1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thông tin Tp Hải Phòng - Album Ảnh Tp Hoa Phượng Đỏ | Mục lục Trang 1 : Thời đổi mới ở Hải Phòng ( t

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi thankiemvdk, 26/10/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Phần III - Bệnh viện Tiệp Khắc

    Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ngày 11 tháng 6 năm 1956 Chính phủ Tiệp Khắc đã ký Nghị định thư viện trợ y tế cho Chính phủ Việt Nam xây dựng tại Hải Phòng một bệnh viện đa khoa hiện đại.
    Bốn tháng sau, vào ngày 10 tháng 10 năm 1956, một đoàn chuyên gia y tế và xây dựng Tiệp Khắc gồm bác sĩ, kiếm trúc sư, kỹ sư xây dựng đến bệnh viện Hải Phòng tìm hiểu tình hình, tiến hành đo đạc, khảo sát, lập đồ án thiết kế, vừa xây dựng mới vừa cải tạo sửa chữa và trang bị nội thất. Đoàn đã hoàn thành đồ án thiết kế trong vòng 2 tháng mặc dù không còn một tài liệu nào về thiết kế và xây dựng trước đây để lại.
    Về phía Tiệp Khắc, trưởng đoàn là bác sĩ Bradacék, sau này là giám đốc bệnh viện, kỹ sư thiết kế Kritil. Kỹ sư Ronek và tiếp sau đó là Milan Cregr chịu trách nhiệm về hậu cần.
    Bệnh viện phân công bác sĩ Hồ Công Nghĩa, phó giám đốc trực tiếp tham gia chỉ đạo chung, ông Trịnh Quang Nhân làm quản trị trưởng. Thành phố còn cử kiến trúc sư Nguyễn Phúc phối hợp làm việc với các chuyên gia Tiệp Khắc suốt quá trình khảo sát và xây dựng.
    Để công trình được triển khai ngay sau khi hoàn tất đồ án thiết kế, nhiều xí nghiệp Tiệp Khắc đã dành cho Việt Nam những tình cảm đặc biệt, sản xuất và cung cấp nhiều đơn đặt hàng làm ngoài kế hoạch.
    Ngày 1 tháng 4 năm 1957, công trường khởi công. Ngoài số vật liệu rất lớn như gạch, cát, đá, sỏi, gỗ, xi măng... và 300.000 công xây dựng của phía Việt nam, Chính phủ Tiệp Khắc đã gửi sang những vật liệu quý như thép xây dựng, tấm lợp, gạch men, kính, toàn bộ trang bị cho một bệnh viện về mặt hậu cần, cũng như trang bị kỹ thuật đủ cho các khoa chuyên môn phát triển ở trình độ cao khi đó, tương đương như trang bị cho một bệnh viện cùng cấp tại Tiệp Khắc; những thứ gì bạn không có hoặc không sản xuất kịp thì gửi mua ở Đức, Ba Lan, Trung Quốc và Hồng Kông.
    Diện tích mới làm là 17.167 m2 và diện tích cần nâng cấp sửa chữa là 11.467 m2 cho cả 4 khu: Bệnh viện chính, khu Sản Mắt, khu Nhi khoa và các kho tàng, hội trường. Khoa Lao (sau này là Nội I), khoa Truyền nhiễm làm mới trên đất rộng. Có những cơ sở vật chất hết sức tốn kém như khu xử lý nước thải, toàn miền Bắc mới có ở bệnh viện Hải Phòng.
    Công trình đã chi hết 5 tỉ đồng (thời giá 1959), trong đó 3 tỷ là máy móc y tế, thiết bị, vật liệu do phía Tiệp Khắc cung cấp.
    Sau gần 2 năm xây dựng, ngày 29 tháng 1 năm 1959 bệnh viện tổ chức lễ khánh thành. Dự lễ về phía Tiệp Khắc có đại sứ Alej Voltr và các chuyên gia y tế và xây dựng. Phía Việt Nam có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Bộ y tế, bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bộ trưởng Bộ thương binh xã hội, đại diện Bộ ngoại giao và nhiều khách trung ương và thành phố. Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã phát biểu: Bệnh viện này ngay từ ngày đầu đã tượng trưng cho tinh thần hữu nghị hai nước và sẽ mãi mãi là biểu tượng của sự đoàn kết quốc tế đó....
    Đi đôi với công việc xây dựng mới, cải tạo và sửa chữa hàng chục nhà cũ, bạn đã rất chú ý đến việc trang bị kỹ thuật, tất cả máy móc đều là loại mới sản xuất, hiện đại nhất được đưa vào các khoa lâm sàng, các bàn mổ, phòng nội soi, các khoa xét nghiệm, X quang, vật lý trị liệu, các phòng chữa răng và sản xuất thuốc. Các phương tiện phục vụ và nuôi dưỡng người bệnh được trang bị hoàn hảo giúp người bệnh thoải mái trong thời gian nằm viện. Thuốc men được cung cấp đầy đủ cho yêu cầu của điều trị, các phương tiện vệ sinh, sát trùng, tẩy uế, vệ sinh môi trường rất được chú ý, quần áo nhân viên và bệnh nhân được cung cấp đầy đủ, sau khi giặt là được chuyển đến tận nơi người dùng.
    Theo nhận xét của Bộ y tế: trong thời gian này, bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp là một bệnh viện được trang bị tốt nhất, đồng bộ nhất, tạo được điều kiện chăm sóc tốt nhất cho người bệnh ở miền Bắc.
    Để duy trì và đưa chất lượng bệnh viện nhanh chóng lên trình độ kỹ thuật cao, trong điều kiện ta còn thiếu nhiều cán bộ chuyên môn kỹ thuật, Tiệp Khắc đã đưa hàng trăm lượt bác sĩ, y tá trưởng sang làm việc trực tiếp ở từng khoa, phòng người nào nhiệm vụ ấy nhằm kèm cặp, đào tạo, xây dựng quy trình phục vụ chính quy hiện đại. Mặc dù phải khắc phục những khó khăn về thời tiết, khí hậu nóng ẩm của ta, những chuyên gia Tiệp Khắc đã làm việc hết sức mình ngày cũng như đêm, khoa phòng nào có bệnh nhân nặng là có mặt. Điều đáng quý là bạn đã tận tình bồi dưỡng nghề nghiệp, nhanh chóng chuyển giao kỹ thuật cho y bác sĩ Việt Nam. Những chị em y tá Tiệp Khắc làm việc không ngại vất vả bẩn thỉu, thường mọi công việc từ bình thường đến phức tạp họ đều làm mẫu và hướng dẫn y tá Việt Nam cùng làm. Các chị còn hướng dẫn y tá Việt Nam qui trình phục vụ một phòng bệnh cho từng ca làm việc, cách săn sóc bệnh nhân các loại bệnh, từ việc nhỏ như đánh răng, rửa mặt, làm vệ sinh thân thể, thay ga giường, vận chuyển bệnh nhân... đến thay băng bệnh nhân mổ, truyền dịch, truyền máu, nhất nhất đúng bài bản, nghiệp vụ. Bệnh viện một thời là điểm tham quan học tập về lề lối làm việc chính qui tiến tiến, những kinh nghiệm về quản lý khoa, phòng, chuyên môn kỹ thuật, tổng kết chuyên môn và nghiên cứu khoa học của các cơ sở y tế phía Bắc.
    Do nhu cầu quản lý một công trình lớn và hiện đại nên Bộ y tế đã lần lượt điều về bệnh viện một lực lượng lớn cán bộ có chuyên môn sâu, phần lớn được đào tạo từ trước cách mạng. Đầu năm 1956, bác sĩ Đỗ Quang từ bệnh viện Phủ Doãn về thay thế bác sĩ Phạm Thúy Liên trở lại Hà Nội. Năm 1958, các bác sĩ Phạm Như Trác, Nguyễn Trọng Tuệ, Trịnh Đình Cung, Nguyễn Hiền Mão, Trần Quang Soạn, Bùi Xuân Diêu, Nguyễn Bá Thịnh là những thầy thuốc có thâm niên công tác trong ngành, trình độ kỹ thuật cao, từng phụ trách các Ty, Sở y tế tỉnh, khu về bệnh viện làm chủ nhiệm các khoa, tiếp thu kỹ thuật và thay thế dần số chuyên gia y tế Tiệp Khắc về nước.
    Nhằm tận dụng khả năng chuyên môn cao của chuyên gia Tiệp Khắc trong thời gian bạn làm việc tại bệnh viện Hải Phòng, Bộ y tế tổ chức một lớp đào tạo y sĩ cao cấp khóa 1 của ngành, gồm 40 y sĩ quân, dân y được đào tạo trong kháng chiến chống Pháp về học 1 năm để tiếp cận với y học hiện đại, sau đào tạo có khả năng đảm nhiệm các nhiệm vụ chủ yếu của các bệnh viện, Ty, Sở y tế tỉnh, thành phố.
    Bệnh viện cũng hoàn chỉnh dần dần các khoa, phòng, hình thành một bệnh viện nhiều chuyên khoa có chức năng riêng, có tổ chức bộ máy phù hợp như thành lập khoa RMH, khoa xét nghiệm được tách làm hai khoa (khoa Sinh hóa và khoa Vi sinh vật), khoa Thần kinh, khoa Lây, khoa Nhi (hệ nội) tách ra làm các khoa riêng biệt. Khoa Sản tiếp thu cơ sở của bệnh viện lao động xây dựng thành một khu hoàn chỉnh về Sản phụ khoa.
    Trong suốt quá trình hoàn chỉnh bệnh viện, Bộ y tế tiếp tục điều về Hải Phòng nhiều cán bộ để mở rộng hoạt động, tạo điều kiện để các bác sĩ mới ra trường có cơ sở tốt để làm việc và bổ sung kiến thức.
    Năm 1960, lớp bác sĩ và dược sĩ khóa đầu tiên của trường Đại học y, dược Hà Nội ra trường sau hòa bình, mặc dù số lượng không nhiều nhưng Bộ y tế đã điều về bệnh viện Hải Phòng các bác sĩ Đỗ Phú Đông, Hoàng Long Phát, Nguyễn Văn Tân, Hoàng Thúc Thùy, Vũ Khánh, Lê Điềm, Nguyễn Huy Thiêm, Đặng Phương Kiệt. Nhiều cán bộ phụ trách các đơn vị y tế nhiều nơi khác cũng được điều về như bác sĩ Vũ Đình Hải, Vũ Văn Vĩnh, Trần Luật (1960), Nguyễn Đức Lung (1963). Năm 1962, 1963 một số bác sĩ chính qui tiếp tục về như Nguyễn Duy Quảng, Trần Thạch, Nguyễn Linh, Vũ Bích Nga, Hoàng Thế Cường, Nguyệt Áng v.v...
    Qua tình hình trên ta thấy được những năm đầu sau hòa bình lập lại, bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng là cơ sở đào tạo và bổ túc nghề nghiệp tốt nhất, ở đây các thầy thuốc có điều kiện làm quen với các phương tiện máy móc chuyên môn hiện đại. Mặt khác bệnh viện Việt Tiệp còn là một cơ sở tổ chức được lề lối làm việc chính qui khoa học, người bệnh được chăm sóc tốt về mọi mặt.
    Thời gian này, nhiều bác sĩ chuyên môn giỏi của bệnh viện được lệnh đi tăng cường cho những vùng thiếu thầy thuốc (Đỗ Quang, Hoàng Quỳ), vào Nam phục vụ và chiến đấu (Hồ Tấn Phi, Hồ Cung, Phan Trinh, Bùi Sỹ Hùng, Đoàn Hồng Hoa). Một số đi giúp nước bạn (Nguyễn Lược đi Lào năm 1962, Nguyễn Bá Cẩn, Võ Thị Xuân Trà đi Mali năm 1963).
    Cuối năm 1962, bác sĩ Bùi Đồng, Giám đốc Sở y tế kiêm giám đốc bệnh viện về Hà Nội, bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Viện trưởng Viên quân y 108 về thay.
    Sự trưởng thành của bệnh viện có công sức đáng kể của anh chị em trung, sơ cấp. Nhờ tích cực học hỏi và tinh thần giác ngộ lao động, lòng yêu nghề và ý thức tổ chức kỷ luật làm nền tảng cho một bệnh viện chính qui (sắp xếp lịch làm việc cho từng người trong ngày, trong tuần; qui trình làm việc theo ca, kíp; chế độ chăm sóc người bệnh về ăn uống, vệ sinh thân thể, chế độ vô trùng v.v...) nên bệnh viện Việt Tiệp sớm trở thành mô hình học tập của toàn ngành và bệnh viện nhiều tỉnh bạn.
