giờ rời nó nữa trong suốt cuộc chiến, và chính với cặp kính này mà hình ảnh của ông trở thành bất từ nhở những phóng viên nhiếp ảnh chiến trường.
    gakocanh, Pinkolousanheoinwater thích bài này.
  8. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Phần việc khó nhất phải làm vẫn còn đấy. Rommel đã viết cho vợ vào ngày 8 tháng 4. Phần khó nhất là Tobrouk. Tobrouk, một địa danh nổi bật trong lịch sử Đệ Nhị Thế Chiến, là một địa phương nhỏ hẹp hơn Derna nơi Afrika Korps vừa chiếm xong. Nhưng thị trấn thuộc địa có 4.000 dân này lại có một cái vịnh mà mực nước sâu từ 10 đến 15 mét, và trong thực tế đấy là hải cảng tốt nhất của vùng Cyrenaique được xây dựng ngay bên bờ vịnh, được những ngọn đồi sỏi đá, hố sâu bao bọc chung quanh. Nó được chính Thống chế Graziani biến thành một pháo đài phòng thủ kiên cố. Cả một hệ thống phòng thủ, giao thông hào, h m chống chiến xa che chở nó. Đấy là điểm tựa cuối cùng nhưng là điểm tựa quan trọng nhất trước khi đến biên giới Ai Cập.

    Trung thành với chiến thuật của mình, Rommel vượt qua Tobrouk và các bộ phận tiên phong đã đến Solloum, biên giới Ai Cập. Tobrouk coi như đã bị bao vây, nhưng không thể tiến quá xa khi chưa hạ được Tobrouk.

    Tấn công nó là một sự táo bạo điên cuồng. Sau cuộc đột kích thẩn tốc vừa hoàn thành xong, Quân đội Đức-Ý cần được nghỉ ngơi đôi chút. Mặc khác cuộc tấn công khó có thể được chuẩn bị chính xác. Người ta không có cả những Bản đồ chi tiết miền phụ cận Tobrouk. Rommel hoàn toàn không biết gì về hệ thống bố trí phòng thủ. ông phải cho tìm các kỹ sư và các sĩ quan Ý đã thiết lập ra hệ thống ấy để hỏi han, nhưng không có thời gian nữa.

    Bờ vì bộ phận của Von Wechmar đã vượt qua Tobrouk tiến về phía Đông chận con đường Via Balbia, coi như hải cảng này đã bị bao vây, Erwin Rommel toan tính chiếm hải cảng một cách táo bạo. Cuối chiều ngày 12 tháng 4, thiết giáp và bộ binh thực hiện một cuộc tấn công tập trung đầu tiên. Nhưng các ổ đề kháng của binh sĩ Anh đã được trang bị đầy đủ, vững chắc và ngụy trang kỹ càng nên đã đánh bật cuộc tấn công. Đây là thất bại đầu tiên mà họ phải gánh chịu từ khi xuất phát tại El-Agheila.

    Trong buổi họp tham mưu tiếp theo đó, Rommel nói với các sĩ quan của mình: Tôi hiểu rằng binh sĩ của chúng ta đã thấm mệt. Nhưng chúng ta không thể dừng lại. Chúng ta bắt buộc phải tiến xa hơn về phía Đông trước khi người Anh có đủ thời gian đưa lực lượng của họ từ Cận Đông lên. Chúng ta không có nhiều thời gian.

    Thời gian là điều không ngừng ám ảnh Rommel, con người của chiến tranh chớp nhoáng. Trong đêm 13, ông tung ra khắp phía xung quanh Tobrouk một cuộc tấn công đánh lạc hướng, trong khi trận đánh chính lại nhắm vào phần Đông Nam của thành phố vào sáng hôm sau.

    Cuộc tấn công đầu tiên phải trả giá bằng cái chết của Tướng Đức đầu tiên từ trận trên chiến trường Phi Châu, Tướng Prittwitz, lúc ông đang dẫn binh sĩ cố gắng tấn công vào hệ thống phòng thủ bên ngoài. Tướng Prittwitz mới đặt chân lên Phi Châu vài ngày trước.

    Sáng ngày 14 thông 4 (ngày Chủ Nhật Lễ Phục Sinh), những công binh gỡ mìn và Tiểu đoàn của Trung tá Ponath, đơn vị luôn đi đầu trong các trận đánh kể từ khi rời El-Agheila, đã mở được đột phá khẩu để cho thiết giáp ập vào. Họ tiến được cho đến cách trung tâm Tobrouk 4 km về phía Nam. Duy chỉ còn điều là quân Đức không biết một chút gì về hệ thống phòng thủ của thành phố. Trong cuộc tấn công, Bộ binh đã để sót bên sườn và phía sau nhiều ổ kháng cự, nhiều chốt chiến đấu. Mặt khác, khi chiến xa tiến vào, chúng bị tiếp đón bằng một thứ hoả lực như địa ngục, gồm cả trọng pháo, súng chống tăng và cả những hào sâu chống chiến xa. Cuối cùng, họ phải vừa đành vừa rút lui.

    Vị Tư lệnh Afrika Korps đã nhanh chóng nhận thức được rằng không thể chiếm Tobrouk giống như nhịp tiến quân sấm sét qua Cyrenaique được. Vậy là ông buộc phải tiến hành một trận chiến đành lấn chiếm trong khi đang thực hiện hình thái chiến tranh cơ động. Ba mươi ngàn người đang trấn giữ Tobrouk và đấy là những đoàn quân ưu tú nhất của Wavell.

    Wavell lại không hoàn toàn tin tưởng vào Tobrouk. Ngày 8 thông 4, ông rời Le Caire đáp máy bay quan sát công cuộc phòng thủ Tobrouk. Đó là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Động cơ máy bay bị hỏng, máy bay phải đáp khẩn cấp xuống giữa sa mạc. Lẻ loi giữa sa mạc, ông buộc phải đốt hết các giấy tờ, Tài liệu mang theo người để đề phòng khả năng bị bắt. May mắn thay, vào giữa khuya ông gặp được một toàn tuần tiễu của Anh và được cứu thoát. Trở về Caire, ông không lấy gì làm lạc quan lắm. Mặc dù những nỗ lực tấn công của địch đã làm cho chính chúng kiệt quệ, tôi vẫn không tin rằng chúng ta còn nhiều thời gian nghỉ ngơi. Tôi rất lo lắng, Tobrouk không phải là điểm phòng thủ tốt vì các đường tiếp tế từ đó đến hậu cứ khá xa và thiếu bảo vệ?

    Tại London, câu cuối này đã ấn tượng như là một thái độ chủ bài trong con mắt của Winston Churchill, người đã giữ cho Liên Hiệp Anh đứng vững. Ông ra lệnh: Nếu như ông bỏ Tobrouk và rút lui về sau 400 km đến Marsa Matruth, Bộ ông sẽ không tiếp tục bị đặt trước cùng một vấn đề ư? Chúng tôi tin chắc rằng ông phải bảo vệ Tobrouk bằng mọi giá?

    Câu kết luận của bản phục trình trên cuối cùng đã có cái giá bằng chính chức vụ Tư lệnh của Wavell, Churchill không còn tin tưởng nơi ông ta nữa. Một lần nữa, nhãn quan của con Sư tử già tại London tỏ ra sáng suốt hơn tầm nhìn của viên Tư lệnh quân đội tại chiến trường.

    Churchill nhìn thấy tất cả các vấn đề của Rommel. Viên Tướng Tư lệnh Afrika Korps vẫn còn dưới quyền chỉ huy của vì tổng Tư lệnh Ý tại Tripoli. Hải cảng tiếp tế duy nhất của ông ta vẫn còn là Tripoli cách Tobrouk 1.600 km và cách tiền tuyến mãi tận Solloum trên đất Ai Cập đến 1.750 km. Lực lượng khôngàyểm trợ của ông ta đóng tận Sicily và tại vài phi trường ở Tripolitaine, nơi mà không quân Luftwaffe chỉ cất cánh với sự miễn cưỡng bởi vì những phi công của không quân không bao giờ bước lên một chiếc máy bay thiếu xăng và đạn dược. Không chỉ bị lệ thuộc vào con đường tiếp viện quá dài, còn dài hơn cả Wavell, mà Rommel còn bị lệ thuộc vào một đơn vị quân nhu vẫn còn thái độ còn tồi tệ hơn sự phối hợp thường ngày vốn đã lỏng lẻo giữa Đức và Ỳ nhiều.

    Đối với ông lớn quân nhu này, Rommel đã viết một cách hẳn học:

    Lý do được nêu ra để từ chối một cuộc truy đuổi gần như luôn luôn là do sĩ quan phụ trách tiếp tế đưa ra. Theo đó, phương tiện không còn đủ để bảo đảm chu toàn cho những con đường giao thông đang kéo dài ra. Vì là các vì tổng Tư lệnh thường chú ý rất nhiều đến ý kiến của gã sĩ quan này, làm cho các ước tính hậu cần mang ảnh hưởng quyết định đến các kế hoạch chiến lược. Cho nên các Bộ Tham mưu trong những cơ sở hậu cứ còn thói quen than phiền về từng khó khăn nhỏ nhặt thay vì tỏ ra hăng hài hơn với nhiệm vụ của họ, tỏ ra sáng kiến hơn. Rất cuộc mọi thứ cứ dậm chân một chỗ.

    Đến nỗi trong thời gian cuộc bao vây bắt đầu, nhiều lần lực lượng Afrika Korps bị tê liệt vì thiếu xăng. Và mất mấy tuần lễ Rommel mới nhận được Bản đồ phòng thủ chi tiết của Tobrouk do người Ý cất giữ. Chính người Ý đã xây cất hệ thống phòng thủ ấy.

    Kể từ lúc ấy, vị Tư lệnh Afrika Korps bỏ hình thái chiến tranh thụ động xung quanh Tobrouk. Ông bắt đầu hoàn tốt cuộc bao vây thành phố bằng cách tăng cường vị trí xa nhất về phía Đông của mặt trận là Sollum. Về phía Nam thành phố này, tất cả những cuộc điều động từ hướng Ai Cập đầu bị chế ngự bởi một dốc đứng hiểm trở, định một con kè chắn ngang con đường tiến quân - kè Halfaya. Vị trí này được giao phó cho một sĩ quan của Afrika Korps, người đã tạo huyền thoại riêng cho mình trong các truyện truyền kỳ về Afrika Korps của Đức: Đại úy Bach, một mục sư khi chiến tranh chưa nổ ra.

