1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thống Chế Erwin Rommel - Cáo Già Sa Mạc. Bản sửa lỗi font và up lại (7-2014)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Khucthuydu2, 31/07/2014.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Sao tui nghe nhột quá nhỉ?

    Không sao, nhột cũng được, miễn là bạn góp sức để mọi người đọc là tui ủng hộ. Mong bạn hoàn tất việc mà OnghoangBay phải bỏ dở giữa chừng.:)
    Khucthuydu2 thích bài này.
  2. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Phần 3: BIR HAKEIM và TOBROUK

    Trong những ngày đầu tiên của năm 1942, các quan sát viên chỉ biết chú tâm vào Bản đồ, và cho rằng Rommel và Afrika Korps vừa bị Tập đoàn quân VII đẩy lui trên 700km từ biên giới Ai Cập, nên là kẻ thám bại nặng nề.

    Về một lãnh thổ, rõ ràng là quân Đức Ý đã mất Cyrenaique, và phòng tuyến của họ bây giờ là ở vùng Tripolitaine.

    Nhưng chúng ta đã biết, Rommel cũng vậy, rằng các cuộc chinh phục lãnh thổ trên sa mạc không có ý nghĩa gì nhiều. Điều quan trọng là quân lực và khả năng chủ động? phải gìn giữ khả năng ấy.

    Dưới góc cạnh này, tình hình của quân Anh cũng khác xa so với những gì diễn tả trên Bản đồ địa lý. Cho dù ngay từ tháng Giêng họ đã tái lập hoạt động cho càng Benghazi thì vấn để số 1 của họ vẫn là tiếp liệu. Auchinleck tại Cairo và Ritchie tại tiền phương đều thẳng thến thừa nhận rằng hiện nay công cuộc tiếp tế của họ lại trở nên khó khăn hơn của quân Đức.

    Mặc khác binh sĩ của Tập đoàn quân VIII đều kiệt sức. Cuộc truy đuổi lại càng làm cho họ kiệt sức hơn vì cái cảm giác hụt hẫng thường trực trong suốt ba tuần lễ cuối của năm 1941, ho luôn luôn phải đánh vào khoảng không, kẻ địch luôn di tản chiến thuật.

    Và rồi thì không một ai, từ Tướng Auchinleck cho đến người lính trơn, mà không biết rõ cái giá phải trà nặng nề thế nào. Trong suốt thời kỳ chiến đấu này, từ cuối tháng 3 cho đến tháng 12, quân Anh thương vong 10.000 người, 12.000 bị bắt làm tù binh. 1.623 chiến xa và xe cộ bị phá huỷ hay bị địch chiếm. Nên xảy ra một hiện tượng kỳ lạ là đạo quân thắng trận cũng mất tinh thần như kẻ thua trận.

    Tình hình tổng quát cũng không làm cho tinh thần ấy được nâng cao chút nào. Tại Địa Trung Hải, cuối năm 1941 là khoảng thời gian tàn khốc cho Hải quân Hoàng Gia Anh. Trong sáu tuần sau cùng của năm ấy, chiếc Hàng không mẫu hạm Ark Royal trúng ngư lôi và chìm tại Gibraltar. Kế chiếc hàng không mẫu hạm vĩ đại ấy, đến lượt thiết giáp hạm Barham chịu chung số phận 12 ngày sau ở ngoài khơi Tobrouk. Ngày 18 tháng 12, Lực lượng K của Để đốc Agnew rủi thay lại phiêu lưu vào một khu vực đầy thủy lôi. Soái hạm của ông, chiếc Khu trục hạm Neptune bị chìm. Chiếc Aurora và Penclope bị hư hại nặng, trở thành vô dụng trong nhiều tháng liền. Sau cùng, đúng 12 giờ sau, ngày 19 tháng 12, Hải quân Ý lập chiến công vang dội bằng cách tiêu diệt hai thiết giáp hạm Valiant và Queen Elizabeth trong hải cảng Alexandrie bằng hai thủy lôi do người nhái điều động.

    Diễn tiến tổng quát của cuộc chiến tranh cũng đem lại hậu quả phiền phức cho vùng Trung Đông. Ngày 7 tháng 12, Nhật Bàn nhảy vào vòng chiến một cách vang dội bởi chiến thắng Trân Châu Càng. Lập tức quân Nhật chuyển qua tấn công khắp nơi tại Viễn Đông. Churchill vội vàng chuyển hướng các đoàn convoy tăng cường cho Trung Đông quay về phía Á Châu. Cũng như thế, Sư đoàn 6 và 7 bộ binh Úc vừa được biệt phái cho Auchinleck lập tức bị rút đi. Đấy giống như là sự lặp lại những gì xảy ra năm trước khi chính phù Anh quyết định hỗ trợ Hy Lạp.

    Sau cùng, thêm vào đó là mùa đông, những trận mưa như thác đổ đã biến sa mạc thành đầm lầy, cuộc hành quân Acrobat mà người Anh dự tính nhắm đến mục tiêu là Tripoli phải ngừng lại.

    Về phía Đức, sự việc lại hoàn toàn khác. Trước hết, nếu binh sĩ bị mệt mỏi vì một trận chiến kinh khủng tàn hại thể xác thì về một tinh thần họ vẫn giữ vững, vì ý thức được vị chỉ huy của họ đã đứng về phía họ, bảo vệ và đưa họ về bình yên đến El Agheila, đó là một chiến công kỳ diệu. Chưa bao giờ, kề từ khi đặt chân lên Châu Phi, Rommel lại chiếm hết trái tim của binh sĩ Afrika Korps đến như vậy, họ sẽ theo ông cho đến tận cùng của thế giới.

    Khi trở lại khái hoàn môn, một kiến trúc canh tân được xây dựng để đánh dấu biên thủy giữa Cyrenaique và Tripolitaine, Rommel không nhận được lực lượng tăng cường nào của Đức có thực lực ngoài một Tiểu đoàn Dù. Nhưng Ý đã gửi thêm đến Sư đoàn 133 Thiết giáp Littorio và Sư đoàn 60 Bộ binh Sabiata. Bên cạnh đó, các đơn vị chuyển vận của Ý cũng đã được bổ sung.

    Những hậu quả từ các tổn thất của quân Anh trên Địa Trung Hải bắt đầu bộc lộ. Các đoàn convoy của phe Trục giữa Naples và Tripoli đã di chuyển qua lại thoải mái suốt tháng Giêng 1942 mà không bị một tổn thất nào. Ngày 5, một chuyến convoy đã đổ xuống 55 chiến xa, 20 xe bọc thép, nhiều súng chống tăng và vô số đồ tiếp tế đủ loại. Khẩu phần hàng ngày của binh sĩ được cải thiện, mọi người hồi phục sức khoẻ. Vào giữa tháng Giêng, tinh thần của họ hoàn toàn ổn định. Ngày 20, lực lượng thiết giáp của Rommel được bổ sung thêm 270 chiến xa, trong đó có 111 xe tăng Panzer III và Panzer IV.

    Thống chế Kesselring mà giờ đây rất ăn ý với Rommel, được bổ nhiệm giữ chức vụ Oberbefehshaber Miền Nam. Sứ mạng của ông bao gồm chỉ huy toàn diện, phối hợp toàn diện tất cả các cơ cấu Hải Lục Không quân của Đức tại Địa Trung Hải. Nhân dịp này, Không đoàn 2 Đức được đặt dưới quyền điều động của ông, và lập tức ông cho oanh tạc ngay các phi trường trên đảo Malte. tổng hành dinh của Kesselring đặt tại Rome.

    Từ tình hình trên, Rommel đi đến kết luận rằng nếu cứ để người Anh phục hồi, bổ sung và tăng cường, thì có nghĩa ông đã tự mình làm cho quân mình bị đẩy lui cho đến tận biên giới Tunisie. Thế là con người đang cứ vừa đánh vừa lùi, đến mức độ các binh sĩ khi vừa mới rút về vị trí mới đã phải nhận ngay lệnh rút thứ hai, bỗng nhận ra một điều là ông chỉ còn có một con đường duy nhất: tấn công.

    Ngày 17 tháng Giêng, cái ngày mà toán quân bị cô lập của mục sư Bach hết đạn dược và đầu hàng trên đèo Halfaya. Rommel viết thư cho vợ: Tình hình triển khai theo hướng có lợi cho chúng tôi. Tôi có một kế hoạch trong đầu mà không dám nói cho ai vì người ta sẽ nghĩ rằng tôi bị điên. Tôi không điên, duy có điều là tôi nhìn xa hơn họ một chút.

    Kế hoạch sắp tới của ông là một đợt tấn công, ngày 19 ông lại viết cho vợ: Mặt trời rất nóng vào buổi trưa, giống như một ngày đẹp trời mùa xuân ở quê ta. Binh sĩ đang tếm nống. Vài ngày yên tĩnh đã làm họ khá hơn nhiều lắm. Công việc tiếp tế đã được cải thiện và bà sẽ hiều các thông cáo của Quân đội trong những ngày tới. Tôi sung sướng quá vì bước ngoặt của tình hình, đến nổi tôi gần như không ngủ vào ban đêm nữa.

    Hôm sau ông lại viết: Quân Anh có thể tấn công hôm nay, tôi sẵn sàng tiếp đón họ. Do đó, bà đã hiều vì sao tôi vui vẻ. Chúng tôi đã bỏ lại đằng sau những tuần lễ mệt nhọc và âu lo kinh khủng. Binh sĩ cũng đã quên hết. Lúc thư này đến tay bà, chắc bà cũng biết từ lâu qua thông cáo của Quân đội rằng trận đánh diễn tiến như thế nào. Công cuộc chuẩn bị đã lấy hết thời gian hiện tại của tôi.

    Sau cùng, rạng ngày 21 tháng Giêng, thêm mấy dòng sau đây: Hai giờ nữa, tôi sẽ tung ra trận phản công. Sau khi cần thận cân nhắc thiệt hơn, tôi quyết định chấp nhận mạo hiềm. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng Thượng Đế dang bàn tay che chở chúng tôi và sẽ giúp chúng tôi chiến thắng.

    Và quả thật, Afrika Korps Đức cùng đoàn vận tải Ý hôm ấy lên đường tấn công và xăng vào một đối phương đang toán loạn, kinh hoàng. Họ xuất hiện giữa một cơn bão cát dày Đặc. Rommel đích thân chỉ huy đơn vị dẫn đầu. Chính ông hướng dẫn đoàn quân vượt qua bãi mìn được gài phía trước Marsa El-Brega. Đêm ấy chiến xa Đức đến Agedabia một lần nữa. Quân Anh khiếp hãi chạy dài trước các chiến xa này, những chiến xa mà họ được báo cáo là đã bị tiêu diệt sạch.

    Sau ba ngày, cuộc lui quân của Tập đoàn quân VIII biến thành một cuộc trốn chạy hỗn loạn thật sự. Kề từ ngày 23, các phi cơ Stukas đã hạ cánh xuống phi trường Agedabia mà các đơn vị công binh đã dọn sạch mìn. Mặt trận đã tiến xa hơn 100km về hướng đông Bắc.

    Tại Le Cairo, cả một không khí kinh hoàng. Thật khó mà giải thích cuộc tiến quân ồ ạt của lực lượng Đức Ý khi mà mới hai tuần trước, người ta đã quả quyết là Rommel cùng Afrika Korps đã bị thanh toán rồi. Tại London, trước Thứ Dân Nghị Viện, Churchill nói thẳng là ông bất ngờ: Tôi không thể nói tình hình hiện nay ra sao, ông trả lời chất vấn của một dân biểu, chúng ta đứng trước một đối thủ rất táo bạo và khéo léo. Tôi không ngần ngại để nói rằng đó là một vị tướng vĩ đại.

    Nhưng bất ngờ nhất lại chính là ở Tripoli, vì Rommel giữ hoàn toàn bí mật cuộc hành quân với cả chính Berlin và Roma. Kế hoạch của ông chỉ được sửa soạn trong vài giờ. Bà biết rõ tôi rồi đấy, ông viết cho vợ. Tôi vạch ra các kế hoạch vào mỗi sáng sớm và cho thi hành chỉ trong vài giờ sau, đã bao nhiêu lẩn như vậy ở mặt trận Pháp rồi. Bây giờ vẫn thế và tương lai vẫn thế.

    ông không hề xin phép ai để được bật đèn xanh cả, nhất là vị thượng cấp người Ý của ông. Tôi đã giữ, ông viết nhật ký ngày 21 tháng Giêng, bí mật về cuộc hành quân bằng lực lượng thiết giáp, xuất quân về hướng đông từ cứ điểm Marra El-Brega. Tôi không nói trước với người Ý lẫn Bộ tổng Tư Lệnh Tối Cao Đức. Vì kinh nghiệm cho tôi biết rằng Bộ Chỉ huy Ý không bao giờ giữ cái gì riêng cho mình cả, và tất cả những gì họ điện về Roma đều lọt vào tai người Anh. Tuy nhiên tôi phải dàn xếp với chỉ huy Trưởng tiếp vận để cho các cơ sở bảo trì tiếp tế di động được thông báo là Afrika Korps phải tấn công ngày hôm ấy.

    Chính ở tại Homs mà Tướng Bastico nghe tin về đợt tấn công. ông nổi khùng lên vì giận dữ, báo cáo ngay cho Roma toàn sự và phái Cavallero đến gặp kẻ phản nghịch

    Cuộc tiếp xúc của hai người diễn ra một cách phong ba bão táp chưa từng có. Cavallero nhắc lại rằng các sáng kiến của vị Tư Lệnh Afrika Korps chỉ được phép giới hạn trong phạm vi vài cuộc xâm nhập vào phía trước mà thôi. Và ông ra lệnh phải lập tức ngưng cuộc tấn công. Rommel đáp Lễ một cách lạnh lùng là tại Roma, người ta không hiều gì hết về tình hình mặt trận, và chỉ có một mình Hitler là có thể thay đổi các mệnh lệnh mà ông đã ban hành. Thế là đoạn tuyệt. Dựa vào một chỉ thị của ông Duce và của Comando Supremo, Tướng Cavallero cấm đoàn quân vận tải Ý rời khỏi căn cứ tại Mersa El-Brega và Agedabia. Từ lúc ấy, người Đức chỉ có một mình trong việc tái chiếm Cyrenaique.

    Ngày 24, tất cả vùng Agedabia được quét sạch. Quân Anh chạy về phía Bắc. Ngày 25, Afrika Korps tấn công trung tâm tiếp liệu chính của Anh trong vùng ấy, đặt tại Msus, chiếm giữ một cơ xưởng sửa chữa, khoảng 600 xe các loại, 127 khẩu pháo, 280 chiến xa và cả một kho khổng lồ thực phẩm, xăng dầu. Người Anh không kịp phá huỷ chúng.

    Đấy là một lợi thế tuyệt vời để chuyển sang giai đoạn tiếp theo: Benghazi

    Đấy là một lợi thế tuyệt vời để chuyển sang giai đoạn tiếp theo: Benghazi. Trong cuộc tấn công năm vừa qua, ông thọc sâu về phía Đông, sau Agedabia và hướng về Mechili. Nên ông ước tính Ritchie sẽ nghĩ rằng ông sẽ điều quân y như cũ. Do đó, ông tung một màn nghi binh về hướng Mechili, trong khi hướng Afrika Korps đi xiên về phía Bắc và tiến thẳng về Benghazi. ở đó, ba tuần lễ sau khi phục hồi hoạt động của hải cảng, người Anh đã cấp tập nào tàu chở hàng nào xà lan, từ Alexandrie mang đến một số lượng hàng tiếp liệu khổng lồ đủ mọi thứ.

    Chúng vẫn còn nằm yên ở đấy mãi đến sáng ngày 27 tháng Giêng. Đêm trước đó, hai Trung đoàn Panzer Grenadier do đích thân Rommel chỉ huy đánh suốt đêm về hướng Benzaghi. Đến sáng họ đã xuất hiện ở phía Nam thành phố cùng kho tiếp liệu khổng lồ này. Đến 16h, phi trường bị chiếm giữ, tiền quân còn tiến xa đến mạn phụ cận phía Đông thành phố. Pháo binh bắn tan nát thành phố, gây nhiều đám cháy soi rõ màn đêm. Tại Châu Phi, người ta chưa từng thấy những thành phố bị khốn đốn tơi tà như trên chiến trường Châu Âu. Người ta còn chưa được biết về Blitzkreig với sức tàn phá kinh khủng từ các đợt pháo kích và các trận đánh chiến xa. Cả một đám dân chúng kinh hoàng cố tìm kiếm những chô? ẩn nấp mong manh trong các khối kiến trúc điêu tàn của Benghazi. Số thường dân bị thương vong rất nhiều. Quân Anh thì hoàn toàn rối loạn. Chiến lợi phẩm nhiều không tưởng tượng được.

    Thật đúng lúc, trong cuộc tiến quân ào ạt chớp nhoáng về phía Benghazi mà thiếu đơn vị vận tải của Ý, Afrika Korps gần như cạn xăng. Một sĩ quan trẻ lưu ý Rommel: Thưa Trung Tướng, chúng ta không còn đủ xăng!? Rommel quay lại trả lời thẳng thừng: Anh cứ qua bên quân Anh mà tìm.

    Điều đó đã xảy ra thật. Tại Benghazi, Afrika Korps tịch thu được những kho xăng dầu và thực phẩm dự trữ khổng lô Và họ giải quyết vấn để chuyển vận của mình bằng cách ăn cướp của quân Anh 1.300 xe tải.