    Tiệp Khắc không chỉ giúp đỡ về của cải vật chất xây dựng hoàn chỉnh một bệnh viện hiện đại, điều đáng quý lớn lao khác là các bác sĩ và cán bộ chuyên môn bạn đã đào tạo và kèm cặp cán bộ chuyên môn của ta làm quen với công việc quản lý một bệnh viện đông cán bộ, nhiều chuyên khoa.
    Bác sĩ và y tá Tiệp Khắc còn có những đóng góp tích cực cho bệnh viện, tuy nhiên phải kể đến một số tiêu biểu nhất:
    - Bác sĩ Bradacék, người trực tiếp tham gia vào đoàn khảo sát đầu tiên, giám đốc bệnh viện đến năm 1958. Và bác sĩ Smid, người thay thế.
    - Khoa Nội : Bác sĩ Rosenhal.
    - Khoa Ngoại : Bác sĩ Cakl, Kropack, Lauffer, Friedler.
    - Khoa Nhi: Krutan.
    - Khoa Sản: Bác sĩ Navratil, Kroutova.
    - Khoa Lây: Bác sĩ Pattouvá, bác sĩ Mirovsky.
    - Khoa giải phẫu bệnh: Bác sĩ Broz.
    - Khoa Sinh hóa: Ks Mirakos Antonin.
    - Khoa Vi sinh vật: Bác sĩ Vladimir Séry.
    - Khoa Thần kinh: Bác sĩ Honek.
    - Khoa Quản trị: Đồng chí Honek.
    Nhưng nổi bật lên là quản trị trưởng, luật sư Milan Gregr. Ông có tấm lòng ưu ái đặc biệt với nhân dân Việt Nam. Là người điều hành khối lượng tiền và vật tư lớn, ông đã tìm mọi cách để làm được nhiều việc với chất lượng tối đa. Ông không nề hà bất cứ việc gì, hàng ngày đi kiểm tra trật tự vệ sinh, chất lượng máy móc, điện, nước ở bất cứ ngóc ngách nào, từ nhà tắm, hố xí đến các buồng làm việc, đâu hỏng hóc thiếu thốn gì là ông kịp thời cho người đến sửa chữa thay thế. Ông rất quan tâm đến việc giáo dục, khuyên bảo công nhân Việt Nam về tổ chức và ý thức trách nhiệm làm việc, tạo mọi điều kiện cho cán bộ chuyên môn phục vụ tốt bệnh nhân và khi cần thiết ông sẵn sàng ghé vai khiêng vác cùng anh em công nhân. Ở Việt Nam cũng như ở Tiệp Khắc ông luôn nhận mình là con của Hồ Chủ Tịch, cũng vì vậy khi ghe tin Mỹ ném bom Việt Nam, giết hại nhiều đàn bà trẻ em vô tội, ông đã xin tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu. Rồi khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thắng lợi, ông đã bay sang ngay tìm hiểu tình hình bệnh viện lo viện trợ để tái thiết bệnh viện. Ông còn là người góp phần quyết định vào việc kết nghĩa giữa thành phố Hải Phòng với khu Bắc Morava.
    Luật sư Milan Gregr, nguyên quản trị trưởng bệnh viện đã được Nhà nước tuyên dương công trạng và tặng huân chương hữu nghị vào ngày 29/1/1984 (khi ông đã mất).
    Năm 1956, các chuyên gia y tế Tiệp Khắc lần lượt về nước. Công việc quản lý và điều hành bệnh viện hoàn toàn do cán bộ nhân viên Việt Nam. Đư­ợc chuẩn bị chu đáo về nhân sự và ý thức trách nhiệm của bạn trong quá trình bàn giao, mọi công việc chuyên môn kỹ thuật và tổ chức quản lý được tiếp nối hết sức tốt đẹp. Tuy nhiên trên tinh thần thực sự cầu thị, ta đã yêu cầu một số chuyên gia Tiệp Khắc ở lại làm việc với tư cách là các thầy thuốc chuyên khoa cho tới năm 1964. Cùng thời gian này, được sự đồng ý của Bộ Y tế và UBND thành phố, Bệnh viện Tiệp Khắc đổi tên thành Bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp.
  2. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Sau khi người Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng vào ngày 13-05-1955, miền Bắc, mà Hải Phòng là một trong những trung tâm Kinh tế, bước vào giai đoạn xây dựng đất nước. Có một thời kỳ trong giai đoạn này có thể được coi là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Thành Phố Hải Phòng, thời kỳ mà mỗi người dân Hải Phòng có quyền tự hào khi nghĩ về nó. Từ phôi thai ý tưởng của ông Kim Ngọc(Vĩnh Phúc) và cái nôi Hải Phòng, khoán 10 trong nông nghiệp ra đời đã chấm dứt thời kỳ đói kém của đất nước Nông Nghiệp Chủ Đạo Việt Nam.
    Bác Đoàn Duy Thành, một người mà tôi rất ngưỡng mộ, là người có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với Hải Phòng vào thời kỳ đó, với những tư duy đột phá trong vỏ bọc của sự cứng nhắc. Tôi xin pót ra đây đoạn trích thể hiện cái nhìn của người trong cuộc-bác Đoàn Duy Thành- về thành phố Hải Phòng thân yêu:

    Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 6
    Thời kỳ đổi mới ở Hải Phòng​
    Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.
    Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỷ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: ?olàm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại?. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!
    Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lý kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lý luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kỹ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.
    Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kỳ khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.
    Cảng Hải Phòng phải quân sự hóa, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hóa thành phố không (gọi là quân quản như thời kỳ mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.
    Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.
    Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề ?oNạn kiều? (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải tỏa cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hóa đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.
    Trong những lần giải tỏa cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hóa như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải tỏa. Họp giải tỏa nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải tỏa hàng mấy năm liền...
    Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải tỏa xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố **a tếu nói: ?oÔng Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...?. Hàng hóa lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.
    Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hóa Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân. Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hóa, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hóa chất vào, thì cả nước có câu ca dao:
    Cả nước đau lòng
    Hải Phòng phấn khởi (?)
    Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lý bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.
    Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.
    Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hóa Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay. Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.
    Xong việc giải tỏa Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lý Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử ?ogiải tỏa?.
    Trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý kinh tế, kế hoạch tập trung, tôi có rất nhiều suy nghĩ về cách quản lý của ta. Làm thế nào để xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cho dân giàu lên, không thiếu thốn như hiện nay? Làm thế nào cho ?odân giàu, nước mạnh?, nghe khẩu hiệu này khi tôi mới nói ra, đã có người phản đối. Thực lòng ai cũng muốn khá giả, nhưng nói chữ ?ogiàu? hình như ai cũng coi là mất lập trường, rất kiêng kỵ. Có đồng chí cán bộ cao cấp còn uốn nắn lại thành: ?oNước giàu, dân mạnh?. Tôi buồn cười, nhưng không dám cười, chỉ lắng nghe.
    Có lần xuống xã, một đồng chí bí thư xã mời tôi về nhà chơi. Vừa vào đến sân đồng chí ấy nói: ?oTôi rất tự hào báo cáo với đồng chí Bí thư Thành uỷ: Trên 30 năm tham gia cách mạng, đến nay tôi cũng chỉ có một gian nhà tranh, vách đất, và cái giường 3 xà...?. Tôi hiểu ý đồng chí muốn nói mình liêm khiết. Tôi buột miệng: ?oTôi tưởng đồng chí khoe với tôi là cả xã đồng chí đều có nhà xây, có tiện nghi... và đồng chí cũng như vậy thì mới đáng lự hào. Chứ hòa bình bao nhiêu năm rồi mà vẫn nghèo như thế này là chúng ta dốt, ai còn theo chúng ta, nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội...?.
  3. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Tôi chậm được ra nước ngoài. Tháng 9-1974 lần đầu tôi thăm Quảng Châu và Hải Nam Trung Quốc. Tháng 8-1978 sang Nhật bản, tháng 10-1980 sang Liên Xô. Ba cuộc đi ra nước ngoài giúp tôi có sự so sánh và cách nhìn vấn đề khá lý thú.
    Tôi sang Trung Quốc thời kỳ đang ***************** rất mạnh ở Trung ương. Nhưng ở Quảng Đông, đồng chí Triệu Tử Dương, Bí thư Tỉnh uỷ thì làm khác, chỉ tập trung làm kinh tế, còn ***************** làm qua loa... Tôi xem nông dân Trung Quốc đào giếng trên các đồi ở Hải Nam để dự trữ nước tưới cho lúa. Lúa Hải Nam rất tốt do không làm theo các Công xã Trung ương. Đoàn chúng tôi được tiếp đón rất trọng thị...
    Rồi tôi thăm Thành phố Yokohama của Nhật do Thị trưởng Thành phố Asô-ka-ta mời. Sau một tuần tham quan nghiên cứu tôi thấy phong cách làm ăn của Nhật thiết thực, lời nói đi đôi với việc làm. Những nơi tôi được tiếp mục sở thị đều đẹp hoặc bằng trên ti-vi giới thiệu. Tinh thần khắc phục sau động đất của Thành phố Yokohama thật xúc động, đáng cảm phục. Tất cả đều hằn sâu trong ký ức tôi.
    Năm 1980 tôi đi hội thảo khai thác vùng Si-bi-ri Liên Xô, ở Kha-ba-rốp, thủ phủ Si-bi-ri, do đồng chí Trần Phương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch làm trưởng đoàn. Đoàn viên có đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, cùng một số Thứ trưởng và chuyên viên cấp vụ của một số ngành Trung ương. Máy bay đưa thẳng đoàn từ Hà Nội đến Kha-ba-rốp, hết gần 7 giờ. Qua eo biển Nhật Bản, được 2 máy bay khu trục của Nhật Bản lên ?onghênh tiếp?, hai bên cánh đeo 2 quả tên lửa sơn vàng ***i.
    Lần đầu tiên được sang Liên Xô, tôi nghiên cứu khá tỉ mỉ. Đặc biệt ở Kha-ba-rốp, tôi xuống các hộ nông dân tập thể, có gia đình chỉ còn các cụ già ở nhà, con cái đi lao động ở nông trường. Tôi hỏi thăm cuộc sống của các cụ hàng ngày, được biết các cụ chỉ ăn bánh mì với bơ, khoai tây. Riêng nho rất nhiều. Nhà ở xếp gỗ thành tường, mái lợp da thú như những cái lều, cái hầm... Chúng tôi trao đổi riêng với nhau: Nhân dân Liên Xô thế này mà giúp đỡ Việt Nam mỗi năm hàng tỷ rúp vàng, tương đương một tỷ đô la Mỹ, điều đó thật đáng suy nghĩ. Còn hội thảo chẳng đi đến kết quả rõ rệt. Các đồng chí Bộ Ngoại thương Liên Xô phát biểu rất bảo thủ, không những thế còn tỏ thái độ uốn nắn Việt Nam... Sau cuộc hội thảo, tôi có rất nhiều băn khoăn về kinh tế Liên Xô lúc đó...
    Với tất cả những gì hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, tôi suy nghĩ xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế và xã hội cho thành phố Hải Phòng mà tôi đã ấp ủ từ lâu. Nhưng tôi tự nhủ phải thận trọng, nhất là đối với Bí thư Bùi Quang Tạo, một uỷ viên Trung ương từ khóa II, hơn tôi 16 tuổi. Anh cũng bị tù trước 1945. Trong một thời gian rất ngắn làm việc, anh em tỏ ra ?oý hợp tâm đồng? rất dễ làm việc. Công việc tôi đề xuất anh Tạo ủng hộ rất nhanh. Còn ý kiến anh nêu ra tôi chấp hành nghiêm chỉnh, nếu có cái gì cần bàn thêm anh cũng nghe theo ý tôi.
    Vấn đề đầu tiêu là an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân. Còn các vấn đề kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục. tôi đã hình thành trong các bản dự thảo, tùy theo tình hình, thời cơ sẽ đưa ra Ban Thường vụ hoặc Thành uỷ bàn. Những vấn đề này trong các buổi giao ban hàng tuần giữa Bí thư và Chủ tịch Thành phố vào chiều thứ 7, sau khi kết thúc những việc chính, tôi đưa vào câu chuyện ngoài, nói với Bí thư để từng bước tạo sự nhất trí giữa 2 cán bộ chủ chốt của Thành phố, về con đường đi lên CNXH.