    Tiếp theo đó, ông chuẩn bị kỹ lưỡng cuộc tấn công dữ dội mà ông định tung ra để chiếm thành phố. Cuộc tấn công khởi phát theo một nguyên tắc mà Rommel đã àp dùng rất nhiều lần ngay từ khi Thế chiến bắt đầu: Thọc sâu vào một góc của vị trí vào mở rộng ra bằng mọi phương tiện. Rồi từ kẽ hở đã được mở rộng ấy, chớp nhoáng tung ra một cuộc tấn công quyết định.

    Đối với ông, tất cả chỉ là vấn đề chuẩn bị. Từ Bình minh cho đến đêm Tối, ông chạy đôn chạy đáo, khi thì xe hơi khi thì máy bay. Ông đến thanh tra các đơn vị, luôn luôn xuất hiện bất ngờ, trừng phát những kẻ chủ bài, khích lộ tinh thần binh sĩ. Ông ném vào Quý ông lớn quân nhu một trận chiến không ngừng nghỉ. Rốt cuộc vì ông mà người ta phải mạo hiểm đưa đến Benghazi còn hoang tàn vài chuyến tàu tiếp liệu quý giá.

    Phần người Anh thì họ giữ cho đường liên lạc biển với Alexandrie an toàn. Mặc dù còn các cuộc tấn công của không lực Đức, nhưng không hữu hiệu vì căn cứ ở khá xa. Các tàu chở hàng của Anh ban đêm đã lẻn vào Tobrouk nên trong suốt cuộc vây hãm, quân Anh chẳng bao giờ thiếu thốn thực phẩm, đạn dược hay nhiên liệu gì cả.

    Đối với Rommel, đó là những ngày mệt mỏi nhưng phấn khích. Bác sĩ riêng từng khuyên ông săn sóc Bệnh phong thấp bằng cách đến vùng khí hậu Ai Cập, nhưng chắc chắn không ngờ là ông giờ đây đến đấy Thật, nhưng lại ngủ trong một chiếc xe tại. Kế bên là một căn lều, trong đó Đại úy tùy viên Aldinger, sĩ quan liên lạc Schmidt và người hầu cận Gunther cùng sống thân một với nhau. Nhà ăn của Rommel là loại khắc khổ dành cho các Bộc tu hành nên đối với Trung uý Schmidt, là sĩ quan liên lạc nên ông thỉnh thoảng được ăn chung với các binh sĩ thuộc Sư đoàn 5 Khinh binh hay Sư đoàn 15 Panzer, đối với anh ta thì đó là những bữa đại tiệc. Ở với Rommel thì chỉ còn duy nhất một điều sang trọng: Được đi tắm hai lần vào lúc Bình minh và Hoàng hôn trong làn nước biển trong vắt Địa Trung Hải. Trung uý Schmidt kể lại rằng, vì đây là một thế giới không còn đàn bà, nên cả Tướng lẫn sĩ đều cởi truồng.

    Ngày 30 thông 4, Rommel tung cuộc tấn công vào Tobrouk. Hai trọng điểm đã được thiết lập trên đồi Rasel-Medaouer ..

    Ngày 30 thông 4, Rommel tung cuộc tấn công vào Tobrouk. Hai trọng điểm đã được thiết lập trên đồi Rasel-Medaouer, một cao điểm chế ngự thành phố, từ đó Sư đoàn 5 Khinh binh dưới sự chỉ huy của Tướng Kirchheim và Sư đoàn 15 Panzer của Tướng Von Essenbeck tiến vào sau một đợt pháo phủ đầu dữ dội, sử dùng tất cả đại pháo mà Rommel còn.

    Đến nửa đêm, các điểm tựa tại Rasel đã bị chiếm giữ và một cứ điểm nòng cốt trong việc phòng vệ Tobrouk đã bị súp đổ. Nhưng quân Đức không làm sao có thể tiến xa hơn. Quân New Zealand và Úc cũng phản công một cách quyết liệt nhưng cũng không thể nào chiếm lại các vị trí quân Đức đã giÁnh được.

    Họ bị quân phòng thủ pháo kích dữ dội suốt 36 giờ. Và đâu vẫn yên đấy cho dù hệ thống phòng thủ đã thay đổi. Rommel cũng không thành công trong việc chinh phục chìa khóa mở cửa vào thành phố: cứ điểm Pilastrino.

    Chính giờ đây địa ngục mùa hè mới bắt đầu. Những cơn bão cát hành hạ mọi người, cho đến khi gió dịu đi thì vô số ảo ảnh hiện ra trước mắt, còn khi họ thấy cả những hồ nước trong xanh nằm trên đỉnh những ngọn đồi khô cằn. Từng đám mây ruồi bay đầy trong không khí tạo nên những âm thanh vù vù liên tục từ sáng đến tối. Công cuộc tiếp tế tệ hại, gần như chỉ còn mỗi một thứ cá hộp và thít hộp dở tệ mà binh sĩ gọi là ông già tốt bùng .

    Khởi sự từ Tripoli vào tháng hai nhằm thực hiện một sứ màng giới hạn gọi là â phòng thủ cơ động , Afrika Korps nay đã ở cách tuyến dừng quân do cấp chỉ huy ấn định trong vịnh Syrte đến 800 km. những cấp chỉ huy đã quá thận trọng về mặt chiến thuật và các sĩ quan Ý trong Comando Suppremo đã kịch liệt trách móc Rommel về điều này. Nhưng rõ ràng Rommel đã khám phá ra một quy luật căn bản của sa mạc: không thể tiến hành một cuộc chiến tranh bất động ở đấy được. Không bao giờ có thể tiến ít hơn 400 hay 500 km, và khi rút lui thì cũng phải là một quãng đường tương tự.

    Một khi nguyên lý này được đặt ra, cũng cần phải hiểu rằng tình thế này của ông sẽ không còn duy trì đượcnếu như Roma và Berlin không xét lại quan niệm của họ và tăng cường lực lượng cho Afrika Korps, hiện vẫn đang bị giới hạn bởi 2 Sư đoàn, một Sư đoàn Khinh binh và một Sư đoàn Panzer.

    Về phần Wavell, ông này nhận được lực lượng tăng phải đầu đặn. Chiến trận tại Hy Lạp đã chấm dứt đối với người Anh sau một cuộc rút lui buồn thám tại Peloponnese, một cuộc thào chạy mà Churchill đã viết trong cuốn Đệ Nhị Thế Chiến của ông là còn tệ hại hơn cả Dunkerque. Nhưng Thật ra cuộc rút lui ấy không phải là do thua trận. Nò được quyết định khi thấy sắp bị tràn ngập bởi cơn thủy triều quân Đức, Chính phủ Hy Lạp đã thấy tốt hơn là yêu cầu Đồng minh Anh Quốc của mình rút lui để trành một cuộc giết chọc trên quá hương mình. Vànếu người Anh đồng ý rút lui, thì lại do là chính cuộc tấn công của Rommel xuyên qua vùng Cyneraique đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình Bắc Phi, họ cần trả lại gấp hai sư đoàn từ Hy Lạp cho Wavell.

    Hay, nói đúng hơn, là trả những gì còn lại của 2 Sư đoàn bởi vì vào ngày 20 tháng 5, họ rút khỏi Hy Lạp bằng một cuộc hành quân không vận đầu tiên trong lịch sử.

    Nếu Rommel hiểu rằng Kết quả của cuộc bao vây Tobrouk lệ thuộc phần lớn vào 150 km mặt biển dọc phần đất mà ông đang chiếm giữ từ phía đông hải cảng cho đến Solloum trên đất Ai Cập, thì Wavell lại nghĩ ngược lại, ông ta tiến hành giải vây cũng từ phía đông, nhưng trên Bộ.

    Ngày 15 tháng 5, Wavell tung ra một cuộc tấn công từ phía đông, với 100 chiến xa, ông tấn công Solloum và Capuzzo phía Tây Bắc. Cùng Lúc đó, ông ta còn đánh lên kè Halfaya. Hoàn toàn bất ngờ, toán quân của Von Herff trốn giữ khu vực Solloum-Capuzzo bị đẩy bật ra phía Bắc bờ biển, về phía Badia, một trong các địa phương nằm giữa Tobrouk và Solloum, nhưng đến lượt địa điểm này cũng bị đe doạ trực tiếp.

    Ở ngọn kè thẳng đứng Halfaya, hai cứ điểm do quân Ý trốn giữ đã bị chiếm nhưng trên kè cao, mục sư Bach và binh sĩ của ông đã chịu đựng được đòn tấn công đột ngột này một cách vững chắc. Rommel đã báo trước cho nhà tu hành này về tầm quan trọng của vị trí then chốt Halfaya, chỉ thị ông ta phải bám chặt ngay cả trường hợp bị quân Anh đi vòng tấn công từ màn Tây, và giữ ở đó cho đến khi Afrika Korps đến giải vậy. Cha Bach đã nhận lệnh mà không hề chau mày.

    Trước nguy cơ đe doạ từ người Anh, Rommel tức khắc rút các đơn vị cần thiết cho cuộc bao vây Tobrouk, đặc biệt là Trung đoàn 8 thiết giáp thuộc Sư đoàn 15 Panzer vừa được gửi đến nơi. Nhở vậy, Solloum được tại chiếm sau một đợt phản công sấm sét của Đại tá Von Herff, và mọi sự đâu lại vào đấy.

    Lúc đó người ta không thể hiểu tại sao mọi sự không tiến triển khác hơn được. Bởi vì vào ngày 20 tháng 5, quân Đức đã với tới đảo Crete, một căn cứ không phải cách Tobrouk 1700 km như Tripoli, mà chỉ còn 360 km. Từ đảo Crete, không lực Đức có thể Thật sự nghiền nát quân Anh trên mặt trận Ai Cập, còn Afrika Korps lại có thể được tiếp tế với các rủi ro đã được giảm thiểu. Cuối tháng 5-1941, Churchill tại London và Wavell tại Cairo đầu ý thức được mối đe doạ khủng khiếp ấy. Nhưng họ không biết rằng Hitler đã tha cho họ, trong đầu ông ta lúc này chỉ nghĩ đến kế hoạch Barbarosa, Hitler đã ấn định ngày 22 tháng 6 là ngày bi thảm với định mệnh của ông ta.