    Kể từ khi cuộc tấn công bắt đầu, vô số các chỉ thị từ Comando Supremo liên tục được chuyển đến, nhưng chúng không bắt kịp Rommel. Thậm chí khi người ta thông báo tình hình Benghazi đến cho Rommel thì Benghazi đã trong tay ông, còn quân của ông giờ đã trên đường tiến về Cyrene.

    Ngày 2 tháng 2, đích thân Rommel đi đến tận Derna trên một xe trinh sát. Lúc đó ông Tướng mới ra những mệnh lệnh sau cùng cho cuộc tiến quân vũ bão về phía Đông. ông phục hồi tuyến Ain Gazala, cái phòng tuyến mà ông vừa phải rời bỏ hai tháng trước. Mục tiêu của Rommel là chiếm giữ phòng tuyến ấy bằng các đơn vị thám báo mạnh, bảo vệ một phía Đông bằng những bãi mìn rộng. Trong thời gian này, lực lượng chính của Afrika Korps phải đóng tại Benghazi, nơi mà công tác bố phòng được xúc tiến ngay lập tức.

    Chúng tôi đã chinh phục vùng Cyrenaique, ông viết cho vợ ngày 4 tháng 2 năm 1942. Tôi đã tiến nhanh như chớp. Mọi sự giờ đã yên tĩnh trên mặt trận mà nay đã dài đến 480km của chúng tôi. Tôi hy vọng tình hình sẽ được ổn định xong trong tuần tới để giúp tôi có thể vống một ít lâu và về nghỉ phép. Nhân tiện nói cho bà rõ là tôi vừa nhận được một huy chương mới, một ngôi sao trên ngực dễ đeo vào chiếc huy chương sẵn có quanh cổ.

    Không ai biết đó là huy chương gì. Nhưng chắc chắn đó không phải là của Ý vì Rommel luôn xung đột với Comando Supremo. Dường như Mussolini phải rất miêfn cưỡng mới thay đổi quyết định ngày 23 tháng Giêng và cho phép quân đoàn Ý rời khỏi căn cứ để tiến về phía Đông và Đặc biệt, để đến gặp lực lượng chiếm đóng Benghazi.

    Tại Berlin cũng như tại Roma, mọi người đều hài lòng với các thành quả mà Rommel đạt được trong vòng vài tuần Blitzkreig, dầu cho các chiến công ấy đã làm cho vài người trong Bộ tổng Tham Mưu của Fuhrer phải nghiến rông, dù cho sự khiếp nhược của người Ý đã làm cho họ sợ run khi thấy ông phiêu lưu quá xa Tripoli.

    Tại Berlin, người ta chưa thoát ra được mùa đông kinh khủng của năm 1941-1942 ấy, và không còn chiến lược gia nào xung quanh Hitler tin rằng mùa xuân và mùa hè sẽ đem lại chiến thắng trên mặt trận Liên Xô.

    Điều mà người ta có thể trách cứ Rommel lúc này là ông không hiểu rằng Đức Quốc Xã đã dấn thân vào một cuộc chiến tuyệt vọng tại Liên Xô. Trong khi người ta cho rằng có thể dứt điểm vào mùa thu thì thực tế lại không như vậy. Rồi mùa đông ác mộng ấy đã trùm lên quân lực Đức chiếc bóng àm đạm của trận chiến trước đây của Napoleon. Người ta vẫn còn có thể lạc quan một chút khi hy vọng vào những nỗ lực của Đức Quốc Xã trong năm 1942. Nhưng đó phải là một nỗ lực dứt khoát và toàn diện mới mong có chút hy vọng.

    Bộ tổng Tư Lệnh Tối Cao mà tôi bị đặt dưới quyền, Rommel than vãn, vẫn nhất quyết không thừa nhận tầm quan trọng của chiến trường Phi Châu. Người ta không hiểu rằng với một số phương tiện tương đối ít, chúng tôi có thể đem lại chiến thắng tại Trung Đông, những chiến thắng mà về phương diện kinh tế lẫn chiến lược còn đáng kể hơn cả việc chiếm con sông Don. Trước mặt chúng tôi trải dài đến vô tận các vùng đất đai giàu có phi thường về nhiên liệu. Có thể giúp chúng ta thoát khỏi mọi sự âu lo về dầu mỏ. Vài sư đoàn thêm cho đạo quân của tôi là đủ đảm bảo cho sự chiến thắng hoàn toàn trước quân Anh tại Trung Đông.

    Đó là một cách phân tích tình hình sai đến 3 điểm. Đành rằng Rommel bị cuốn hút toàn bộ vào cuộc chiến tranh của ông, nhưng không có nghĩa là ông được quyền thiếu cái nhìn tổng quát đến mức như vậy. Thứ nhất, năm 1942 quả thật không có gì quan trọng hơn cho định mệnh của Đức quốc bằng việc chiếm giữ cửa sông Don. Thứ hai, những khu vực đất đai giàu có phi thường về nhiên liệu? mà Rommel muốn ám chỉ rõ rệt là các mỏ dầu lửa của Iraq và vịnh Persian. Nếu vậy thì cần nhiều thứ khác hơn là vài sư đoàn nữa mới có thể tiến tới đấy mà chiếm giữ chúng. Thứ ba, người ta có cảm tưởng là đã bốt được quả tang Rommel quá khinh địch, coi thường tiềm lực chiến đấu và sự táo bạo của người Anh. Có lẽ phải xem đây là một trong các nguyên do dẫn đến sự sụp đồ toàn diện sau này.

    Nhưng riêng trong khung cảnh hạn hẹp của chiến trường Địa Trung Hải, quan điểm của Rommel tỏ ra chính xác. ông biết rằng đến mùa đông 1942 này, các cơ xưởng hải quân của Anh quốc và Hoa Kỷ đã tham chiến sẽ hoạt động với công suất cực đại để phục vụ chiến tranh. ông hiểu rằng mặc dù tổn thất nặng nề vào cuối 1941, Hải quân Hoàng Gia vẫn giữ phần chủ động trên Địa Trung Hải đối diện với một Hải quân Ý coi như là không còn tồn tại nữa. Tóm lại, ông biết rằng sau vố bị ông đánh bại vừa qua, quân Anh sẽ nhận thêm lực lượng tăng cường, thêm đồ tiếp tế, chiến cụ lớn hơn ông nhiều, và cán cân lực lượng sẽ đưa ông xuống tư thế thua thiệt một cách nhanh chóng.

    Chắc chắn là, ông viết, không có ý coi thường những nhu cầu tài nguyên vật liệu của chúng ta tại mặt trận Nga, nhưng tôi vẫn tin tưởng mãnh liệt rằng vì những khả năng kỳ lạ do chiến trường Bắc Phi mang lại, ta vẫn có thể xác định một vài khu vực ít quan trọng ở Nga, từ đó trích ra vài sư đoàn cơ giới.

    Dựa trên chủ thuyết ấy, ông thêm vào một luận cứ giá trị: Nếu để mất Phi Châu, ta vẫn phải tìm kiếm một số lượng không ngừng gia tăng các sư đoàn Đức để chống lại người Anh và Mỹ, cho đến mức mà ta sẽ thấy tung cả chục sư đoàn giúp nước Ý cũng không đủ.

    Kết luận này của ông khá hợp lý. ông đang phải dàn quân trên phòng tuyến Ain ElGazala vốn rất tạm bợ. Nếu ông chờ đợi Auchinleck và Ritchie tổ chức lại lực lượng thì ông sẽ bị đẩy lui một lần nữa, và lẩn này có thể xa hơn. ông chỉ có được đôi chút đảm bảo nếu nắm được Tobrouk và đèo Halfaya. Thế nên, công cuộc phòng thủ lại đòi hỏi phải tấn công.

    Giờ đây, Bộ Tư Lệnh Ý Comando Supremo dường như đồng ý với lý luận này của ông. Ngày 23 tháng 3, Tướng Cavallero đến tìm ông và trao một huấn lệnh do chính Mussolini ký. Mệnh lệnh ấy yêu cầu vị Tư Lệnh Afrika Korps như sau:

    1/ Nghiền nát địch quân phía trước Tobrouk, chiếm cứ điểm ấy và đóng quân tại vị trí Bardia-Halfaya-Solloum.

    2/ Tránh đừng để bị lôi cuốn vào một trận chiến tiêu hao.

    3/ Trong trường hợp địch rút lui, tránh đừng để bị lôi kéo vào cuộc chiến đấu hai mặt trận, cùng lúc vừa bao vây Tobrouk vừa đánh nhau tại đèo Halfaya. (Dường như người Ý đã rút ra các bài học từ chiến trận 1941)

    4/ Dù thất bại hay thành công, hành động được giới hạn đến mốc thời gian: cho đến ngày 20 tháng 6, các phi đoàn của Quân đoàn 10 Không lực Đức phải trở về các căn cứ tại Sicile.

    5/ Cuộc tấn công không được vượt quá các mục tiêu đã ấn định. Thống chế Kesselring từ Rome đến, có tham dự cuộc tiếp xúc đúng lúc phát ngôn viên của ông Duce nhấn mạnh với Rommel: Tobrouk, sông Nil là chuyện mơ mộng!?

    Sau cùng, cuộc tấn công của Rommel không được làm hòng kế hoạch mà Hitler đã bật đèn xanh: Chiếm đảo Malte bằng một lực lượng viễn chinh đang được chuẩn bị gồm có 2 sư đoàn dù, một Đức một Ý, 2 sư đoàn thủy quân lục chiến Ý và 2 sư đoàn bộ binh.
    shotkillanheoinwater thích bài này.
  3. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Thời gian cuối tháng 2 và suốt tháng 3 là thời gian chuẩn bị. Những chiến xa mới, nhưng với số lượng quá ít, đổ bộ lên Tripoli. Sau thời kỳ phô trương của tháng Giêng. Vấn để vận chuyển lại được đặt ra với tất cả gay go. Hải quân Hoàng Gia lại làm chủ tình thể, cũng như không lực Anh tại Malte. Trong tháng 3, Afrika Korps chỉ nhận được có 13.5000 tấn xăng trong tổng số 60.000 tấn được chờ đợi. Ngoài ra, lực lượng để bổ sung còn thiếu chừng 12.000 binh sĩ.

    Đến tháng 4, kế hoạch tấn công của Rommel trở nên kiên quyết. ông cho nối dài phòng tuyến về phía Nam để tạo ra các căn cứ xuất phát thuận lợi hơn cho binh sĩ. Ngày 28, vị Oberbefehlshaber Miền Nam, Thống chế Kesselring lại đến thăm Rommel. ông mang theo một tin tức quan trọng: Cuộc tấn công quyết định vào Malte sắp được tung ra. Hòn đảo ấy sẽ bị chiếm vào cuối tháng 5.

    Nhưng 10 ngày sau cuộc hành quân bị hoãn lại. Một lần nữa lý do là sự thụ động của người Ý. Do đó, Rommel ấn định ngày J của cuộc tấn công là 26 tháng 5. ông biết rằng người Anh không ngồi yên và bằng mọi giá ông phải tấn công trước. Lẩn này không còn hy vọng tạo bất ngờ, Ritchie đã xây thành đắp luỹ mạnh mẽ để đương đầu với mọi sự tấn công vào đất Ai Cập. Nhằm mục tiêu đó, ông ta thành lập một dafy pháo đài một đầu dựa vào vịnh Ain el-Gazala, vạch một vòng cung về phía Tây Nam trước khi nghiêng hơn về phía Nam, tiến hơn vào sa mạc để lập thành mũi nhọn của chữ V cách Tobrouk chừng 100 km về phía Đông Nam, cánh phía Đông vượt đến tận ngã tư các con đường mỏn mà người Anh đặt tên theo một ngã tư danh tiếng ở London: Knight?Ts Bridge!

    Pháo đài ấy không phải là một chiến luỹ. Đúng hơn nó chỉ là bãi mìn mênh mông hơn một km bề rộng. Người Anh ước tính đã chôn hơn 1 triệu quả mìn dưới mặt đất.

    Tại điểm nhọn của chữ V, cứ điểm sâu hơn cả về phía Nam của mặt trận thuộc Tập đoàn quân VIII được đặt tại Bir Hakeim. Đấy là một điểm có nguổn nước được phòng thủ kiên cố bởi Lữ đoàn 1 Pháp Tự Do của Tướng Marie Pierre Koenig, 44 tuổi, một trong những người đầu tiên liên kết với De Gaulle. Và được bổ sung thêm bằng một Tiểu đoàn Do Thái.

    Từ Ain El Gazala đến Bir Hakeim, Tập đoàn quân VIII của Ritchie điều động Quân đoàn 13 của Tướng H.W.E. Gott và Quân đoàn 30 của Tướng Willoughby Norrie. tổng cộng 650 xe tăng, 300 xe thiết giáp, 55 Tiểu đoàn bộ binh. Họ được yềm trợ bởi một không lực khoảng 1.000 máy bay.

    Ngoài ra, hai địa điểm khác, tại Gambout và tại Bardia phía sau phòng tuyến được trấn giữ bởi Sư đoàn 5 Bộ binh Ấn của Tướng Briggs và Lữ đoàn 2 Pháp Tự Do của Đại tá Gazaud.

    Vào cuối tháng 5, Ritchie cũng chuẩn bị tấn công. Đối với quân Anh, quan trọng nhất là phải tái chiếm Benghazi cùng phi trường tại đấy, nơi mà Không lực Hoàng Gia có thể yềm trợ một cách hữu hiệu đảo Malte, vẫn luôn luôn bị phe Trục oanh tạc daf man tàn khốc.

    Vào lúc ông chuẩn bị tung ra cuộc hành quân Venezià, Erwin Rommel có trong tay một lực lượngàyếu hơn đôi chút. Tướng Cruewell có được trong tay 2 Quân đoàn. Trên đường Via Balbia dọc bờ biển là Quân đoàn 21 Ý của Tướng Navarrini, được tông cường bằng một số đơn vị Đức. Xa về phía Nam là Quân đoàn 10 Ý của Tướng Gioda.

    Phần Rommel dành quyền chỉ huy các đơn vị cơ động tập trung bên cánh một, nghĩa là còn xa hơn Quân đoàn 10 Ý về phía Nam. Bao gồm: Quân đoàn 20 Ý có các sư đoàn 132 Ariete Thiết giáp và Sư đoàn 101 Trieste Cơ giới, Afrika Korps Đức có Sư đoàn 15 Panzer, Sư đoàn 21 Panzer và Sư đoàn 20 Khinh binh.

    tổng cộng 50 Tiểu đoàn - trong đó có 31 của Ý, 535 xe tăng ?" trong đó có 240 của Ý, 148 xe thiết giáp" 80 của Ý, được yềm trợ bởi chừng 700 máy bay Merserschmitt -109G, Breda, Stukas mạnh mẽ hơn các loại Hurricane, Warhawk và Kittyhawk của đối phương.

    Vì không thể mong tạo bất ngờ nên Rommel cho rằng cần phải áp đảo tinh thần địch. Rommel bắt đầu điều quân trong đêm 25 rạng 26 tháng 5, ông sắp xếp để tạo âm thanh và bụi khói ghê rợn. ông cho chế tạo hàng chục chiến xa giả gắn dụng cụ phun khói. Không quân đã chế cho ông nhiều xe có gắn cánh quạt máy bay nhằm thổi bùng lên từng đám mây bụi cát. Ngoài ra còn sắp xếp cho cả trăm xe vận tải chạy lòng vòng.

    Trò quỷ thuật kéo dài suốt ngày 26 tháng 5, cộng vào đó là các cơn bão cát tự nhiên. Thế rồi đêm tối lại bao trùm sa mạc. Đấy là một đêm xuân tuyệt vời dường như chỉ có vùng Bắc Phi mới có. Afrika Korps lên đường, hướng về phía mục tiêu, một điểm nằm phía Đông Nam Bir Hakiem, từ đó sẽ quay ngược lên phía Bắc song song với nhánh phía Đông của bãi mìn chữ V để tấn công Tobrouk từ phía Nam.

    Cả tâm trí ông hoàn toàn hướng về trận đánh sắp bắt đầu. ông suy nghĩ rất sâu ý nghĩa của cuộc chiến tranh mà ông đang lãnh đạo. Chắc chắn là chỉ tại Bắc Phi, Đệ Nhị Thế Chiến mới mang hình thái tân tiến nhất, ông nghĩ. Tại đó, những đạo quân được cơ giới hóa hoàn toàn của hai bên đã đương đầu nhau. Sa mạc bằng phầng và ít chướng ngại vật đã đem đến cho người sử dụng nó những khả năng mà cho đến lúc ấy không ai dám nghĩ đến. Đây là chiến trường duy nhất nơi có thể diễn ra những trận đánh chiến xa bằng các đơn vị lớn trong trạng thái minh bạch thuẩn túy nhất??

    Tối hôm trước, ông viết thư cho vợ: Chúng tôi tung ra trận đánh quyết định. Sẽ rất gay go nhưng tôi tin rằng binh sĩ chúng ta sẽ thắng trận. Họ biết họ phải làm gì. Tôi không cần nói thêm với bà là tôi đã can dự vào việc ấy như thế nào. Thậm chí tôi còn bị bắt buộc phải làm như thế còn nhiều hơn sĩ quan và binh sĩ của tôi.

    Quả thật ông đã tham dự ngay từ những giây phút đầu tiên. Trên đường đến gặp Afrika Korps Đức cùng với Bộ Tham mưu của mình, ông gặp một đoàn xe pháo của Anh đang kéo ngược lên phía Bắc. Bộ Tham mưu của tôi chắc chắn không phải là một đơn vị chiến đấu thật sự, nhưng chúng tôi đã đánh nhau với quân Anh không kém gì những binh sĩ thật sự, địch quân đã bị bao vây và đánh úp bất ngờ.