    Nguồn : haiphongtalk.com
  4. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Trong 30 tháng làm bí thư Thành uỷ Hải Phòng, cứ đến chiều thứ 7 giao ban xong, anh Tạo về Hà Nội, vì gia đình anh ở Hà Nội cả, chỉ có một người phục vụ ăn uống là ở Hà Nội xuống, còn lái xe cũng do Hải Phòng cử. Dù giao ban xong sớm 5, 10 phút; tôi ra về để anh về Hà Nội, nhưng anh bảo tôi: ?oChưa hết giờ..., ở lại bàn thêm?. Chúng tôi ở lại nói chuyện quốc sự mà hai anh em cùng quan tâm...
    Việc đầu tiên tôi làm là xóa bỏ các rào dậu của một số phường, để các ngõ ngách thông thóang cho dân đi lại bình thường, tăng cường lực lượng kiểm tra của bộ đội, công an, tự vệ về ban đêm, tổ chức phục kích một số bọn trộm cắp có tổ chức với lực lượng chiến sĩ ở các đồn công an Máy Chai, dọc sông Cấm. Ba công cụ ?oan ninh? thời chiến được xóa bỏ. Tôi trực tiếp vào trại giam xem xét 12 tên tù tử hình còn giam giữ nhiều năm ở trại giam mà không thực hiện án. Có tên đã trốn tù, mất bao công sức truy tìm mới bắt lại được. Qua đọc hồ sơ tội ác của bọn chúng, và trực tiếp gặp một số tên để cân nhắc, tôi bàn với anh Tạo đề nghị ************* (lúc đó là anh Trường Chinh) và Ban Bí thư giảm tội cho 6 tên xuống chung thân, còn 6 tên gian ác nhất cho thi hành án. ************* và Ban Bí thư đồng ý, giảm án cho 6 tên, còn 6 tên tàn ác nhất đã giết 2 người trở lên để cướp của... cho xử ngay trong một tháng.
    Thành phố tổ chức thi hành án tên đầu tiên để rút kinh nghiệm. Anh em Sở Công an và cơ quan thi hành án đem phạm nhân đến Tràng Cát, xa thành phố khoảng 6 km, bắn vào lúc 5 giờ sáng, chỉ có vài chục người đến xem, tác dụng giáo dục rất ít... Tôi nhắc các đồng chí, những tên xử tiếp, phải đem đến Nhà hát nhân dân xử cho toàn thành phố xem. Gọi 600 tên tiền án, tiền sự ngồi chung quanh nơi hành án, còn nhân dân đứng vòng ngoài. Xử vào lúc 7 giờ sáng, thông báo cho nhân dân biết trước đến xem. Nhân dân kéo đến xem tới hàng vạn người, đứng cả đường ngoài sông, ngăn cách với Nhà hát nhân dân. Sau vụ xử có những tên ?otiền án, tiền sự? đái cả ra quần, có tên sợ quá chết ngất đi. Quần chúng đi xem, hả hê, thấy pháp luật Nhà nước nghiêm minh. Khi công bố tội trạng tên tử tội, có người nói: ?oTên này phải bắn đến 3 lần mới đúng? hoặc ?ophải xử bằng hình thức cho dân tùng xẻo chúng hoặc phải lăng trì theo kiểu cổ điển của phong kiến mới hả dạ?. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên xử ở Nhà hát nhân dân, nên chọn một chỗ khác. Có người còn làm ca dao đả kích cho thêm sức mạnh thuyết phục:
    ?oBiến nơi văn hóa thành nơi pháp trường...?
    Nhưng tôi nói với Thành uỷ và cán bộ chủ chốt là trong tình hình đặc biệt, phải có biện pháp tốt để giáo dục rộng rãi nhân dân. Chế độ ta nhân đạo, bắn một người để cứu hàng vạn người. Người xưa có câu ?oSát nhất nhân, thiên vạn nhân cụ?. Việc ngăn ngừa tội phạm phải được giáo dục, răn đe, ngắn ngừa từ gốc... Theo tôi lúc này, nếu Nhà hát lớn thành phố dựng được bức tường tránh đạn lạc, còn 3 tên tội phạm sẽ xử tiếp ở Nhà hát lớn mới có tác động tốt hơn cho cả thành phố và các tỉnh lân cận.
    Nhưng thế cũng là đủ, còn 3 tên nữa cho xử tiếp ở Nhà hát nhân dân, giải thích cho người làm ca dao, thấy hết ý nghĩa việc làm của thành phố ?oquang minh, chính, đại? để họ đồng tình. Thành uỷ và UBND Thành phố hy vọng rằng từ nay về sau không còn phải xử đại hình ở nơi văn hóa này nữa. Quả là từ đó đến khi tôi rời khỏi Hải Phòng không còn án tử hình.
    Tình hình trật tự trị an dần dần tốt lên, trộm cắp giảm hẳn. Nhưng vệ sinh đô thị chưa tốt, cuộc sống của dân, nhất là nông thôn, ?otháng ba ngày tám? thành phố phải phân chia cán bộ xuống xã để chống đói cho nông dân... Lúa chín nông dân không chịu thu hoạch, thành phố phải huy động cán bộ công nhân viên chức đi gặt giúp. Lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và khu phi nông nghiệp rất khó khăn. Do đó, một mặt phải đi mua lương thực ở miền Nam, mặt khác tìm cách khuyến khích nông dân tăng vụ, trồng màu, rau khoai chống giáp vụ... biết bao công việc đặt ra cấp bách.
    Tôi quyết định trước hết phải xuống với nông dân, đi vào thực chất xem tại sao trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ mầu mà cứ đói triền miên. Những năm trước, tôi xuống theo dõi nông nghiệp cũng rất sâu, chứ không phải ?ocưỡi ngựa xem hoa?. Tôi nghĩ do quản lý, nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất có thể lên cao. Nhưng cày bừa máy, khoa học kỹ thuật, giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu...tất cả hợp lực hỗ trợ mà năng suất vẫn tụt. Có nơi ngày công 300gam/ngày. Quê tôi đồng đất Hải Dương ?oruộng tốt, cau sai?, không chua mặn, cũng vậy.
    Tháng 9-1977, cụ thân sinh ra tôi mất. Tôi đưa cụ ra cánh đồng loại nhất đẳng điền, lúa sắp chín mà trông như cỏ may. Khi tôi còn nhỏ, loại ruộng này, nhà tôi cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào. Nay chưa chắc được 40kg/sào. Tôi hỏi các bậc lão nông tri điền họ cũng nói như vậy.
    Tôi nghĩ tất cả do khâu quản lý, khi nào có điều kiện tôi sẽ đề xuất thay đổi cách quản lý mới xem sao. Tôi đi kiểm tra tất cả các huyện ngoại thành, từ những hợp tác xã làm ăn giỏi như Phục Lễ huyện Thủy Nguyên, Cổ Am huyện Vĩnh Bảo. Có cán bộ được nhân dân tín nhiệm như đồng chí Công, Bí thư Đảng uỷ xã Phục Lễ, có năng lực, có uy tín. Đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên đến họp. Họp hợp tác xã cũng vậy, xã viên đến đủ 100% trừ người ốm đau nặng. Thế mà năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá, chỉ được trên 1 kg/ngày. Xem ra xã viên làm nhanh cho xong công việc hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển, hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp khoảng 20% cho cuộc sống của gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.
    Một hôm tôi xuống xã Hòa Nghĩa thuộc huyện An Thuỵ, xã lớn gần 600 ha, giáp với con đường 14 ra Đồ Sơn (nay là đường 353). Tôi vào thăm một số gia đình, thấy nhà nào cũng đói. Tôi đến một gia đình có 3 cháu đang đói, nằm ở trên giường. Tôi hỏi: ?oBố mẹ cháu đi đâu??. Các cháu trả lời: ?oBố mẹ chúng cháu ra bãi biển bắt tôm, cá về bán đong gạo?... Đồng chí Bí thư, Chủ tịch, Chủ nhiệm hợp tác xã, cùng đi với tôi cho biết: ?oXã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào cũng không cày cấy hết, bỏ hoang cho cỏ năn mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy vì thu nhập thấp, lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, bỏ ruộng ra bãi biển kiếm sống. Tôi hỏi: ?oCác cháu bị đói là tại ai??. Đồng chí thì trả lời do nhà thiếu lao động, bố mẹ không chịu lao động cày cấy. Đồng chí Bí thư tự nhận là tại xã quản lý kém v.v.. Tôi nói: ?oLà tại tôi, tại Chủ tịch thành phố...? Các đồng chí nhìn tôi tỏ vẻ sợ! ?oTôi nói thật đấy. Tôi sẽ cho lái xe về ngay nhà lấy mấy cân gạo cho các cháu, nấu cho các cháu ăn kẻo bị đói lả?. Các đồng chí vội ngăn lại, bảo xã có gạo. Rồi đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã vội về xuất kho lấy gạo nấu cơm cho các cháu. Mấy hôm tiện đường, tôi rẽ vào xã Hòa Nghĩa thì được biết thóc quỹ hợp tác xã còn, các đồng chí xuất cho những gia đình khó khăn vay. Thành phố hỗ trợ một ít, qua vụ đói. Các xã khác ngoại thành cũng làm tương tự, nhất là huyện Tiên Lãng và huyện An Lão, huyện thuần nông rất nghèo, gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.
    Từ những vấn đề thực tế của nông dân, với cương vị Chủ tịch UBND thành phố, tôi đề xuất thay đổi cách quản lý nông nghiệp. Tôi đem vấn đề bức xúc này bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh tỏ ý đồng tình. Hai anh em trao đổi ngày này qua ngày khác, những buổi chiều thứ bảy hàng tuần, ngoài những việc phải giải quyết ngay, chúng tôi tập trung suy nghĩ và trao đổi vấn đề ?okhoán hộ?. Anh Tạo nói: ?oKhó nhất là anh Trường Chinh. Vụ khoán chui của anh Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phúc, lúc đó tôi ở Ban Tổ chức Trung ương thấy găng lắm!? Tôi đề nghị anh ở Hà Nội thăm dò xem liệu Vĩnh Phúc làm cách đây 15 năm rồi, nay có thể khác không. Tôi nói vui: ?oVạn vật biến chuyển, con người tư duy cũng phải biến chuyển. Nhất là lúc này lương thực không đủ ăn, ruộng nông dân bỏ hoang, ta phải vay đô-la nhập lương thực, nhập phân bón bao nhiêu dân vẫn đói, cán bộ công nhân viên phi nông nghiệp chỉ ăn mì. Rõ ràng có ruộng cấy ra thóc, mà không có gạo ăn?.Anh Tạo suy nghĩ, tỏ ra rất buồn. Tôi tin tưởng anh Tạo đã đồng tình với tôi. Anh nói chúng ta sẽ liệu và anh bảo tôi: ?oAnh thân với anh Ba, anh thăm dò ý anh Ba xem. Còn tôi sẽ thăm dò những anh em thân quen anh Trường Chinh?. Chúng tôi đi đến thống nhất tạm thời cho khoán màu ở ngoại thành, lấy xã Hưng Đạo làm thí điểm... rồi từng bước ta mở rộng sau. Còn những nơi khoán chui ruộng như Tiên Lãng, ta lờ đi, nhắc báo Hải Phòng không phê bình Tiên Lãng quá đà trệch hướng, Huyện cho khoán màu, xã lợi dụng khoán cả lúa. Đồng chí Lựu Bí thư Huyện uỷ thấy báo Hải Phòng phê bình, lo quá, đồng chí thanh minh với tôi. Tôi bảo cứ yên lâm, đừng cấm nông dân. Chúng ta sẽ xin với trên cho làm thử khoán lúa tới người lao động và nhóm lao động...