    Quả thật vào thời điểm đó, nếu Bộ Tư lệnh Quân đội Đức không hỗ trợ thêm cho Rommel là còn do một nguyên nhân khác nữa. Lòng ganh tị do những ý kiến của ông gây ra ở những sĩ quan cao cấp, và những lời nói úp mở của người Ý chắc chắn là còn ảnh hưởng.

    Tối qua, Rommel viết thư cho vợ, ngay giữa tháng 5, tôi nhận được một số hành động mang ý ngược đãi từ Von Brauchitsch, tôi hoàn toàn không hiểu lý do gì. Còn là các báo cáo tôi gửi về cho họ mô tả những gì xảy ra ở đây đã không hợp ý họ rồi.

    Ba ngày sau, ông lại kể: Tôi nhận được một vố xát xà bông vào mặt nặng nề từ Bộ tổng Tư lệnh Quân lực (O.K.W) để cảm ơn tôi vì những gì chúng tôi đã làm ở đây. Thật là bất công.

    Vào thời điểm đó, tại Bộ Tổng Tham Mưu, người ta còn ý định dứt khoát loại trừ Rommel. Chính vì vậy người ta mới thấy Tướng Gause đến Phi Châu. Với một Bộ Tham mưu quan trọng tháp tùng, ông ta được OKW giao nhiệm vụ nghiên cứu khả năng sử dùng những lực lượng hùng mạnh trên chiến trường Bắc Phi, chuẩn bị những gì cần thiết cho việc phát động một cuộc tấn công về phía Ai Cập.

    Tướng Gause, Rommel viết, đã nhận được mệnh lệnh rõ ràng là không được phép đặt dưới quyền chỉ huy của tôi.

    Người ta ra đoàn tầm quan trọng của vụ đụng chạm nảy lửa. Người ta có thể giả định rằng hai ông Tướng sẽ gây phong ba bão táp. Nhưng cuối cùng, Gause nhượng bộ và tự đặt mình dưới quyền chỉ huy của Rommel. Liệu còn phải ông ta bị nhân cách của Rommel khuất phục? Hay liệu vì ông ta là một người thông minh biết nhưởng chỗ cho một đồng nghiệp nhiều kinh nghiệm hơn? Hay do vì ông ta lường trước được một vài khìa cảnh đáng ngài đang chờ đợi quân Đức tại Bắc Phi, ta có thể tin vào Giả thuyết sau thông qua những lời ám chỉ của Rommel:

    Tiếp theo nhiều cuộc tiếp xúc giữa Gause và tướng lĩnh Ý, ông ta hiểu ngay rằng những người này chỉ thoả thuận một cách miễn cưỡng việc gửi thêm lực lượng Đức đến Bắc Phi. Người Ý sợ rằng chúng ta sẽ chiếm được ưu thế trên chiến trường.

    Trong suốt cuộc chiến, mối tương quan Đức Ý luôn luôn nhuộm đầy màu sắc ẩn ý, nghi ngờ lẫn nhau. Gây ra những hiểu lầm và cả những hành động phá hoại mù quảng.

    Tháng 5 trôi qua, tháng 6 bắt đầu. Đời sống thường nhật đã mang lại cho những người bị bao vây lẫn những người bao vây hương khói đau khổ mỗi ngày. Hàn thử biểu cho thấy nhiệt độ lên đến 50 độ C.

    Sạm nắng, gày ốm, nhưng luôn được kích động bởi ý chí nên Rommel hoạt động không ngừng nghỉ, ngày đêm ông tiếp xúc với binh sĩ. Chính trong thời gian này ông đã tạo nên huyền thoại, huyền thoại này còn được phổ biến tích cực nhờ vào các phóng viên chiến trường và một chuyên viên tuyên truyền của Propagandastãfel được biệt phái cho Bộ Tham mưu của ông.

    Ông còn được giúp đỡ, một cách hài hước vì bởi những người Anh, họ nói cuộc thua trận rút lui của họ xuyên qua Cyrenaique là do một cái gì đó siêu nhân. Đến nỗi người kế tục Wavell là Tướng Auchileck phải ban hành một thông tư mật cho các đơn vị Trưởng:

    Cái việc ông bạn Rommel của chúng ta trở thành một ảo thuật gia, hay là một ông kẹ đối với binh sĩ ta, đã trở thành một nguy cơ trầm trọng. Họ nói quá nhiều về ông ta. Mặc dù không thể chối cãi ông ta là một con người nhiệt tâm và tài giỏi, nhưng ông ta không hề là một siêu nhân. Việc binh sĩ gán cho ông ấy những quyền lực siêu nhân là rất đáng tiếc.

    Các ngài phải sử dụng tất cả mọi phương pháp trong thẩm quyền của các ngài để góp phần loại trừ tư tưởng này, cái tư tưởng mà trong đó Rommel là một biểu tượng. Điều quan trọng là chúng ta đừng bao giờ nhắc đến Rommel khi muốn nói về địch thủ của chúng ta tại Lybie. Chúng ta phải gọi là người Đức, Phe Trục, Địch quân. Và chấm dứt không để bị thôi miên bởi cái tên Rommel. Tất cả các đơn vị Trưởng phải hiểu rằng đây là một đặc điểm tâm lý tối quan trọng.

    Bản văn ấy không ngăn cản được các tấm ảnh của Cáo già sa mạc được binh sĩ Anh chuyển tay nhau, và thường xuyên diễn ra cái khung cảnh dưới bầu trời sao, những anh chàng Tommy mở đài phát thanh Đức nghe bản phát huyền thoại Rommel. Lại còn có một liều ma túy cực mạnh mà chính Tướng Auchinleck không thể chống lại: Lời ca du dương nhức nhối của Lili Marlenne, được binh sĩ đây đó trên khắp mặt trận hát đi hát lại, nó ru ngủ cả hai đạo quân.

    Một tháng sau, Wavell thực hiện lại toan tính đã một lần thất bại hồi ngày 15 tháng 5. ông ta tin chắc, và không phải không có lý, thất bại đó là do thiếu phương tiện. Từ kết luận đó, ông ta vạch kế hoạch Battle Axe?

    Kế hoạch có nội dung như sau: Tướng Wavell đặt trọng tâm vào Sư đoàn 7 Thiết giáp, đơn vị ưu tú nhất của ông, được hậu thuẫn bởi các Sư đoàn bộ binh cơ giới và các đơn vị pháo binh mạnh mẽ. ông dự tính khoét một khe hở vào khu vực quân Ý trấn giữ mà ông cho là yếu nhất. Sau đó sẽ xiên ngang vào Sư đoàn Đức trong khu vực Solloum mà các cơ quan tình báo cho biết đang gặp khó khăn về hậu cần và tính cơ động đang bị giảm thiều.

    Song song với cánh quân ấy, lực lượng ở cánh phải sẽ đánh chiếm đèo Halfaya để tràn ra bình nguyên Capuzzo và chiếm lấy địa phương này.

    Trong khi đó, một cánh thứ ba, bên cánh trái của lực lượng chính, tiến sâu trực tiếp vào sa mạc hướng về Tobrouk, quân trú phòng sẽ kết hợp bằng cách đánh thốc ra ngoài.

    Bản đồ khu vực trận đánh, các bạn có thể thấy đèo Halfaya trấn ngang con đường chính dẫn vào Carpuzzo. Quân Anh có thể đi vòng để chiếm Carpuzzo nhưng nếu không khai thông con đèo Halfaya, quân Anh không đủ sức tăng quân và hậu cần để phát triền hướng chia cắt và tiêu diệt quân Đức ở Solloum, cũng không thể tiến đến giải vây Tobrouk, thậm chí cũng khó giữ được Carpuzzo.

    Wavell không để sót một tí gì mà không trù tính trước, ông còn lo sẵn ngay cả các điểm tập trung tù binh cho tương lai.

    Rủi thay, Không lực Đức luôn làm chủ không phận và từ ngày 11 tháng 6, trong lúc chiến dịch Battle Axe đang khẩn trương chuẩn bị để phát động vào ngày 15, Erwin Rommel đã được thông báo về các cuộc chuyển quân lớn trong hậu cứ quân Anh.

    Ông này chẳng ngạc nhiên chút nào, ông đã lo ngại điều này từ khi bắt đầu bao vây Tobrouk và đã chuẩn bị sẵn phương án. Nên ông có thể rút ngay lập tức Sư đoàn 5 Khinh binh đang làm trù bị tập trung về phía Nam Gambout trong nội địa, giữa Bardia và Carpuzzo, phần lớn Sư đoàn 15 Panzer cũng sẵn sàng can thiệp, đồng thời ông cũng báo động Sư đoàn thiết giáp Ariete của Ý.

    Sáng ngày 15, trận đánh thiết giáp quy mô đầu tiên của cuộc chiến Bắc Phi bắt đầu bùng nổ xung quanh Carpuzzo. Ngày 15 tháng 6 là một ngày Chủ Nhật. Nếu như một cư dân nào còn ở lại đấy để sống những giờ phút bi tráng, người ấy sẽ được nếm mùi địa ngục trước rồi mới chết sau. Dưới sự giày xéo của xích sắt chiến xa, dưới sức nổ kinh hồn của hàng ngàn quả đạn pháo, cả mặt đất Châu Phi như rung lên. Một đám mây bụi khổng lồ bốc cao phủ khắp miền. Cách 100 mét không thể nhìn thấy gì cả. Người ta giết nhau trong một đám mây mù làm xói mòn đôi mắt và sấy khô buồng phổi. Quân Anh chiếm được Carpuzzo nhưng tất cả các cuộc xung phong lên đèo Halfaya đều bị tan vỡ. Suốt ngày xe thiết giáp được tung ra như một cuộc thao diễn hỗn loạn, chạy qua hàng trăm cây số theo đà tiến quân, rồi chạy cũng hàng trăm cây số để rút lui và bị săn đuổi. Ngày hôm ấy, Carpuzzo đồi chủ hai lần.