    Khi Bình minh rạng rỡ của mùa xuân tại Phi Châu hiện lên, Afrika Korps đã vượt qua ngả phía Nam đến mũi tàu? Bir-Hakeim. Cuộc đụng độ quy mô đầu tiên giữa chiến xa xảy ra lúc xế trưa. Quân Đức có thêm những kinh nghiệm về các loại pháo chống tăng mới của Anh khi họ bị thiệt hại nặng nề vì chúng. Nhưng họ cũng đẩy lui được quân Anh và mở được đường tiến quân. Buổi trưa, trận đánh tiếp diễn. Afrika Korps không chiếm được lợi thế vì bị các sư đoàn của Tướng Gott bám chặt, rồi họ gần như bị đẩy lui về khu vực El Adem và Acroma.

    Trong buổi sáng ngày 28, Rommel tập hợp được lực lượng của ông trên tuyến từ Bir Hakeim đến El-Harmat. Afrika Korps lại mãnh liệt tiếp tục tiến lên phía Bắc. Đấy là một trận đánh dữ dội, dai dằng. Quân Anh nắm rõ hướng tiến của cuộc hành quân, họ tổ chức đánh trước mặt, đánh sườn trái, sườn phải. Suốt ngày sa mạc vang rền tiếng nổ chát chúa của pháo binh đấu tay đôi, tiếng rú rít của máy bay bổ nhào. Cho đến tối, Tập đoàn quân VIII tung ra một cuộc phản công mạnh mẽ, tiêu diệt rất nhiều chiến xa của Rommel.

    Rommel phải thức suốt đêm để ổn định , tổ chức lại đoàn quân của mình. Bình minh ngày 29, Afrika Korps lại trở về thế phòng thủ. Các đường tiếp tế của họ lâm vào thế đáng ngại. Rommel thiếu xăng và đạn dược và phải từ bỏ việc tiến quân lên phía Bắc nhằm chiếm giữ cao nguyên Acroma, nơi có thể chế ngự Tobrouk.

    Thêm vào đó, chiếc phi cơ Storch chở Tướng Cruewell bay đi thị sát mặt trận bị phòng không của Anh bắn trúng. Phi công phải đáp khẩn cấp và ông Tướng này bị bắt giữ.

    Tình thế quá tội tệ, nhất là nếu Ritchie chuyển sang tấn công ngay bây giờ thì Afrika Korps có thể bị dổn vào các bãi mìn mà trước đó họ đã vượt qua. Các đơn vị công binh Đức lập tức lao vào công việc gỡ mìn, bên kia bãi mìn là các công binh Ý cũng làm công việc đó theo hướng ngược lại. Liệu đây có phải là vấn để tìm một lối thoát để chạy về hướng Tây hay không? Không, đối với Rommel thì đó chỉ là mở một đường tiếp tế mới. Rommel giữ lại một phần lực lượng để bảo đàm công cuộc mở đường. Và trong khi bị vây ép vào thế phòng thủ, ông ta lại tấn công về phía Bắc, một quyết định đúng theo thói quen tạo bất ngờ của ông. Vậy mà lại thành công, ngày 30 tháng 5, ông bao vây được cả một lữ đoàn quân Anh sau khi các đơn vị của ông bắt tay được với Sư đoàn Trieste của Tướng Gioda. Ritchie cố gắng giải vây cho lữ đoàn của mình nhưng bất lực. Giữa trưa ngày 1 tháng 6, những kẻ trong vòng vây bị tấn công tứ phía, 3.000 người phải đầu hàng. Họ giao nộp cho Rommel 124 pháo, 101 xe thiết giáp của Lữ đoàn 1 Xe tăng.

    Khổ cho Ritchie vì trước đó ông ta đã vội ca bài ca chiến thắng . Ngày 31 tháng 5, Auchinleck viết cho Churchill : Không còn nghi ngờ gì, các kế hoạch của Rommel đã trôi theo dòng nước, và thất bại này khiến cho ông ta trả giá thật đắt về nhân mạng cùng phương tiện. Báo cáo này đã thúc đầy Churchill tuyên bố trước Lưỡng Viện: Chúng ta có đủ lý do để hài lòng về khí thế của trận đánh, thậm chí còn hơn cả hài lòng.

    Rommel tiếp tục khai thác thành quả của chiến thắng vừa rồi. ông già định là phải triệt hạ chốt phòng thủ Bir Hakeim. Pháo đài này thất thủ sẽ đưa đến sự sụp đồ toàn diện của phòng tuyến Anh. Cuộc tấn công khởi sự trong đêm mùng 1 rạng mùng 2 tháng 6. Sư đoàn Trieste và Sư đoàn 90 Khinh binh tiến về điểm tựa phía Nam phòng tuyến của Tập đoàn quân VIII.

    Nếu Ritchie phạm một lỗi lầm là loan báo quá sớm một thất bại của Rommel, thì đến lượt Rommel lại rõ ràng quá xem thường những con người đang phòng ngự Bir Hakiem. Họ có tổng cộng 4.000 người dưới quyền chỉ huy của Tướng Keonig. 3.000 quân của Lữ đoàn Pháp Tự Do và 1.000 quân thuộc Tiểu đoàn Do Thái. Vì những lý do dễ hiều, chúng ta có thể chắc chắn là khó mà tìm đâu ra những chiến sĩ quyết từ hơn họ trên thế giới này. Chính vì lý do đó mà Ritchie đặt họ vào một vị trí quan yếu như Bir Hakiem.

    Cứ điểm được phòng ngự cực kỳ kiên cố. Các giao thông hào hẹp đến nổi một quả đạn phải thật sự rơi đúng vào miệng mới gây được tổn thất. Tất cả mọi góc tưởng không có nghĩa lý gì cũng được biến thành nơi ngắm bắn. Có chừng 1200 chỗ như thế.

    Những đợt tấn công đầu tiên của quân Đức va phải Bức tường không thể nào vượt qua được. Đại liên và pháo chống tăng phù một màn lưới lửa địa ngục mỗi khi quân tấn công tiến lên. Binh sĩ của Koenig còn nhân đêm tối để lách ra khỏi vòng vây nhận thêm tiếp tế cho họ.

    Ngay khi Bình minh ló dạng, Bir Hakeim khạc lửa khắp nơi. Rommel giật mình. Ông cứ ngỡ là cứ điểm này sẽ bị chiếm gọn chỉ trong một trận đánh nhỏ, gần như là bên lề của những trận đánh chính. Giờ đây binh sĩ của ông bị bám chặt, bị chận đứng bởi một trận đánh tàn khốc và vô tận.

    Những binh sĩ công binh ban đêm bò vào mở một hành lang qua bãi mìn bảo bọc Bir Hakeim. Ngay khi họ vừa rút lui, người Pháp liền đặt mìn trở lại. Thống chế Kesselring đáp máy bay đến Bộ Chỉ huy của Rommel, thấy tình hình như vậy đâm ra lo lắng và nổi khùng: Đừng tiết kiệm gì cả, ông ta bảo Rommel. Tấn công vào cái hố bẩn thìu này bằng tất cả lực lượng có được, và dứt điểm chúng ngay.

    Đến ngày thứ ba của trận đánh, Ritchie quyết định lợi dụng sự bận rộn của quân Đức ở Bir Hakeim, ông ta tấn công vào chỗ mà người Anh gọi là cái vạc?, nghĩa là chỗ nhô ra bởi khu đóng quân của địch giữa bãi mìn và ngã tư Knight?Ts Bride. Rủi thay, Rommel hiện diện khắp nơi trên chiếc xe chỉ huy, ông len lo?i khắp trận địa, nhận thấy mối nguy một cách kịp thời, liền tung Sư đoàn 15 Panzer và Sư đoàn 90 Khinh binh ra vây chặn quân Anh. Cuối ngày hôm đó, Afrika Korps bốt thêm được 4.000 tù binh và bổ sung khá đủ cấp số chiến xa bị tiêu diệt vừa qua bằng các chiến xa chiếm được của quân Anh.

    cần lưu ý rằng trong trận đánh này Rommel áp dụng nguyên tắc tập trung phương tiện. Trong khi Ritchie lại giữ quân trù bị, chỉ tung ra từng toán nhỏ. Nên công việc của Rommel khá dễ dàng, ông có thể đánh nhanh đánh mạnh với số lượng thiết giáp và pháo binh vượt trội. Trong khi đó, các chiến xa Sherman do Mỹ cung cấp vẫn bị quân Anh đem để dành.

    Mối đe dọa của ngày 5 tháng 6 đã bị đầy xa, vị Tư Lệnh Afrika Korps quay về Bir Hakeim mà ông phải chiếm bằng được trước khi đánh chiếm Tobrouk. Bir Hakeim vẫn đứng vững. Dù cho quân Đức có thấp sáng thường trực cả trời đêm bằng hoả châu để cho địch quân mệt mỏi và mất tinh thần thì cũng vô ích. Về phía mình, Ritchie thực hiện vài hành động để giải vây cho Bir Hakeim nhưng thất bại.

    Ngày 8 tháng 6, Đại tá Hecker, chỉ huy Trưởng công binh chiến đấu tung ra một cuộc tấn công với tất cả phương tiện được Rommel giao cho. Phi cơ Stukas cảy nát mục tiêu từ rạng đông. Bir Hakeim phản ứng bằng cách khạc lửa từ tất cả các ô? Châu mai. Đến 17 giờ, một đợt xung phong mới do chính ông Đại tá dẫn đầu lại bị tan vỡ trước thành trì vững chãi mà linh hoạt ấy. Trong số 11 chiến xa của quân tấn công, sáu chiếc bị pháo chống tăng của Koenig tiêu diệt, bốn chiếc cán phải mìn được ngụy trang khéo léo, nổ tung.

    Ngày 9 tháng 6, Rommel chán nản: Cái pháo đài khốn kiếp này đã bắt ta trả giá bao nhiêu nạn nhân thế là đủ rồi, ông quyết định. Bỏ nó qua một bên và tiến về Tobrouk.

    Chính Đại tá Hecker khẩn nài phải đánh tiếp. Ông ta không chấp nhận thất bại vừa qua của mình. Và tin rằng từ vài điểm tựa kiên cố chiếm được trong đợt tấn công vừa qua, ông ta có thể thành công trong một đợt xung phong cuối cùng. Rommel bằng lòng, giao cho ông ta một Tiểu đoàn Đức mới. Cuộc tấn công tối hậu được dọn đường bằng một đợt pháo kích kinh hồn trong khi phi cơ Stukas bổ nhào liên tục. Tướng Koenig cảm thấy phút cuối đã đến. ông đọc nhật lệnh cho binh sĩ: Chúng ta phải chứng tỏ, tại cứ điểm này, là người Pháp biết chiến đấu và biết chết xứng đáng

    Trong Tiểu đoàn Do Thái, một khẩu hiệu bổ sung được truyền miệng: Người Do Thái trên khắp thế giới đang nhìn anh.

    Tối ngày 10 tháng 6, với cái giá tổn thất nặng nề, quân Đức thâm nhập rất sâu vào các công sự Pháp. Khi được Koenig báo cáo, Ritchie trả lời qua máy vô tuyến: Mở một đường thoát ra.

    Và đó cũng là một chiến công không tưởng tượng được của đêm 10 rạng ngày 11 tháng 6. Bị quân Đức rình rập tấn công không thương xót, Koenig và binh sĩ tìm cách vạch một đường máu cố thoát khỏi gọng kềm đang kẹp chặt. Một trận đánh xáp là cả tàn khốc. Binh sĩ hai bên đánh cận chiến bằng súng, bằng lưỡi lê, bằng dao găm và bằng cả xe?ng cuốc khi hết đạn. Cứ như thế mà Koenig và một nửa quân trú phòng đảo thoát được về phòng tuyến của Lữ đoàn 7 Anh.

    Rạng ngày 11 tháng 6, những người còn lại trong thành luỹ sa mạc giương cờ trống. Họ là toán hậu vệ ở lại để bảo vệ và chăm sóc 500 thương binh mà quân Đức tìm thấy sau khi tiến vào các kiến trúc điêu tàn của cứ điểm phòng vệ.

    Nghĩ rằng Koenig đã thành công trong việc cứu thoát một số quân quan trọng. Tướng Rommel đã bình luận với hàm ý khen ngợi đối phương: Một lần nữa, đây là một bằng chứng cho thấy rằng một cấp chỉ huy cương quyết không buông súng có thể tạo ra một phép lạ, cho dù tình hình có tuyệt vọng mấy đi nữa.
    thanhVNW thích bài này.
  4. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Tại London, Tướng De Gaulle theo dõi trận đánh với trăm nỗi âu lo.

    Ngày 11 tháng 6, ông viết hồi ký, các bài bình luận và phát thanh đều mang giọng điệu ca tụng một cách tang tóc. Vì không biết quân Pháp đang cố gắng vượt vòng vây, mọi người chỉ còn chờ đợi họ bị tràn ngập. Nhưng đến tối, Tướng Brook cho người đến báo cho tôi biết: Tướng Koenig và phần đông lực lượng của ông ta đã thoát được về El Gobi. Tôi cảm ơn người đưa tin, cho anh ta về, đóng cửa lại. Tôi còn một mình. Tim tôi đập mạnh, tôi khóc nức nở vì hãnh diện, những giọt nước mất hạnh phúc.

    Bir Hakeim thất thủ. Cột trụ chống đỡ mặt trận phía Nam của Tập đoàn quân VIII sụp đồ. Có lẽ ông Tướng Ritchie không ý thức được hết t m quan trọng của nó. Chắc chắn là ông ta đã không nỗ lực hết mình để giải vây cho pháo đài sa mạc.

    Rommel hiểu rằng quy luật chiến tranh sa mạc khác với những quy luật áp dụng trên những chiến trường khác. ông ngẫm nghĩ các quy luật ấy và rồi diễn tả như sau: cần Đặc biệt quan tâm đến yếu tố tập trung lực lượng của mình trong cùng một thời gian và không gian. Từ đó bao vây, chia cắt lực lượng địch, phân tán chúng trên trận địa và tiêu diệt dứt điểm từng nhóm một.

    Ông hết sức nhấn mạnh nguyên tắc này: Chỉ có một trường hợp duy nhất mà trong đó vị Tướng có thể tính trước diễn biến trận đánh: Khi lực lượng của ông ta lớn mạnh đến nỗi chiến thắng là điều bắt buộc. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi vẫn tin là nên hành quân một cách tổng lực, còn hơn là quẩn quanh trên chiến trường, âu lo, chờ đợi, áp dụng các biện pháp an toàn chống lại các hành động khả dĩ của địch.

    Đấy quả đúng là điều mà Ritchie đã làm. Ông ta đã giữ lại nhiều đơn vị làm trù bị tại El Gazala. Ông ta đưa quân tham chiến một cách tiết kiệm tối đa. Nên giờ đây chiến thắng đang đến gần với vị Tư Lệnh của Afrika Korps. Trong vô số các trận chạm trán cục bộ xảy ra trong những ngày kế tiếp, Ritchie sẽ được chứng kiến đội hình chiến đấu tổng lực Afrika Korps tiêu diệt từng nhóm nhỏ chiến xa và thiết giáp bị phân tán của ông.

    Tại London, Thủ tướng Anh Winston Churchill nhận được những phúc trình từ Trung Đông. Auchinleck báo cáo là trong ngày 10 tháng 6, tổn thất của Tập đoàn quân VIII lên đến 10.000 người, trong đó 8.000 bị bắt làm tù binh. Tỷ lệ đáng kể của con số tù binh này làm cho Churchill nghi ngờ vì tính bất thường của tình hình.

    Dù sao đi nữa, sau khi thất thủ Bir Hakeim, Ritchie bị bắt buộc phải ra lệnh rút lui cho tất cả các đơn vị trấn giữ phía Đông bãi mìn. ông ta bị Rommel ép buộc quay về hướng Nam, trong khi các đơn vị đóng gần bờ biển vẫn không bị sứt mẻ gì. Hai ba ngày tiếp theo là một tình thế rối rắm kỳ lạ. Trong những cơn bão cát, Afrika Korps săn đuổi các đơn vị Anh đang rút lui, xẻ chúng ra thành từng mảnh, tiêu diệt, chiếm đoạt chiến xa và đưa vào chiến đấu ngay lập tức. Trò chơi này khi kéo dài rốt cuộc không còn phân biệt được ai là bạn ai là thù. Một đoàn quân do đích thân Rommel chỉ huy lại bị chính quân Ý tấn công, làm ông phải rút lui cấp tốc để tránh bắn nhau.

    Chính trong tình thế đó, ngay giữa đêm, Afrika Korps Đức, lực lượng được tổ chức quy củ và chỉ huy tài tình, đâm bổ vào Sư đoàn 22 Thiết giáp Anh. Và vấn để duy nhất đối với người Anh chỉ còn là đầu hàng hoặc bị tiêu diệt trong một hoả ngục lửa đạn tại ngã tư danh tiếng Knight Brigde. Tình trạng này cũng xảy ra tại một nơi cách chu vi phòng thủ Tobrouk 30km. Con đường dọc theo bờ biển từ đó mở rộng cho Afrika Korps và không còn gì để che chở cho quân Anh nữa. Lực lượng bảo vệ bị vô hiệu hóa khi còn đang di chuyển dọc El Gazala và Tobrouk.