    Trong lúc lương thực thiếu, trên cung cấp không đủ, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng một số cán bộ của Văn phòng UBND thành phố vào miền Nam chạy gạo, bằng cách đổi hàng công nghiệp. Chúng tôi đến tỉnh Cửu Long kết nghĩa, được tiếp đón trọng thị, nhưng khi bàn đến mua thóc đổi hàng công nghiệp thì rất khó khăn. Trong lúc đồng chí Sáu Ức, Chủ tịch UBND tỉnh đang bàn giao để đi làm chuyên gia bên Campuchia, giao cho đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch bàn với chúng tôi. Tôi và đồng chí Hưng bàn đi bàn lại với tỉnh kết nghĩa, có cả đồng chí Văn Hiến tỉnh uỷ viên nguyên là Thành uỷ Hải Phòng làm Giám đốc sở nông nghiệp Cửu long, nhưng đồng chí Phó Chủ tịch chặt chẽ quá. Tôi nghĩ chắc tỉnh cũng có khó khăn về lương thực, nên tôi đề nghị thôi không mua lương thực của tỉnh Cửu long nữa. Về sau các đồng chí nghĩ sao không rõ, đồng chí Tuấn lại bán cho Hải Phòng 1.000 tấn thóc. Tôi nói với đồng chí Văn Hiến rằng, chúng tôi thông cảm, anh không nên áy náy về vấn đề này.
  5. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Hôm sau Đoàn chúng tôi sang Hậu Giang, gặp đồng chí Chủ tịch Bảy Mạnh, đồng chí Đặng Toàn, Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch thành phố Hải Phòng vào tăng cường cho Hậu giang. Chúng tôi chỉ bàn 2 tiếng đồng hồ, đồng chí Chủ tịch bán cho 2.000 tấn gạo bằng cách đổi hàng rất thuận lợi cho Hải Phòng.
    Kết quả mua được 2.000 tấn gạo và 1.000 tấn thóc. Chúng tôi ra về bằng đường bộ. Trong dịp đi công tác này, tôi gặp một số tỉnh để vừa học tập, vừa thăm dò việc ?okhoán? nông nghiệp. Có đồng chí rất bỡ ngỡ vì việc quá mới, có đồng chí trả lời: ?oChúng tôi phải tổ chức hợp tác xã xem sao đã. Chưa biết hợp tác xã ra sao, nói gì đến khoán?. Tỏ thái độ không đồng tình là Bến Tre và Thuận Hải, còn đa số trả lời chung chung: ?oCác anh cứ làm trước, nếu tốt chúng tôi sẽ làm?. Tôi chỉ dám trao đổi khéo léo, sơ sơ thôi, chứ không dám nói thẳng ra, vì vấn đề này vẫn là vấn đề ?oquốc cấm?.
    Trên đường về, chúng tôi làm việc với Khánh Hoà, đêm ngủ tại Cam Ranh. Bộ Tư lệnh Hải quân mời đến xem tàu ngầm Liên Xô. Sáng hôm sau trên đường về qua thành phố Nha Trang một sự cố đau lòng xảy ra: đồng chí Nguyên Văn Sinh, chuyên viên Văn phòng Uỷ ban bị nhồi máu cơ tim chết ngay trên xe trong lúc đang đi cùng với đồng chí Trịnh Thái Hưng. Chúng tôi đưa ngay đồng chí Sinh đến Bệnh viện Nha Trang, nhờ bệnh viện khám lại tử thi để xác định nguyên nhân. Đồng chí Sinh bị đau tim đã lâu. Khi đi vào miền Nam đồng chí Sinh đi bằng máy bay, đồng chí có cháu là bộ đội Hải quân nên kết hợp đi thăm cháu. Trước khi ra Bắc bằng đường bộ, tôi đã bảo đồng chí Sinh xem lại sức khoẻ rồi hãy đi. Đồng chí Sinh nói với tôi: ?oAnh yên tâm, sức khoẻ tôi khá rồi?.
    Tôi đến gặp đồng chí Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh đề nghị giúp đỡ. Đồng chí Nhường giúp hết sức tận tình, chỉ thị cho bệnh viện làm mọi thủ tục, đóng cho một quan tài trong bằng kẽm, ngoài bằng gỗ, giải phẫu và làm vệ sinh tử thi đồng chí Sinh rất chu đáo. Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thành phố Nha Trang, một đêm biết bao buồn bã, không ai ngủ, chỉ mong sao ***ng sáng để đưa đồng chí Sinh về Hải Phòng. Sáng sớm hôm sau, đồng chí Hồ Ngọc Nhường và Văn phòng UBND tỉnh Phú Khánh tiễn chúng tôi với sự cảm thông sâu sắc về chuyến công tác gặp nhiều trắc trở. Đoàn chúng tôi ra về với một xe tang bí mật (xe khách do Khánh Hoà chở giúp) trên chở quan tài đồng chí Sinh và một vài cán bộ ngồi phía trước. Còn xe tôi lúc đi trước, lúc lùi lại sau để bảo đảm thời gian và tốc độ đi vừa phải. Nó là cái xe Volga mầu mận tím trước của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Giáo sư mua xe mới, chiếc xe cũ cho Hải Phòng). Đoàn xe đến Lăng Cô thì xe của tôi bị chết máy, đồng chí Chức lái xe chữa mãi không được. Tôi bàn với anh Hưng gọi điện cho anh Trần Hoàn, Uỷ viên Thường vụ Bình Trị Thiên, đề nghị cho xe đến đón, và kéo xe của tôi về Huế. Đồng chí Trần Hoàn lập tức mượn xe của đồng chí Vũ Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh đến đón tôi, và cho xe kéo chiếc xe hỏng về Huế. Thật là:
    ?oPhúc bật trùng lai,
    Hoạ vô đơn chí!
    Về đến Huế, đồng chí Vũ Thắng đã đón tôi tới khách sạn và mời cơm toàn đoàn. Chúng tôi giữ bí mật về chiếc xe khách chở hàng ?ođặc biệt? đi theo. Vì cả đêm chiếc xe đó phải đỗ ở sân khách sạn Sông Hương, ngại nói ra anh em khách sạn lại sợ, sinh ?orách việc?, cứ lặng yên không ai nói gì cả.
    Hôm sau chúng tôi cảm ơn, chào tạm biệt đồng chí Vũ Thắng, đồng chí Trần Hoàn, về Hải Phòng. Nhưng các đồng chí ở Huế cũng biết là chiếc xe khách trong chở quan tài, thấy chúng tôi không nói gì, các đồng chí ?otế nhị? cũng không hỏi. (Sau này đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Trần Hoàn có nói lại với tôi). Viết đến đây, tôi muốn một lần nữa cảm ơn ba anh: Hồ Ngọc Nhường, Vũ Thắng, Trần Hoàn. Nhưng ba anh đã qua đời! Rất buồn và nhớ các anh, những ?ochiến hữu? không bao giờ quên nhau. Nhất là anh Trần Hoàn, một con người năng động, sôi nổi, tình cảm... luôn coi Hải Phòng là quê hương thứ hai của mình.
    Đến 15 giờ cùng ngày, đoàn xe chúng tôi về đến Hải Phòng. Gia đình đồng chí Sinh và Văn phòng Uỷ ban, Văn phòng Thành uỷ, các cơ quan, bạn bè thân thuộc đã đón đồng chí Sinh ở bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Vừa buồn vừa tủi, vừa mừng lẫn lộn. Những ngày qua chị Sinh và các cháu lo lắng không biết bác Thành, bác Hưng... có mang được bố các cháu về không? Hay phải mai táng tại Nha Trang? Hôm sau, đám tang đồng chí Sinh được cử hành long trọng. Thi thể đồng chí do Khánh Hoà làm vệ sinh và ướp lạnh tốt, nên hình dáng vẫn như người nằm ngủ. Cả gia đình đều gặp tôi cảm ơn. Tôi bảo đây là trách nhiệm, là tình cảm của đồng chí với nhau, chỉ khi không còn điều kiện mới phải bó tay.
    Một thời gian đi công tác dài ngày ở các tỉnh phía Nam, tôi có thêm những suy nghĩ mới về đất nước. Trước đây so với 3 nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô thì Việt Nam vẫn có ưu thế hơn. Thế mà sau hơn 5 năm thống nhất đất nước, dân vẫn cứ nghèo, thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu thấy khá hơn các tỉnh phía Bắc nay xuống cấp quá nhanh, xe máy hết dần, chỉ còn xe cũ với loại Honda 50 là phổ biến, xe đạp xuất hiện nhiều. Từ ăn mặc, đến nhậu nhẹt giảm hẳn. Quần áo nâu sồng, dép lốp xuất hiện.
    Các tỉnh miền Trung còn khó khăn hơn. Đến Phan Rang, nóng ơi là nóng! Đồng chí Thư kí thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, mệt mỏi, tìm mãi trong cặp ra đưa cho tôi một gói sâm chè cao ly và một cốc nước, nói khẽ: ?oAnh vào góc kia uống?. Đồng chí hướng dẫn tôi xé bao chè sâm, dốc vào miệng, uống cho đỡ mệt. Đúng là lần đầu tiên tôi uống chè sâm, uống xong thấy dễ chịu thật. Tôi suy nghĩ làm sao để dân giàu lên, mình được uống chè sâm với dân thì sướng biết bao! Phải làm và làm cho được.
    Về đến Hà Nội, buổi trưa nắng hè oi ả, lại thấy rặt xe đạp là xe đạp, với dép cao su. Nhiều người còn mặc quần áo vá. Tôi nghĩ bao giờ thì lên đến chủ nghĩa xã hội? ?oPhải quyết tâm làm cho nó đến...?
    Là người Hải Phòng không ai không hiểu Hải Phòng là thành phố Cảng, thành phố công nghiệp, và đường lối chung phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Nhưng giữa lúc ngành công nghiệp đang đứng trước những thách thức lớn, công nghệ lạc hậu, vốn không có, nguyên liệu nhập về không đủ, phải chia nhau từng tấn sắt thép, mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng quên Hải Phòng là thành phố công nghiệp, nên những năm cuối thập kỉ 70, phân chia nguyên liệu sắt thép chỉ ngang Quảng Ninh và Thái Bình. Vậy Hải Phòng phải tìm hướng đi nào cho phù hợp và có hiệu quả nhất, không giáo điều, máy móc? Chúng tôi tạm thời vẫn duy trì những ngành công nghiệp khó khăn và phát triển những ngành công nghiệp có điều kiện, chờ thời. Khởi đầu bằng nông nghiệp lúc đó là thuận nhất, vì ngân sách trống rỗng, lương thực Nhà nước cấp có hạn. Đầu tư vào nông nghiệp là nhanh nhất. Sau 1 vụ khoảng 3, 4 tháng là có ăn. Thực tế phương hướng này rất đúng và đã giải quyết được nhiều khó khăn cho thành phố. Ấy thế mà lại có người cho Hải Phòng đi chệch hướng. Đến khi Hải Phòng được Trung ương đồng tình, ủng hộ và khuyến khích, thì họ lại tức tối, chống phá. Thế mới biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã là khó, nhưng vượt qua rào cản của những người thiển cận, bảo thủ còn phức tạp hơn nhiều.
  6. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Hiện lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên thiếu quá, hết 10 ngày đầu tháng đã không có gạo bán. Trong khi tầu gạo đã đến Cảng. May gặp anh Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Giao thông vận tải kiêm Bộ trưởng Dầu khí (lúc đó là Bộ, sau này là Tổng cục Dầu khí), Thành uỷ và UBND đề nghị anh Thiện tạm xuất cho ít gạo để bán cho cán bộ, công nhân. Anh Thiện đồng ý xuất ngay cho Hải Phòng 2.000 tấn. Một tháng sau anh Thiện xuống Văn phòng Uỷ ban, vừa bước vào phòng làm việc của tôi, anh vừa nói: ?oCó thằng Bộ trưởng nào như tao không? Kiêm hai Bộ trưởng mà không cho lấy hai vợ. Có thằng Bộ trưởng nào như tao phải đến Chủ tịch thành phố hàng ngày? Chủ tịch bảo xuất gạo, phải xuất gạo ngay. Lập trường giai cấp ở chỗ đó đấy! Thế mà họp Chính phủ họ bảo tao xuất vô nguyên tắc, chưa nhập kho lương thực chưa có phiếu xuất kho đã xuất cứ xồn xồn như các bà hàng cá. Phê bình tao, tao bảo nếu để công nhân đói, họ lên kéo sụp ?ocổng nhà đỏ? này thì các anh không yên đâu. Để tôi làm Thủ tướng 15 phút, tôi sẽ giải quyết xong các vấn đề rắc rối, trì trệ của các anh. Tao nói xong, không họp nữa ra về, xuống thẳng Hải Phòng vào nói cho cậu biết...? Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh đã gánh chịu những lời phê bình cho nhân dân Hải Phòng, chứ không dám bình luận gì thêm...