    Đến tối, một lần nữa Carpuzzo lại lọt vào tay quân Anh, nhưng tình hình bao quát toàn mặt trận thì vô cùng rối rắm. Ít ra người ta cũng biết được một điều, đó là đèo Halfaya vẫn đứng vững. Đại úy Bach, vẫn cứ rụt re? và dịu dàng, lại khích lệ và phát huy được những tố chất phi thường của binh sĩ dưới quyền ông. Bí mật của hiệu suất chiến đấu khủng khiếp này là tính cần trọng mà ông luôn chứng tỏ khi chỉ huy, và Đặc biệt là thái độ cực kỳ khủng khiếp của ông đối với những việc gì có thể làm ảnh hưởng đến tính mạng của binh sĩ ông.

    Trong suốt ngày hôm sau, Đại úy-Mục sư Bach là trụ cột sức kháng cự của Đức.

    Một lần nữa, tất cả các cuộc xung phong của quân Anh đều bị đập tan nát trước vị trí của ông mục sư. Nó như là một cái gì đó không thể khuất phục.

    Trong buổi sáng ngày 17, ngày thứ ba của trận đánh, lực lượng tấn công của quân Anh đã đuối sức. Wavell nhận được từ Sư đoàn 7 thiết giáp những tin tức đáng báo động: Sư đoàn mất không dưới 100 chiến xa. Về phía Đức, Sư đoàn 15 Panzer và Sư đoàn 5 Khinh binh tập trung quân, chuyển qua thế phản công với một khí thế hông say mới. Trong khi đó, trên đèo Halfaya, Đại úy Bach cuối cùng đã nhận được đạn dược tiếp tế từ phi cơ. Quân tấn công hụt hơi. Đó là kết cuộc của chiến dịch Battle Axe, Tướng Wavell không thành công trong toan tính giải vây Tobrouk và cuộc bao vây vẫn tiếp diễn.

    Tinh thần chiến đấu kỳ lạ của quân Đức, lối chỉ huy nhanh chóng linh hoạt của Rommel, một cấp chỉ huy luôn xuất hiện đúng nơi đúng lúc ở các vị trí trên mặt trận để đưa ra các quyết định chính xác và kịp thời, tất cả mang một ý nghĩa quan trọng cho trận đánh. Nhưng quân Anh thất bại còn do một yếu tố khác, đó là vũ khí tỏ ra thua kém trước các chiến xa của Sư đoàn 5 Khinh binh và Sư đoàn 5 Panzer. Xe tăng Anh đi kèm bộ binh, cách này tỏ ra khá mạnh khi đối phó với pháo chống tăng Đức, nhưng lại quá chậm chạp trong hình thái chiến tranh cơ giới. Riêng về phía siêu sao của trận đánh thì lại ở về phía Đức, đó là khẩu pháo phòng không 88mm danh tiếng.

    Trung úy Schimdt, tùy viên của Rommel, dự khán một hạ sĩ quan Đức thẩm vấn một tù binh Anh, đã kể lại cuộc đối thoại Đặc biệt này:

    Người Anh nói: Tôi cho rằng, các anh không fair-play chút nào khi sử dụng các khẩu phòng không DCA để bắn chiến xa chúng tôi.

    Người Đức giận dữ: A, vậy hà Thế thì phần tôi lại cho rằng các anh còn ít fair-play hơn khi tấn công chúng tôi với những chiến xa bọc thép dày đến nỗi chỉ có mấy khẩu DCA 88mm mới xoi thủng nổi.

    Khẩu pháo Flak 8,8 cm của Đức thì đã quá nổi tiếng, Heo không bình luận gì thêm, chỉ bổ sung vài tấm Ánh được chụp lại trong chiến trường Bắc Phi này.
  9. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Trong những ngày kế tiếp của chiến dịch Battle Axe, quân Đức thu lượm được trên chiến trường một số chiến lợi phẩm rất đáng kể. 180 chiến xa Anh bỏ lại trên trận địa, bị tiêu diệt hay hư hỏng. Thế là trong vòng mấy tuần lễ, Rommel đã cho thành lập các cơ xưởng dã chiến để sửa chữa các chiến cụ thu được của địch quân, sau đó sơn những chữ thập đen hai bên sườn chúng. Lúc này chúng biến thành chiến xa Đức.

    Khỏi nói sau chiến công rực rỡ này mọi người trong Afrika Korps mừng điên như thế nào. Đâu đâu mà có sự xuất hiện của Tướng Rommel, binh sĩ liền đến bao quanh ông, tin tưởng, sung sướng và tự hào khi đứng thẳng người chào vị Tư Lệnh. ông dành cho mỗi binh sĩ một nụ cười khuyến khích, một lời khuyên, một câu khen tậng mà không để mất vẻ uy nghi trong tư thế cấp chỉ huy của ông. Trong những giờ phút ấy, Trung úy Berndt, đại diện cơ quan truyền thông Propagandastãfel theo ông bén gót. Chính anh ta, qua đài phát thanh và báo chí Đức, cùng tất cả các cơ quan thông tin tại các quốc gia bị chiếm đóng, đã dựng lên hình ảnh của vị Tướng lĩnh đầy mưu lược, truyền thuyết về Con cáo già sa mạc

    Bình minh ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân Đức vượt qua biên giới Liên Xô. Đấy là bước khởi đầu của cuộc phiêu lưu bi tràng mà kết cuộc đã đưa Hitler xuống căn hầm ẩn trú dưới dinh Thủ Tướng. Đấy cũng là một bàn án đối với Rommel vì kể từ lúc ấy không bao giờ ông còn có thể còn cơ hội thực hiện một cuộc chiến tranh toàn diện để giáng đòn quyết định lên Anh quốc. Mọi tiếp tế nhân sự lẫn vật chất đầu bị hút vào mặt trận phía Đông mới mở này.

    Trong khi trong các đơn vị Đức còn ăn mừng chiến thắng Solloum và nghe đại phát thanh thông báo các tin tức chiến thắng đầu tiên từ mặt trận Liên Xô gửi về, Rommel lại lo âu tột độ vì ông biết rõ rằng chiến thắng vừa rồi đã bộc lộ nhược điểm của ông. Ông đã thắng trong một trận đánh phòng thủ. Nhưng cuộc tấn công Battle Axe chưa đạt được Kết quả là do những phương tiện của Wavell vẫn chưa đầy đủ, mà hiện tại, lực lượng tăng cường và vũ khí, chiến xa đang được chở đến Liên Xô không ngừng nghỉ cho Wavell.

    Vì không đành được Tobrouk nên cần phải tiếp tục bao vậy. Cuộc bao vây này lại chỉ có thể duy trì với điều kiện là mặt trận Solloum phải đứng vững và quân Đức phải nhanh chóng chuyển sang thế chủ động trong khi quân Anh còn đang băng bó vốt thương.

    Vậy mà thời gian cùng cơ hội cứ dổn trôi qua, vì Rommel không nhận được sự tăng cường nào cho hai sư đoàn của mình, quân Ý ở Bắc Phi cũng rơi vào Tình trạng bị bỏ mặc như vậy. Sư đoàn 15 Panzer quả thiếu quân số, nò thiếu đến 4.000 binh sĩ so với tiêu chuẩn thông thường của một sư đoàn. Sau trận đánh Solloum, người ta đã say sưa hứa hèn với Rommel rằng Afrika Korps sẽ được bổ sung quân số thiếu hụt và tăng cường thăm, tổng cộng Afrika Korps sẽ còn tất cả 4 sư đoàn cơ giới, họ còn hứa là quân Ý cũng sẽ nông lên cấp Quân đoàn gồm 3 sư đoàn thiết giáp và hai hoặc ba sư đoàn cơ giới. Khấn thay, chẳng còn lời hứa nào được thực hiện.

    Trong Đệ Nhị Thế Chiến, tất cả các chiến thắng của Đức kể từ chiến trận tại Pháp bắt đầu đầu đạt được nhở các cuộc hành quân được nghiên cứu tỉ mỉ hàng tuần, hàng tháng, còn khi hàng năm trước. Nhưng khi gặp phải những trường hợp phải ứng biến thì người Đức thường bất lực. Vào năm 1941, sự thiếu hụt xăng đã làm tê liệt Afrika Korps, thậm chỉ các sĩ quan không còn có thể đi thăm các đơn vị được nữa. Các ốc đảo ở phía Nam mặt trận lại không được do các đơn vị cơ giới họa trốn giữ nên cũng không thể tự túc tiếp tế, nên thậm chỉ một cải nhà bếp dã chiến họ cũng không còn. Pháo binh hạng nặng dành gửi cho Afrika Korps bị nằm lại ở cảng Naples - Ý - suốt ba tháng, chúng bị oanh tạc cơ Anh phá hủy một phần.

    Trong khi đó, tại tổng Hành Dinh, vài chiến lược gia còn đầu óc vôn nghệ này ra ý định sáng tạo một đạo quân lạc đà, thứ này không tốn xăng, để đảm bảo cho công cuộc tiếp tế Afrika Korps ở Bắc Phi. Người ta giải thích là với 2.000 con lạc đà thì có thể chuyên chở ba tấn hàng mỗi ngày, mà người ta lại quên là nhu cầu của mặt trận đến hàng ngàn tấn mỗi ngày.

    Mặc dù Rommel đã không ngừng lưu ý rằng thật là phi lý khi chở hàng tiếp liệu cho ông từ cảng Naples đến Tripoli, để rồi phải vượt 1.750 km sa mạc đến tiền tuyến, trong khi đó quân lực và không lực Đức đã chiếm đóng cả Hy Lạp và đảo Crete, nhưng vô ích. Chỉ còn hai tàu đến thẳng Bardia, một chiếc tàu ngầm vào ngày 15 Tháng 8 và một chiếc tàu vận tải vào tháng 9. Đó là hai chuyến hàng duy nhất mà ông Tướng nhận được, còn lại ông cứ phải phù thuộc vào Tripoli.