    Bộ Chỉ huy Anh, Rommel ghi chú, chắc phải ý thức được rằng ngay từ khi chúng tôi tràn ngập Gor el-Oualeb và Bir Hakeim thì việc phòng thủ mặt trận El Gazala đã trở thành việc làm ngu xuẩn. Sự hy sinh của Lữ đoàn 1 Pháp Tự Do chỉ có ý nghĩa khi trong thời gian đó Ritchie chịu tập hợp hai sư đoàn quân Anh trong khu vực giữa Acroma và El Gazala, biến chúng thành lực lượng cơ động để chuẩn bị chống trà một cuộc tấn công có thể thấy trước của chúng tôi. Số lượng 300 khẩu pháo, từ 200 đến 300 xe thiết giáp hay xe thám sát của họ có sức nặng đáng kể trong việc thay đổi cán cân lực lượng.

    Nhưng Ritchie đã để cho cơ may của ông ta trôi qua. Có một khoảng thời gian, trong đêm 13 rạng 15 tháng 6, Tập đoàn quân VII không có cấp chỉ huy khi Bộ Chỉ huy của họ hấp tấp rút lui để tránh bị bắt giữ. Liên lạc vô tuyến bị cắt đứt trong nhiều giờ.

    những cuộc trao đồi qua sóng vô tuyến thật sự rất cần thiết để điều khiền các đơn vị cơ giới, nhưng nó còn mang lại những sốc thái Đặc biệt cho cuộc chiến. Bộ Chỉ huy của hai bên thỉnh thoảng vẫn liên lạc được với nhau. Rommel viết: Một lần chúng tôi nghe được một mệnh lệnh do Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 4 Cơ giới Anh ban ra. Theo đó thì không được cho tù binh Đức và Ý ăn uống cho đến khi th m vấn xong. Điều này làm chúng tôi lo âu. Chiến tranh vốn đã bi thảm, bây giở lại có thể cay đắng đến mức ấy sao? Bộ Tư Lệnh Anh chắc cũng chia se? quan điểm này với chúng tôi nên họ đã rút lại mệnh lệnh ấy, sau khi tôi gọi sang phản đốì.

    Sau chiến công tại Knight Bridge, mục tiêu tiếp theo đó là phòng tuyến Acroma, phía Đông El Gazala và bãi mìn của quân Anh. Ở đó vẫn còn Sư đoàn 50 Anh trấn giữ cứ điểm Gazala. Lẩn này bị dổn ngược trở về bãi mìn của chính họ cải, cái sư đoàn khốn khổ này tuyệt vọng, họ cho nổ tung các kho thực phẩm và đạn dược của mình rồi cố chạy trốn. Vị Tư Lệnh Anh chỉ cứu thoát được vài thành phần của sư đoàn với sự hy sinh nặng nề của thiết giáp.

    Giờ đây binh đoàn Bắc Phi Đức bắt đầu điều động quân về phía Đông, đi vòng qua Tobrouk về phía Nam và nhở đó có thể để ra phía bờ biển. Khi quân Đức đến được đấy vào chiều ngày 16 tháng 6, Tobrouk lại bị bao vây.

    Khắp mọi nơi, các thành phần trốn thoát được của Tập đoàn quân VII đều chạy về phía biên giới Ai Cập, nơi đây họ phải gấp rút chính đốn lại hàng ngũ để chờ đợi trận đánh sắp đến. Phần Rommel, ông luôn chạy khắp trận địa trên chiếc xe chỉ huy Mamouth. Một lần ông dừng xe trên một cao điểm để ngắm nhìn quang cảnh. những xác xe, xác chiến xa, những mảnh vũ khí, đổ quân dụng rải rác đến tận chân trời. Vài xác chết đó đây. những xác máy bay ngổn ngang. Và trên tất cả mảnh đất khô cẩn đầy những dấu vết bi thảm ấy là một bầu trời sắp nổi cơn giông, nặng nề đầy mây xám. Vị Tư Lệnh như bị thôi miên bởi quang cảnh đó, ông ngắm nhìn rất lâu và mô tả lại là nó có một vẻ đẹp lạ lùng, thê thám.

    Trận đánh đã kết thúc và địch quân tan tành, ông viết cho vợ ngày hôm ấy. Sức khoẻ của tôi vẫn tốt. Tôi sống trong xe nhiều ngày nay từ sáng đến tối, tôi không có thời gian rời khỏi chiến địa. Có lẽ chúng ta sẽ được gặp nhau vào tháng 7.

    Trong khi rút lui, quân Anh không có thời gian để phá huỷ tất cả. Chính vì thế mà tại Gambot, phía Nam Tobrouk, trên một phi đạo do quân Anh xây dựng, quân Đức chiếm được 4 chiếc phi cơ chiến đấu Curtiss. Và cách đó 10 km là một kho xăng vĩ đại. Vấn để tiếp tế nhiên liệu cho Afrika Korps được giải quyết cho một thời gian. Tại Le Cairo là một không khí kinh hoàng. Tập đoàn quân VIII bị tổn thương nặng đang chìa lưng chịu trận. Họ tự đặt cho mình một câu hỏi đầy lo âu: Sắp tới Rommel sẽ làm gì tiếp? Afrika Korps sẽ tiến về phía Đông hay toan tính chiếm Tobrouk?

    Đối với Rommel thì không đặt ra vấn để đó. Đã có sẵn chỉ thị của Mussolini giới hạn hành động của ông. Một khác, muốn tiến xa hơn vào đất Ai Cập thì việc chiếm giữ pháo đài Tobrouk là một điều kiện tất yếu.

    Sau hết là ý chí của những người đến Phi Châu cùng ông. những người được ông lãnh đạo để đạt được chiến thắng vừa rồi. Họ đã đến Phi Châu 16 tháng, chiến đấu 16 tháng không ngừng nghỉ là quá đủ để họ xứng đáng với cái tên kiện tướng? rồi.

    Và các kiện tướng này có mối thù cần phải trà tại Tobrouk.
    thanhVNW thích bài này.
  5. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Tập đoàn quân VIII tạo thành một rào chặn không thể vượt qua được trước pháo đài Tobrouk. Ngày 17 tháng 6, đài BBC loan báo. Còn Reuter thì ước tính rằng việc chiếm Tobrouk là một vấn để không thể giải quyết được với Rommel.

    Đây không phải là vấn để tin tức sai lạc hay là tuyên truyền tý nào. Ngày 17 tháng 6 tại London người ta chưa đo lường được hết tầm to lớn của tai họa mà Tập đoàn quân VIII vừa hứng phải. Một khác, không có gì cho thấy là Rommel có ý định đánh chiếm Tobrouk ngay lập tức. Các lực lượng phe Trục đã dùng hai ngày 18 và 19 tháng 6 để quét sạch các ổ kháng cự sau cùng và để chính đốn lại các đơn vị nhằm chuẩn bị cho các đợt tấn công mới. Trong ngày 18, lực lượng hướng mũi về phía Đông. Bộ Chỉ huy Anh suy ra rằng ngài Tư Lệnh Afrika Korps sắp vạch một con đường tiến về Ai Cập.

    Trong thực tế, tối ngày 19 ông cho đoàn quân quay lui về Tobrouk. ông Tướng Đức sẵn sàng tấn công vào hải cảng của vùng Marmarique. Lúc chập tối và suốt đêm, binh sĩ tập kết về vị trí xuất phát của mình. Kế hoạch cực kỳ đơn giàn. Trên vòng vây phía Tây của Tobrouk, Quân đoàn 21 Ý được giao cho một đợt tấn công nghi binh. Trong khi đó cuộc tấn công quyết định sẽ xuất phát từ hướng Đông Nam. Mũi dùi tấn công chắc chắn là Afrika Korps với 3 sư đoàn cơ hữu và Quân đoàn 20 Ý.

    Điểm được lựa chọn để chọc thủng, Rommel giải thích, sẽ phải chịu đựng một đợt oanh tạc trong đó có sự tham gia của toàn bộ không lực Đức và Ý tại Phi Châu. Một khi bộ binh chọc thủng được phòng tuyến, Afrika Korps phải tiến thẳng đến hải cảng theo ngã tư Si di Mahmond và mở con đường Via Balbia về phía Tây. Để hỗ trợ, sau khi vào trong phòng tuyến quân Anh, Quân đoàn 20 Ý có nhiệm vụ xăng ra từ phía sau lưng quân Nam Phi hướng về Ras el Madaouer.

    Dấn thân vào cuộc phiêu lưu này với những binh sĩ đã quá mệt mỏi sau ba tuần lễ đụng trận không ngừng và toàn là các trận đánh kinh hồn, trông có vẻ là một hành động điên rô

    Nhưng ngoài việc đó luôn là phong cách của Rommel , còn phải thừa nhận rằng tình hình hiện tại khác hơn với cuộc bao vây Tobrouk năm vừa rồi.

    Vào tháng 6 năm 1942, Rommel không còn phải lo sợ một cuộc tấn công từ phía Đông như hồi tháng 11 năm 1941 khiến ông phải vừa đánh vừa di tản chiến thuật. Hiện nay Tập đoàn quân VIII vừa bị đánh bại thê thám sẽ không thể nào có khả năng chuyển sang thế tấn công trong nhiều tuần lễ nữa.

    Thứ hai, những người tấn công nay đã hiểu biết cận kẽ và chính xác hơn hệ thống phòng thủ của Tobrouk. Lẩn này Afrika Korps được trang bị những chiếc cầu nhỏ Đặc biệt để cho phép thiết giáp vượt qua các hào chống chiến xa.

    Sau cùng, nếu quân phòng thủ có số lượng tương đương như hồi năm 1941, nghĩa là khoảng 28.000 ở trận địa và 5.000 ở hậu cứ, tổng cộng 33.000, thì tình trạng tinh thần của họ lại khác hơn. Trong số đó còn có cả những đơn vị chạy trốn vào pháo đài sau khi bại t u cùng Tập đoàn quân VIII. những câu chuyện họ kể lại rõ ràng chẳng giúp ích gì cho việc nâng cao tinh thần chiến đấu của Tobrouk.

    những đơn vị phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề bảo vệ pháo đài ấy là Sư đoàn 2 Nam Phi, Lữ đoàn 29 Ấn Độ, 2 Tiểu đoàn của Lữ đoàn Phòng vệ Tobrouk, nhiều trung đoàn thiết giáp có bộ binh tùng thiết, các đơn vị của Lữ đoàn 32 Thiết kỵ, chưa kề pháo binh.

    Trong đêm 19 rạng ngày 20, trước Bình minh ít lâu, Rommel và Bộ Tham mưu đến vị trí chỉ huy tiền phương đặt không xa các thành phần đi đầu của Afrika Korps là mấy. Rommel đòi hỏi toàn thể không lực Đức và Ý phải tham dự trận đánh. Cuộc tấn công được ấn định khai diễn lúc 5h20. Trong ánh Bình minh, mất dán vào ống nhỏm, ông Tướng quan sát bầu trời. Phi cơ Stukas tiến đến hết đợt này đến đợt khác và bắt đầu cuộc tàn phá có hệ thống các bãi mìn và hàng rào dây thép gai. Đáp lại đợt oanh tạc, tiếng pháo DCA rền vang trả đũa. Bầu trời m u hồng trên Tobrouk bị vấy bẩn khốc liệt bằng những đám mây khói.

    những cột bụi vĩ đại, Rommel kề, bốc lên trên các chiến hào do quân Anh trấn đóng. Các tiếng nổ làm bốc tung lên không các chướng ngại vật cũng như súng pháo. Mỗi đợt phi cơ ập đến, những kẽ hở liền được mở ra giữa vùng dây thép gai.

    Ngay sau đợt tàn phá của không quân, bộ binh của Afrika Korps, bộ binh tùng thiết của Sư đoàn 15 Panzer và bộ binh thuộc Quân đoàn 20 Ý xăng lên tấn công. Trong đêm đó, nhiều con đường đã được mở ra xuyên qua các bãi mìn.

    Từ 8h sáng, công binh chiến đấu đi theo các đơn vị tiên phong, bắcốc những chiếc cầu tiền chế qua các hào chống chiến xa. những chiếc thiết giáp đầu tiên của Sư đoàn 15 Panzer vượt qua. Bộ binh ùa vào khe hở. Đến trưa các khẩu 88mm và trọng pháo đã được điều động vào phía bên kia của chu vi phòng thủ. Chúng bắt đầu bắn vào thành phố và hải cảng.

    Phần Rommel thì cùng với Bộ Tham mưu tiến lên cuối triền đồi nhin xuống thành phố. ông nhìn ngắm quang cảnh thê lương do trận đánh gây ra đúng ngay vào đợt xung phong thứ hai bắt đầu. Khắp nơi, hàng đống đồ nát điêu tàn, các ngôi nhà sụp đồ, hàng đống gạch vụn bốc khói. Và cũng khắp nơi, những đống sắt vụn của chiến xa, xe cộ bốc cháy dưới ánh mặt trời. Hàng cột lửa từ các kho xăng bốc lên thi đua với ánh mặt trời chóa mất.

    Rommel cùng toán tùy tùng tiến sâu hơn nữa và gặp phải một ổ kháng cự do chừng 50 quân Anh trấn giữ. Ông Tướng phái một trung úy thuộc Bộ Chỉ huy của ông đến khuyến dụ họ đầu hàng. Nhưng những chàng Tommy này đã trả lời bằng tất cả hoả lực kinh hồn nhằm vào các xe của nhóm chỉ huy. Lúc đó, theo lệnh của Rommel, người tại xế riêng của ông là hạ sĩ nhất Huber, được sáu binh sĩ khác bắn che, đã thanh toán trọn điểm tựa đó toàn bằng lựu đạn.

    Trong hải cảng, tàu bè vội vàng xoay trở. Chuyển động của chúng bị Rommel chú ý. Ông hiểu ra rằng người Anh đang cố di tản một phần quân trú phòng bằng đường biển. Lập tức ông hạ lệnh cho pháo binh hướng về phía đó và bắn chìm 6 chiếc. Nhưng phần đông binh sĩ trên các con tàu bị chìm đó đã được cứu thoát lên bờ, ông ghi chú.

    Buổi trưa, những đơn vị đi đầu của Afrika Korps chạy qua các con đường điêu tàn của thành phố đã đến được tận hải cảng. Giờ đây người ta đánh nhau tứ tung trong thành phố để thanh toán nốt các điểm còn kháng cự. Đến hoàng hôn, pháo đài Solaro bị xung phong chiếm giữ, còn pháo đài Pilastrino nơi đặt Bộ Tham mưu quân trú phòng thì đầu hàng. Trong hải cảng, một tuần dương hạm nhẹ đang chìm dần dần.

    Một sự yên tĩnh tương đối đến cùng với đêm tối. Người ta chỉ nghe thấy tiếng vọng từ những trận đánh rời rạc. Đến 5h sáng hôm sau, chủ nhật 21 tháng 6, Tướng Rommel tiến vào thành phố Tobrouk trong một quang cảnh àm đạm.

    Tiếp theo đó, ông kể lại, theo con đường Via Balbia tôi đi về hướng Tây. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 32 Thiết kỵ Anh hạ vũ khí và 30 chiến xa còn tốt nguyên được giao nộp cho chúng tôi. Hai bên con đường Via Balbia. Nhiều xe cộ vẫn còn đang cháy, đâu đâu cũng là cảnh tàn phá, hỗn loạn.

    Một lát sau, trong buổi sáng đó, ông nhận được sự đầu hàng của Tư Lệnh cứ điểm, Tướng Klopper. Ông giao cho ông Tướng này nhiệm vụ giữ kỷ luật cho những tù binh và lo cho họ ăn uống bằng các kho thực phẩm chiếm được.

    Bởi vì chiến lợi phẩm ơf Tobrouk đã vượt xa mọi hy vọng của ông. Nhưng trước khi lo đến việc ấy, ông viết vài dòng báo tin cho vợ về chiến công trong ngày:

    Tobrouk! Đấy là một trận đánh tuyệt vời. Sau khi làm việc liên tục với cái pháo đài này, tôi phải đi ngủ mới được. Tôi nghĩ đến bà nhiểu biết bao.

    Rồi ông thảo một nhật lệnh gửi đến các đơn vị:

    Các binh sĩ! Trận đánh vĩ đại tại Marmarique được hoàn tất là nhở cuộc chinh phục Tobrouk nhanh chóng của các anh. Chúng ta đã bốt được 45.000 tù binh, chiếm hơn 1.000 xe tăng, thiết giáp và 400 trọng pháo. Trong cuộc chiến đấu cam go suốt 4 tuần lễ vừa qua, khả năng và ý chí chịu đựng bền bị của các anh đã giúp ta giáng cho địch quân những đòn chí từ. Nhờ các anh, địch quân đã đánh mất nền móng trọng tâm của quân lực khi họ đang chuẩn bị tấn công chúng ta. Và quan trọng nhất là lực lượng thiết giáp chính của họ đã bị tiêu diệt. Trước chiến công hiền hách này, tôi gửi đến các sĩ quan và binh sĩ lòng biết ơn sâu xa của tôi.

    Hỡi các binh sĩ thuộc đoàn quân thiết giáp Châu Phi, giờ đây là vấn để tiêu diệt hẳn quân thủ. Chúng ta sẽ không dừng lại trước khi nghiền nát đơn vị cuối cùng của Tập đoàn quân VIII Anh. Trong những ngày sắp đến, tôi đòi hỏi nơi các anh những cố gắng vĩ đại sau cùng.

