1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thống chế Pétain và chính quyền Pháp Vichy, công hay tội?

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 04/09/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Mình không có ý bênh vực Pétain, nhưng công và tội phải rõ ràng.

    Tấm ảnh và cuốn sách trên nói về lữ đoàn tình nguyện Pháp chống lại quân Bolshevik, đó là những công dân Pháp tình nguyện tham gia quân Đức chống Liên Xô vì vấn đề ý thức hệ. Như thế thì có liên quan gì đến Pétain?

    Nếu chứng minh được Pétain quyết định gửi quân đến Liên Xô dưới vỏ bọc "tình nguyện quân, như lính Trung Quốc ở Triều Tiên, thì mới quy tội cho ông ta được.

    Trong quân đội Đức lúc ấy còn có cả các đơn vị Liên Xô, đơn vị Ukraina... nữa. Nhưng rõ ràng không thể quy tội cho Stalin được.
  2. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Đánh Liên Xô là có công rồi, vì từ đầu cuộc chiến việc dâng Balan, Bỉ, Hà Lan thậm chí cả Pháp cũng chỉ vì muốn Đức phang Liên Xô chứ còn gì nữa, vụ này ko tính:D
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    Nếu ông ta không gửi quân trực tiếp thì đâu có thể trách cứ ông ta được, vào lúc đó tại nước Pháp cũng có những tổ chức ăn theo Nazi như một Phong trào Dân tộc ở xứ Brittany. Phong trào này tham gia bài Do thái, đập phá tượng đài Nguyên Soái Bectran Duegline-người có công sát nhập xứ này vào nước Pháp và họ cũng máu đi lính cho Nazi lắm. Nếu quả thực Petan đã hiệu triệu thanh niên Pháp đi lính cho Nazi thì ông ta đã bị tử hình rồi, vả lại ông ta đâu có thể kiểm soát được hết các thuộc hạ của mình, khi quân đồng minh tiến vào Pa. người Pháp đã xử tử rất nhiều Pháp gian và trừng trị cả những cô gái chỉ quan hệ với lính Nazi để kiếm sống nhưng lại tha chết cho Petan, vậy cớ là sao?


    Đôi nét về ông cụ này.



    Henri Philippe Benoni Omer Joseph Pétain (phát âm theo tiếng Pháp: [pet
    ɛ]; sinh ngày 24 tháng Tư năm 1856 – mất ngày 23 tháng 7 năm 1951), thường được gọi là Philippe Pétain hoặc Thống Chế Pétain (Maréchal Pétain), là một vị tướng người Pháp đã có được chức vụ Thống Chế của nước Pháp và sau đó Người đứng đầu của Nhà nước Vichy-Pháp (Chef de de l'État Français ) từ năm 1940->1944. Pétain, người đã ở tuổi 84 vào năm 1940, được coi là một nguyên thủ có tuổi đời cao nhất ở nước Pháp.

    Vì là một nhà lãnh đạo quân sự xuất sắc trong chiến tranh thế giới thứ nhất, đặc biệt là trong trận Verdun, ông đã được xem như là một anh hùng dân tộc ở Pháp. Với thất bại của nước Pháp đã cận kề tại thời điểm tháng 6 năm 1940, Pétain đã được bổ nhiệm làm Thủ-tướng của nước Pháp bởi Tổng thống Lebrun tại Bordeaux và lập nội các để đàn phán hòa bình với nước Đức trong một thời gian ngắn. Sau đó toàn bộ chính phủ di chuyển đến Clermont-Ferrand, rồi lại tới thị trấn nước khoáng tên là Vichy ở miền trung nước Pháp. Chính phủ của ông đã bỏ phiếu để chuyển đổi nền Đệ tam Cộng hòa Pháp vốn đã mất uy tín sang một Nhà nước Pháp theo chế độ độc tài. Trong khoảng thời gian xảy ra chiến tranh, chính phủ Vichy đã hợp tác với nước Đức vốn vào năm 1942 đã chiếm toàn bộ vùng lãnh thổ Pháp ở châu Âu vì mối đe dọa từ Bắc Phi. Những việc làm của Petain trong Chiến tranh thế giới thứ II đã làm cho ông phải nhận án tử hình vì tội phản quốc, sau đó được giảm xuống tù chung thân bởi một cựu đối thủ kiêm học trò cũ-Charles de Gaulle. Ở nước Pháp hiện nay, ông được nhớ đến như một nhân vật mơ hồ, trong khi thuật ngữ pétainisme là một thuật ngữ mang tính xúc phạm để tỏ thái độ với một số chính sách bán-nước làm mất lòng dân.



    Thân thế và sự nghiệp

    Pétain được sinh ra t
    ại Cauchy-à-la-Tour (département Pas-de-Calais ở miền Bắc nước Pháp) vào năm 1856, cha ông là một nông dân. Pétain gia nhập quân đội Pháp vào năm 1876 và theo học Học viện Quân sựSt Cyr vào năm 1887 và Trường École Supérieure de Guerre ( đại loại là trường Quân sự Cao cấp) ở Paris. Sự nghiệp của ông tiến triển rất chậm ông bác bỏ triết lý của quân đội Pháp về việc sử dụng những cuộc xung phong bằng bộ binh đông đặc chứkhông phải là "áp đảo bằng hỏa lực"( đây thực chất là chiến thuật rơi rớt lại từ thời Chiến tranh Napoleon ). Sau đótrong chiến tranh thế giới thứ nhất, quan điểm của ông đã được chứng minh là đúng đắn. Ông được thăng chức Đại úy vào năm 1890 và Thiếu tá (Chef de Bataillon-Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn) vào năm 1900. Không giống như nhiều sĩ quan Pháp, ông phục vụ chủ yếu ở nước Pháp tại lục địa châu Âu, ông chưa bao giờ chiến đấu tại Đông Dương hoặc bất kỳ thuộc địa châu Phi nào của nước Pháp, mặc dù ông đã từng tham gia chiến dịch Rif ở Ma-rốc. Khi đóng lon đại tá, ông chỉ huy trưởng của trung đoàn bộ binh số 33 ở Arras từ năm 1911. Charles de Gaulle-một viên trung úy trẻ, người phục vụ dưới quyền ôngsau này đã viết về ông như sau " Pétain-vị đại tá hạng nhất , đã giảng dạy (cho ông ) Nghệ thuật Chỉ huy ". Vào mùa xuân năm 1914 ông (Pétain) được giao nhiệm vụ chỉ huy một lữ đoàn (vẫn chỉ tương đương với cấp bậc đại tá), nhưng ông đã được thông báo rằng mình sẽ không bao giờ có thể lên được cấp tướng và ông đã mua một nhà để chờ nghỉ hưu – lúc này ông đã 58 tuổi ( ý của đoạn này là nếu không có WWI thì ông chỉ là một viên đại tá hồi hưu mà thôi ).