    Hậu thuẫn từ không quân dành cho Rommel không nhiều lắm vị Tướng Geissler Tư lệnh Không đoàn 10 thiếu máy bay cường kích và oanh tạc. May thay ông này không bị thiếu hụt phương tiện vận tải đường bộ để tiếp tế cho đơn vị của ông. Số lượng xe này lớn gấp 3 lần tổng số xe cộ của Afrika Korps.

    Ngoài những tắc trách bàn giấy đó, cần phải nói thăm những thái độ tệ hại của Đồng minh Ý mà muốn chống lại thì phải cẩn cả một cuộc chiến tranh nhỏ.

    Trước hết là phải đấu tranh với những đơn vị Trưởng, những người tìm đủ phương cách để trốn tránh, tìm cách chạy ra xa mặt trận thay vì tung quân tấn công. Phải hỗ trợ bảo trì những vũ khí phương tiện của họ vì họ quá lơ là công tác này. Thậm chỉ phải đi đành thức từng người lính canh đang ngủ gật.

    Kế đó là phải đương đầu với Bộ Tư lệnh Tối cao, người Ý luân cố giữ những quyền ưu tiên của họ, họ không bao giờ muốn từ bỏ quyền Tư lệnh Tối cao tại Phi Châu. Rommel đành phải làm quen dần với Gariboldi. Nhưng khi hai người đã khá hoà hợp thì ông này lại bị thay thế bởi mặt ông khác, Tướng Bastico. Một ông Tướng được cất nhắc vì là người tin cẩn bên cạnh Duce (Mussolini). Ông này bắt đầu công việc bằng cách thành lập một Bộ Tham mưu Ý mới cho mặt trận Tobrouk, và đặt dưới quyền của Bộ Tham mưu Tobrouk này là đoàn thiết giáp của Rommel. Thế là ông Tư lệnh Afrika Korps phải đến diện kiến chỉ huy mới của mình lúc đó đang ở rất phong lưu tại Cyrene, địa điểm nghỉ mát đẹp nhất của vùng Marmariqne, trên bờ biển phía đông Benghazi. Cuộc gặp gỡ không còn gì đáng phấn khởi. Rommel và sĩ quan tùy viên phát minh ra một từ mới khiến hai thầy trò cười rộ. Họ gọi ông Tướng Ý bằng cái tên Bombastico, tương ứng với một từ trong tiếng Anh là bombastic, còn nghĩa là hào nhoàng bên ngoài và rỗng tuếch bên trong.

    Bastico còn xây dựng cả một kế hoạch tách rời mặt trận Solloum và mặt trận Tobrouk ra làm hai và thành lập cho mặt trận sau một Bộ Chỉ huy biệt lập của Ý. May mà ý tưởng này không được thực hiện. Chính Mussolini phải đích thân can thiệp để làm dịu bớt nhuệ khí của vị tướng Ý.

    Mùa hè kéo dài làm cho sự thắng khổ lê thĂ khắp địa ngục Phi Châu. Vỏ thép của chiến xa dưới mặt trời nóng bỏng đến mức binh sĩ không dám chạm vào. Súng ống không sờ đến được. Người ta trải qua một ngày bằng cách ngồi không chờ cho đến đêm. Cơn khát hành hạ con người. Hàng loạt binh sĩ ngã bệnh.

    Rommel kiệt sức trong cố gắng giữ vững hàng ngũ binh sĩ và thiết lập kế hoạch đành chiếm Tobrouk mà ông dự định sẽ tiến hành vào mùa thu. những đến cuối mùa hè, các vấn đề tiếp tế xuống đến mức thám hài vì sự vf́ng bóng của hải quân Ý tại Địa Trung Hải. Thăm nữa, sau thất bại vào đầu năm, người Anh đã thành công trong việc đưa đến Malte bắn khu trụ chạm của lực lượng K do Đồ đốc Agnew chỉ huy. những chiến hàm này được trang bị radar Tối tên giúp chúng tránh né các phi cơ của không quân Đức vốn đã ít ỏi vì phải chuyển sang mặt trận Liên Xô, và giúp Anh kiểm soát mọi sự đi lại trên biển trong khu vực của họ.

    Kết quả, trong tháng 9, 20% xăng dầu gửi qua Bắc Phi bị đành đắm dọc đường. Tháng 10 là 24%. Trong tháng 11, trên tổng số 79,208 tấn hàng tiếp liệu và xăng dầu được đưa lên tàu, chỉ còn 29.843, nghĩa là 38% đến nơi tiếp nhận.

    Nếu ta biết rằng, Thiếu tá Bauer nhận xét, một tàu chở hàng 6.000 tấn có thể chở 155 chiến xa loại 14 tấn và 20 chiếc từ 28 đến 30 tấn, ta sẽ hiểu ngay rằng ngư lôi mới là thứ vũ khí chống chiến xa lợi hại nhất của người Anh.

    Tuy nhiên, ngày 14 tháng 9, vị Tư Lệnh của Afrika Korps cũng tung ra một trận tấn công cục bộ để thăm dò khả năng của địch quân. Ông đi đên kết luận rằng lúc này người Anh vẫn chưa đủ khả năng để tấn công. Và ông chuẩn bị lại kế hoạch tấn công Tobrouk, lẩn này ông từ bỏ ý định đánh vào Ras-el-Modauer và đồn Oilastrino. ông dự tính một cuộc đột kích bằng lực lượng của cả hai Sư đoàn 15 Panzer và Sư đoàn 5 Khinh binh, thọc sâu về phía hải cảng theo ngả Đông Nam, có hai sư đoàn Ý hỗ trợ. Như vậy các lực lượng của phe Trục sẽ bắt tay nhau trên bờ biển, cô lập hóa công cuộc phòng thủ thành phố, không cho nó nhận tiếp liệu và binh sĩ bổ sung.

    Điều kiện đầu tiên của cuộc tấn công này: Pháo binh. Rommel phải có được 200 trọng pháo vào tháng 10. Chúng phải có một đầy đủ chậm lắm là đầu tháng 11 và do đó, đầu tháng 11 là hạn kỳ tấn công.

    Thế nhưng, vì những tổn thất trên một biển và những trễ nải trong việc tiếp nhận chiến cụ, Rommel phải dời ngày J lại nhiều lần, Sau cùng, nó được ấn định là ngày 23 tháng 11 năm 1941. Và Rommel biết rằng đó là giới hạn cuối cùng vì cuối tháng 10, tất cả các báo cáo đều có một điểm chung: người Anh có một kế hoạch mới nhằm giải vây Tobrouk. Một nữ y tá làm việc cho Đức đã lượm được tin này ở Jerusalem. Không lực Đức đã chụp được hình ảnh một đường sắt mới mà người ta đã nối dài đến Tây Marsa Matruth. Rommel phải đối đầu thật sự với hai ông Tướng Keitel và Jodl mới được bật đèn xanh cho cuộc tấn công. Hitler và các tướng lĩnh quanh ông không muốn làm gì ở Bắc Phi cho đến tháng Giêng 1942, họ chỉ chú tâm vào mặt trận Liên Xô. Nhưng sau cùng thì ngày tấn công cũng được xác định.

    Duy có điều là phía người Anh họ cũng động binh. Tiếp theo sự thất bại của Battle Axe, Winston Churchill đã cách chức Tư Lệnh vùng Trung Đông của Tướng Wavell. ông được thay thế bởi Tướng Claude Auchinleck, dưới quyền ông này là Tướng Cunningham và một lực lượng lớn là Tập đoàn quân VIII gồm có hai Quân đoàn 13 và 30, còn các sư đoàn ở Tobrouk nữa. Trong khi Rommel vạch kế hoạch của ông, Auchinleck cũng chuẩn bị kế hoạch của mình và ông ta ấn định ngày khởi quân tiến về phía Tây là 18 tháng 11, tức là 5 ngày sớm hơn cuộc tấn công của Rommel.

    Bên lề cuộc tấn công này của người Anh, cần phải nhắc đến cuộc hành quân táo bạo do các tổ chức tình báo Anh tổ chức song hành.

    Người Anh rốt cuộc đã tin rằng Rommel là một ảo thuật gia của sa mạc nên coi việc thanh toán ông là điều kiện tất yếu nếu muốn chiến thắng tại Lybie. Do đó, một toán Đặc nhiệm được giao cho nhiệm vụ bốt cóc Rommel ngay tại Bộ Chỉ huy của ông.

    Cuộc hành quân được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Geoffrey Keyes, con trai của vị Đô đốc Keyes, vị anh hùng của Đệ Nhất Thế Chiến. Keyes thuộc đơn vị Long Range Desert Group, những đoàn quân cơ động, hoạt động độc lập trong sa mạc danh tiếng, thường đánh úp các đơn vị ở xa của phe Trục.

    Đội Đặc nhiệm tiến đến mục tiêu bằng đường biển, và ngay từ lúc khởi hành thì đã gặp rắc rối. Một chiếc tàu chở quân tấn công đã gặp bão và gần như mất hết hành khách Chỉ còn Đại tá Keyes cùng 25 tay súng đến được chỗ hẹn với một mật báo viên người Anh tên John Haseldon, sống phía sau phòng tuyến của Đức dưới lốt người À Rập.

    Haseldon dẫn cả toán đến Beda Littorio, nơi được tin là có Bộ Chỉ huy của Rommel. Keyes và hai đồng đội đột nhập vào một ngôi nhà vôn phòng quân nhu nhưng tin tức đã sai lạc, quả thật Rommel có ở đấy một thời gian nhưng ngay lúc này thì đang ở cách đấy những 200km, ông đang duyệt xét lẩn cuối kế hoạch tấn công Tobrouk.

    Keyes tấn công vào lúc nửa đêm. Lính Đức phản ứng ngay tức khốc. Họ lập tức tốt đển trong phòng và một trận đánh hỗn loạn xảy ra trong bóng tối. Keyes bị giết, một đồng đội bị thương, người còn lại trốn thoát.

    Cuộc đột kích kết thúc bi thảm, nhưng có một đoạn kết khá Đặc biệt nhở nguyên tắc mã thượng của Cáo Sa Mạc: Khi biết âm mưu ám sát mình thất bại cùng cái chết của Đại tá Keyes, Rommel lập tức phái vị tuyên úy của ông, mục sư Rudolph Damrath đến Beda Littoria để làm tang Lễ theo nghi thức công giáo cho vị sĩ quan Anh và bốn binh sĩ Đức thiệt mạng trong cuộc đột kích này.