    Anh Đinh Đức Thiện, con người thông minh, tính tình thẳng thắn, bộc trực. Khi làm Bộ trưởng Giao thông vận tải, mỗi khi xuống Hải Phòng, anh đến thăm tôi, kể rất nhiều chuyện trong nhà tù, trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong chiến tranh chống Mỹ. Khi anh phụ trách hậu cần, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, những sáng kiến táo bạo của anh trong việc tích trữ đạn pháo các loại, nhất là đạn pháo 130 ly. Anh nói: ?oMình chuẩn bị đánh chúng sao cho ba đời chúng còn khiếp pháo của tao?. Anh hay đọc thơ cho tôi nghe. Thơ anh viết hay, có nhiều góc cạnh châm biếm rất vui, kể cả thơ châm biếm ông anh Lê Đức Thọ làm tổ chức...
    Tôi rất quý anh và anh cũng mến tôi. Khi sinh thời, đã nghỉ hưu, anh cũng hay đến tôi chơi và bảo tôi lại nhà chơi. Nay thỉnh thoảng tôi cũng đến thắp hương cho anh, tưởng nhớ một con người hết lòng cho đất nước.
    Tôi bàn tiếp với anh Tạo để ra nghị quyết về ?okhoán sản? trong nông nghiệp. Anh Tạo đưa ra Thành uỷ bàn nhiều kì họp. Vẫn còn 4 Thành uỷ viên không đồng ý. Anh Tạo trao đổi với tôi tiếp tục tranh thủ sự đồng tình của anh Trường Chinh. Tôi đã hỏi ý kiến anh Lê Duẩn, Tổng Bí thư, sau 3 giờ báo cáo. Anh Ba nghe rất kĩ và đồng tình ngay (tôi sẽ nói kĩ trong chương ?oAnh Ba với Hải Phòng?). Anh Phạm Văn Đồng coi như đã đồng ý rồi. Anh rất vui, chỉ hỏi anh Ba, anh Trường Chinh ý kiến thế nào? (Tôi sẽ nói kĩ trong chương ?ocác đồng chí Bộ Chính trị lúc đó với Hải Phòng?).
    Để từng bước xoay chuyển tình hình, tôi bàn với anh Tạo cho chia huyện An Thuỵ ra, huyện Kiến Thuỵ nhập với thị xã Đồ Sơn vừa có thị xã vừa có huyện, gọi là huyện Đồ Sơn. Huyện An Lão cũ nhập với thị xã Kiến An, gọi là huyện Kiến An. Trước mắt giải quyết mâu thuẫn triền miên của huyện An Thuỵ. Bước sau sẽ tách hai thị xã Kiến An và Đồ Sơn đưa lên thành Quận. Còn hai huyện Kiến Thuỵ, An Lão trở lại huyện cũ theo truyền thống. Thành uỷ và Uỷ ban thành phố mời đồng chí Vũ Trọng Kiên, Trưởng ban Tổ chức Chính phủ xuống Hải Phòng làm việc một ngày, đồng chí Vũ Trọng Kiên đồng ý trình Chính phủ phê duyệt.
    Tháng 3-1980 hai huyện mới được thành lập. Đồng chí Vũ Ngọc Làn, Bí thư Huyện uỷ Kiến An, sẽ nhận chỉ đạo điểm nghị quyết khoán. Đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thị xã Đồ Sơn về làm Bí thư Huyện uỷ Đồ Sơn.
    Tôi đã báo cáo anh Trường Chinh 2, 3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối. Một lần anh Trường Chinh đi xem bắn tập tên lửa thật ở Hải Phòng, tôi đưa anh đi xem tại Đồ Sơn. Trưa ăn cơm chỉ có hai người, tôi lại đem vấn đề khoán ra xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lí, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỉ cương gì... Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng...
    Anh Tạo kể lại hôm họp Quốc hội, (anh Tạo và tôi đều là đại biểu Quốc hội khoá VII) giờ nghỉ giải lao, anh Trường Chinh gọi anh Tạo ra ngoài phê phán rất gay gắt: ?oAnh định phá hết hợp tác xã nông nghiệp ở Hải Phòng và cả nước à??. Anh Tạo bảo tôi: ?ogay lắm!? Nhưng tôi một mặt mời anh Trường Chinh về thăm Hải Phòng, lấy thực tế thuyết phục, mặt khác bảo đồng chí Nguyễn Đình Nhiên ra nghị quyết của Huyện uỷ về khoán, dựa vào nghị quyết dự thảo của Thành uỷ mà viết.
    Anh Nhiên do dự, nhưng sau hai, ba ngày anh lên Hải Phòng gặp tôi, mời tôi về Huyện bàn việc ra nghị quyết. Tôi báo cáo anh Tạo việc này, anh Tạo tỏ ý không đồng tình và bảo: ?oCậu Nhiên không ổn đâu. Hồi tôi làm Tổ chức Trung ương, tôi biết cậu này?. Tôi trình bày lại với anh Tạo. Việc khoán đã chín muồi lắm rồi, cứ cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, thêm áp lực với trên. Anh Tạo nể tôi, bảo ?oThôi tùy anh?. Tôi nói với anh Tạo nếu trên có hỏi, anh cứ bảo chủ tịch thành phố cho làm. Anh tỏ vẻ không vui, nói ?oNếu có trách nhiệm là trách nhiệm chung?. Hôm sau anh Nhiên lên thành phố hỏi tôi: ?oAnh Tạo có đồng ý không??. Tôi nói anh Tạo đồng ý rồi, nhưng có vấn đề đấy, cần làm thận trọng, đừng để xảy ra phức tạp.
    Huyện Đồ sơn ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ ra nghị quyết 24 nổi tiếng về ?okhoán? trong nông nghiệp, làm cơ sở cho chỉ thị 100 của ban Bí thư tháng 11981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên và làm cơ sở cho nghị quyết khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khoá VI về ?okhoán 10?.
    Cuộc đấu tranh cho một cái mới ra đời thật quá vất vả, khó khăn. Trong thời kì chuẩn bị ra nghị quyết, các huyện ngoại thành, nhất là huyện Tiên lãng, xã Đoàn Xá Đồ sơn, xã Hưng Đạo, huyện An Lão nghe thành phố bàn khoán, tình hình sản xuất bức xúc, hợp tác xã cứ tạm cho khoán từng phần, mỗi xã để dành một số ruộng khoán để rút kinh nghiệm.
    Các đoàn kiểm tra của Trung ương về Hải Phòng ngày càng đông, đoàn đồng tình, đoàn lưỡng lự, đoàn phản đối, đủ các loại. Quần chúng thì phán khởi. Tỉnh Hải Hưng, một tỉnh nông nghiệp lớn bên cạnh Hải Phòng. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tuyên bố ?oNếu có dây thép gai tôi sẽ rào luồng gió độc của Hải Phòng thổi sang?. Nhưng các huyện của Hải hưng. các đồng chí Bí thư, chủ tịch lén lút xuống Hải Phòng học kinh nghiệm khoán.
    Các anh trong Bộ Chính trị như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Nguyễn Duy Trinh, anh Trần Quốc Hoàn... đều xuống nghiên cứu khoán. Anh Giáp, anh Trinh tỏ ý đồng tình ngay. Anh Trần Quốc Hoàn hỏi rất sâu và tỏ vẻ lưỡng lự, nói: ?oThiếu lương thực thì phải làm thôi?. Các anh uỷ viên Ban Bí thư và uỷ viên Trung ương như anh Hoàng Tùng. anh Vũ Oanh, anh Trương Kiện thì ủng hộ rất nhiệt tình. Anh Vũ Oanh còn tuyên bố: ?oĐây là chìa khoá vàng? làm một số người chống khoán phản đối quyết liệt. Đến mức đồng chí Vũ Duy Hiệu, đảng viên năm 1930, nguyên chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Hải dương 1945, nguyên phó tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam, anh ruột anh Vũ Oanh phải đến hỏi tôi ?oKhoán ra sao, mà chú Vũ Oanh lại mạnh mồm nói như vậy??. Tôi báo cáo với anh Vũ Duy Hiệu ?oAnh Oanh nói đúng đấy! Anh yên tâm?. Sau này ta đã xuất được trên 3 triệu tấn gạo, tôi lại chơi, nói vui với anh Vũ Duy Hiệu: ?oNay đã là kho vàng rồi, không chỉ có chìa khoá vàng...? Anh Hiệu rất vui. nay anh đã 95 tuổi.
    Ba mươi tết năm 1980, anh Đỗ Mười xuống thăm và chúc tết nhân dân Hải Phòng. Tôi mời anh đi xem sản xuất nông nghiệp. Ngồi trên chiếc xe Commăngca anh thấy ngày 30 tết, nông dân cấy rợp đồng, anh cười vui vẻ nói: ?oChỉ có khoán mới có chuyện làm ăn chăm chỉ của nông dân như thế này...?
    Trở lại khoảng tháng 9-1980, nghị quyết 24 về khoán trong nông nghiệp đã được hơn 3 tháng. Thành uỷ tổ chức sơ kết. Một số tỉnh và ngành Trung ương cùng đến dự. Một số tỉnh không được mời cũng đến. Các báo càng đến đông. Những nhà báo như Lê Điền, Thái Duy, Hữu Thọ ủng hộ khoán ngay từ đầu, rất sốt sắng viết bài, tuyên truyền cho khoán. Những nhà báo còn do dự hoặc chưa đồng tình cũng đến đông để nghe ngóng tình hình.
    Lúc đó anh Trường Chinh đã đồng ý cho khoán trong lần thứ năm tôi xin ý kiến anh. Ý kiến anh góp tôi đã ghi kĩ và đọc lại cho anh nghe (tôi sẽ nói trong chương ?oanh Trường Chinh với Hải Phòng?). Khi họp hội nghị, tôi hỏi ý kiến anh Tạo, đề nghị cho tôi phổ biến ý kiến anh Trường Chinh, anh Tạo tỏ ra ngại ngần, nói: ?oấy chê -ết! ấy chê -ết! Để xem đã?. Mặc dù tôi đã đọc ý kiến anh Trường Chinh đồng ý cho khoán để anh Tạo nghe, nhưng có lẽ anh chưa tin, và sợ không đúng ý anh Trường Chinh. Tôi đành không phổ biến, nhưng cũng tiếc!
    Đến khoảng tháng 11-1980. Ban nông nghiệp Trung ương họp các trưởng ban nông nghiệp toàn quốc, có mời anh Tạo và tôi lên dự. Anh Tạo bảo tôi đại diện, anh không đi. Tôi cùng đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp đi họp. Đồng chí trưởng ban nông nghiệp Hải Phòng lúc đó chưa đồng ý khoán. Khi đến cuộc họp, đồng chí Võ Thúc Đồng là trưởng ban bảo tôi: ?oHôm nay Hải Phòng cử ?ogà nòi? đi họp đây?. Mấy đồng chí phó ban chống khoán, cũng **a vài câu và cười hơi ?omỉa mai?. Tôi vui vẻ bắt tay các anh và các đồng chí trong hội nghị.
  7. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Vào cuộc họp, sau lời tuyên bố lí do cuộc họp, là nghe việc khoán nông nghiệp của Hải Phòng, anh Võ Thúc Đồng mời tôi phát biểu trước. Tôi lên phân tích lí do làm khoán, cơ sở lí luận, kết quả và tồn tại, khoảng 45 phút. Sau đó các tỉnh phát biểu. Tất cả đều phản đối khoán, phê phán các mặt tiêu cực của nó, lên án gay gắt. Có những lời nói thiếu văn hoá nữa. Duy chỉ có đồng chí Huy, Viện phó Viện nông nghiệp thì ủng hộ một vài ý nhưng rụt rè. Hôm đó tôi thấy cần phải đem ý kiến anh Trường Chinh ra phổ biến, tôi đọc nguyên văn lời anh Trường Chinh mà tôi đã ghi vào sổ... Tôi vừa đọc thong thả, vừa theo dõi thái độ hội nghị. Thấy nhiều bộ mặt ngơ ngác, có bộ mặt nghi ngờ, có người thì thầm với nhau, nhằm nói to cho tôi nghe thấy, như: ?oKì này tay Thành sẽ chết với ông Trường Chinh... dám bịa, ghê thật!?. Tôi vẫn tỏ ra như không nghe thấy, và cứ nói một cách phấn khởi về ý anh Trường Chinh...