    Chiến tranh thế giới thứ nhất

    Vào cuối tháng Tám năm 1914, ông đã nhanh chóng được thăng chức thiếu tướng chỉ huy Sư Đoàn 6 trong
    khoảng thời gian nổ ra các trận chiến đầu tiên Marne; chưa đến một tháng sau đó, trong tháng 10 năm 1914, ông lại được thăng chức một lần nữa và trở thànhchỉ huy của Quân Đoàn 33. Sau khi chỉ huy quân đoàn của mình trong các cuộc tấn công vào mùa xuân năm 1915 tại Artois, trong tháng 7 năm 1915, ông lại được chỉ định làm Tổng chỉ huy của Tập đoàn quân số 2, tại cương vị này ông đã lãnh đạo các cuộc tấn công ở vùng Champagne vào mùa thu. Ông có được danh tiếng cao hơn chỉ là một trong những viên chỉ huy quân đội thành công tại mặt trận phía Tây.

    Pétain chỉ huy
    Tập đoàn quân số 2 vào lúc bắt đầu trận chiến Verdun trong tháng 2 năm 1916. Trong trận chiến này, ông lại được thăng làm chỉ huy của tập đoàn quân Trung tâm trong đó có tổng cộng 52 sư đoàn. Thay vì giữ nguyên các sư đoàn bộ binh trên chiến trường Verdun trong hàng tháng trời, giống như hệ thống của người Đức đã làm, ông lại cho xoay tua họ trên chiến trường chỉ trong vòng 2 tuần. Quyết định của ông trong việc tổ chức các đoàn xe tải vận chuyển qua "Voie Sacrée" để mang những dòng chảy liên tục gồm pháo binh, đạn dược và binh sỹ đủ sức chiến đấu vào Verdun đang bị bao vây-chiến thuật này đóng một vai trò quan trọng trong việc bào mòn sức tấn công của quân Đức và cuối cùng đã làm họ ( quân Đức ) phải dừng hẳn ( các cuộc tấn công) trong tháng 7 năm 1916. Trong thực tế, ông đã áp dụng một nguyên tắc cơ bản-đó là một trụ cột trong Lý luận quân sự của ông tại École de Guerre (Trường Cao đẳng Quân sự) trước khi xảy ra Thế chiến thứ nhất: đó là "le feu tue!" hoặc "dịch thoát: sự hủy diệt của hỏa lực!" điều này có nghĩa là pháo binh Pháp đã bắn hơn 15 triệu phát đạn vào quân Đức trong năm tháng đầu tiên của trận chiến. Pétain đã lặp lại câu nói của Joan Arc "On les aura!" (dịch thoát: Chúng tôi đã tóm được chúng). Còn câu nữa của nàng mà ông cũng hay lặp lại là "Ils ne passeront pas!" (Chúng sẽ không thể vượt qua!) thì thực sự lại là bởi Robert Nivelle-người kế nhiệm ông chỉ huy Tập đoàn quân số 2 tại Verdun tháng 5 năm 1916. Vào cuối năm 1916, Nivelle được thăng lên cao hơn Petain để thay thế cho Joseph Joffre làm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Pháp.

    Vì uy tín cao của ôngtrong quân đội, Pétain phục vụ trong một thời gian ngắn như là Tham Mưu Trưởng - Tập đoàn quân (từ cuối tháng 4 năm 1917). Sau đó ông trở thành Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, thay thế cho tướng Nivelle, vì ông sau đã thất bại trong các cuộc tấn công tại Chemin des Dames vào tháng Tư năm 1917 và thất bại này đã tạo nên những cuộc phản chiến phổ biến trong quân đội Pháp. Pétain đặt dấu chấm hết cho các cuộc phản chiến không chỉ bằng phạt tử hình có chọn lọc những người cầm đầu, mà còn bởi việc cải thiện các điều kiện sống của binh lính (ví dụ như thực phẩm và nơi trú ẩntốt hơn và tăng những ngày phép về thăm gia đình của họ) và hứa hẹn rằng cuộc sống của binh sỹ sẽ không bị lãng phí trong những chiến dịch tấn công kết quả. Pétain đã tiến hành một số chiến dịch tấn công thành công nhưng bị hạn chế trong phần sau của năm 1917. không giống như người Anh đã bị đình trệ hoàn toàn trong một cuộc tấn công không thành công tại Passchendaele vào mùa thu, Pétain đã không cố gắng tổ chức nhiều chiến dịch tấn công lớn cho quân đội Pháp cho đến khi người Mỹ đến nơi và tạo được sức mạnh mới tại vùng chiến tuyến, nhưng điều này chỉ xảy ra vào đầu mùa hè năm 1918. Ông cũng chờ đợi cho đến khi có sự xuất hiện của loại xe tăng Renault FT17,vốn sẽ được đưa vào với số lượng lớn, vì vậy tuyên bố nổi tiếng của ông vào thời điểm đó: "Tôi đợi chờ những chiếc xe tăng và người Mỹ."