    Vị tuyên úy chạy xe suốt 36 giờ ngang qua những con đường lầy lội bởi mưa thu trong sa mạc. ông đến nơi đúng 10 phút trước khi hạ huyệt, vừa đủ thời gian để đọc một lời cầu nguyện ngắn và làm phép thánh cho năm nấm mô? trên đình một ngọn đồi nhìn xuống một ngôi làng.

    Thế rồi Tập đoàn quân VIII tấn công, vào sáng ngày 18 tháng 11, nó đã làm cho Afrika Korps bị bất ngờ. Điều đáng quan ngại hơn nữa là cấp số quân của nó rõ rệt vượt xa Rommel, từ trên bộ đến trên không.

    Trên bộ, người ta ước tính là có đến 100.000 quân Anh được tung vào trận đánh tại tuyền tuyến. Dưới quyền chỉ huy của Tướng Goodwin Austin, Quân đoàn 13 gồm Sư đoàn 2 Bộ binh New Zealand, Sư đoàn 4 Bộ binh Ấn Độ và Lữ đoàn 1 Xe tăng. Quân đoàn 30 do Tướng Willoughby Norrie chỉ huy có Sư đoàn 7 Thiết giáp, Lữ đoàn 4 Thiết giáp hỗn hợp, Sư đoàn 1 Bộ binh Nam Phi và Lữ đoàn 22 Vệ binh.

    Bổ sung vào đó là các đơn vị quân bàn xứ sống tại các ốc đảo, có trách nhiệm bảo vệ sườn phía Nam và lẽ tất nhiên là quân đồn trú tại Tobrouk nữa, gồm có Sư đoàn 70 Bộ binh, Lữ đoàn bộ binh Ba Lan của Tướng Kopanski và Lữ đoàn 32 Thiết giáp.

    Trên không, Không quân Hoàng gia có rất nhiều máy bay, nhất là loại Hurricane. Chính chúng sẽ khai mạc màn khiêu vũ sáng ngày 18 tháng 11.

    Nhưng chúng ta nên dừng lại đôi chút để xem lại tổ chức của phe Trục. Trên hết là Tướng Bastico tổng Tư Lệnh Bắc Phi, tổng hành dinh đặt tại Tripoli. Dưới quyền ông là Quân đoàn của Tướng Gambara gồm Sư đoàn 132 Bộ binh Ariete, Sư đoàn 101 Thiết giáp Trieste và Sư đoàn 102 Thiết giáp Trento. Rồi đến Tập đoàn thiết giáp Châu Phi của Tướng Rommel, gồm lực lượng Afrika Korps Đức chính danh, tức là Sư đoàn 15 Panzer của Tướng Neumann Silkow, Sư đoàn 21 Panzer của Tướng Von Eawenstein, Sư đoàn 90 Khinh binh của Tướng Summerman. Ta có thể thấy sự xuất hiện của 2 sư đoàn mới và sự mất tích của Sư đoàn 5 Khinh binh, thực chất của việc này là : Hai sư đoàn 21 Panzer và 90 Khinh binh chính là Sư đoàn 5 Khinh binh chia ra làm đôi, tuy cấp số quân và chiến cụ thiếu thốn nhưng vẫn mang tính tổ chức của hai sư đoàn độc lập. Lúc đó lực lượng Afrika Korps Đức được chỉ huy bởi Tướng Cruewell, dưới quyền Tướng Rommel.

    Cơ cấu tổ chức này được thay đổi ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc tấn công từ Cunningham, do một công điện của chính Mussolini. Vì các lý do thực tế rõ rệt, ông ta đặt Quân đoàn của Tướng Gambara, mà lúc ấy chỉ biết nghe lệnh Tướng Bastico, dưới quyền chỉ huy của Rommel. Chính Rommel mới là người chỉ huy toàn diện trận địa. Và như thế tốt hơn.
    gakocanhanheoinwater thích bài này.
  10. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Sáng ngày 18 tháng 11, các lực lượng Anh vượt qua biên giới Ai Cập, nhắm thẳng về phía Tây và xâm nhập vùng Cyrenaique. Nhiều đảm môy nặng nề kèo đầy bổu trời Địa Trung Hải. Mùa mưa đã đến. những thác lớn đã chày xiẮt trong những ngày qua. Mảnh đất khô cằn vội vã hút lấy một số nước mưa, những con sông sa mạc mà mùa hè chỉ là những vặt hẳn đầy sỏi đó khĂ cản, nay nước tràn lên tận bờ cát. những vùng đất rộng lớn bù?n lê?y làm cho sa mạc trở nên bổn thìu. Từ một tuần nay nhiệt độ hà xuống đầu đầu. Đôm Tối trong mùa hè đã màt, nay Thật sự trở nên lÁnh buẮt. ở cải xứ này, cải lÁnh của mùa đông gây khổ sở cũng không kèm cải nòng của mùa hè.

    Đồ đến Tobrouk, chỉ còn một con đường duy nhất, con đường chạy dọc theo bờ biển. Chúng ta đã biết là con đường ấy đã bị khọa chặt vì dốc đứng Halfaya do Đại úy Bach trốn giữ. Ngòn kè Halfaya đã được quân Anh mệnh danh là â Đè Từ Thần . Do đó, phải đi vòng cả dàfy nùi theo ngòf phía Nam, nghĩa là qua sa mạc. Tại đấy đất bằng rộng mênh mông cho phép điều động chiến xa dễ dàng. Vì thế Tướng Cunningham khởi sự bao vây một vòng rộng lớn, một â cù móc trài cho phép tiến đến Tobrouk theo ngòf phía Nam sau khi tiêu diệt Afrika Korps.

    Vì không đoàn được ỳ nghĩa tổng quát của cuộc tấn công, Rommel đã để cho phần đầu của cuộc tấn công tiến hành suĂn sè Tối ngày 18 tháng 8, quân Anh tiến theo một đường song song với bờ biển, Sidi, Omar, Birel, Gobi. những địa danh này không còn ỳ nghĩa gì quan trọng. Chúng không tương ứng với những làng xòm, địa phương mà chỉ là những điểm mẮc trong vùng sa mạc mênh mông, hoàn toàn không còn con người sinh sống.

    Ngày Hôm sau, thiết giáp của đơn vị tiền phương đã chạm trán với các chiến xa cùf kỹ của Sư đoàn Ariete, đảm này bị đẩy lui không mấy khó khăn. Đến nỗi ngày 20, Cunningham tưởng là đã có thể công bố một chiến thắng quyết định. Ông ta nghĩ mình đã cắt lực lượng địch ra thành 2 đoàn, và theo ông thì đã có 40.000 quân địch bị bao vây. Ngay cả hệ thống tuyên truyền cũng đi quả xa. Thông cảo của Anh liệt kĂ con số chiến xa Đức bị tiêu diệt còn nhiều hơn cả tổng số chiến xa mà Rommel còn trong tay.

    Thực tại trên chiến trường khác hẳn. Chính Cunningham đã phàm phải một Lễi lầm nặng nề khi chia lực lượng của ông ra thành 3 nhóm. Làm cho công việc của đối phương dễ thở hơn. Bị lôi cuốn theo đà tiến quân, một trong những nhóm thiết giáp, nhóm của Tướng Campbell, tiến đến Sidi-Rezegh và dừng lại đó vì hết xăng. Cùng ngày Hôm đó, trận đánh quy mô đầu tiên bắt đầu diễn ra giữa một nhóm chiến xa còn mới toanh của Tướng Gatehouse và Sư đoàn 15 Panzer. Và tại đây người ta mới thấy ưu thế về số lượng xe tăng của Anh chưa phải là yếu tế quyết định. Gatehouse được trang bị chiến xa M-3 Stuart được cung cấp từ Mỹ theo đảo luật Lend-Lease. Đấy là các chiến xa hàng nhè rất tốt, nhưng vỏ thép của chúng không thể chịu nổi khẩu pháo trứ danh 88mm, và khẩu pháo 37mm của chúng cũng không nghĩa lỳ gì so với các chiến xa Panzer-III của Sư đoàn 15 Panzer trang bị pháo 50mm, còn khi đến 75mm.

    Đến nổi, ngày 21 tháng 11, tình hình đã được ổn định tại mặt trận phía Nam Tobrouk, trong một vùng sa mạc có thể được xác định trên Bản đồ từ đồn binh Capuzzo, Sidi-Omar, El-Gobi và Sidi-Rezegh.

    Chính tại địa điểm sau cùng kể trên mà Rommel, giờ đây đã nf́m được tình hình, điều động cuộc phản công. Chiểu ngày 23 tháng 11, Sư đoàn 15 Panzer và Sư đoàn 21 Panzer cùng đành vào Sư đoàn Thiết giáp của Tướng Campbell, Kết quả là cho dù đã chống trà một cách quyết liệt nhưng sư đoàn này cuối cùng đã thực sự bị tận diệt. Đấy là một cuộc tàn sát ghê rợn giữa các chiến xa, quả nặng nề đối với quân Anh hơn là quân Đức bởi vì Rommel, theo kinh nghiệm học hỏi từ những trận trước, đã mang theo các cơ xưởng dàf chiến, do đó sửa chữa ngay được các chiến xa của mình, và còn thu lượm một số đáng kể xe tăng và trọng pháo đối phương.

    Vố bài trận quả nặng nề đến nỗi tại Le Cairo, Auchinleck lập tức cách chức Cunningham và cử Tướng Ritchie thay thế. Duy còn điều, ai nấy đầu biết chủ thuyết của Rommel là khai thác lập tức chiến thắng vừa đoạt được. Theo sát gót địch, ông tiếp tục tấn công. Một bộ phận thiết giáp Đức vượt biên giới Ai Cập. Quân Đức lại tại xuất hiện trên đất địch.

    Người ta lại còn thấy ngay là trận đánh đã có thể chấm dứt tại đó và số phận của Ai Cập cơ hồ đã được quyết định ngày 24 tháng 11. hôm ấy Sư đoàn 21 Panzer của Von Ravenstein từ Sidi-Rezegh điều động các chiến xa như tia chớp, vạch một vòng cung hướng về phía Đông Bắc, mục địch là tiếp xúc với bờ biển và đi ngang qua con kè Halfaya, nơi mà Đại úy Bach và binh sĩ dưới quyền đang bình tĩnh chờ đợi trận đánh kết thúc sau khi chính họ đã đập tan tất cả những đợt xung phong của địch quân nhằm khai thông con đường dọc theo bờ biển.