    Ngày hôm sau, thứ hai 22 tháng 6, ông được biết qua một công điện từ tổng hành dinh của Fuhher, rằng ông sẽ được thăng cấp Thống chế. Ở vào tuổi 49, ông là vị Thống chế trẻ nhất của Quân đội Đức.

    Ông dấu niềm vui sướng và hãnh diện của mình dưới một nhận xét vắn tắt:

    Hitler, ông viết cho vợ, đã phong cho tôi là Thống chế. Nếu như thay vào đó ông ta gửi thêm cho tôi một sư đoàn nữa thì có lẽ hay hơn.

    Trong một bữa ăn được sửa soạn đột xuất, với sự có một của các sĩ quan trong Bộ Tham mưu, ông ăn mừng một cách giàn dị vinh dự mà ông vừa được ban cấp.
  6. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Việc Rommel thăng cấp Thống chế (Field Marshall) làm một số tướng lĩnh Đức ganh tị và dèm pha. Thậm chí Thống chế Von Rundsted còn mìa mai gọi Rommel là "Thống chế trẻ con." Việc này cũng có lý do của nó. Tài lãnh đạo của Rommel là không cần phải bàn cãi. Nhưng việc phong chức Thống chế, cấp cao nhất của quân đội Đức cho Rommel thì hơi nhanh một cách bất thường. Trong đó có một phần lý do là để làm gương cho các tướng lĩnh khác ở mặt trận Nga đang lâm vào bế tắc. Một dạng gương điền hình để kích thích tinh thần quân đội.

    Mỗi Thống chế Đức đều có một quyền trượng, đây là quyền trượng của Rommel.

    [​IMG]

    Tối ngày 22 tháng 6, khi Rommel sắp đi ngủ một giấc cho lại sức, ông lại đứng trên ngã tư định mệnh. Chính lúc đó, hồi chung cuộc cho chiến trận tại Bắc Phi được quyết định.

    Tính liều lĩnh điên cuồng mà Rommel thể hiện đã gây nên nhiều lời phán xét. Trong thực tế, với đợt rút lui, người ta đặt ra hai câu hỏi chính: Nếu Rommel thận trọng hơn, nếu ông ta dừng quân lại dọc theo phòng tuyến Bardia-Halfaya phù hợp với chỉ thị ngày 23 tháng 3, nếu cuộc hành quân Hercules nhắm vào đảo Malte được thực hiện trong mùa hè ấy và thành công, liệu tất cả các điều ấy có làm thay đổi hồi chung cuộc của cuộc chiến Địa Trung Hải không? Chúng tôi (tác giả) không nghĩ như vậy bởi vì trận chiến tổng quát đã đi vào con đường không thể trở lui được. Mỗi tuần lễ trôi qua, sức mạnh của phe Đồng minh gia tăng thấy rõ, nhờ được phục vụ bởi một guồng máy sản xuất phi thường (ví dụ các nhà máy đóng tàu của Mỹ có thể hạ thủy mỗi ngày lên đến 5 chiếc tàu Liberty Ships), và bởi một lực lượng nhân lực trù bị không bao giờ cạn. Trong khi đó, trên mặt trận Liên Xô, quân lực Đức yếu dẩn một cách bi thảm và guồng máy sản xuất thì bị tổn thương vì các cuộc không tập liên miên.

    Do đó ta có thể xác nhận rằng không có gì có thể ngăn cản người Anh tiếp nhận không ngừng lực lượng tăng cường từ ngõ Hồng Hải. Và không còn gì có thể ngăn cản, trong chưa tới 5 tháng sau, cuộc đổ bộ của Đồng minh lên Bắc Phi, tại các địa điểm nằm phía sau lưng Afrika Korps.

    Đến nỗi người ta phải nói rằng sau ngày Tobrouk bị thất thủ, Rommel không còn gì có thể chọn lựa. Trước sự tăng cường sức mạnh không thể nào tránh được của quân Anh, ông chỉ còn cách toan tính đánh canh bạc cuối cùng, nghĩa là tiến về Alexandria, 650 km xa hơn về hướng đông.

    Ông đã làm thế trong một không khí say sưa dường như không tương xứng chút nào với những khó khăn đè nặng lên vai ông. Sau đó ông có kéo được những đầu óc lạnh lùng nhất của Comando Supremo hay không thì lại là một chuyện khác. Do đó, trong khung cảnh toàn bộ của vùng Địa Trung Hải, ngày 22 tháng 6 ấy vẫn là ngày của định mệnh. Vì thật thế, nếu Rommel tôn trọng chỉ thị ngày 23 tháng 3, ông sẽ đóng quân vững chắc tại biên giới Ai Cập, trấn thủ đèo Halfaya, pháo đài Bardia, ngăm không cho quân Anh tiến về phía Tây.

    Một mặt, kế hoạch tại Địa Trung Hải của phe Trục sắp được thực hiện. Năm sư đoàn sẵn sàng nhảy lên đảo Malte mà hòn đảo lúc ấy đã tỏ ra kiệt quệ. Malte sẽ bị chiếm đóng. Người Ý và Đức hoàn toàn làm chủ các đường giao thông. Để trấn thủ phòng tuyến của mình, Rommel sẽ sử dụng đến các hải cảng sau lưng mình: Tobrouk, Benghazi, Tripoli. ông có thể chờ đợi việc này, chờ đợi rất lâu, nhưng chờ đợi cái gì Chở cho đến lúc lực lượng quân Anh đủ mạnh để rồi bị tấn công? Để rồi ông phải tấn công trở lại lẩn nữa chăng? Lúc ấy, điều kiện chiến trường sẽ hoàn toàn khác.

    Ở một mặt khác, nước bài tháu cáy trong việc tiến sâu mãi đến lưu vực sông Nil chứa đựng một nguy cơ kinh khủng, vì nó bắt buộc phải bỏ cuộc tấn công vào Malte. Để tiếp tục tiến về phía Đông, Rommel sẽ cần đến các lực lượng dành cho chiến dịch Hercules, cả trên bộ lẫn trên không. Mối nguy cơ này, từ khi đọc nhật lệnh gửi cho các đơn vị ở Tobrouk, ta biết rằng ông đã chấp nhận: Trong những ngày sắp đến, tôi đòi hỏi các anh những cố gắng cuối cùng??

    Do đó, ôngàyêu cầu được giải trừ các nhiệm vụ hàm chứa trong mệnh lệnh ngày 23 tháng 3. Và một lần nữa ông chạm trán với người Ý. Họ từ chối bật đèn xanh, Rommel phải kêu gọi đích thân Fuhrer. Từ tổng hành dinh xa xôi, ông Hitler đang say sưa với chiến thắng Tobrouk đã trả lời cho vị Thống chế mới của ông ta: Trong chiến tranh, may mấn chỉ đến một lần cho người lãnh đạo. Người nào không biết nắm lấy, sẽ không bao giờ gặp lại cơ hội ấy lẩn nữa.

    Như vậy là lập Trưởng của Rommel đã được chấp thuận. Ngày 15 tháng 6, một hội nghị thượng đình được tổ chức tại Tobrouk với sự tham gia của các Tư Lệnh Đức và Ý tại Địa Trung Hải. Tại đấy có Tướng Bastico, tổng Tư Lệnh Phi Châu và viên tham mưu Trưởng của ông, Tướng Cavallero. Rồi ông Oberbefehlshaber miền Nam, Thống chế Kesselring, và Đô đốc Weichold, Tư Lệnh hải quân Kriegsmarine Đức.

    Về đảo Malte, người ta đi đến một giải pháp dung hoả: cuộc tấn công sẽ hoãn lại cho đến tháng 9. Điều đó mang ng m ý: Cuộc tấn công của Rommel phải chấm dứt trước khi hết mùa hè. Do đó, chỉ còn vấn để soạn thào các chỉ thị liên quan đến cuộc tấn công này. Tại đây có hai khuynh hướng: Hoặc già tiến quân dọc theo bờ biển cho đến El Alamein, một địa phương sau cùng có t m mức quan trọng, nơi mà lực lượng phe Trục có thể tập hợp để chuẩn bị đợt dứt điểm cuối cùng. Hoặc là tiến thẳng đến Alexandrie. Từ Tobrouk đến Alamein, khoảng 500 km đường bộ. Từ Alamein đến Alexandrie chỉ còn 120km.

    Cavallero u?ng hộ giải pháp thứ nhất, nhưng Rommel thì tỏ vẻ say sưa. ông công khai mời Bastico đi ăn tối tại Cairo vào ngày 30 tháng 6, là 5 ngày nữa. Người ta tự hỏi là làm thế nào mà một con người như Rommel lại có thể để cho bị lôi kéo vào một trò khoác lác đến như vậy? Nhưng, thái độ lạc quan của Rommel đã chinh phục Bastico, ông này cũng mơ mộng đến Cairo. Và Cavallero phải nhượng bộ. ông soạn thào các chỉ thị quy định cho các đơn vị phe Trục lấy Alexandrie và Cairo làm mục tiêu. Trong khi ngày 5 tháng 5 trước đó, ông đã từng khuyên Rommel một cách thực tiêfn hơn: Tobrouk, sông Nil chỉ là chuyện mơ tưởng.

    Lúc đó, chiếc lao đã được phóng đi.

    Về phía người Anh, việc mất Tobrouk được cảm nhận như một vố nặng nề. Vào thời đó, Anh quốc chịu nhiều thất bại tại Viễn Đông. Và nếu Churchill không bao giờ thối chí, ấy là vì ông th m định được giá trị của sự hậu thuẫn từ tiềm lực mạnh mẽ của Hoa Kỷ cùng tình bạn ngày càng thếm thiết giữa ông với tổng Thống Roosevelt. Và chăng tin tức liên quan đến trận chiến tại Bắc Phi đã đến với ông khi ông đang ở Washington.

    Ngày 22 tháng 6, Afrika Korps đã Chuyển động về phía Đông, vượt qua biên giới Ai Cập.

    Ngày 22 tháng 6, Afrika Korps đã chuyển động về phía đông, vượt qua biên giới Ai Cập. Các kho dự trữ chiếm được tại Tobrouk đã làm cho cuộc tấn công không bị định trộ. Đích thân Rommel cũng vượt qua biên giới ngày 23 và đến gặp Sư đoàn 90 Khinh binh, mũi dùi của cuộc tấn công.

    Ngày 25, Tướng Auchinleck, tổng Tư lệnh Quân đội Anh ở Trung Đông giải nhiệm Tướng Ritchie và đích thân chỉ huy Tập đoàn quân VIII. Cũng như Rommel, ông còn hai giải pháp: Hoặc là bám chặt trận địa trong khi không còn điểm tựa vững chắc và phải nhìn đối phương bao vây , tiêu diệt phần còn lại của Tập đoàn quân VIII. Hoặc là vừa đành vừa di tản chiến thuật về phía đông và lặp phòng tuyến Thật vững chắc ở một vị trí nào đó thích hợp.

    Khi nhìn vào Bản đồ bờ biển Địa Trung Hải từ Tobrouk đến Alexandrie, ta sẽ thấy nổi Bột các địa danh Bardia, Solloum, Sidi-Barani, Marsa Matroth, Fouke và El-Alamein. những địa phương nằm sát bờ biển ấy đầu còn đặc điểm giống nhau: Tất cả đầu còn sa mạc đằng sau rộng lớn vô tận. Do đó, đầu có thể bị đành bòc về phía Nam và vòng lên bao vây. Chỉ riêng còn một biệt lộ là El-Alamein. Cách 60km về phía Nam là vùng đất trùfng Kettara, một vùng đểm lê?y nằm dưới mực nước biển, hoàn toàn không còn chiến xa hay xe cộ gì di chuyển được. Như vậy Rommel chỉ còn 60 km từ bờ biển dọc xuống để tiến quân. Chính Auchinleck đã lựa chọn vị trí này để xây dựng phòng tuyến. Đồ bịt kè? hở, ông mang Tối đa các lực lượng tăng cường từ khắp vùng Trung Đông đến, họ vội vã lên đường để đến kết hợp với Tập đoàn quân VIII.

    Rommel liền đuổi theo. Ông hy vọng cắt ngang đường rút lui của địch bằng cách đi vòng về phía Nam. Nếu ông không làm được, lý do là vì cuộc rút lui của Auchinleck quá nhanh.

    Kể từ lúc ấy, do kinh nghiệm, ông tướng Anh biết rằng ông đang lấy được một lợi điểm to lớn. Cùng với đoàn đường dài chạy qua, con đường tiếp tế của Rommel ngày càng xa xôi trong khi của Auchinleck ngày càng ngắn lại. Tại El-Alamein, ông sẽ hoàn toàn được dựa dẫm vào Alexandrie về mặt tiếp viện. Cũng với cải lý do đó, việc yểm trợ bằng không quân cũng càng ngày càng còn hiệu quả. Trong khi đó, việc yểm trợ bằng không quân của Rommel ngày càng khó khăn hơn do phi cơ của Đức vẫn còn đặt căn cứ tại vùng Cyrenaique.

    Cuộc săn đuổi là một trong những trang sử là lùng nhất Thế Chiến Thứ Hai. Với chiến lợi phẩm chiếm được từ Tobrouk, giờ đây trong các đơn vị của Afrika Korps số lượng chiến xa của Anh ngang với của Đức và Ỳ. Và người ta chứng kiến những thành phần lẻ tẻ của quân Anh còn sót lại trong trận đánh Tobrouk đã chạy đến gia nhập với Afrika Korps vì tưởng đó là Tập đoàn quân VIII đang rút lui.

    Tốc độ là điều quan trọng nhất, Rommel kể với vợ. Chúng tôi hy vọng tiêu diệt tất cả những gì còn lại của quân địch.

    Bức thư đề ngày 26 tháng 6. Afrika Korps tiến gần đến Marsa Matrouth. Từ Tobrouk, trong vòng còn 4 ngày, ông đã tiến quân qua 400km. Binh sĩ đầu gĂ?y Ắm và sàm nf́ng. Họ lợi dùng từng phút dừng quân khi chạy sát cảnh bờ biển để nhào vào sóng biển. Nhưng vào thời điểm cuối tháng 6 này, nước biển Địa Trung Hải lại quả nòng không thể giúp cơ thể họ màt dịu đi phần nào. Đôi khi những cơn bão cát đã làm cuộc tiến quân dừng hẳn lại. Mỗi người gặp cong mình lại, chờ đợi thoát ra khỏi cơn mưa cát mà trong nhiều giờ liền đã làm dịu bớt Ánh mặt trời lóa mắt. Nước bị kiểm soát gắt gao bởi vì cứ theo cải đà này thì khó mà đưa đồ tiếp tế đến được. Nhiều đơn vị bị nằm đường vì hết xăng trong vài giờ.

    Ngày 27 tháng 6, quân Anh bám chặt vào Marsa Matrouth để cố gắng trì hoãn đà tiến quân của Rommel. Ông bắt buộc phải đưa quân ra đành nhau. Nhiệm vụ này được giao cho Quân đoàn 20 và 21 của Ý cùng Sư đoàn 20 Khinh binh, sư đoàn này vừa chạm phải Sư đoàn 7 Thiết giáp Anh vừa mới tập hợp vội vã dưới sự hỗ trợ của quân trù phòng Marsa Matrouth là Sư đoàn New Zealand của Tướng Freyberg. Phần còn lại của Afrika Korps được giao trách nhiệm đẩy lui chiến xa Anh để cô lặp Marsa Matrouth. Nhưng trong đêm 27 rạng 28 tháng 6, Freyberg toan tính vạch đường máu để thoát khỏi vòng vây. Trong bóng đêm dày đặc, một tình trạng hoảng loạn không tưởng tượng nổi đã xảy ra.

    Bộ Chỉ huy của tôi đặt tại phía Nam của pháo đài, Rommel kể lại, bị lôi kèo vào vòng xoáy hoảng loạn. Mức độ dữ dội của hoả lực đạt tới điểm cực đại. Bản doanh của tôi lập tức bị bao quanh bởi một đám xe Bắc chạy rừng rực làm nó trở thành một chiếc bia rõ ràng cho địch quân nhắm bắn liên miên. Lập tức xe tôi bị trúng nhiều phát đạn. Thật khó mà diễn tả tình trạng hoảng loạn lúc ấy. Đêm ấy trời quá tối nên có lúc Không quân Anh lại oanh tạc vào cả các đơn vị của họ. Và có lúc các đơn vị Đức lại dội hàng cơn mưa đạn vào nhau.

    Đến rạng đông, cuộc tấn công vào Marsa Matrouth đã mở rộng. Ngày 29 tháng 6, lúc 10 giờ, quân Đức đã vào thành phố, nơi đó họ tìm thấy nhiều phi cơ còn nguyên vẹn, các kho xăng, kho tiếp liệu, và nước.

    Đến 11 giờ, sau khi để lại trong thành phố điêu tàn những bộ phận cần thiết cho việc chiếm giữ chiến lợi phẩm và canh gác 2.000 tù binh, Afrika Korps tiếp tục cuộc săn đuổi về phía đông. Từ đó, Rommel đi giữa những binh sĩ của ông. Ông là linh hồn của đợt di chuyển hụt hơi, điên cuồng suốt cả ngày lẫn đêm này.

    Thật là phi lý, ông viết, nếu nghĩ rằng chỉ còn cấp Tiểu đoàn trưởng mới còn nhiệm vụ giữ vững tinh thần binh sĩ. Trài lại, cấp Bộc càng cao thì hiệu quả của tếm gương càng mảnh. Ngay khi yêu cầu binh sĩ làm điều gì quả khó khăn, gương sáng của vì chỉ huy sẽ còn tác dùng và mang lại hiệu quả tốt kèp. Và sẽ còn hiệu quả hơnnếu vì chỉ huy đó biết xây dựng cho mình một huyền thoại.