    Vào năm 1918, đã nổ ra rất nhiều chiến dịch tấn công chính của quân Đức trên mặt trận phía Tây, đầu tiên là Chiến dịch Michael trong tháng 3 năm 1918. Ông đã có lời đe dọa sẽ tách riêng rẽ các lực lượng Anh và Pháp ra khỏi nhau ( vì chắc quân Anh quá ỳ trệ ) và sau đó là ông lại đe dọa sẽ rút lui vào Paris, nhưng rồi thì Pétain vẫn chìa sự trợ giúp cho người Anh và bảo vệ được chiến tuyến với bốn mươi sư đoàn quân Pháp. Petain đã chứng tỏ mình là một đối thủ khó chơi của người Đức trong cả lĩnh vực phòng thủ và qua các cuộc tấn công.

    Cuộc khủng hoảng ( để cho quân Đức tiến quá sâu trong năm 1918 ) đã dẫn đến việc bổ nhiệm tướng Ferdinand Foch làmTổng chỉ huy quân Đồng Minh, ban đầu với quyền hạn để phối hợp và triển khai lực lượng dự trữ của quân Đồng Minh vào những nơiông thấy phù hợp. Vào thời điểm cuộc tấn công thứ ba của quân Đức-chiến dịch "Blücher" nổ ra vào tháng 5 năm 1918, đã có những bước tiến quân quá sâu của quân Đức tại vùng Aisne bởi vì tướng Humbert- vị tướng chỉ huy Tập đoàn quân Pháp ( ko rõ số mấy) đã bỏ qua lời khuyên của Pétain là phải tổ chức phòng ngự theo chiều sâu và thay vì dồn lên phía trước, để rồi quân của ông tabị nướng bởi các cuộc oanh tạc lớn lúc ban đầu của quân Đức.

    Vào thời điểm nổ ra chiến dịch Gneisenau-chiến dịch tấn công của quân Đức và Trận chiến thứ hai ở vùng Marne, Pétain đã có thể tiến hành phòng thủ theo chiều sâu và khởi động các chiến dịch tấn công phản kích với các xe tăng mới của Pháp và cùng với những hỗ trợ từ người Mỹ.

    Sau đó
    cũng trong năm này, Pétain đã bị tước quyền khiếu nại trực tiếp thẳng lên chính phủ Pháp và được yêu cầu phải báo cáo cho tướng Foch, người ngày càng quan tâm về công tác phối hợp và cũng là người cao cấp nhất trong việc chỉ huy các chiến dịch tấn công của quân Đồng minh.

    Pétain được
    phong quân hàm Thống chế của QĐ Pháp trong tháng 11 năm 1918.

    Giai đoạn giữa hai cuộc chiến ( đoạn này lược bỏ vì không hấp dẫn lắm)

    Trong Chiến tranh Thế giới thứ II

    Ngày 24
    tháng 5 năm 1940, quân Đức xâm lược đẩy lùi quân đội Pháp. Tướng Maxime Weygand bày tỏ sự giận dữ của ông ta về việc quân Anh liên tục tháo lui và lời hứa máy bay chiến đấu của Anh sẽ tham chiến đã không xảy ra. Ông nàyThống chế Petain đã coi tình hình quân sự vô vọng. Thủ-tướng Paul Reynaud cho biết trước một ủy ban điều tra của Quốc-hội trong tháng 12 năm 1950 rằng ông ta đã nói với Petain vào ngày hôm đó rằng họ phải tìm kiếm một hiệp ước đình chiến. Weygand nói rằng ông ủng hộ việc tiết kiệm mạng sống củabinh lính Pháp và rằng ông "muốn tránh những rắc rối nội bộ và trên tất cả là tránh tình trạng vô chính phủ".Spears-đại diện của Churchill ở Paris, gây áp lực liên tục vào người Pháp và vào ngày 31 tháng 5, ông này đã họp mặt với Pétain và đe dọa rằng người Phápkhông chỉ phải đối mặt với một cuộc phong tỏa, mà họ sẽ còn bắn phá các bến cảng của Pháp nếu một hiệp ước đình chiến được chấp nhận. Spears kể lại rằng Pétain đã không trả lời ngay lập tức, nhưng ông đứng đó "hoàn toànđứng thẳng, không dấu hiệu của sự hoảng sợ hoặc một cảm xúc nào. Ông không che giấu một thực tế rằng ông coitình hình là thảm họa. Tôi không thể phát hiện bất kỳ dấu hiệu cho thấy tinh thần của ông đã bị đổ vỡ, như sự thể hiện thất thần của bàn tay và những chớm cuồng loạn đáng chú ý như từ những người khác ". Sau đó Pétain đã nhận xét với Reynaud về mối đe dọa này nói rằng "người bạn Đồng minh của chúng ta bây giờ đang đe dọa chúng ta".

    Ngày 05 tháng sáu, sau sự sụp đổ của Dunkirk, có một cải tổ nội các, và Thủ-tướng Reynaud đã đưa Pétain, Weygand và viên Chuẩn Tướng de Gaulle-chỉ huy Sư đoàn thiết giáp số 4 vốn vừa mới được thăng chức, người đã chỉ huy một vài những cuộc phản công nhỏ của quân Pháp vài tháng trước đó, vào nội các thời chiến của mình với hy vọng rằng bộ ba này có thể thấm nhuần một tinh thần mới về công cuộc kháng chiến và tinh thần yêu nước trong quân đội Pháp. Ngày 08 tháng 6, Baudouin ( Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ) ăn tối với Chautemps ( cựu Thủ-tướng Pháp ) và cả hai tuyên bố rằng cuộc chiến phải được kết thúc. Paris đang bị đe dọa và chính phủ đang chuẩn bị chuồn đi nơi khác, mặc dù Petain đã phản đối mộtcuộc di chuyển như vậy. Trong một cuộc họp nội các ngày hôm đó, Reynaud gây tranh cãi về một hiệp ước đình chiến ông lo lắng cho phía Anh. Petain trả lời rằng "phải lo cho các lợi ích của Pháp trước những thứ đó của người Anh và rằng người Anh đã đẩy chúng ta vào tình huống này, chúng ta hãy cố gắng để thoát ra khỏi nó".