    Khi chạy ngang qua điểm đồi hướng, phía Nam, tại Sidi-Omar, Sư đoàn 21 Panzer phát hiện một vài chiến xa Anh. Đấy là con mồi không đáng kể. Một cách kiêu hãnh, sư đoàn uốn cong hướng tiến quân về phía Đông Bắc và tiến về phía mục tiêu chính trong tiếng gầm thét như sấm động. Mãi về sau, Von Ravenstein mới biết rằng ông đã đưa đoàn quân của ông diễu qua hai kho tiếp liệu vĩ đại của Tập đoàn quân VIII. Chúng đã được thiết lập cho cuộc tấn công, trong đó chứa đầy xăng, đạn dược, tiếp liệu đủ loại được ngụy trang rất kỹ nhưng có thể nói là không được canh giữ gì cả.

    Nếu sư đoàn 21 Panzer đành chiếm chúng, người ta có thể nghĩ không quá đáng rằng Tập đoàn quân VIII sẽ bị tan rã trong sa mạc trên thực tế. Còn các khó khăn về tiếp liệu của Rommel sẽ được giải quyết trong nhiều tuần lễ liền. Và nhất là, con đường tiến về Alexandrie được mở rộng.

    Tướng Ritchie đến thay thế ông bàn đau khổ Cunningham nhưng tình thế không cải thiện được bao nhiêu. Vì không thể bảo đảm được công việc tiếp tế để điều quân qua sa mạc vòng theo phía Nam kè Halfaya, Ritchie bắt buộc phải rút lui trong nhiều trận đánh lẻ tẻ mà Rommel cứ lấn tới trong khung cảnh bao quát của cuộc chiến.

    Từ Bộ Chỉ huy của mình, cái Bộ Chỉ huy mà ông dời chỗ liên tục tùy theo trọng tâm của trận đánh, vị Tư Lệnh Afrika Korps đã làm rạng danh chủ thuyết chiến tranh cơ động của ông, dựa trên sự tổ chức chặt chẽ tuyệt vời của Quân đội Đức. Mỗi đơn vị tùy theo hệ cấp chỉ đạo một trận đánh riêng trong khi vẫn tuân thủ các mệnh lệnh được ban hành từ cấp cao hơn. Và bao giờ cũng thế, luôn có các đơn vị bảo trì và sửa chữa đi kèm. Và giờ đây toàn là chiến xa Anh nhập cuộc. Trong suốt một tuần lễ, trong sa mạc phía Nam Tobrouk, một cuộc tàn sát điên cuồng giữa các chiến xa toàn của Anh diễn ra, một bên là quân Anh với chiến xa Anh, một bên là quân Đức cũng trang bị bằng chiến xa Anh, chỉ khác mỗi một chữ thập đen sơn bên hông xe. Thật là hài hước, những giàn trọng pháo do Anh sản xuất đang rót đạn xuống đầu quân Anh bởi những pháo thủ Đức, trong khi đó nhiều xe tại của Ý sản xuất lại đang chở đầy binh sĩ Ấn Độ. Người ta kể lại trường hợp một toán tuần tiễu Anh đi một đoạn đường ngang qua chiến trường, đi ngay giữa một đoàn quân Đức mà cả hai đều không nhận ra nhau.

    Ấn tượng nhất là trường hợp các bệnh xá dã chiến, những bác sĩ tù binh làm việc sát cánh với các y sĩ của đối phương. Dưới những lều vài, họ cùng nhau chăm sóc những thương binh của cả hai bên. Khi tình thế chiến trận nghiêng về bên này, cờ chữ Vạn thay thế cho cờ Anh trên nóc các lều vài. Khi chiến trận nghiêng về bên kia, cờ Anh lại được kéo lên thay cho cờ chữ Vạn. Thương binh cả hai bên đều được đưa đến và được cứu chữa như nhau. Người ta kể lại rằng có khi hai bên đang đánh nhau, Rommel đã đến thăm viếng binh sĩ bị thương trong một bệnh xá Anh mà các y tá có thể bắt giữ ông dễ dàng. Và người ta mô tả lại vẻ ngẩn ngơ cao độ của những thương binh Đức khi thấy vị Tư Lệnh của họ vừa nghiêng mình xuống giường bệnh hỏi han vừa nghe một bác sĩ Úc giải thích về bệnh tình.

    Trong những ngày đầu tiên của tháng 12, không có gì dứt khoát rõ ràng, nhưng Rommel không bao giờ có ảo tưởng về chiến thắng cuối cùng do ông bị sự vượt trội về quân số và phương tiện của đối phương. Thêm vào đó, quân Anh lại ở gần điểm tiếp tế của họ hơn. Nên rốt cuộc, ông hạ lệnh rút quân.

    Từ trước đó, ông đã định vị sẵn con đường rút lui rồi. Nó dựa vào Ain El-Gazala, một điểm nằm trên bờ biển cách Tobrouk 50km về phía Tây. Việc lui quân đã sẵn sàng từ ngày 4 tháng 12, nhưng vị Tư Lệnh Afrika Korps đang chờ đợi thời cơ thuận tiện nhất, sao cho cuộc điều quân của ông có thể bắt quân Anh trả giá thêm càng đắt càng tốt.

    Ritchie, vốn là người đã soạn ra kế hoạch tấn công ngày 18 tháng 11 mà Cunningham đã thực hiện, lúc đó tập hợp mọi phương tiện để dứt điểm với Afrika Korps. Rommel chờ đợi cuộc đụng chạm nảy lửa, và khi trận đánh bắt đầu, ông khởi sự lui quân một cách từ tốn. Bị lúng túng, quân Anh chỉ đuổi theo một đoạn ngắn.

    Afrika Korps chấm dứt bao vây Tobrouk, rút quân theo đường Gazala. Đơn vị phải bỏ lại Đại úy Bach và các binh sĩ của ông cho số phận hẩm hiu trên đèo Halfaya. Họ biết rằng nếu vì lý do nhân đạo thì quân bạn phải đến giải vây cho họ và sẽ rơi vào ý đồ của đối phương. Rommel cũng thấy rõ một điều: địch quân đang chờ đợi ông đưa quân đến kháng cự ngay tại dưới chân núi El-Achdar, tại đó, Tập đoàn quân VIII với tất cả sức mạnh của nó sẽ nghiền nát ông.

    Bởi vì đó là tất cả mục tiêu của cuộc hành quân.

    Chúng ta không phải đang ở Châu Âu, nơi mà việc chiếm lãnh thổ là chủ yếu, nơi mà việc chiếm một thành phố, có khi một ngôi làng là có thể quyết định kết quả của cả một trận chiến. Nơi đây là sa mạc, chiến thắng duy nhất đáng kể chính là sự tiêu diệt chiến xa và xe cộ của đối phương, tạo điều kiện cho sự tiêu diệt hoàn toàn lực lượng địch, sau đó là chinh phục lãnh thổ được tượng trưng bằng sự chiếm đóng hải cảng quan trọng nhất.

    Vị Tư Lệnh chiến tranh Đức không rơi vào cái bẫy đó. Vùng sa mạc mênh mông của miền Cyrenaique không có nghĩa lý gì với ông. Điều quan trọng nhất là Afrika Korps, tiềm lực chiến đấu của ông mà ông phải cứu thoát bằng mọi giá để dành cho cuộc tấn công sắp đến. Để thực hiện tốt việc này, Rommel làm việc đơn độc một mình. Từ nhiều ngày qua, gần như ông ngừng không hề báo cáo gì cho Tripoli, Rome hay Berlin. ông gánh chịu toàn thể trách nhiệm.

    Ông không có cả thời gian viết thư cho người vợ thân yêu đang lo lắng cho ông ở quê nhà. Ngày 6 tháng 12, người hầu cận của ông là hạ sĩ Gunther phải tự tay viết thư cho bà Rommel: Ông Tướng đến vị trí chỉ huy từ sáng sớm hôm nay. Ông dặn tôi chuyển đến bà những ý nghĩ tuyệt vời nhất về bà. ông muốn nói với bà rằng ông khoẻ mạnh và mọi chuyện đều tốt đẹp cả.

    Ngày 12 tháng 2, Rommel tập hợp các đơn vị của ông trên phòng tuyến quanh vịnh Ain El-Gazala. Tập đoàn quân VIII gia tăng áp lực, khởi sự một đợt tiến công nhằm bao vây và tiêu diệt quân Đức. Rommel không để bị rơi vào bẫy. Ông giàn quân trong đêm 17 rạng 18 và bắt đầu cuộc di tản chiến thuật rất trật tự ngang qua vùng Marmarique. Quyết định rất quan trọng. Trước đón ngày 15 tháng 12 ông đã báo cáo tình hình cho Bộ tổng Tư Lệnh tại Tripoli bằng những lời lẽ sau:

    Sau bốn tuần lễ chiến đấu liên tục và khốc liệt, sức mạnh chiến đấu của binh sĩ, dù cho có những chiến công to lớn, cũng đã có dấu hiệu cho thấy bắt đầu nao núng, càng nao núng hơn nữa khi mà công tác tiếp tế vũ khí đạn dược đã bị ngưng hơn. Do đó, ý định cho lực lượng ở đây là giữ vững vùng chung quanh Gazala suốt ngày 16 tháng 12. Nhưng chắc chắn sẽ phải rút về phòng tuyến El-Mechilli-Derma để tránh bị vây cất và tiêu diệt bởi một lực lượng áp đảo vượt trội.

    Tại Tripoli, khi nhận được tin, ai nấy đều kinh hoàng, Bastico không có khả năng giống như Rommel để suy nghĩ theo ngôn ngữ chiến lược của binh chủng thiết giáp. Ông ta phái gấp ông Tướng bá tước Cavallero đến gặp Rommel, ngày 16 tại Bộ Chỉ huy Afrika Korps, hai người đã gặp nhau. Cavallero không tệ lắm. Rommel không phải mất nhiều thời gian để mô tả tình hình trung thực cho ông ta nắm rõ.