    Rommel đã có ý tưởng ấy. Và ngày 1 tháng 7, khi ông bước đến đứng đối diện với El-Alamein, cả thế giới đã biết đến tên ông.
  7. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    EL ALMAEIN & TUNISIE

    Cũng giống như năm trước, ông toan tình đành El Alamein một cách tào bảo như Tobrouk. Ông đành El Alamein liền ngay lập tức, ngay từ ngày 1 thông 7. Ông biết rằng cơ may của ông là ở đó, rằng nếu ông phà tan được chốt phòng thủ này trước khi người Anh còn đủ thời gian để tổ chức lại, thì con đường 120km đến Alexandrie sẽ mở rộng cho ông.

    Khi phe Trùc xăng vào tấn công, cả hai bên đầu chuẩn bị cho một trận đánh sinh từ. Rút lui từ Tobrouk, quân Anh còn vừa đủ thời gian bố phòng cho pháo đài El Alamein. Nhưng họ đón chở đòn giáng của quân chiến thắng với một sự tuyệt vọng đến nỗi hải cảng Alexandrie sau lưng họ được lệnh di tản đến trống rỗng. Tất cả tàu bè đều rời khỏi cảng để trành bị chiếm, làm như là sắp có một cơn sóng thần ập vào El Alamein.

    Về phía quân đội Đức Ý, họ không còn quyền thất bại. Chắc chắn là những con người đang tập hợp để tấn công là những con người sắt thép, nhưng trận chiến phi thường mà họ vừa thực hiện đã làm xòi mòn đáng kể hàng ngũ của họ. Mặc dù số chiến lợi phẩm thu được của địch lên cao, Afrika Korps Đức chỉ còn là cái bóng của nó so với lúc khởi hành để chinh phục vùng Cyrenaique. Bây giờ nò chỉ gồm 4.400 binh sĩ, 27 chiến xa, 41 pháo trong đó còn 23 khẩu 88mm. Quân đoàn 20 Ý còn 2.000 người, 14 chiến xa, 30 pháo. Rommel biết mình phải khuất phục El Alamein ngay bây giờ hoặc không bao giờ cả. Vì ông biết rằng với tình hình chiến sự tại Nga thì ông không bao giờ còn hy vọng nhận được những lực lượng tăng cường còn tầm mức quan trọng nữa. Trong khi đó, cơ quan tình báo của ông báo cáo rằng bên phía quân Anh còn nhiều trung đoàn từ Iraq, Syrie và các vùng khác ở Trung Đông đã được đưa đến. Và mặc cho các đợt tấn công của tàu ngầm Đức, những đoàn convoy vẫn đi vòng mũi Hảo Vọng, chất đầy hàng tiếp liệu, quân dụng cho Tập đoàn quân VIII. Chúng càng ngày càng đông thêm, càng dày đặc hơn.

    Cuộc tấn công ngày 1 thông 7 có thể thành công nếu Rommel không bị chống lại bởi một yếu tế đó là ưu thế tuyệt đối của Không quân Anh. Phi trường của họ kế cận liền sau mặt trận, trong khi Không lực Đức đòi hỏi nhiều tuần lễ mới có thể đưa tất cả hạ tầng cơ sở đến các căn cứ chiếm được ở Cyrenaique. Mặc dù vào lúc 17h, Sư đoàn 21 Panzer đã đạt được một thành tích quan trọng với sự chiếm đóng điểm tựa Bir-El-Schein, nhưng cho đến buổi Tối các cuộc tấn công tại các điểm khác không tiến triển.

    Suốt ngày, trong không khí nóng bỏng, các đồi cát chung quanh quanh El Alamein đã rung lên bần bật ác liệt. Giữa các đợt pháo kích và oanh tạc, không biết bao nhiêu tấn sắt thép bom đạn đã chúp xuống pháo đài cũng như xuống đầu quân tấn công.

    Ban đêm, cuộc tấn công vẫn tiếp diễn, thậm chỉ còn ác liệt hơn. Công cuộc phòng thủ càng trở nên tuyệt vọng hơn. Ngày 2 đành dấu một thời gian ngừng nghỉ để hai bên lấy lại hơi thở. Nhưng ngày 3 thông 7, Afrika Korps lại ùa ra tấn công trở lại. lần này Sư đoàn 90 Khinh binh đến được khu vực công sự phòng thủ bê tông. Liệu nó sắp ráng sức kết thúc chăng? Không! Bởi vì chiến thắng đã làm sư đoàn này trả giá quả đắt. Nò kiệt sức. Lúc ấy cả sư đoàn chỉ còn 58 sĩ quan, 247 hạ Sĩ quan, 1023 binh sĩ còn có thể chiến đấu.

    Auchinleck tung hết đợt phản công này đến đợt phản công khác và ông ta thường nhắm vào các vị trí do quân Ý đảm trách hơn. Đấy là một chiến thuật hữu hiệu, Rommel kể lại: Cùng ngày hôm ấy, còn dấu hiệu cho thấy các đơn vị Ý sắp rã ngũ. Và một cuộc tấn công do Sư đoàn New Zealand tung ra nhằm vào Sư đoàn Ariette đang được giao phó trách nhiệm bảo vệ mặt Nam của đạo quân thiết giáp đã hoàn toàn thắng lợi. Trong số 30 khẩu pháo mà Sư đoàn Ariette còn trong tay, 28 khẩu đã rơi vào tay địch. 400 binh sĩ bị bắt làm tù binh. những người khác chạy trốn.

    Ngày 4 thông 7, tình thế của Rommel Thật đáng lo ngại. Phải áp dùng đến mưu mẹo mà thôi. Ông cho bố trí rất nhiều chiến xa giả, những dàn pháo 88mm giả bằng gỗ để lừa quân địch và địch quân phải dừng tấn công.

    Ngày 9, Afrika Korps Đức lại thực hiện toan tình tấn công chọc thủng phòng tuyến bằng cách đầy dổn Sư đoàn New Zealand trở lui nhưng không thành công. Và Bình minh ngày 10, quân Anh lại tấn công quân Ý, nghiền Sư đoàn Sabratha ra thành từng mảnh khiến cả sư đoàn này trốn chạy toàn loạn về phía Tây. Đồ tràm kè? hở đó, Bộ Tham mưu của Rommel phải tập hợp tất cả những gì còn được, mức báo động trở nên khẩn cấp.

    Dù sao, vào Lúc đó, cuộc tấn công đầu tiên vào El Alamein đã được coi như thất bại. Mặt trận được ổn định. Rommel nhận xét: Giờ đây,chúng tôi đã bị đặt vào thế phòng thủ. Quân Anh đã có thể chính đến sau những thất bại nặng nề suốt mùa hè vừa qua. Tư lệnh quân Anh giờ đây hoàn toàn rành rang đề tài trang bị, bổ sung quân số cho các đơn vị bị tổn thương. Chúng tôi không thể biến chiến thắng tại Marmarique thành chiến thắng cuối cùng.

    Không còn bữa ăn tối với Tướng Bastico tại Le Cairo nữa. Ảo ảnh sông Nil đã tan biến. Giờ đây cơn thuỷ triều đã đứng lặng. Phải còn nhiều tuần lễ nữa, nước thuỷ triều mới rút xuống.

    Ngày 13 thông 7, ông Thống chế lại tung Sư đoàn 21 Panzer tấn công vào pháo đài, nhưng Hôm sau ông viết thư cho vợ: Sự mong chở của tôi đã thất vọng cay đắng trong cuộc tấn công ngày hôm qua. Nò hoàn toàn không mang lại một kết quả nào cả. Tuy vậy vẫn phải đành trận này, chúng tôi vẫn phải sắp mở các cuộc tấn công với khì thế mãnh liệt mới.

    Đấy là dấu hiệu thất vọng đầu tiên, hay là sự ngã lòng nơi ông Thống chế. Nguyên nhân của sự chán nản này không phải do nơi tinh thần chiến đấu của binh sĩ dưới quyền ông vấn vẫn cao, mà là do ông phải chiến đấu trên hai mặt trận: Mặt trận El Alamein và Mặt trận chống lại Bộ Tham mưu. Trong hai tuần cuối của tháng 7 này, vấn đề đặt ra cho ông như sau: Hoặc là ông tìm cách giữ mặt trận El Alamein, thì thời gian sẽ còn lợi cho quân Anh cùng với việc các đơn vị của ông sẽ lâm vào tình trạng chán nản. Hoặc là ông bằng mọi giá phải chọc thủng phòng tuyến của Auchinleck và đến Alexandrie, nhưng trong điều kiện nào? Với chiếc thiết giáp cuối cùng và khẩu pháo cuối cùng ư?

    Đấy là điều mà ông luôn nói đến trong các buổi họp được tổ chức liên tiếp với các Tướng Bastico, Kesselring và Cavallero. Người ta không tiếc với ông những lời khuyên và khen tặng, nhưng ông tuyệt vọng chờ đợi lực lượng tăng cường và đồ tiếp tế. Ông muốn kết hợp cuộc tấn công Tối hậu của ông với việc thà một sư đoàn dù xuống Alexandrie, nhưng lời để nghỉ này chẳng được ai tiếp nhận. Ông cay đắng nghĩ đến đảo Crete gần sát bên do Không lực Đức chiếm đóng, và tự hỏi tại sao người ta chịu tốn kém nhiều để chiếm đóng các hòn đảo ấynếu không phải là chỉ để giúp cho các binh sĩ gửi dầu Olive về cho gia đình họ?

    Đến nỗi, ngày 21 thông 7, một cách sáng suốt, ông để nghỉ một cuộc di tản chiến thuật về phòng tuyến Bardia-Halfaya. Duy còn điều là lần này lại không còn vấn đề rút lui nữa. Bởi vì nếu mọi người đầu mơ mộng trong cuộc phiêu lưu tại Ai Cập này, thì giấc mơ điên cuồng nhất là của Mussolini. Ông ta đã chuyển một chỉ thị ngày 27 tháng 6 cho Rommel, chỉ định mục tiêu ông phải chiếm là kênh Suez và sau đó là Port Said càng nhanh càng tốt . Tài liệu còn định rõ: Trước đó phải chiếm đóng vững chắc Le Cairo .

    Ông Duce còn dự liệu cả phần nghi Lễ của cuộc chiếm đóng: â Lực lượng Đức và Ỳ phải được đại diện ngang nhau khi đến kênh Suez . Riêng phần ông ta, ông sẽ đích thân đến nơi, vì ông nghĩ là sẽ vào Le Cairo bằng cách dẫn đầu quân đội của mình, cưỡii trên một con ngựa bạch và đeo lừng lững thanh đoàn kiếm tượng trưng uy quyền đối với người Hồi Giáo!

    Triệt thoái không được đặt thành vấn đề được xem xét nữa. Cho nên Rommel phải đặt binh sĩ của ông vào thế phòng thủ. Và điều đó cho thấy còn lợi ngay lập tức. Với tổn thất không đáng kể, ông giáng trả quân Anh nhiều vố nặng nề, đập tan các đợt phản công của họ.

    Trong thời kỳ này, ông còn nhận được vài lực lượng tăng cường. Nhưng cho đến tháng 8, so với cấp số đầy đủ thì Afrika Korps còn thiếu đến 484 sĩ quan, 2.500 hạ Sĩ quan và 9.000 binh sĩ. Vũ khí thì thiếu thốn bi thảm, cho dù phải sử dùng khá nhiều khẩu pháo thu được của Anh thì vẫn còn thiếu 85%.

    Thất vọng, trong hỏa ngục chọi mắt của mùa hè, Rommel nhận thấy cơ may của mình đang trôi qua cùng ngày tháng. Ông thông báo cho Thống chế Kesselring một thời hàn: Cuộc tấn công phải bắt đầu vào cuối tháng 8 trong thời kỳ trăng tròn. Sau đó sẽ quá trễ.
  8. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Sẽ quá trễ bởi vì phía bên quân Anh cũng còn nhiều chuyện đang xảy ra.nếu đối với Hitler, Bắc Phi là một chiến trường thứ yếu, sau các cuộc viếng thăm mặt trận vội vã thì cả Bastico và Kesselring lập tức quay về Roma, thì chính Winston Churchill lại xem vấn đề rất quan trọng. Ngày 11 thông 7 sau một loạt tiếp xúc với Rootsevelt, ông viết: â Tại Washington, tôi nhận được từ Tổng thống Mỹ 300 chiến xa loại mới nhất và tốt nhất (ỳ ông muốn nói đến xe tăng Sherman). Người ta đã thật sự giật trên tay Quân đội Mỹ vấn đang nóng lòng được trang bị chúng, và chúng được đưa ngay đến kênh Suez bằng những đoàn convoy đặc biệt, kèm theo đó là 100 khẩu pháo 105mm trội hơn hẳn loại 88mm.

    Churchill không ngần ngại đến Le Cairo, rồi từ đấy đến thăm phòng tuyến El Alamein để nắm bắt tình hình. Tại Le Cairo, ông họp với Thủ tướng Nam Phi Smuts, tổng Tham Mưu Quân Lực Hoàng Gia Alan Brooke, hai Tư Lệnh Không quân và Hải quân Địa Trung Hải là Tướng Tedder và Đô đốc Harwood. Sau đó ông quyết định: Bổ nhiệm một tân Tư Lệnh quân đội tại Trung Đông, Tướng Harold Alexandre và giao cho Tập đoàn quân VIII một Tư Lệnh mới, Tướng Bernard Law Montgomery.

    Alexandre, Bá Tước tương lai của Tunis lúc đó 51 tuổi. Chính ông là người đảm trách việc đưa quân đội viễn chinh của Anh trốn thoát khỏi Dunkerque năm 1940, và cũng là người đã chịu đựng những đợt tấn công nặng nề của Nhật tại Miến Điện. Đó là một trong những lãnh tụ nhiều uy lực nhất nước Anh.

    Montgomery là người mà tên tuổi sẽ gắn liền với El Alamein, được 55 tuổi. Đó là một nhân vật đầy lôi cuốn. ông là người có thể làm tan vỡ huyền thoại Rommel. Ông ta có khả năng chiếm được lòng trung thành của binh sĩ và có tại thật sự trong mỗi lẩn cần nâng cao tinh thần quân độì, Alexandre viết.

    Và rất lý thú khi nhận thấy rằng hai ông Tướng, Montgomery của Anh và Rommel của Đức đang đối đối đầu trong sa mạc, lại vừa có nét giống nhau lại vừa tương phản nhau kỳ lạ.

    Cả hai người đều là quân nhân nhà nghề, kỹ thuật gia và lý thuyết gia, lại cũng từng là giáng viên quân sự nữa. Cả hai cũng đã đương đầu nhau trong cuộc chiến tại Pháp. Cả hai đều có một thứ cảm quan mà ngày nay người ta gọi là PR (giao tế nhân sự). Cả hai đều tự xây dựng cho mình một huyền thoại.

    Nhưng trong khi phía Rommel huyền thoại đã dự phần vào chiến thuật bởi vì nó giúp tăng khả năng của binh sĩ nhiều hơn, thì nơi Montgomery nó lại biểu hiện như một nét khá buồn của cá tính.

    Monty, là một người đầy tham vọng, một người cô độc không bạn bè không tình yêu, bởi vì cuộc hôn nhân ngắn ngủi của ông đã chấm dứt bằng cái chết vì tai nạn của vợ ông. Không có trò tiêu khiền, không có mối ưu tư gì khác ngoài binh nghiệp. Nhu cầu duy nhất và độc nhất của ông là thành công trong binh nghiệp.

    Trong tập hồi ký của mình, Lord Alexandre đã buông mấy lời khá nặng nề dành cho vị Tư Lệnh Tập đoàn quân VIII: Ông ta tự phụ đến mức cho rằng mình không bao giờ thất bại lẩn nào kề từ sau El Alamein. Sự thật là chẳng bao giờ ông ta dám liều một chút để thư? một lần. Đấy, ông ta quá thận trọng và miêfn cưỡng trong việc dám thử thách số phận?? Tôi nghĩ rằng ông ta đã sai lầm khi đòi hỏi cho độc một mình ông ta tất cả vinh quang trong các chiến thắng. Uy tín của ông ta rất lớn, nhưng sẽ còn lớn hơn nếu ông ta biết nhắc đến những con người đã giúp ông đạt được những chiến công. ông ta tỏ ra không mang ơn nghĩa nào ngay cả với chính binh sĩ của ông.*****

    (*****: Theo Heo thì đoạn bình luận trên của Tướng Alexandre chỉ nói về Montgomery trong cuộc chiến Bắc Phi. Vì sau này chính Montgomery đã vạch ra và thực hiện kế hoạch Market Garden, một kế hoạch đầy tính sáng tạo, cũng mang đầy tính rủi ro, và đó cũng là một trận chiến bại rõ ràng của Montgomery.)

    Alexandre còn bổi thêm: Ông ta luôn luôn là một người cô độc, tự mãn với ý kiến của mình, nhiều tham vọng, khó hợp tác, khó thân thiện. Chắc chắn là vợ ông ta đã từng làm ông nhân bàn hơn. Nhưng khi bà mất, ông rút về với bàn ngã của mình, dâng hiến trọn cuộc đời cho binh nghiệp.

    Ông ta từng một lần nói với tôi: Người ta chỉ yêu một lần, đối với tôi thế là hết.