    Ngày 10 tháng 6, chính phủ rời Paris để đi đến Tours. Weygand- Tổng tham mưu trưởng tuyên bố rằng "cuộc chiến đã trở nên vô nghĩa" và ông cùng với Baudouinvà một số thành viên của chính phủ thúc giục ký một hiệp ước đình chiến. Ngày 11 tháng 6, Churchill bayChateau du Muguet, ở Briar gần với thành phố Orleans, nơiđầu tiên ông đưa ra một ý tưởng của ông về mộtchiến tuyến cố thủ ở vùng Breton ( thuộc Pháp ), Weygand trả lời rằng đó chỉ là một "sự tưởng tượng".Sau đó Churchill nói người Pháp nên xem xét một cuộc "chiến tranh du kích" cho đến khi người Mỹ gia nhập vào cuộc chiến ( điều này Churchillnói phét-vì sao mà ông ta biết được?), đây cũng là ý kiến mà một số thành viên Chính phủ đã yêu cầu"vào khi có thể " và họ đã không nhận được câu trả lời.Sau đó Pétain trả lời rằng điều đó sẽ có nghĩa là sự tàn phá đất nước.Sau đó Churchill nói rằng người Pháp phải bảo vệ Paris và lặp đi lặp lại những từ Clemenceau đã nói "Tôi sẽ chiến đấu ở phía trước cánh cổng của Paris, tại Paris và đằng sau Paris" ( trong khoảng WWI lúc Paris cũng nguy cấp ). Pétainyên lặng và sau đó trả lời Churchill một cách nhã nhặn rằng trong những ngày đó ông có một lực lượng dự trữ chiến lược gồm sáu mươi sư đoàn, nhưng lúc này ông ta có không có gì cả. Làm như vậy sẽ tàn phá Paris không xoay chuyển được kết cục cuối cùng. Ngày hôm sau, nội các lại họp và Weygand lại một lần nữa kêu gọi phải có một hiệp ước đình chiến. Ông đề cập đến những nguy cơ về sự rối loạn quân sự và dân sự và khả năng của một cuộc nổi dậy của những người cộng sản ở Paris. Pétain và Prouvost-Bộ trưởng Bộ Thông tin thúc giục Nội các nghe lời Weygand bởi vì "ông ta là người duy nhất thực sự biết những gì đã xảy ra".

    Churchill trở lại vào ngày 13. Paul Baudouin gặp ông ta trong máy bay của ông và ngay lập tức đã nói chuyện với ông này về sự tuyệt vọng về mặt quân sự của Pháp.Sau đó Reynard đưa đề xuất hiệp ước đình chiến của nội các Pháp cho Churchill tham khảo, ông này đã trả lời rằng "bất cứ điều gì xảy ra, chúng tôi cũng sẽ không có trách cứ nào nhằm vào người Pháp". Tại cuộc họp nội các ngày hôm đó, Pétain đọc ra một đề nghị dự thảo đình chiến ( thực chất là đầu hàng có ĐK ) trước nội các mà nói rằng "muốn phải lại với nước Pháp, để chuẩn bị một sự hồi sinh của quốc gia và chia sẻ với sự đau khổ của nhân dân Pháp. Chính phủ không thể lưu vong mà không rời bỏ đất nước, nhiệm vụ của Chính phủ là phải làm những gì có thể để ở lại trong đất nước, hoặc có thể nó sẽ không còn được coi là một chính phủ nữa ".Một số Bộ trưởng vẫn tiếp tục phản đối một hiệp ước đình chiến, và Weygand ngay lập tức bị chửi rủa thậm chí đến mức phải rờibỏ Paris. Giống như Pétain, ông cho biết ông sẽ không bao giờ rời khỏi nước Pháp.

    Chính phủ chuyển tới Bordeaux, đây chính là nơi Chính phủ Pháp đã phải chạy trốn các cuộc xâm lược của Đức vào năm 1870 và 1914, ngày 14 tháng sáu. Quốc-hội Pháp gồm cả Thượng viện và Hạ viện đều có mặt và tham gia vào những cuộc tranh luận về hiệp ước đình chiến. Vị trí mơ hồ của Reynard đã trở nênbị tổn thương một cách nghiêm trọng. Lúc này Đô đốc Darlan cũng tham gia vào bàn thảo về hiệp ước đình chiến. Reynard đề xuất một thỏa hiệp thay thế của mình:đầu hàng hoàn toàn và quân đội (sau khi đã hạ vũ khí của nó) sẽ rời khỏi đất nước và tiếp tục cuộc chiến từ nước ngoài. Weygand bùng nổ và ông cùng với Pétain, cả hai đều nói rằng đó là một sự đầu hàng đê tiện. Lúc này Nội các bị phân chia một cách gần như đồng đều.Sau đó Camille Chautemps nói rằng cách duy nhất để có được một thỏa thuận là yêu cầu người Đức cho biếtnhững điều kiện của họ cho một hiệp ước đình chiến và nội các đã bỏ phiếu 13 - 6 nghiêng về phía chấp nhận. Ngày hôm sau, Roosevelt trả lời yêu cầu của Tổng thống Lebrun về những hỗ trợ đi kèm chỉ là những hứa hẹn mơ hồ và ông này cũng nói rằngông không thể hứa hẹn với Tổng thống Pháp bất cứ điều gì mà không cần phải bàn với Quốc-hội của mình.