    Nhưng Bastico thì không như vậy khi đến gặp Rommel vào chập tối cùng với chính Tướng Kesselring. Lúc đó, một cuộc tranh luận bi thảm nổ bùng. Bastico và Kesselring đứng trên bình diện chính trị nhấn mạnh rằng: Việc để mất vùng Cyrenaique có thể đưa đến những hậu quả khó lường về mặt tâm lý đối với Mussolini và chế độ của ông ta, bắt buộc Rommel huỷ bỏ lệnh rút quân.

    Phải có một thái độ cương quyết kỳ lạ, một sức mạnh tinh thần hiếm có, Rommel mới cứu nổi Afrika Korps. Và ông đã hành động đúng như thế. Trong 24 giờ sắp tới, Tập đoàn quân VIII có thể cắt đứt con đường tiếp tế còn lại của ông, và quân Đức Ý sẽ phải đánh nhau trong tư thế xoay lưng ra biển, tuyệt vọng. Ông nói xa hơn, ông chứng minh rằng để giữ cho lực lượng của mình không bị sứt mẻ, ông phải bỏ hoàn toàn vùng Cyrenaique và rút lui về vùng Tripolitaine.

    Để hậu thuẫn cho quan điểm của mình, ông phải còn ngụy tạo cả tin tức tình báo, đến nỗi ông đoan quyết rằng một sư đoàn thiết giáp Anh đã xuất hiện tại Sidi-Barani và một hạm đội đã được nhìn thấy tại Tobrouk. Kesselring và Cavallero ngả về quan điểm của Rommel không mấy khó khăn nhưng Gambara và Bastico thì vẫn cứ khăng khăng quan điểm của họ. Ông này còn để mất bình tĩnh và người ta nghe thấy tiếng hét chát chúa của ông vang khắp Bộ Chỉ huy. Rommel ngắm ông ta với một vẻ kỳ lạ: Chưa bao giờ ông ta xứng hợp với cái tên Bombastico đến vậy. Sau cùng thì ông Tướng Đức hỏi Bastico vậy thì phải làm gì để cải thiện tình thế hiện tạì Bastico bỗng hóa ra im lặng.

    Đoạn lui quân đầu tiên xuyên qua vùng Cyrenaique là Agebabia trong vùng lõm phía Đông của vịnh Grande-Syrte. Rommel dẫn quân của ông về đó trong khi quân trú phòng tại Benzaghi rút, đi về phía Nam dọc theo con đường sát bờ biển đến gặp đại quân.

    Trong suốt cuộc lui quân trật tự này, những toán quân hậu vệ tung ra các trận đánh trì hoãn, phục kích, giáng cho quân Anh nhiều tổn thất. Còn cuộc rút lui của chính các toán hậu vệ này được thực hiện theo chiến thuật nhảy trừu. Trong khi một đơn vị vào vị trí và tham chiến, một đơn vị khác rút lui, lập vị trí chiến đấu đằng sau. Khi tuyến sau sẵn sàng tiếp đón địch quân, đơn vị thứ nhất rời bỏ trận địa rút thật nhanh qua một đơn vị thứ hai rồi tổ chức một vị trí chiến đấu mới đằng sau nữa. Cứ tiếp tục như thế. Các sĩ quan cấp nhỏ chỉ huy các toán quân che chở nhỏ bé này đã tỏ ra là bậc sư trong công việc ấy. Họ chỉ cần vài phút là có thể tháo hay lắp một khẩu pháo và khai hoả. Họ chỉ cần liếc mất qua là cũng đủ chắc chắn để chọn một điểm tựa tốt nhất mà họ sẽ bám chặt vào để che chở cho đồng đội rút lui.

    Tại Le Cairo, người ta quá sung sướng vì có thể thông báo cho báo chí tin tức thắng trận. Hôm sau, vào ngày Lễ Giáng Sinh, Thông tấn xaf Reuter tin chắc vào các tin tức có được từ tổng hành dinh của Tướng Auchinleck, đã viết:

    Các mảnh vụn của Afrika Korps Đức và của quân lực Ý chạy trốn dọc theo con đường chạy viền quanh vịnh Syrte hướng về Tripoli. Mục tiêu chính, tiêu diệt địch quân trong sa mạc phía Tây nay đã đạt được. Có thể nói các đơn vị Đức đã bị tận diệt. Chỉ còn lại một nhúm Panzer đang cố sức chạy thoát về phía Tripoli.

    Thực tế khác hơn. Không những Afrika Korps gần như không bị sứt mẻ gì, ít ra cũng còn giốngày như tình trạng lúc rút ra khỏi chiến địa Tobrouk, mà cuộc săn đuổi đã khiến cho Ritchie trả giá khá đắt bằng một số lớn chiến xa.

    Tuy nhiên những ngày rút quân ấy cũng là những ngày đầy âu lo của Rommel. ông biết rằng địch quân vượt xa ông, quá rõ rệt về chiến xa cũng như quân số, nhở vậy có thể bao vây ông, vượt qua mặt ông và chiếm Agadabia trước ông, như vậy là chặn ngang đường rút lui về Tripolitaine của ông. Mối âu lo thường trực này đã được diễn tả trong những bức thư ngắn mà ông viết cho vợ:

    20 tháng 12: Chúng tôi rút lui. Tuyệt đối không thể là gì khác hơn. Hy vọng là chúng tôi có thể tiến đến được phòng tuyến đã lựa chọn.

    22 tháng 12: Lui quân về phía Agedabia! Chắc bà không thể tưởng tượng nổi được đó là chuyện gì Tôi hy vọng đưa đại quân thoát ra được và dừng lại đâu đó. Không có đạn dược và xăng dầu, không được Không quân yềm trợ. Bên phía địch quân thì hoàn toàn ngược lại.

    23 tháng 12: Các cuộc điều quân diễn tiến rất thuận lợi trong hôm nay. Có thể nói dường như chúng tôi sắp thành công trong việc tránh khỏi bị bao vây và đưa được đại quân về hậu tuyến. Đối với tôi, sẽ là một đại Lễ Giáng Sinh nếu như chúng tôi đến được đó.

    25 tháng 12: Tối hôm qua tôi mở gói quả Giáng Sinh trong xe và tôi rất sung sướng thấy thư của bà, của Manfred và những món quả. Các sư đoàn Ý làm tôi lo âu nhiều. Có nhiều dấu hiệu báo động sẽ tan raf và quân Đức phải đến giúp họ ở khắp nơi. Người Anh thất vọng cay đắng tại Bengazhi vì không thể cất đường rút lui của chúng tôi và cũng chẳng thu được gì, cả xăng dầu, thực phẩm hay đạn dược.

    Tuy nhiên, nỗi lo âu của Rommel không kéo dài. Ritchie, đối thủ của ông, cũng không thể thoát được định luật muôn đời của sa mạc. Khi cuộc săn đuổi bành trướng dẩn, Tập đoàn quân VIII cũng xa dẩn căn cứ tiếp tế. Đường tiếp liệu kéo dài thêm. cần phải đem xăng dầu cho chiến xa khi chúng tiến về phía trước. Đến nỗi ngày lại ngày, sức mạnh của mũi tiến công giảm dẩn. Đã hai lần, Lữ đoàn 22 Thiết giáp, vốn là thành phần chính của cuộc săn đuổi, bị nằm lại dọc đường vì hết xăng.

    Cuộc lui quân hoàn tất tốt đẹp. Ngày 31 tháng 12, quân Đức Ý về đến El-Agheila, nơi họ đã xuất phát ngày 31 tháng 3 năm ngoái.

    Hôm ấy, ngày cuối năm, Rommel viết thư cho vợ: những đoàn quân dufng cảm của tôi đã hoàn thành những nỗ lực gần như siêu nhân. Trong vòng 3 ngày sau cùng, lại là 3 ngày phản công của chúng tôi, địch quân bị mất 111 chiến xa và 23 xe thiết giáp. Chiến công ấy đạt được trong những điều kiện khó khăn không thể tà. Dầu sao đó cũng là một kết thúc đẹp cho năm 1941 và gây niềm tin tưởng cho năm 1942.

    Tôi vừa từ tổng hành dinh Quân đội trở về. Kesselring và Gambara hôm nay cũng đến. Họ không hề có một ý niệm nào về những khó khăn mà chúng tôi gặp phải tại Phi Châu, họ chỉ lo lắng cho những chuyện cá nhân nhỏ nhặt và lo vui chơi hàng ngày.

    Còn cần phải viết trang cuối cùng của cuộc chiến năm 1941. Khi bỏ cuộc bao vây Tobrouk và bỏ vùng Cyrenaique, quân Ý Đức đã để lại đằng sau họ hai đội quân trú phòng nhỏ. Đội trấn thủ pháo đài Bardia gần Solloum và đơn vị của Đại úy can trường Bach tại đèo Halfaya. Đơn vị tại Bardia sau một cuộc chống trả can đàm dưới sự chỉ huy của Tướng Ý Georgis, cuối cùng đầu hàng ngày 2 tháng Giêng.

    Phần ông mục sư phi thường Bach còn giữ vững vị trí đến tận hai tuần lễ sau. Đến ngày 17 tháng Giêng, khi giếng nước cuối cùng bị quân Anh chiếm được, cũng là khi viên đạn cuối cùng bắn hết, toán quân nhỏ bé này mới chịu buông súng đầu hàng.

    Giai đoạn này của chiến trận Châu Phi coi như chấm dứt. Thiệt hại của cả hai bên đều rất lớn. Mỗi đạo quân mất chừng 300 chiến xa kể cả của những chiếc có thể được sửa chữa và thu hồi lại. 32.000 binh sĩ của phe Trục bị Anh bắt làm tù binh trong đó có gần 9.000 lính Đức. Rommel mang theo về Tripoli được vài ngàn tù binh.

    Sau cùng, trên khắp sa mạc, khoảng 12.000 nấm mộ mọc rải khắp. Người Anh, Úc, New Zealand, Ấn Độ, Ba Lan, Đức, Ý nằm xen kẽ nhau trên sa mạc hoang vu.
    gakocanh, bloodheartvnanheoinwater thích bài này.

Chia sẻ trang này