    Đấy là con người mà Anh Quốc giao cho trách nhiệm đối đầu với Afrika Korps.
  9. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Trong suốt tháng 8, bằng một nhiệt tâm điên cuồng, Rommel đã quấy rầy Kesselring, Cavallero, Bastico và tất cả những ai có thể mang đến chút tiếp liệu nào cho đạo quân của ông. ông chứng minh không biết mệt mỏi rằng làn sóng tăng viện về người và vũ khí mà Tập đoàn quân VII đang nhận được sẽ giúp họ tái trang bị và tổ chức lại hoàn toàn chỉ trong vài tuần nữa. Ngày 18 tháng 8, Cavallero hứa một cách long trọng, nhưng chẳng bao giờ ông Tướng Ý này giữ lời hứa cả, là sẽ giao cho Rommel 6.000 tấn xăng trước khi khởi động đợt tấn công được ấn định chậm nhất là vào ngày 31 tháng 8. Đối với ông Thống chế, ngày ngày trôi qua trong sự lo âu. ông mệt mỏi, đau khổ, gày mòn. Bác sĩ của ông nhất định bắt ông nghỉ ngơi và sau đó áp dụng một phương pháp trị liệu mạnh để giúp ông phục hồi sức khoẻ.

    Cơn bệnh bị đẩy lui. những ngày cuối cùng của tháng đã trôi qua. ông chỉ nhận được có 800 tấn xăng. Đến lượt Kesselring hứa với ông cho thêm 1.000 tấn cũng như thêm đạn dược sẽ được chở đến bằng máy bay. Vì không thể để cho ngày trông tròn định trước trôi qua, ông Thống chế cho dù rất giận dữ nhưng cũng phải thay đổi huấn thị. Thế là không còn vấn để tiến đến Alexandrie nữa, chỉ còn một mục tiêu đơn giàn, chỉ là đánh các lực lượng địch. Nghĩa là cố gắng bảo mòn lớp phòng thủ của Tập đoàn quân VIII và chờ đợi tiếp viện.

    Ngày 29 tháng 8, binh sĩ tiến ra vị trí xuất phát. Ngày 30 lúc 22 giờ, Afrika Korps kéo theo các sư đoàn Ý ùa ra tấn công một lần nữa. Kế hoạch lẩn này khá giống với kế hoạch đánh Tobrouk. Trên phòng tuyến chạy từ El Alamein đến vùng đầm lầy Kettara, ông tìm kiếm yếu điểm nằm về phía Nam, để vòng về phía Nam sau đó trở ngược lên phía Bắc đến bờ biển, hầu cô lập và tiêu diệt đối phương.

    Giai đoạn đầu của cuộc tấn công diễn ra phù hợp với dự tính khi đêm trông soi sáng để có thể mở một con đường xuyên qua bãi mìn. Đến rạng sáng, quân Đức đến được cách El Alamein chừng 30km về phía Đông Nam. Trong đêm 31 tháng 8 rạng ngày 1 tháng 9, họ tiến về phía Bắc, và chính tại đó thám kịch đã xảy ra.

    Những con tàu được chờ đợi tại Tobrouk và Marsa Matrouth chở xăng dầu quý báu đã không thấy đến. Trong khi chiến thắng đang nằm trong tầm tay Rommel, trong khi ông sắp đập cho quân Anh một cú trời giáng bằng cách bao vây cô lập được toàn thể cứ điểm El Alamein, thì Rommel lại hết xăng. Tối ngày 2 tháng 9, trong số 6.000 tấn mà Cavallero đã hứa, chỉ có 1.000 tấn là đến được Phi Châu, 2.600 tấn nằm lại giữa biển vì tàu chở dầu bị trúng ngư lôi. Số còn lại vẫn còn nằm ì tại Ý. Việc oái ăm nhất là ba chiếc tàu chở dầu đã bị Hải quân Anh đánh chìm chỉ vì chúng không chịu tôn trọng lệnh im lặng vô tuyến. Một lý do ngớ ngần đã chận đứng cả cuộc chinh phục Alexandrie.

    Nằm bất động tại mặt sau của Tập đoàn quân VIII Anh, Afrika Korps như là những mục tiêu cố định lộ rõ trên sa mạc. Họ trở thành bia tập bắn cho Không lực Anh ra sức đập xuống đầu họ một cách dã man. Cả một cơn hồng thủy toàn bom đạn trút xuống đầu các binh sĩ và xe cộ. Tuy nhiên, họ cố gắng nguỵ trang, chịu trận, sử dụng bãi mìn của địch để cùng cố vùng đầu cầu của mình.

    Vậy mà đến ngày 7 tháng 9, Rommel cũng thành công trong việc đầy xa mặt trận hơn 20km về phía Đông. ông hoà tốc tổ chức bịt kín các kẽ hở với những bãi mìn mới và dày Đặc. ông tiếp tục quấy r y Kesselring và các thượng cấp của ông ở Comando Supremo bằng cách quả quyết rằng Montgomery sẽ tấn công vào tháng 10.

    Ông hoàn toàn có lý. Trong thời gian đó, vị tổng Tư Lệnh quân lực Anh tại Trung Đông và Tư Lệnh Tập đoàn quân VIII hoạt động ráo riết. Một chương trình huấn luyện cấp tốc đã được áp dụng bắt buộc với các đơn vị mới đến Phi Châu. Chiến xa M-4 Sherman và pháo 105mm được đưa đến với một nhịp độ tông dẩn. Một sự yên tĩnh tương đối bao phù trên mặt trận. những thay đổi quan trọng chỉ diễn ra ở hậu tuyến.

    Rommel, bị cưỡng ép nằm vào thế bị động, quyết định trở về tổng hành dinh của Fuhrer và đích thân biện hộ cho lý lẽ của mình cũng như lý do cần tiếp tế cho Afrika Korps. Sau đó ông nghe lời bác sĩ đi nghỉ ngơi ít lâu. ông bị bệnh hoàng đàn và khí hậu Châu Phi đã hành hạ lá gan của ông. ông cần phải qua một cuộc điều trị tại Semmering, Tây Nam Vienne. Trước khi đi, ông xem xét lại lẩn chót các pháo đài trên phòng tuyến. Các bãi mìn dày Đặc nhất chưa từng có từ trước đến nay. đằng sau chúng là pháo chống tăng cùng các khẩu 88mm sẵn sàng nhà đạn.

    Trong khi Rommel vống một, hợp lý nhất là quyền chỉ huy đoàn quân Afrika Korps cùng các sư đoàn cơ giới và thiết giáp Ý phải giao cho một trong các phụ tá của Rommel hay một trong các tư lệnh đơn vị lớn của ông. Nhưng Hitler lại có những ý tưởng khác về vấn để này. Trong thực tế, Hitler không có ý định gửi Rommel quay trở lại Ai Cập mà giao cho ông chỉ huy một binh đoàn ở mặt trận phía Đông. Do đó, Tướng Stumme, người chưa bao giờ đặt chân lên Phi Châu được cắt cử thay ông. Và đó là một sai lầm nữa.

    Trong suốt thời gian tháng 10, Montgomery đầy mạnh việc chuẩn bị tấn công. Trong khi đó quân Đức Ý chỉ nhận được một số tiếp liệu nhỏ giọt bằng đường bộ hay bằng các ghe đi biển giữa Tripoli và Marsa Matrouth.

    Ngày 23 tháng 10, lúc 21h40, Tập đoàn quân VIII khởi sự tấn công. 1.200 đại pháo đồng loạt khai hoả. Sau đợt pháo phủ đầu, 50.000 binh sĩ, hơn 1.000 chiến xa cùng 9.000 xe cộ đủ loại xăng lên.

    Khi nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân VIII, tôi đã tuyên bố rằng nhiệm vụ của tôi là tiêu diệt Rommel cùng lực lượng của ông ta, nhiệm vụ ấy sẽ thi hành ngay khi chúng ta sẵn sàng. Bây giờ chúng ta đã sẵn sàng. Trận đánh sắp diễn ra là trận đánh quyết định lịch sử. Toàn thế giới đang hướng nhìn vào chúng ta.

    Đấy là lời tuyên bố của Montgomery trong bàn nhật lệnh ngày 23 tháng 10 năm 1942. Trong những tuần lễ chuẩn bị, ông sử dụng thời gian để huấn luyện binh sĩ sử dụng các loại vũ khí mới nhất và để trinh sát cần thận tuyến phòng thủ của đối phương. Pháo binh Đức Ý không có đủ để bảo vệ các bãi mìn cho dù được bổ sung cả một số khẩu chiếm được từ mặt trận Liên Xô, sửa chữa và gửi đến Phi Châu. Chính vì vậy mà lính công binh ra sức tiến vào. Họ có nhiệm vụ mở những hành lang đổ bộ binh băng qua mở đột phá khẩu cho các đơn vị thiết giáp.

    Trong trận đánh này, không còn vấn để chiến thuật nữa, phía Bắc mặt trận là bờ biển, phía Nam là đầm lầy, nên Montgomery phải đánh chính diện. Trước khi lên đường, Rommel đã tiên liệu và cải lẫn các đơn vị Đức và đơn vị Ý với nhau suốt dọc mặt trận. Nhưng làm như thế thì ông đã tách rời kỹ thuật tập trung thiết giáp cổ điền. Sau cùng, dường như Tướng Stumme đến thay Rommel đang chờ đợi một cuộc tấn công về phía Nam (vì có vài cuộc hành quân nghi binh của Anh ở đó) trong khi Tập đoàn quân VIII hướng nỗ lực chính của họ vào khoảng giữa đình núi Miteieiya chạy từ Tây Bắc đến Đông Nam, gần như chia cắt mặt trận ra làm hai.

    Không bao giờ Stumme có thể giải thích việc đó. Ngay sáng 24 tháng 10, trong khi đi thám sát mặt trận, ông bị giết chết và mãi đến ngày hôm sau mới tìm được xác ông. Lập tức ông được thay thế bởi Tướng Von Thoma, chỉ huy Trưởng cao cấp của Afrika Korps. Nhưng Thoma cũng là người mới, ông vừa từ Đức đến.

    Dù sao đi nữa, lửa hoả ngục đã bùng lớn vào ngày 24 tháng 10, khi Sư đoàn 9 Úc ở bên phải, Sư đoàn 1 Nam Phi ở bên trái, dẫn đầu một đợt tấn công. Sau lưng họ là cả Quân đoàn 10 thiết giáp bao gồm Sư đoàn 51 Thiết giáp, Sư đoàn 1 Thiết giáp, Sư đoàn 2 New Zealand và Sư đoàn 10 Thiết kỵ.

    Tại Semmering, Rommel vừa mới bắt đầu đợt điều trị thì nhận được tin báo. Ông bỏ bệnh viện, đáp chiếc phi cơ trống đầu tiên để đến đại Bản doanh của ông ngày 26 tháng 10. Tình thế quá nghiêm trọng. Sư đoàn 90 Khinh binh được tung ra nhằm lấp kẽ hở do quân Anh mở ra. Bị không quân oanh tạc liên tục, sư đoàn này vẫn kháng cự mãnh liệt, không gì có thể lay chuyển họ suốt hai ngày tròn, bất chấp những trận cận chiến đẫm máu liên tục. Tiến đến sát mặt trận, Rommel trông thấy hàng trăm xe các loại biến thành những đống sắt vụn trên những bãi mìn. Ông biết rằng quân Anh đã trả giá đắt tại đấy nhưng vẫn phải trích bớt cánh phía Nam để tăng cường thêm. Rommel liền gửi cho Comando Supremo một tín hiệu SOS thật sự. Ông đòi hỏi tất cả tàu ngầm, các chiến hạm, các tàu vận tải Ý phải được động viên và trưng dụng để chuyển tiếp liệu và xăng cho Afrika Korps ngay lập tức. Nhưng người Ý vẫn ù lì bất động như thường lệ. Về phía Không quân Đức, họ báo tin rằng họ không còn có khả năng tiếp vận đạn dược bằng máy bay nữa.

    Sự yếu kém về tiếp liệu đã được cảm nhận một cách nặng nề, cho dù những người lính Đức chiến đấu gan lì như những người anh hùng. Từ từ nhưng chắc chắn, những chiếc túi do quân Anh mở được trên mặt trận dần dần nới rộng ra. Trong đêm 28 rạng ngày 29 tháng 10, họ toan tính từ biển đổ bộ lên Marsa Matrouth để đánh bọc hậu Afrika Korps, nhưng Rommel đã tiên liệu trước và quân tấn công bị đẩy lui xuống biển. Tuy nhiên, ngày 31 tháng 10 là một ngày quyết định. Quân New Zealand xâm nhập được vào mặt trận phía cực Bắc của cứ điểm tên Thompson Post, bao vây một trung đoàn Panzer Grenadier (dịch tạm là Bộ binh cơ động hạng nặng) và dồn nó về bờ biển. Sư đoàn 90 Khinh binh và một lực lượng xung kích của Sư đoàn 15 Thiết giáp phải kết hợp tung ra trận đánh khốc liệt để giải vây cho trung đoàn này, đến lúc đó một Tiểu đoàn của họ đã bị bắt giữ sau khi chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Người ta có thể hình dung mức độ ác liệt của trận đánh khi người Anh loan báo rằng tất cả tù binh của Tiểu đoàn này đều bị thương không trừ một ai.

    Ngày 2 tháng 11, đoàn quân của Rommel lại một lần nữa như có phép lạ, đã bít kín được những kẽ hở. Địch quân phải dừng lại sau những tổn thất nặng nề. Nhưng Rommel điện về cho tổng hành dinh Fuhrer như sau:

    Quân đội đang kiệt sức hoàn toàn sau 10 chiến đấu cực kỳ ác liệt chống lại một kẻ địch áp đảo nhiều lần cả trên bộ lẫn trên không. Chiến thắng trong trận đánh phòng thủ vừa đạt được này không làm thay đổi gì cả. Quân đội không còn đủ sức đẩy lui một cuộc tấn công mới bằng các đơn vị thiết giáp của địch được dự kiến sẽ xảy ra vào đêm nay hay sáng mai. Tình trạng thiếu xe cộ không cho phép tổ chức một cuộc di tản chiến thuật trong vòng trật tự cả 6 sư đoàn của Ý, 2 sư đoàn và lữ đoàn Đức không được cơ giới hoá.

    Ông nhấn mạnh rằng việc thiếu thốn tiếp tế xăng lại càng không cho phép cứu thoát các xe thiết giáp và kết luận một cách tàn bạo: Trong những điều kiện này, bất kề những gương anh hùng và tinh thần quả cảm của binh sĩ, chúng ta cần phải tiên liệu tình trạng Quân đội bị tiêu diệt lẩn hồi.

    Quả vậy, vào giữa trưa ngày 2 tháng 11, những quan sát viên không quân báo động khẩn. Phía Bắc mặt trận, còn hai đoàn xe chạy song song, mỗi đoàn khoảng 400 chiếc thiết giáp tiến thẳng về phía Tây. Toàn thể Quân đoàn 10 Thiết Kỵ của Anh khởi sự tấn công.

    Để đương đầu với cơn thuỷ triều ấy thì cần phải trích bớt quân số ở mặt Nam khiến chỗ ấy trở thành yếu kém, đến nỗi toàn thể mặt trận có thể bị tràn ngập nếu còn một đợt tấn công bên cạnh sườn. Rommel đã tiên liệu trước đại hoạ này nên ông đã cho chuẩn bí mật đường rút lui về hướng Fouka. Do đó, cánh Nam có thể rút lui, còn cảnh Bắc thì triệt thoái từng bước một dưới áp lực mạnh mẽ của quân Anh.

    Bên hàng ngũ quân Đức kỷ luật vẫn được duy trì, họ vẫn vững vàng không nao núng. Các trận đánh trong những ngày sau cùng này tác hại đến nỗi Afrika Korps chỉ còn lại 30 chiếc thiết giáp. Thế mà, vì tình trạng thiếu xăng, vì tình trạng từ nhiều tháng qua đạo quân viễn chinh Đức không hề nhận được một động cơ hay một phụ tùng thay thế nào, người ta phải tổ chức kéo xe cộ, và một cuộc rút lui chậm chạp bắt đầu.

    Nhưng ngày hôm ấy, Rommel nhận được một điện văn của đích thân Hitler: Trong hoàn cảnh hiện tại của ông, không thể còn ý tưởng nào khác hơn là việc chống cự quyết liệt, không được lùi một bước. Phải tung vào trận đánh tất cả các binh sĩ, tất cả các vũ khí mà ông có thể tìm được. Nhiều lực lượng không quân tăng cường quan trọng đã được gửi cho tổng Tư lệnh mặt trận miền Nam. Ông Duce và Comando Supremo cũng sẽ thi hành các nỗ lực tối đa để cung cấp cho ông phương tiện cho việc tiếp tục chiến đấu.

    Như vậy là vị chúa tể Đức quốc cấm chỉ mọi cuộc rút lui. Ông ta đã lên án tử hình cho Afrika Korps. Biết rằng chỉ còn 1 hoặc 2 ngày để cứu những gì có thể cứu được, nhưng Rommel không thể không chấp hành và đành huỷ bỏ lệnh lui quân. Đồng thời, ông cấp tốc gửi ngay một sĩ quan tham mưu về tổng hành dinh của Fuhrer để trình bày tình hình trận địa cho Fuhrer, ngay chuyến bay sớm nhất có thể.

    Ngày 4 tháng 11, Afrika Korps lại như có phép lạ, họ thành công trong việc tái lập một phòng tuyến phía Bắc. Và giờ trước mặt họ là các chiến xa bọc thép dày 220mm ở phía trước, 100 mm phía bên hông mà các quả đạn 88mm cũng chịu thua đang dàn hàng chuẩn bị xông vào họ.