    Sau bữa ăn trưa, Tổng thống Albert Lebrun đã nhận được hai điện tín từ người Anh họ nói rằng sẽ chỉ đồng ý một hiệp ước đình chiến nếu hạm đội Pháp ngay lập tức phải được gửi đến các cảng của Anh. Ngoài ra, Chính phủ Anh có lời mời người Pháp và người Anh cùng gia nhập một Liên Hiệp quốc gia Pháp-Anh. Reynaud và năm bộ trưởng nghĩ rằng những đề nghị chấp nhận được. Những người khác thì không như vậy mà họ lại thấy rằng đó chỉ là một biện pháp để người Pháp làm lợi cho lợi ích của Anh quốc mà thôi, họ sẽ trở nên giống như thuộc địa vậy. Reynaud đã từ bỏ và yêu cầu Tổng thống Lebrun chấp nhận đơn từ chức của ông trong cương vị Thủ-Tướng Chính phủ và Thống chế Pétain được đề cử thay vị trí của ông.

    Một nội các mới được thành lập theo cách thông thường và vào lúc nửa đêm ngày 15 Baudouin yêu cầu Đại sứ Tây Ban Nha trình lên chính phủ Đức yêu cầu chấm dứt tình trạng thù địch ngay lập tức để Đức đưa ra các điều kiện cho hòa bình. 12:30 buổi sáng Thống chế Pétain đã lên đài phát thanh lần đầu tiên để nói chuyện với nhân dân Pháp.

    "
    Ủng hộ của đất nước đối với vị Thống chế là rất to lớn, và ông đã được chào đón bởi những người ở các tầng lớp trên hoặc văn sỹ như Claudel, Gide, và Mauriac và cũng bởi một số lượng lớn rất lớn những người Pháp ngây thơ ( ý nói là thấp học) thấy rằng ông là vị cứu tinh của họ" Tướng de Gaulle không còn có chân ở trong Nội các đã đến ở London vào ngày 16 và từ đây ông tiến hành một cuộc kêu gọi kháng chiến chống lại quân xâm lược vào ngày 18, không được ủy quyền về mặt pháp lý từ chính phủ của ôngnên lời kêu gọi này tương đối ít được chú ý.

    Nội các và Quốc-hội vẫn tranh luận về câu hỏi có hay không nên rút lui về Bắc Phi. Ngày 18 Tháng 6, Edouard Herriot (người sau này sẽ ngàymột mất uy tín - nhân chứng tại phiên tòa xét xử Pétain), Jeanneney (Chủ tịch của LưỡngViện của Quốc-hội) và Lebrun cho biết họ muốn đi ( đương nhiên là Bắc Phi). Pétain cho biết ông không rời bỏ đất nước. Ngày 20, một đoàn đại biểu của hai Viện đến chỗ Pétain để phản đối đề xuất Tổng thống Lebrun ra đi. Ngày hôm sau, họ đã đi đến chính chỗ của Lebrun. Cuối cùng chỉ có 26 Dân biểu và một thượng nghị sĩ duy nhất bỏ đến Bắc Phi, trong đó có Georges Mandel, Pierre Mendes France và Jean Zay-cựu Bộ trưởng Giáo dục của Mặt trận Bình dân Pháp-tất cả đều là những người có gốc gác Do Thái. Petain lại lên đài phát thanh một lần nữa vào ngày hôm đó.

    Ngày 22 Tháng 6, Pháp đã ký một hiệp ước đình chiến với Đức, trao quyền cho Đức kiểm soát phía bắc và phía tây của đất nước mình, bao gồm cả Paris và tất cả các vùng bờ biển Đại Tây Dương, nhưng phần còn lại, tương đương khoảng hai phần năm lãnh thổ của Pháp thời trước chiến tranh đã không bị chiếm đóng. Paris vẫn là thủ đô của nước Pháp về mặt pháp lý ( NV de jure). Ngày 29 tháng 6, Chính phủ Pháp đã được chuyển đến Clermont-Ferrand, nơi các cuộc thảo luận thay đổi hiến pháp đầu tiên đã được tiến hành giữa Pierre Laval trên tư cách cá nhân với Tổng thống Lebrun (người cuối cùng đã không rời nước Pháp). Ngày 01 Tháng 7, chính phủ Pháp thấy rằng Clermont quá chật hẹp, họ lại di chuyển đến Vichy-thị trấn có suốinước khoáng theo đề nghị của Baudouin và đóng đô tại những khách sạn bỏ không vốn phù hợp hơn cho các Bộ trưởng của chính phủ ( đám này thua trận tĩ tã nhưng vẫn không quên hưởng thụ, chắc ở đó có công nghệ mátxa hiện đại và nhiều em út hê hê).

    Viện dân biểu ( Hạ viện ) và Thượng viện hợp lại với nhau như một " Nghị viện" đã có một cuộc họp khẩn cấp vào ngày 10 tháng 7 để phê chuẩn hiệp ước đình chiến. Đồng thời, đề nghị dự thảo hiến pháp vốn đang được thảo luận. Các Chủ tịch của cả Lưỡng viện đều phát biểu và nói rằngcải cách hiến pháp là điều cần thiết. Nghị viện đã bỏ phiếu với kết quả 569-80 (với 18 phiếu trắng) giao cho Nội các quyền để xây dựng một hiến pháp mới, đây chính là việc "bỏ phiếubức tử nền Đệ Tam Cộng hòa ". Ngày hôm sau, Pétain được chính thức chỉ định một cách gần như tuyệt đối với quyền hạn như "người đứng đầu nhà nước", nhưng ông này có nói thêm rằng "đất nước này không phải là La Mã cổ đại và tôi không muốn trở thành như Caesar" ( mà đúng là Pháp quốc đang thua trận bét nhè chứ có được như La Mã đâu hê hê ).