    Khi kết thúc hội nghị, anh Võ Thúc Đông tiễn tôi, vỗ vai tôi nói: ?oTôi ủng hộ ý kiến anh, nhưng trong lúc này điều kiện tôi không nói công khai được...?. Còn các đồng chí Vụ trưởng ủng hộ khoán như: Lê Công Thiện, đồng chí Phước thì tỏ ra phấn khởi và bảo tôi: ?oCứ yên tâm, chúng tôi sẽ ủng hộ triệt để Bài phát biểu của anh hôm nay thuyết phục lắm!?.
    Đến nay, đồng chí Võ Thúc Đồng đã 90 tuổi với 75 tuổi Đảng, thỉnh thoảng gặp đồng chí, tôi nói vui: ?oChiến sĩ Côn Đảo mà nhát, không dám công khai ủng hộ khoán ngay từ đầu?. Anh cười và đấm tôi: ?oCậu hay nhớ dai...?.
    Làm thế nào để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
    và dần dần nâng cao đời sống nhân dân?
    Đây là câu hỏi cực khó trong đầu thập kỉ 80 đối với toàn quốc. Đặc biệt là Hải Phòng, nơi còn khó hơn nhiều vì thành phố vừa công nghiệp vừa có Cảng. Nông nghiệp tuy đã bước đầu làm khoán, nhưng vẫn rất nghèo, do đồng ruộng chua mặn!
    Bài toán trong đầu tôi tuy một phần đã có phác thảo, nhưng bước đi cụ thể ra sao? Cái nào làm trước, cái nào làm sau? Biết bao con toán. Trong lúc ngân sách thành phố không còn gì, gạo chạy từng ngày, nguyên liệu dùng trong công nghiệp Trung ương cho rất ít, thất nghiệp, ăn mày ăn xin các nơi kéo về, lũ lượt đi ngoài phố. Giờ trưa ăn cơm, người ăn xin gõ cửa vào cả nhà ông Chủ tịch!
    Tôi đề nghị anh Tạo, Thường vụ Thành uỷ và Thường trực Uỷ ban chọn lựa một số công trình thủy lợi loại vừa, hỗ trợ cho nông dân làm khoán, vừa giải quyết việc làm, vừa tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, cung cấp nước cho nông nghiệp, tổ chức lấn biển với qui mô lớn để tăng diện tích cho nông nghiệp và lấy đất xây dựng công nghiệp. Tôi luôn quan niệm rằng: xây dựng CNXH tất nhiên phải có những công trình lớn như nhà máy Thủy điện Hoà Bình, cầu Thăng Long., nhưng đối với người dân không phải ai cũng biết. Cái mà họ cần là nơi đang sống phải ngày một tốt hơn. Từ cái ngõ vào nhà sao cho không lầy lội mỗi khi trời mưa, cái nhà đang ở không dột nát, cái hố xí mỗi khi đi vệ sinh không phải một nón che đầu, một nón che phía trước... Vì vậy, phải xây dựng, chỉnh trang và làm sạch đẹp thành phố, phá bỏ những hố xí không có mái che ở các khu lao động như Thượng Hạ Lí, An Dương, Máy Chai, Trại Chuối... Tôi cũng cho phá dỡ những tàn tích chiến tranh còn lại như bộ khung nhà máy lọc nước của xí nghiệp xi măng, bên cầu Thượng Lí, trông rất khó coi, các lô cốt thời Pháp còn ngăn cản đường giao thông ở đường số 5 như tháp canh Dụ Nghĩa lấn 1/4 lòng đường; tháp canh Đồn Riêng, đường 14 ra Đồ Sơn v.v... Những khu nhà tranh tre nứa lá, lợp tôn lụp xụp ở các phố lao động, tôi bảo cán bộ vận động nhân dân sửa chữa cho ngăn nắp, từng bước bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, nhà nước cấp kinh phí một nửa. Ngoài ra, những công trình văn hoá sẽ cùng lúc được khởi công như xây dựng nhà văn hoá Việt Tiệp, cung văn hoá thiếu nhi, sửa chữa phục chế Nhà hát lớn thành phố, trang bị nhạc cụ và dàn âm thanh hiện đại cho Đoàn ca múa, tạo mọi điều kiện cho Đoàn kịch nói dựng vở Nhân chứng và lịch sử nói về Bác Hồ, tổ chức hội thảo về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm, thay nhạc hiệu của Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng bằng bài ?oThành phố Hoa Phượng đỏ? thơ của Hải Như, nhạc của Lương Vĩnh... Ở ngoại thành phát động phong trào ?ongói hoá? nông thôn, xây dựng cụm văn hoá xã, thị trấn huyện khang trang, phấn đấu xây dựng Hải Phòng từ các công trình ở xã lên đến huyện và nối vào thành phố.
    Tất cả những dự định trên, tôi đều viết thành đề án đưa ra thành uỷ và Hội đồng nhân dân bàn, ra nghị quyết. Triển khai ý tương đó, cùng với việc luôn luôn báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương tôi đã tham khảo các đồng chí lãnh đạo ở một số tỉnh, thành phố, như các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, thành phố Hồ Chí Minh; mời các học giả, nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ đóng góp ý kiến như: học giả Nguyễn Khắc Viện, Vũ Khiêu, Trần Bạch Đằng, kiến trúc sự Khôi Nguyên La Mã Ngô Viết Thụ, người thiết kế dinh Thống Nhất Sài Gòn, các giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Võ Tòng Xuân, các văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyên Hồng, Học Phi, nhạc sĩ Văn Cao...
    Để thử nghiệm khả năng chỉ đạo của mình, tôi cho làm một công trình nhỏ đầu tiên, đó là con đường phường Vạn Mỹ, đoạn từ cầu Tre đến Đoạn Xá. Đường cũ rải nhựa mỏng đã bong hết, chỉ còn cát đá, sỏi, đất lại là lối xuống cảng, xe cộ đi lại nhiều, dân cư đông đúc, rất bụi. Quần chúng kêu ca, oán trách chính quyền thành phố đã lâu, không ai giải quyết đoạn đường dài 800m này. Tôi hỏi sở nhà đất và đô thị, sở giao thông và sở tài chính họ đều nói không có tiền. Trong khi đó công nhân làm đường thất nghiệp, máy móc bỏ không. Tôi nghĩ chỉ còn cách đi vay. Tôi biết xí nghiệp vận tải đường sông III trực thuộc bộ Giao thông vận tải, đơn vị làm ăn khá, đồng chí Nghiệp giám đốc xí nghiệp có quan hệ tốt với thành phố. Tôi đến gặp đồng chí Nghiệp xin vay một triệu đồng, 6 tháng sẽ trả. Đồng chí Nghiệp đồng ý ngay và nói: ?oNếu chậm một năm Chủ tịch trả cũng được?. Tôi cảm ơn. Hôm sau, tôi cho triển khai ngay, với nguyên tắc phải làm tốt, rải nhựa bảo đảm đường thành phố cấp cao, khẩn trương thi công trong 40 ngày, kết thúc con đường đầy bụi bặm cho nhân dân. Báo chí, đài, không cần nói, chỉ khi hoàn thành xong đúng kì sẽ nói. Các đơn vị ra quân phối hợp làm chặt chẽ. Thiết kế, sơ đồ tiến độ thi công làm rành mạch rõ ràng. Hàng ngày hết giờ làm việc tôi đến kiểm tra xem anh em làm có đúng như lời nói không? Và mệnh lệnh của chủ tịch, anh em có chấp hành nghiêm chỉnh chỉnh không?
    Không kể những ngày chuẩn bị, tính từ ngày thi công, đúng 39,5 ngày con đường nhựa phẳng lì, đen bóng hoàn thành. Tôi cũng thấy phấn khởi. Anh em đề nghị tổ chức khánh thành, tôi bảo thôi vì chỉ có khúc đường ngắn, làm rút kinh nghiệm. Nếu cần thì cho đài, báo thông tin cho nhân dân biết. Đợi khi nào có công trình lớn sẽ tổ chức khánh thành. Mọi người vui vẻ đồng tình. Tôi lại nghĩ: ?oTiền đâu? Ở đầu mà ra cả?. Từ đó ai hỏi tôi xin vốn, xin tiền, tôi bảo các đồng chí hỏi cái đầu của các đồng chí. Đến nay trở thành thành ngữ: ?oTiền đâu? Ở đầu mà ra?. Hải Phòng có cảng là thế mạnh, Hải Phòng phải tận dụng thế mạnh này chứ.
    Nhân dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Hải Phòng, tôi dựa vào ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư thường nói: ?oMỗi tỉnh thành phải tự lo, phải coi mình như một nước nhỏ, phải tìm cách làm sáng tạo...? Tôi đề nghị anh Lê Duẩn cho Hải Phòng mua một con tàu biển, chở hàng đi bán ở những thị trường gần. Anh Lê Duẩn đồng ý ngay và còn khuyến khích nữa. Tôi lại đề nghị anh nói với anh Lê Khắc, Bộ trưởng Ngoại thương giúp.
    Sau một tuần được ý kiến của anh Ba (tên gọi thân mật của Tổng Bí thư Lê Duẩn), chúng tôi mời anh Lê Khắc xuống làm việc ở Hải Phòng. Anh Khắc đồng ý cho Hải Phòng mua tàu theo ý anh Ba. Thế là ngành vận tải biển do Trung ương độc quyền, nay Hải Phòng, đơn vị đầu tiên có tàu biển xuất dương.
    Ngay sau đó, tôi nhờ chị Trương Thị Nhân -giám đốc Công ti Vận tải và thuê tàu (Vietfract) của Bộ Ngoại thương mua giúp một tàu biển cũ của Nhật Bản. Đồng thời tôi khẩn trương xây dựng cảng Cửa Cấm, Cảng riêng của Hải Phòng, để khi mua được tàu về là có Cảng đậu ngay, không phải thuê cầu Cảng của Trung ương, khỏi bị động và tránh cước phí rất đắt. Không những thế khi đã có Cảng, nếu tàu nhà không đậu hết, cho thuê cũng tăng được ít nhiều ngân sách địa phương. Vì Cảng Trung ương lúc nào cũng chật ních tàu, tàu phải chờ đợi lần lượt vào Cảng rất nhiều. Khi mua được tàu về, chị Nhân bảo tôi: ?oAnh nghĩ xa thật. Có cảng cho tàu đậu ngay, còn có cảng để kinh doanh nữa?. Tuy cầu cảng Cửa Cấm mới có một cầu tàu dài 105m, nhưng tàu mới, đỗ cảng mới cũng thấy vui! Tàu cũ mua về cho sơn lại, với cái tên ?oSông Cấm?, ngành Hàng hải Việt Nam có thêm một ?obạn mới?, ?ongười địa phương Hải Phòng?.
  8. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Chúng tôi chuẩn bị chuyến hàng đem bán cho Hồng kông. Hàng hoá đủ loại: tương, cà, mắm, muối... Vì là lính mới, dân ?olocal?, bỡ ngỡ mọi thứ. Từ thuyền trưởng đến thủy thủ đều nhờ Công ti Vietfracht giúp đỡ. Chuyến hàng đầu tiên chạy từ Hải Phòng đến Hồng kông, mua bán xong, trở về hết một tuần. Cả một tuần không đêm nào tôi ngủ được. Tôi lo đủ mọi thứ. Hồng kông lúc đó là thị trường tư bản duy nhất ta có đại diện thương mại. Tôi rất sợ bị sự cố xảy ra: sợ đắm tàu, sợ bị bắt, bị lừa. Vì toàn cán bộ mới ra buôn bán với nước tư bản, hàng ngày các đồng chí trên tàu ?oSông Cấm? đều báo cáo công việc của mình cho Chủ tịch. Chủ tịch Uỷ ban thành phố như một anh Giám đốc công ti, lo từng ly từng tý. Từ giấy thông hành (Passport), đến cuộc sống thủy thủ, đến hàng hoá đem bán v.v... Tôi nhớ không kĩ lắm, tổng số hàng bán giá khoảng trên một triệu US đô la, do công ti dịch vụ du lịch là đồng chí Vân Nam chuẩn bị. Hàng mua về, bán lãi được gấp đôi. Thật là thành công rất đáng phấn khởi.