    Ngày hôm ấy, khi đến viếng thăm Bản doanh của Rommel, Kesselring thấy viên Tư lệnh của Afrika Korps sắp lâm vào cơn loạn trí điên dại vì cái lệnh không cho phép lui quân của Fuhrer. Kesselring khuyên ông cứ hành động như thế nào cho phù hợp với tình thế. May là đến tối hôm ấy, tình thế đã được giải toả. Sau khi nghe sứ giả của Rommel báo cáo cụ thể tình hình, Fuhrer đã đổi ý, một công điện được gửi đến Rommel: Vì những chuyển biến mới của tình hình, tôi chấp nhận ý kiến của ông.

    Thế là cuộc lui quân có thể tiếp tục, nhưng một ngày quý báu đã mất đi. Ngày 5 tháng 11, Afrika Korps cố gắng rút lui về phòng tuyến mới tại Fouka cách phòng tuyến cũ 60km về phía Tây. Cuộc rút lui muộn màng này không cứu được Tướng Von Thoma, ông bị bắt làm tù binh. Lữ đoàn dù của Ramke đã bị bao vây và được coi như là đã mất vì không còn xe vận tải để chuyên chở. Để cứu phần còn lại của quân đội mình, Rommel bắt buộc phải bỏ rơi hai sư đoàn Ỳ là Pavia và Brescia, để họ lại đằng sau với số phận hẩm hiu. Trong khi đó, đơn vị dù của Folgore bị bắt vì hết xăng ngay trước cứ điểm Fouka.

    Tập đoàn quân VIII với các lực lượng mới tinh đến ngay trước mặt, cứ điểm Fouka không thể nào giữ nổi. Kể từ trận đánh Bardia-Halfaya, Rommel biết rằng đối tượng tranh chấp chính là sự triệt tiêu hay cứu thoát được Pazergroup Afrika. Ông đã bị nghiền nát tại El Alamein. Bây giờ ông chỉ còn tìm cách hoàn thành được việc triệt thoái.

    Ông không biết rằng đúng lúc đó, khi màn đêm buông xuống để chấm dứt ngày 6 tháng 11 năm 1942, cả một hạm đội khổng lồ chở quân Mỹ, Anh thi hành chiến dịch Torch hướng về Bắc Phi. Họ chỉ còn 24 giờ di chuyển nữa để đến các địa điểm đổ bộ là Safi, Casablanca, Fedala, Fort Lyaute, Oran và Alger.

    Thế là bọn Mẽo đã chính thức tham chiến, đến đánh vào sau lưng Rommel, Rommel rơi vào cái rọ ở giữa. Dưới đây là Bản đồ các vị trí đổ bộ của quân Đồng minh.
  10. Khucthuydu2

    Khucthuydu2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    490
    Đã được thích:
    756
    Cuộc đổ bộ của Đồng minh lên Bắc Phi dẫn đến phản ứng trả đũa sấm sét của người Đức. Trong khi Hitler còn đang triệu dụng khẩn cấp Pierre Laval (chính quyền Vichy Pháp) đến Berchtesgaden thì ngay từ ngày 9 quân không vận Đức đã đặt chân lên phi trường El-Aouina tại Tunis và chiếm đóng Bizerte. Từ đó trở đi, những gì mà người ta đã từ chối với Rommel lại ồ ạt đổ vào, nhưng là để ném vào vùng đầu cầu ở Tunisie, để rồi đưa đến thảm hoạ tại Cap Bon.

    Trong thời gian đó, lực lượng Panzergruppe Afrika đã bắt đầu rút về ngã tư đường. Trong sa mạc Cyrenaique, vấn để là cứu thoát những gì còn lại về người và vũ khí, mặc dù vô số xe cộ bị hư hỏng, mặc dù xăng bị thiếu hụt. Phải tránh không để bị bao vây thì phải làm chậm lại tối đa đà tiến quân của Tập đoàn quân VIII, không cho nó vượt một ở phía Nam rồi ngoặt lên chắn ngang đường rút. Việc đó lại phải thực thi trong hoàn cảnh phải tránh đụng độ, bởi vì với tương quan lực lượng như thế này thì điều đó chỉ đưa đến sự tận diệt mà thôi.

    Để trì hoãn đối phương, lại phải áp dụng các trận đánh theo lối nhảy trừu giống như cuộc triệt thoái năm 1941. Và binh sĩ Afrika Korps đã tỏ ra là bậc thầy trong chiến thuật này.

    Một lần nữa máy vô tuyến lại đóng vai trò hàng đầu. Không bao giờ có thể mô tả hết tầm quan trọng của vô tuyến trong chiến tranh sa mạc. Mỗi giây phút dừng quân, các hiệu thính viên giương antenne, mang tai nghe, móc nối với một máy phát trên một chiến xa hay xe chỉ huy, xác định vị trí địch, theo dõi chúng di chuyển, cắt đứt, kiểm chứng.

    Sau cùng, lính công binh đặt mìn bẫy như trò ảo thuật. Những mánh lới quỷ quyệt của chiến tranh mìn bẫy mà quân Đức sử dụng trong cuộc triệt thoái khỏi nước Pháp 1944 đều do Afrika Korps sáng chế ra cả. Đường sá đều bị đặt mìn ngay sau chiếc xe cuối cùng của quân Đức chạy qua. Một cái dốc nhỏ cũng bị cài chất nổ. Những giếng nước, cây kè, những bụi cây địa tiên đơn độc nơi có thể tìm được chút bóng mát cũng đều có cạm bẫy.

    Nhờ tất cả những thứ đó, Quân đội có thể vừa chiến đấu vừa rút lui chậm chạp để kéo theo các đoàn quân không được cơ giới hoá. Tất nhiên là họ hướng về phía Tây, nhưng mục tiêu chính xác là phòng tuyến Solloum-Halfaya mà Tướng Longerhausen, Tư Lệnh của Sư đoàn 164 Không Vận vừa từ Crete đến đang tích cực xây dựng.

    Đến ngày thứ 5 của cuộc triệt thoái, một trong những chiến công kỳ diệu nhất trong cuộc chiến tranh sa mạc đã xảy ra. Hậu quân của Afrika Korps nhìn thấy một đoàn xe của quân Anh tiến hết tốc lực về phía họ. Khi họ vừa sắp siết cò khai hoả thì chợt nhận ra đoàn quân đó là ai. Đó là lữ đoàn dù của Tướng Ramke mà người ta tưởng là vĩnh viễn bị tiêu diệt rồi. Đơn vị này không có xe nên bị rơi lại đằng sau và bị quân Anh bao vây, họ đã lao vào tấn công địch quân, chiếm đoạt luôn cả xe của địch rồi dùng chúng chạy về với Panzergruppe, hai ngàn con người đã về đến đích.

    Ngày 11 tháng 11, Quân đội vượt qua đèo Halfaya, vẫn còn bị đe doạ nếu quân địch đi vòng phía Nam. Do đó không thể bám chặt vào đây được. Và cũng không còn mục sư Bach cùng Tiểu đoàn ma quái của ông ta để trì hoãn quân Anh nữa. Vậy mà từ Roma, Mussolini bắt buộc Rommel phải bảo vệ Tobrouk cho đến người lính cuối cùng. Một mệnh lệnh thậm vô lý mà ông Thống chế gạt bỏ một cách nóng nảy dữ dội, ông tiếp tục con đường xuyên qua vùng Cyrenaique.

    Người ta nghĩ đến nỗi thống khổ của đại quân. Binh sĩ của Afrika Korps và của Panzergruppe Afrika tiến về phía Tây, đoàn kết chặt chẽ trước mỗi thử thách, đều đặn trong cùng một nhịp độ, chịu đau khổ cùng một cơn khát, một cơn đói, từ ông Thống chế cho đến người lính trơn. Và những nấm mộ rải rác dọc đường chỉ là những đống đá nhỏ mà cơn bão cát đầu tiên sẽ xoá nhoà, không mang dấu hiệu hay cấp bậc gì cả, chỉ có cái tên.

    Sau Tobrouk, các đơn vị trấn giữ Benghazi và vùng Marmarique rút về phía Nam, hướng về Agedabia. Với tất cả những gì có thể tận dụng được ở Tripolitaine, Tướng Bastico thiết lập một phòng tuyến Nam Bắc từ Marsa El-Brega kéo qua El-Agheila, Aghedabia cho đến ốc đảo Marada. Chính tại đó, ông chuẩn bị đón đoàn Panzergruppe Afrika về.

    Rommel về đến đấy ngày 10 tháng 11. Việc ông mang được đoàn quân về là một chiến công, nhờ vào khả năng điều quân, nhờ vào các lực lượng tiếp vận nhưng cũng phải nhờ vào một thực tế là do đường tiến quân của Montgomery ngày càng dài ra, chính ông ta cũng phải đi chậm lại để tái tổ chức liên tục các đơn vị của mình.

    HG Von Essebeck nhắc lại cho chúng ta tình trạng cấp số Quân đội của Rommel khi ông về đến cứ điểm Marsa.

    Binh đoàn Bắc Phi giảm xuống còn bằng cấp số của một trung đoàn bộ binh tăng cường, Sư đoàn 90 Khinh binh còn bằng một Tiểu đoàn rưỡi, Sư đoàn 164 còn 3.000 binh sĩ chỉ có vũ khí hạng nhẹ, Lữ đoàn dù còn tương đương với một Tiểu đoàn, Sư đoàn 19 Phòng không còn bằng một trung đoàn , và pháo binh của cả đoàn quân chỉ còn lại 8 khẩu pháo trên tổng số 17. Quân đoàn 20 chỉ còn bằng một trung đoàn, không pháo binh, không thiết giáp trong khi lẽ ra phải có 220 khẩu pháo và 550 chiến xa.

    Tình hình vũ khí trang bị cho thấy mức độ trầm trọng của tình thế. Binh đoàn Bắc Phi Đức còn có 35 chiến xa thay vì 371 chiếc, 16 xe trinh sát thay vì 60, 12 pháo chống tăng thay vì 246, 12 súng cối thay vì 60 khẩu, 2 khẩu 100mm thay vì 8 khẩu.

    Riêng phần đạn dược, tình trạng còn tệ hơn vũ khí. Tình trạng xăng nhớt cũng bi thảm. Công việc tiếp tế thảm hại đến mức có nhiều đơn vị không nhận được bánh mì trong suốt một tuần lễ.

    Bên phía người Anh, các tổn thất được bù đắp nhanh chóng. Rommel ước tính là họ cần nhiều lắm là 15 ngày là đủ để chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới, và nếu họ thực sự dứt khoát thì không có gì có thể ngăn cản họ tiêu diệt những gì còn lại của Afrika Korps. Trong các buổi họp tham mưu với với Kesselring, Cavallero, Bastico vào những ngày cuối cùng của tháng 11, ông đề xướng một đợt rút lui xa hơn nữa về phía Tây, về phòng tuyến Bouerat ở đầu bên kia vịnh Grande Syrte. Lợi điểm sẽ là kéo dài thêm đường tiếp tế của quân Anh, thu ngắn đường của phe Trục, và nhất là bỏ cho đối phương khu vực khí hậu khốc nghiệt nhất, ít tài nguyên nhất, không hề có nước ngọt.

    Những người đối thoại với ông đã chống lại ý tưởng này bằng cách nêu ra những lời hứa tốt đẹp về bổ sung quân số và tiếp liệu, trong khi ông Tướng đã từ lâu không còn tin vào những lời hứa như thế này nữa. Vì vậy, chán nản, ngày 28 tháng 11, ông giao quyền chỉ huy cho Tướng Fehn và đáp máy bay về tổng Hành Dinh Fuhrer. Tại Rastenburg, ông trình bày quan điểm của mình. Vẫn còn 70.000 người tại Phi Châu và cần đem họ về Châu Âu gấp nếu công việc tiếp tế không được cải thiện. Dù sao đi nữa, ông cũng biện hộ cho một cuộc rút quân về Tunisie, dễ bảo vệ hơn là Tripolitaine.

    Nhưng Hitler có những lý do chính trị cần bám chặt vào Tripoli và duy trì một đầu cầu quan trọng tại Phi Châu. Ông khô khan gạt bỏ ngay ý tưởng bỏ rơi Tripoli và nhất là ý tưởng triệt thoái khỏi Bắc Phi, khiến Rommel không thể trình bày đầy đủ hết những phân tích kế hoạch của mình. Kế hoạch ấy dựa trên một phân tích rất hợp lý: Ngay cả nếu ta phòng vệ Tripoli, hải cảng này sẽ bị quân Anh liên tục đánh phá. Vậy các đường tiếp tế cho đoàn quân thiết giáp phải đi qua Bizerte và La Goulette giống như trường hợp các đơn vị chiếm đóng Tunisie từ ngày 9 tháng 11. Thay vì lập hai phòng tuyến khác nhau, một ở phía Đông đối diện với Tập đoàn quân VIII của Montgomery, một ở phía Tây đối diện với Tập đoàn quân I của Tướng Anderson đã đổ bộ, thì việc rút lui về Gabes do quân Đức vừa tái chiếm từ tay lực lượng Pháp Tự Do rõ ràng hợp lý hơn. Bởi vì Gabes tương tự như El Alamein, phía Tây của nó được che chở bởi vùng đầm lầy El Djerid.

    Rủi thay những người thân cận Hitler lại không có cùng quan niệm ấy. Người ta sống trong trạng thái mơ mộng đầy anh hùng tính trong đó người quân nhân không bao giờ thoái lui. Trước mặt Rommel, Fuhrer ban hành các mệnh lệnh rõ rệt để tái trang bị cho đạo quân thiết giáp và đảm bảo cho công cuộc tiếp tế.

    Rommel cay đắng nghĩ rằng những mệnh lệnh loại này được kèm theo những hứa hẹn tương tự như lúc còn ở El Alamein, đều chỉ là những lời hứa suông, ông rời tổng Hành Dinh, tháp tùng Goering trên đường đi đến một hội nghị tại Roma, ở đó các vị Tướng Đức Ý có trách nhiệm với mặt trận miền Nam đang bàn tính. Hội nghị không đưa đến quyết định nào quan trọng ngoại trừ việc bỏ phòng tuyến Marsa El-Brega rút về Bouerat.

    Cuộc chuyển quân về vị trí mới bắt đầu ngày 6 tháng 12. Và đến ngày 12 khi Montgomery lại tấn công, ông ta chỉ thấy trước mặt có Sư đoàn 15 Panzer, hậu vệ của Afrika Korps đang lùi về phía Tây. Lord Alexandre ước tính: Chắc chắn rằng Rommel đã nhận được những lực lượng tăng cường mạnh từ Tripoli và sẽ dàn trận mới. Rủi thay Rommel lại chẳng hề nhận được gì cả, khi đến Bouerat, ông không còn hơn 30 chiến xa, không có xăng và gần như không có vũ khí nặng. Nếu Montgomery lúc ấy chĩa mũi dùi tấn công thì không có gì có thể ngăn chặn ông ta được. Nhưng, theo Lord Alexandre, việc chuẩn bị để tấn công lệ thuộc trực tiếp từ Benghazi, mà các cơn bão dữ dội đã làm cho hải cảng này bị hư hại trong suốt tuần lễ đầu tiên của tháng Giêng và làm nhiều tàu bè bị chìm. Phải nhờ cậy đến Tobrouk, điều này làm công cuộc chuẩn bị tấn công bị chậm lại.

    Cuộc triệt thoái chậm chạp của Afrika Korps qua vịnh Grand Syrte tốn mất hai tuần lễ. Hôm sau Lễ Giáng Sinh, quân Đức rút hết về phòng tuyến Bouerat, nơi mà Mussulini đã ký một mệnh lệnh vào ngày 19 tháng 12 rằng phải phòng vệ cho đến người lính cuối cùng.

    Một lần nữa, Rommel lại bắt đầu cuộc chiến với Bộ Tham mưu, và cũng luôn luôn cùng một đề tài. Người ta đã đưa 30.000 binh sĩ Ý đến phòng tuyến Bouerat, 30.000 con người chỉ có vũ khí nhẹ, không có xe cộ và tiềm lực chiến đấu là con số không. Khi Montgomery tập trung đủ phương tiện và tấn công thì làm thế nào để di tản tất cả những người ấy? những người mà theo lời Essenbeck kể lại là luôn luôn mang sẵn một cái khăn trắng trong túi quần.

    Để đáp lại sự lo lắng này, ngày 31 tháng 12, Tướng Gandin thuộc Comando Supremo từ Roma đến, mang theo các mệnh lệnh tích cực hơn. Quân đội được phép rút lui nếu có nguy cơ bị tận diệt, nhưng tuyệt đối phải giữ vững vài tuần lễ để giúp cho cuộc di tản từ Tripolitaine được trật tự và thực hiện các công tác phá huỷ cần thiết trước khi địch quân đến.

    Trong thực tế, mối quan hệ giữa các bên trong phe Trục hết sức căng thẳng. Các luận cứ của Rommel dựa trên lý lẽ là phải cứu được các binh sĩ. Còn người Ý, nhất là ở Roma, lại có cái nhìn chủ quan. Đối với họ thì không có gì quan trọng hơn là đánh mất 30 năm đô hộ trên vùng Tripoli, và nếu chuyện ấy phải xảy ra thì không ai muốn gánh trách nhiệm, kể cả Bastico đang chỉ huy tại Phi Châu lẫn Gardin đại diện cho Comando Supremo.

Chia sẻ trang này