    Những hành xử và phản ứng của Pétain thường bắt nguồn bởi tình khí và giáo dục và ông này nhanh chóng bắt đầu đổ lỗi về thất bại quân sự của Pháp cho nền Đệ Tam Cộng hòa và bản chất tham nhũng đặc trưng của . Ở vị trí một nguyên thủ quốc gia ông muốn đất nước chuyển sang một chế độ độc tài hơn. Phương châm của Đệ tam Cộng hòa "Liberté, égalité, fraternité"( tự do, bình đẳng, bác ái ) đã bị vứt qua một bên và thay thế bằng "Travail, famille, patrie" (Công việc, gia đình, tổ quốc) các phe phái thân Phát xít và bảo thủ trong chính phủ mới sử dụng cơ hội để khởi động một chương trình đầy tham vọng được gọi là "Cách mạng quốc gia" để xóa bỏ những truyền thống thế tục và tự do của Nhà nước Cộng hòa và quay ra ủng hộ của một xã hội Công giáo độc tài và gia trưởng. Pétain cùng với những người khác, đã sử dụng thuật ngữ "Cách mạng" như là ngoại lệ để mô tả những chuyển biến cơ bản của phe bảo thủ, hoặc có vẻ như ông này tự nguyện tham gia vào việc chuyển đổi nước Pháp từ " Nền cộng hòa" sang " Thể chế Quốc gia" ( Ý nói mang tính chất Dân tộc cực đoan hơn và độc tài hơn).

    Chính phủ mới ngay lập tức sử dụng quyền lực mới của nó để đưa ra các chính sách hà khắc, bao gồm cả việc sa thải các công chức dân sự cũ của nền cộng hòa, thiết lập những khu vực mang tính chất hành chính và pháp lý đặc biệt, công bố những bộ luật bài Do Thái, bỏ tù hoặc đẩy ra tị nạn nước ngoài những đối thủ chính trị. Nó tổ chức một "Legion Française des Combattants" ( Lính Lê dương Pháp-vì trước đó thì lính Lê dương không phải là người Pháp), trong đó bao gồm" Friends of the Legion" ( Những người bạn của Lính Lê dương)và "Cadets of the Legion" ( Các thiếu sinh quân Lê dương)-những nhóm mà không bao giờ thực sự tham gia chiến đấu nhưng gắn liền với chế độ mới vì lý do chính trị. Pétain hướng vào vùng Công giáo ở nông thôn Pháp để tuyên truyền về một xã hội Độc tài Quốc gia mới. Với cương vị một tướng Tổng tư lệnh đã hồi hưu, ông điều hành đất nước theo một thể chế quân sự. Dễ bị tổn hại và phụ thuộc vào người Đức, ông và chính phủ của ông đã hợp tác với nước Đức và thậm chí đã gửi cả một quân đoàn những lính tình nguyện đi chiến đấu ở nước Nga. Chính phủ Pétain vẫn được quốc tế công nhận, đặc biệt là Hoa Kỳ, ít nhất là cho đến khi Đức chiếm đóng nốt phần còn lại của nước Pháp.

    Cả Pétain lẫn những người kế nhiệm ông ta như Pierre Laval, Pierre-Étienne Flandin, Đô đốc François Darlan đã không dám kháng cự một cách đáng kể trước những yêu cầu của người Đức và họ đã gián tiếp hỗ trợ cho các cường quốc ở khối Axis. Tuy nhiên, khi Hitler họp mặt với Pétain ở Montoire vào tháng 10 năm 1940 để thảo luận về vai trò của chính phủ Pháp trong một Trật tự châu Âu mới, viên Thống chế chỉ "nghe Hitler diễn thuyết trong im lặng mà không một lần ông đưa ra một từ ngữ ủng hộ nước Đức." Hơn nữa, Pháp vẫn giữ trung lập như một Quốc gia riêng ( so với nước Đức ), mặc dù nó đối địch với những tổ chức tự do của Pháp được thành lập tại Anh. Sau khi các cuộc tấn công của Anh vào Mers el Kébir và Dakar ngày 2 tháng 7 năm 1940, chính phủ Pháp đã trở thành ngày càng trở nên bài Anh ( NV Anglophobic) và đã có nhiều ​​hợp tác hơn nữa với những kẻ chiếm đóng. Pétain chấp nhận việc chính phủ thành lập một lực lượng dân vệ có cộng tác với quân xâm lược (được gọi là "Milice") dưới sự chỉ huy của Joseph Darnand, và đám cùng với quân đội Đức đã tiến hành những chiến dịch đàn áp nhằm vào phe kháng chiến Pháp, đặc biệt là những người Cộng sản. Thậm chí Darnand còn được ( người Đức) tưởng thưởng như là một Thiếu tá SS. Pétain thừa nhận Darnand trong chính phủ của ông như là Bộ trưởng Duy trì Trật tự Công cộng (Secrétaire d'État au Maintien de l'Ordre). Trong tháng 8 năm 1944, Pétain đã thực hiện một cố gắng để giữ khoảng cách với các tội ác của đám dân vệ này bằng cách gửi tới Darnand một bức thư khiển trách vì tổ chức đã làm những việc "thái quá". Gã này đã viết trả lời Pétain và xiên xỏ rằng ông này phải " nghĩ trước khi nói".

    Chính phủ của Pétain đã cung cấp các quốc gia trục Axis một số lượng rất lớn vật tư lớn hàng hóa và thực phẩm và cũng ra lệnh cho quân đội Pháp ở trong đế chế thuộc địa của nó (ở Dakar, Syria, Madagascar, Oran và Morocco) phải bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Pháp chống lại bất kỳ kẻ xâm lược nào dù là quân Đồng minh hoặc bất cứ một ai khác.