    Tôi chỉ đạo anh em rất chặt chẽ. Ai buôn lậu, lợi dụng tham nhũng, kỉ luật nghiêm minh. Việc kinh doanh rất có hiệu quả, nhất là những chuyến đi Nhật sau này, chở hàng của ta đi bán, mua hàng cũ về bán lại cho dân, thành ra xe máy rất rẻ (lúc đó chỉ việc ra bãi rác chọn, trả cho công an Nhật mỗi chiếc 5 -10 $US là được giấy phép xuất). Xe máy của Nhật đem về định giá phải chăng ở thị trường Việt Nam đắt như ?otôm tươi?. Đi vài chuyến đã có tiền thực hiện chương trình lấn biển, làm thủy lợi, mua hàng hoá cung cấp cho cán bộ công nhân viên, nhất là mặt hàng vải vóc. Nhà nước phát phiếu nhưng không có vải bán, thành phố có vải nhập về bán thu tem phiếu, bị lỗ một ít, nhưng nhân dân phấn khởi. Năm 1981-1982 làm ăn khá lên, nhân dịp 2-9 và Tết âm lịch, thành phố biếu cán bộ công nhân viên, các lực lượng võ trang, học sinh trung học, đại học mỗi người 5m. Vì lúc này Nhà nước không còn vải để bán theo tem phiếu nữa, coi như xoá bỏ tem phiếu.
    Năm 1981 tôi cho mua thêm con tàu thứ 2 mang tên ?oHoa Phượng?, trọng tải 2.900 tấn, có một khoang chở hàng đông lạnh, với giá gần 200.000 đô la. Khi đoàn đi mua tàu ở Nhật Bản điện về xin ý kiến quyết định, tôi phải điện đi, điện lại và gọi điện trực tiếp. Vì giá một con tàu có một khoang chở hàng đông lạnh 1.000 m3, mới có 6 tuổi giá chỉ như vậy là quá rẻ. Tôi sợ bị lừa, bảo các đồng chí fax cả lí lịch tàu về xem. Tôi vẫn lo bị lừa, nhờ các đồng chí Tổng cục Hàng hải xác minh giá cả và kĩ thuật giúp. Các đồng chí đều nói đúng, tôi mới đồng ý mua. Đúng là rẻ thật. Giá cước 1 m3 hàng lạnh là 600 $US, ta đang thiếu loại tàu này. Khi tàu về có hàng chở từ Nhật, nên chỉ sau chưa đầy một năm đã thu xong vốn. Xem ra ngành hàng hải địa phương có vẻ làm ăn tốt. Từ đó Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cũng mua tàu kinh doanh. Còn Bình Trị Thiên thì liên doanh với Hải Phòng mua con tàu thứ 3, tên là tàu ?oHuế-Hải Phòng?, 2.600 tấn còn rất mới và đẹp. Hôm tàu về cảng Cửa Cấm, anh Vũ Thăng Bí thư Tỉnh uỷ từ Huế ra đón tàu. Chúng tôi rất hài lòng về con tàu đẹp, giá cả phải chăng.
    Đến lúc này, bộ máy của công ti vận tải biển Hải Phòng nhỏ bé (Haiphong ship), đã đi vào nề nếp với 3 con tàu kinh doanh có hiệu quả. Tôi cho là bước dầu đạt được yêu cầu.
    Tôi chuyển sang khôi phục sản xuất công nghiệp địa phương, từ lâu do thiếu nguyên liệu bị trì trệ. Trước hết là hợp tác với nhà máy xi măng, mua than cốc cho nhà máy, chỉ yêu cầu trả lại thành phố xi măng bao, để thành phố xây dựng công trình. Sau nữa tôi tìm cách thúc đẩy cho phát triển mạnh nghề giày dép xuất khẩu, ngành may mặc, ngành giấy, hoá chất Sông Cấm, nhập thiết bị xây dựng nhà máy chế biến ô xy, phát triển ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp truyền thống, tạo công việc làm cho nhân dân.
    Tiếp theo tôi mở công trình lấn biển lớn, kết hợp với xây dựng đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không phải qua đất tỉnh Quảng Ninh, một công trình mà tôi ấp ủ từ lâu. Theo dự kiến, tuyến đường đi thẳng từ ngã 5 qua đường Đà Nẵng, xuyên qua doanh trại quân đội (nhà tù Đoạn Xá) qua Hạ Đoạn, Sâm Bồ, đắp đập ngăn sông Cấm, nối với đảo Đình Vũ, qua phà Đình Vũ, sang xã Hoàng Châu huyện Cát Hải cũ để xuyên qua huyện này ra bến phà Gót sang Cát Bà, ra đến Bến Bèo thị trấn Cát bà, tất cả dài 53 km.
    Đoạn đường từ cảng Đoạn Xá ra Đình Vũ được thi công trước, với hai lực lượng: lực lượng hàng vạn lao động làm đường đất và lực lượng các loại tàu thuyền chở 25 vạn khối đá từ Thủy Nguyên, Cát Bà về làm đập Đình Vũ.
    Công trường mở ra thu hút được rất nhiều lao động nông thôn, kể cả nông dân Thái Bình, Hà Nam Ninh cũng ra làm với công mỗi ngày là 1 đồng và 1 kg gạo. Lao động các nơi xếp hàng xin việc, làm cho thành phố sôi động hẳn lên.
    Trong dịp đi kiểm tra cắm tuyến con đường ?oxuyên đảo?, tôi ghé thăm xí nghiệp muối Phù Long. Các anh chị em cán bộ công nhân viên kể lại bao nhiêu chuyện về cuộc sống trên hòn đảo xa đất liền, chuyện đồng chí Kích giám đốc xí nghiệp bị sét đánh, anh chị em vô cùng thương tiếc. Trước khi ra về, tôi hỏi anh chị em có đề xuất gì với thành phố không. Các chị em nữ nhao nhao đề nghị: ?oCho chúng cháu về công tác ở thành phố để lấy chồng. Chúng cháu ở đây ế chồng hết?. Tôi trả lời chị em: ?oCứ yên tâm. Hôm nay có một mình tôi không thể giải quyết được?. Chị em cười ồ lên! Tôi cũng hơi ngượng, vì câu nói sơ hở! Tôi vội nói tiếp: ?oTôi sẽ tìm mọi cách để giải quyết nguyện vọng chính đáng của chị em...?.
    Trên đường về, tôi ghé vào trung đoàn 174 bàn với đồng chí Thông trung đoàn trưởng, đồng chí Khoát chính uỷ, đưa trung đoàn đóng từ Mốc trắng Hiền Hào, chuyển dần về đóng gần xí nghiệp muối Phù Long để tạo điều kiện cho chiến sĩ làm quen với tự vệ nữ xí nghiệp.
    Năm 2003 nhân dịp ra kỉ niệm ngày thành lập trung đoàn 174 ở thị trấn Cát Bà, tôi gặp lại đồng chí Thông, đồng chí Khoát và hàng trăm chiến sĩ của trung đoàn đã lập gia đình với nữ công nhân muối xí nghiệp Phù Long. Khi nói chuyện với hội nghị, tôi nhắc lại chuyện này, mọi người đều vui lắm. Nay xí nghiệp muối Phù Long đã giải tán, nhưng công nhân xí nghiệp ở lại Cát Bà làm ăn rất đông, góp phần tăng lao động cho Cát Bà để xây dựng khu trung tâm du lịch của thành phố và quốc gia.
    Đối với nông nghiệp, sau khi cải tiến một bước quản lí ?okhoán sản phẩm đến nhóm lao động và lao động xã viên? (cách nói và viết lúc đó phải như vậy. Cấm không được dùng cụm từ ?okhoán hộ?, nhưng thực chất là khoán cho gia đình), việc đầu tiên về kĩ thuật là phải giải quyết nước ngọt, vì các huyện nông nghiệp Hải Phòng, đất đều bị nhiễm mặn. Để ngọt hoá đất canh tác, tôi quyết định cho xây các cụm thủy nông, bơm nước ngọt từ các sông đầu nguồn, như trạm bơm Trung Trang (có 24 máy bơm, mỗi máy 4.000 m3/giờ. Thường gọi là ?oCống Trung Lương?). Cống Thượng đồng, cống Rỗ, cống Dương Áo, cống An Sơn đều có trạm bơm. Một số cống lớn có từ 4 đến 12 cửa như: cống Cổ Tiểu 2, cống Cái Tắt. Ba cống ở đê lấn biển trên đường 14 là những cống chuyên dùng tiêu mặn và ngăn nước mặn. không có Trạm bơm.
    Các cống từng bước xây dựng, đã thực sự ?ongọt hoá? đồng ruộng Hải Phòng. Sau này cụm từ ?ongọt hoá đồng ruộng? đã được nhiều người dùng, thành quen thuộc.
    Sau khi cơ bản hoàn thành con đường xuyên đảo đi từ ngã 5 ra đến Đình Vũ, và quai đê lấn biển khu Tràng Cát, đắp chặn cửa sông Cấm nối sang sông Lạch Trạy, giáp với Thủy Giang, diện tích đất được mở rộng là 2800 ha.
    Để tiếp tục công cuộc lấn biển, tôi đề nghị Thành uỷ và UBND thành phố quyết định lấn biến nữa. Đồ Sơn, từ Cầu Rào đến xí nghiệp muối Đồ Sơn, nối với đê ?oCầm Cập? mở rộng thêm 2050 ha. Tuyến đê này rất quan trọng, vì nó mở cho khu du lịch Đồ sơn một diện tích rộng lớn, nối liền với nội hành, tạo ra khu kinh tế tổng hợp: du lịch, chăn nuôi, trồng trọt,... phục vụ cho nội thành và xuất khẩu.
    Nhưng trên thực tế về mặt địa lí, việc này rất khó khăn. Kinh nghiệm lấn biển qua các năm, tháng khi đất bồi lên độ +2 trở lên so với ?ocost 0? Hòn Dấu là an toàn. Nhưng dự án lấn biển lần này phải đắp một con đê mới dài 15 km, có đoạn sâu 0,8 vào quãng giữa đê, đúng gió hướng Đông.
    Tuy được thông qua, nhưng nhiều đồng chí còn lo lắng và do dự. Đến ngày khởi công, có những đồng chí lãnh đạo vắng mặt, vì sợ vỡ đê, không thành công sẽ liên đới chịu trách nhiệm! Quả nhiên, gặp rất nhiều khó khăn, phải thay 3 lần chỉ huy công trường. Đầu tiên là đồng chí Công Đông, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp, sau đến đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, một đồng chí xông xáo, nhiệt tình, lăn lộn với công trường, biết kĩ thuật, nhưng sau trận bão năm 1981, đê đã hàn khẩu xong bị vỡ 14 chỗ. Có chỗ vỡ rộng hàng trăm mét, sâu 1415m. Đồng chí Trần Đảm đến gặp tôi, xin rút lui Trưởng ban chỉ đạo công trình. Tôi hỏi han rất kĩ, thì đồng chí Trần Đảm nói vẫn quyết tâm làm tiếp, nhưng phải tìm đơn vị khác thi công.
    Tôi tiếp tục cùng các đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, Trịnh Thái Hưng, Nguyên Mạnh, Trần Hạnh v.v... đi khảo sát thực địa mấy ngày liền. Từ khi khởi công tôi thường xuyên có mặt tại hiện trường. Cứ sau giờ làm việc buổi chiều tôi đến ngay công trình, trừ những ngày đi họp ở Hà Nội. Tôi mời các đồng chí chỉ huy quân sự gồm đồng chí Võ An Đông, Tư lệnh trưởng F350, đồng chí Nguyễn Chất, Phó Tư lệnh, đồng chí Trường Xuân, Chính uỷ... đi khảo sát tiếp. Tôi quyết định giao cho đồng chí Võ An Đông làm chỉ huy trưởng công trường. Những kinh nghiệm trong quá trình đắp con đê dài 15km và những khuyết điểm tồn tại cũng được tổng kết. Địa hình, thủy triều, cũng được xác định cho rõ. Tất cả phương án kĩ thuật chi tiết được thông qua, lịch thi công từng tuần, từng tháng cũng được thông qua. Đặc biệt tháng ?ohạ long?, chỗ vỡ sâu nhất phải được thực hiện trong tháng 3-1982.(Tháng 3 có con nước, và thủy triều lên, có biên độ thấp nhất trong năm).
  9. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Mọi lực lượng công nghiệp của thành phố, lao động, được huy động tối đa cùng với lực lượng vũ trang quyết tâm hoàn thành con đê trong năm 1982. Lực lượng vũ trang điều tất cả khả năng cơ giới của mình để phục vụ tốt nhất. Hàng ngày có 2 trung đoàn thay phiên nhau đắp những đoạn đê xung yếu.
    -Thành phố huy động 10 tàu hút bùn thường xuyên phun cát, tạo chân đế bằng cát cho những đoạn đê xung yếu.