    Động cơ của Pétain là một chủ đề phỏng đoán rộng rãi. Winston Churchill đã nói chuyện với M. Reynaud trong khi nước Pháp sắp sụp đổ về Pétain rằng "... ông ta luôn luôn là một con người thất bại, thậm chí trong cả cuộc chiến cuối cùng". Tuy nhiên vị trí của Pétain được thành lập một cách hợp pháp và đã được ghi nhận.

    Ngày 11 tháng 11 năm 1942, quân Đức xâm chiếm nốt vùng chưa chiếm đóng ở miền Nam nước Pháp để trả đũa chiến dịch đổ bộ Torch của Đồng minh ở Bắc Phi và Đô đốc François Darlan đã đồng ý hỗ trợ cho các nước Đồng Minh. Mặc dù chính phủ Pháp trên danh nghĩa vẫn còn tồn tại, chính quyền dân sự của nó đang gần như sụp đổ trên toàn bộ nước Pháp, Pétain đã trở thành một bù nhìn không hơn gì nhiều, người Đức cũng đã gạt bỏ nốt những "độc lập" giả tạo của chính phủ Vichy. Tuy nhiên Pétain vẫn còn rất nổi tiếng và ông này đã tham gia vào một loạt các chuyến viếng thăm ngoại giao vòng quanh nước Pháp vào cuối năm 1944. Khi ông đến Paris vào ngày 28 tháng Tư, các phim thời sự đã mô tả đó như là một thời điểm "lịch sử" của thành phố, các đám đông rộng lớn cổ vũ ông ta ở phía trước của khách sạn Hotel de Ville và trên các đường phố.

    Sau khi nước Pháp được giải phóng vào ngày 7 tháng Chín năm 1944 Pétain và các thành viên khác của nội các Vichy được người Đức chuyển tới vùng Sigmaringen thuộc nước Đức, nơi mà họ đã thành lập một chính phủ lưu vong cho đến tháng 4 năm 1945. Tuy nhiên Pétain bị ép buộc bị rời khỏi nước Pháp và từ chối tham gia vào chính phủ lưu vong vốn được cầm đầu bởi Fernand de Brinon. Trong một ghi chú viết ngày 29 tháng 10 năm 1944 Pétain đã cấm de Brinon sử dụng tên của ông trong bất kỳ văn bản nào của chính phủ mới và vào ngày 5 tháng Tư năm 1945 Pétain đã viết một bức thư tới Hitler thể hiện ý muốn của ông muốn trở về nước Pháp nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời. Tuy nhiên sau sinh nhật của ông 19 ngày, ông được đưa tới biên giới Thụy Sĩ. Hai ngày sau đó ông đã vượt qua biên giới và quay về nước Pháp.


    [FONT=&quot]Phiên tòa xét xử ông sau chiến tranh

    [/FONT]Sau này De Gaulle đã viết rằng quyết định của Pétain quay trở lại Pháp để đối mặt với những lời buộc tội chính ông "chắc chắn là một hành động dũng cảm". Chính phủ lâm thời của De Gaulle đã tổ chức một phiên tòa xét xử Pétain từ 23 tháng Bảy đến ngày 15 tháng Tám năm 1945 vì tội phản quốc. Ông này hoàn toàn giữ im lặng trong suốt quá trình tố tụng, sau một lời công bố đầu tiên phủ nhận quyền của Tòa án Tối cao, như theo hiến pháp hiện hành. Sau đó cũng chính bản thân De Gaulle đã chỉ trích phiên tòa và nói rằng: "Thông thường, các cuộc tranh cãi thường có sự xuất hiện của mầu sắc Đg phái, đôi khi thậm chí chúng chỉ được ghi lại trong các tài liệu, đôi khi toàn bộ chỉ nên được xử lý từ quan điểm bảo vệ chủ quyền, độc lập của quốc gia "

    Vào cuối phiên tòa xét xử Petain, mặc dù ba vị quan tòa đã đề nghị xét Pétain được trắng án khỏi với những tội trạng mà ông đã bị cáo buộc, bồi thẩm đoàn vẫn tuyên án và chuẩn y một án tử hình bởi có hơn một lá phiếu. Nhưng căn cứ vào độ tuổi của Petain, Toà án cũng đã yêu cầu rằng bản án không nên được thực hiện. De Gaulle-Tổng thống của Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Pháp sau khi kết thúc chiến tranh đã xét giảm án xuống tù chung thân trên cơ sở tuổi tác và đóng góp của Pétain trong chiến tranh thế giới I.

    Tuy nhiên Pétain bị tước tất cả các chức vụ và huân chương trong quân đội, ngoại trừ chức vụ Thống chế (vì Thống chế là một chức vụ được phong theo một đạo luật cá nhân đặc biệt phải được
    Quốc-hội Pháp thông qua và theo nguyên tắc phân chia quyền lực, một tòa án không có quyền để xóa bỏ hiệu lực của một đạo luật đã được Quốc-hội thông qua).

    De Gaulle, vì sợ có các cuộc bạo loạn nổ ra sau bản án, đã cho Pétain lên máy bay riêng của mình (de Gaulle) và ngay lập tức đến Fort du Portalet trong rặng núi Pyrenees ( vùng biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha ) nơi ông này ( Pétain) bị giam từ ngày 15 tháng Tám đến ngày 16 tháng 11 1945. Sau đó ông ta tiếp tục bị giam giữ trong pháo đài Forte Pierre de d'Île Yeu-một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương, nơi mà ông ta đã nhanh chóng bị suy yếu vì tuổi già và yêu cầu liên tục chăm sóc điều dưỡng. Ông mất tại Île d'Yeu vào năm 1951 ở tuổi 95. Xác của ông được an táng ở một nghĩa trang của hải quân ( Cimetière de Port-Joinville) ở gần một nhà tù. Có nhiều lời kêu gọi nên chuyển mộ phần của ông tới ngôi mộ đã được chuẩn bị cho ông tại Verdun.

    Năm 1973, quan tài của Petain đã bị đánh cắp từ nghĩa trang d'Ile Yeu bởi những kẻ cực đoan, những người muốn yêu cầu Tổng thống Pháp Georges Pompidou đồng ý cho Petain được chôn cất tại nghĩa trang Douaumont một trong những nơi chôn cất những người đã chết trong chiến tranh. Một tuần sau đó, quan tài của Petain đã được tìm thấy trong một nhà để xe ở Paris và những người chịu trách nhiệm cho vụ cướp mồ nghiêm trọng này đã bị bắt giữ. Petain đã được chôn cất lại với một vòng hoa của vị tổng thống trên quan tài của ông, nhưng như trước đây vẫn ở tại nhà tù đảo Ile d'Yeu.

    Trích dich từ http://en.wikipedia.org/wiki/Philippe_Pétain
  4. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Bàn vụ Pháp gian này vui àh!
    Nói như hai bạn ở trên không được!
    Trước hết mình hỏi theo quan điểm 2 bạn, Petain có chịu trách nhiệm cho những quyết định của bộ trưởng chiến tranh của mình không đã rồi bàn tiếp! Vì con ông này trực tiếp chỉ huy.
    Còn đây là lời Pê tanh gửi binh đoàn lê dương thập tự chinh chống c ộng này:
    They will be pacified by Mgr. Mayol de Lupe (1873-1975, Iron cross 1942), general chaplain of the LVF, who celebrates a mass in the morning of the October 5, day of the oath. On November 5th, the Marechal Petain sends them a message: "Before your battle, I am happy to know that you don't forget that you are holders of a part of hour military honor".

    Hiểu câu này có lẽ theo nghĩa " ủng hộ các pháp gian đi chống c ộng là hợp lý nhất đúng không nào?
  5. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Biết đầu hàng và công khai thừa nhận thất bại là một hành động văn minh. Pertain đã là được điều đó. Chính vì vậy đã tránh cho nước Pháp những đau khổ không cần thiết. Dù sao thực tế đã thất bại rồi, tại sao lại không công nhận nó.
  6. JeanValjean

    JeanValjean Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/03/2007
    Bài viết:
    226
    Đã được thích:
    1


    Chính nhờ ông Petin mà giờ đây chúng ta còn có Paris để mà ngắm, có rượu vang tử tế để mà uống, fromage ngon để mà ăn.
    Cứ nghe lời người Anh xúi bẩy, tiêu thổ kháng chiến thì giờ này biên giới của cái gọi là UK chung với cả Đức, Bỉ, Ý đại lợi>:D<
  7. investip20

    investip20 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/09/2007
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    1
    Đầu hàng phát xít Đức là tội lớn, chẳng cần phải bàn cãi gì nữa. Đối với bọn phát xít thì chỉ có oánh nhau thôi
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208



    Nói chính xác hơn là nếu Đức Quốc Xã thắng trận thì Pétain có công lớn, Đức thua trận thì Pétain là tội đồ.:))

    Mình không bàn đến việc thời thế sau này, cái nhìn đánh giá khi mọi việc đã có kết quả thì quá dễ. Mình muốn đặt sự đánh giá trong hoàn cảnh năm 1940, đó là lúc Pétain phải ra quyết định. Lúc đó chiến thắng của Đức gần như sắp thành hiện thực, rất ít người nghĩ rằng sau này Đức sẽ bại trận, trong đó có... Winston Churchill.:))

    Mặt khác, trong tội cũng có công. Những gì Pétain giữ lại được cho nước Pháp, kể cả cơ sở vật chất lẫn tính mạng người Pháp. Sách báo chính thống dường như không đề cập đến. Hay là họ không ước tính được?

    Một cái tội mà người ta quy cho Pétain là giao nộp người Do Thái cho Đức Quốc Xã. Họ quên rằng Pétain chỉ có cảnh sát và quân đội tượng trưng trước Đức Quốc Xã hùng mạnh. Thương lượng với người Đức bao giờ cũng nằm ở thế yếu nhất. Nhưng ông ta đã cố gắng thương lượng không giao nộp bất cứ ai trên đất Pháp thuộc quyền Vichy. Sau đó, dưới sức ép nặng nề, ông ta đành phải giao nộp những người Do Thái trên đất Pháp nào mà không có quốc tịch Pháp, những người Pháp Do Thái ông ta vẫn giữ lại được. Một thời gian sau đó Pétain mới phải nhượng bộ giao hoàn toàn người Do Thái khi bị người Đức dồn vào chân tường. Trong khoảng thời gian kéo dài đó, rất nhiều người Do Thái có đủ thời gian để đào thoát sang các quốc gia an toàn khác.
  9. Tank

    Tank Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/01/2003
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Đấy là nhờ công của phe đồng minh đánh bại Đức, giành lại nước Pháp và Paris.

    Còn nếu chỉ làm/chiến đấu theo cái kiểu "há miệng chờ sung" chờ phép mầu ở ngoài thì rất có thể bây giờ không phải "chúng ta" mà chỉ có "nhân dân Đế chế 3" của Đức quốc xã mới được sống và ngắm Paris, uống rượu vang, ăn pho mát và ngủ với gái Pháp thôi.

    Và có thể hệ quả là bây giờ bạn và tôi vẫn còn đang được gọi là dân annamese, ra đường "được" cảnh sát Pháp + Nhật đá đít và phạt vi cảnh.

Chia sẻ trang này