    -Chuẩn bị 10 sà lan giải bản, chở đến khu ?oHạ Long?, mỗi sà lan chất đầy đá, kéo thành một đoạn đê sắt, đánh đắm, làm thành một thân đê vững chắc.
    -Ban chỉ huy cho đan rọ tre, rọ sắt, rồi dùng phà và thuyền chở đất củ, đất sét, xa công trường hàng chục km, đem về cho vào rọ thả chìm để phục vụ ?oHạ Long?.
    Để chuẩn bị cho ?oHạ Long? đúng tháng 3-1982, mọi việc phải làm trong khoảng 6 tháng, từ tháng 10-1981, hết sức khẩn trương vất vả. Các lực lượng ra quân, phối hợp rất đúng tiến độ. Hai đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, lúc nào cũng có mặt ở hiện trường cùng với các đồng chí khác và Ban chỉ huy công trình, bảo đảm chính xác các công đoạn thi công. Để giảm áp lực nước cho khu ?oHạ Long?, ta đã phải khoanh các vùng chứa nước trong 2050 ha đất mới lấn biển mở rộng ra nhiều ô nhỏ, có đê nhỏ và thấp để giữ nước khi xuống, không đổ dồn vào điểm ?oHạ Long?, tạo cho cửa ?ohạ long? có dòng chảy vừa phải, không chảy xiết, khoét sâu, gây khó khăn cho công việc.
    Điểm chính giữa nơi ?oHạ Long? là chỗ bị vỡ đê dịp bão tháng 9-1981, sâu tới 14-15m, phải dùng các loại bạch đàn dài trên 10 mét làm cọc. Việc đóng cọc này cũng nhờ ta biết được quá khứ, khi ngài Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên bằng cách đóng cọc gỗ lim trên tuyến sông Bạch Đằng, sông Giá (mà ngày nay đã tìm thấy hàng bãi cọc). Ngài đã nhờ quy luật thủy triều tạo nên chiến thắng quyết định cho dân tộc.
    Từ thực tế cuộc sống ấy, anh em bộ đội dùng phà chở gỗ bạch đàn, đợi khi nước thủy triều cân bằng thả cọc xuống. Mỗi cọc có một đòn gánh buộc ngang thân cây, tùy theo mức nước nông hay sâu mà để đòn gánh cao hay thấp. Hai chiến sĩ đặt cây cọc từ phà xuống nước, đúng điểm đã định, rồi mỗi người đu vào một đầu đòn gánh, nén cọc xuống cho vững chắc. Còn cọc xuống được sâu nhờ nước chảy vào khi triều dâng, chảy ra biển khi thủy triều xuống, lắc đi, lắc lại làm cho cây cọc xuống đến thềm đất cứng. Cứ như thế hàng ngàn cây cọc đóng xuống điểm ?oHạ Long?.
    Đúng đến 3 ngày thủy triều thấp nhất, Ban chỉ huy bố trí lực lượng đánh đắm sà lan sắt.
    Sau đó mỗi kíp một tiểu đoàn làm 4 tiếng liền, chuyển các rọ đất, đá lấp vào điểm ?oHạ Long?. Trong 3 ngày liền tiến công liên tục, nâng cao điểm ?oHạ Long? lên +4, đạt yêu cầu đề ra. Hết thời hạn thủy triền thấp nhất, toàn tuyến đê 15 km đều đạt cao trình +4m trở lên, kết thúc thời kì khó khăn nhất của tuyến đê lịch sử này.
    Khi mới khởi công, các cụ già xã Hoà Nghĩa, Anh Dũng gần đó nói: ?oNếu ông Thành đắp được con đề này, chúng tôi sẽ đi bằng đầu. Chúng tôi ở đây hàng trăm năm, nếu lấn được chúng tôi đã lấn rồi, không phải đợi đến các ông. Nơi này nguy hiểm lắm, đang đêm gió đông thổi vào thân đê, thủy triều lên là đê vỡ. Đời này qua đời khác, không làm được...?.
    Khi đê hàn khẩu xong, các cụ kéo nhau lũ lượt đi xem. Các cụ gặp tôi đều cười vui vẻ, nói: ?oChỉ có các ông cộng sản mới làm được...?. Tôi nói với các cụ: ?oNhờ hồng phúc của Bác Hồ, chúng tôi mới làm được...?.
    Hàng tháng trời, các cụ, bà con nông dân ở các huyện ngoại thành rủ nhau đến xem như xem cuộc triển lãm. Lúc đó còn hàng nghìn lao động đang bồi trúc cho đê lên cao hơn. Quả là con đê đã làm chấn động nhân dân Hải Phòng với chiều cao 6,5m so với ?ocost? Hòn Dáu, chân đê rộng 60m, mặt đê rộng 5m, độ xoải bên ngoài 1/3 độ, trong đê 1/2, ngoài lát đá hoặc bê tông lưới thép. Đoạn đê biển này hàng năm vẫn được gia cố, đã trở thành đường giao thông đi tham quan biển Đồ Sơn, nó tồn tại như một minh chứng cho sự quyết lâm, lòng dũng cảm của lãnh đạo và nhân dân Hải Phòng.
    Đã hơn 20 năm kể từ ngày khánh thành ?okhông kèn, không trống?, nhưng tôi không thể quên những năm đầu, đêm mưa bão, tôi thắc thỏm đến mất ngủ. Khi bão lớn nhất, tôi ra đê để kiểm tra độ bền vững của đê ra sao.
    Nhớ lại lúc đó, khi quyết toán kinh phí chưa đến 1 đồng/m2, (nay 1 m2 lên hàng triệu đồng). Những đồng chí ngại không dám ra dự lễ khởi công, sợ liên quan trách nhiệm, nay cũng rất hoan nghênh. Có đồng chí nói với tôi: ?oPhải hiểu biết khoa học, kĩ thuật, có quyết tâm và lòng tin mới làm được...?. Tôi không dám nhắc lại chuyện cũ, và coi như tôi không nhớ. Có nhớ tôi cũng không bao giờ nhắc lại sự ?othận trọng? đó, làm mếch lòng đồng chí mình. Khi tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND thành phố đưa đồng chí Đỗ Mười đi thăm đoạn đê ?oxung yếu? này, đồng chí Đỗ Mười bảo tôi và đồng chí Dần: ?oĐê này mà vỡ thì Bí thư với Chủ tịch đi tong!?. Tôi và đồng chí Dần cùng cười.
    Sau khi hoàn thành xong hai dự án lấn biển lớn, và rất nhiều khó khăn, mở rộng hơn 5.000 ha, bằng diện tích một huyện, chúng tôi mở thêm công trường lấn biển khu Gia Minh, Thủy Nguyên gồm 1300 ha. Thành phố chỉ đạo cho các huyện Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng... tổ chức lấn biển từng vùng nhỏ 300-500 ha, có sự viện trợ của thành phố. Các huyện ra quân làm rất tốt, mở rộng thêm diện tích canh tác, đẩy nước mặn ra xa những thửa ruộng phía trong đã thuần hoá, đưa năng suất lúa lên rất nhanh.
    Để từng bước nâng dần đời sống của nhân dân, theo qui luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội: ?oĐời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, làm cho chủ nghĩa xã hội từng bước được thực hiện?, tôi chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh phải hết sức tiết kiệm, nhất là công ti xuất nhập khẩu, Haiphong Ship, Cảng... là nơi tạo ra giá trị gia tăng. Có chỉ thị của Thành uỷ cấm các cấp không được biếu xén cấp trên, hoặc khao thưởng ?oăn nhậu? phung phí... để có tiền góp với thành phố lo cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng võ trang, các học sinh trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đóng trên địa bàn thành phố gồm hơn 25 vạn suất (250.000 người), trong dịp quốc khánh 2-9, Tết âm lịch có túi quà, và mỗi năm 5 mét vải thông dụng như ka ki, pô-pơ-lin, vải đen may quần cho phụ nữ v.v... Đồng thời phải tìm kiếm công việc làm cho người thất nghiệp. Kiên quyết, nhưng làm từng bước, xoá 6 tệ nạn xã hội như: mãi dâm, cờ bạc, ăn mày, trẻ em lang thang, văn hoá truỵ lạc, mê tín dị đoan, ma chay giỗ Tết ăn uống linh đình tốn phí.
    Về giao thông vận tải, cầu Rào đã qua 3 đời Chủ tịch là: Đồng chí Lê Đức Thịnh, đồng chí Đỗ Chính, đồng chí Đặng Toàn, đến tôi là Chủ tịch thứ 4 mà cầu Rào vẫn chưa hoàn thành. Nhân dân kêu ca: ?olàm quá chậm, như kéo rào?. Tôi cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Uỷ ban và đồng chí Lê Bảo, nguyên Phó Chủ tịch, cố vấn xây dựng cho UBND, ngày đêm tìm mọi cách xử lí các sự cố kéo dài đó. Cầu đã khởi công cuối năm 1973 sau khi kí hiệp định Paris về Việt Nam, mà đến 1979 mới xong các mô và trụ. Lắp được mỗi bên một nửa dầm đúc hẫng dự ứng lực, thép dự ứng lực mua từ chiến lợi phẩm ở sân bay Tân Sơn Nhất đã bị han rỉ. Kĩ thuật làm cầu kiểu mới này của Pháp, ta chưa quen nên cầu khánh thành 1980 thì đến cuối năm 1987 bị đổ. Do dự đoán được tình hình nên khi cầu sụp đổ không bị thiệt hại gì thêm, ngoài cầu đổ. Cây cầu đầu tiên làm theo kĩ thuật ?odự ứng lực? ở Việt Nam sau 7 năm bị đổ, làm cho nhiều người không tin tưởng. Nhưng sau các cầu: Niệm Nghĩa, An Dương, Phù Long đến vẫn vững. Đến nay, cả nước có hàng chục cầu đúc dầm hẫng, dự ứng lực, có cầu dài hơn 2km vẫn tồn tại vững vàng.
    Thực là vạn sự khởi đầu nan. Cầu Rào do đội cầu địa phương thực hiện, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo kĩ thuật. Thời gian làm cầu quá kéo dài, vệ sinh công nghiệp không đảm bảo. Cầu Rào đổ, cũng gây ra sự đàm tiếu trong một thời gian. Tôi chỉ là người hoàn thành cầu trong giai đoạn cuối với thời gian 6 tháng. Khi cầu đổ tôi đã về công tác ở Trung ương, nhưng sự đàm tiếu đổ dồn vào tôi. Âu cũng là qui luật xã hội ?otúm người có tóc, chứ ai túm người trọc đầu?. Tôi chỉ cười không giải thích, chỉ nói ngắn gọn: ?oNếu ai muốn nghiên cứu kĩ, hãy xem nhật kí công trình?. Mãi đến khi Bộ Giao thông vận tải kết luận sự cố này, thì dư luận mới không đổ dồn vào tôi. Nhưng nay vẫn còn 3 cầu: Niệm, An Dương, Phù Long, nên thơ Tố Hữu vẫn giữ được tính chính xác của nó, kể cả cầu Rào đã được làm lại thành 4 cầu (4 cống 3 cầu, 5 cửa ô...).
  10. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 (2-1982)
    Tôi được Đại hội bầu làm Uỷ viên Trung ương dự khuyết khoá V (lúc ấy còn có uỷ viên dự khuyết, uỷ viên chính thức - nay chỉ bầu uỷ viên). Tôi được phân công làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Anh Bùi Quang Tạo về Trung ương làm Chủ nhiệm Thanh tra Chính phủ.
    Sang năm 1983, tôi và đồng chí Nguyễn Tấn Trịnh được chọn trong số uỷ viên dự khuyết vào uỷ viên chính thức (do các đồng chí uỷ viên chính thức bầu)
    Với thực tế của hai năm, bốn tháng làm Chủ tịch, từ những ý tưởng đã tổ chức thực hiện thành những công trình, những sản phẩm to nhỏ ở khắp thành phố, điều đó đã giúp tôi hình thành cơ chế xây dựng một mô hình XHCN ở địa phương, Thành phố Hải Phòng. Gần 32 năm được điều động đến Hải Phòng, khởi đầu là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, nay làm Bí thư Thành uỷ, tôi lo lắng đêm ngày, đem hết sức lực, trí tuệ, suy nghĩ làm cho được ý tưởng mình đã theo đuổi từ khi được kết nạp vào Đảng, với bao hi vọng sẽ thành công. Mặc dù sức khoẻ tôi không phải là tốt lắm, năm 1982-1983 bệnh tôi kéo dài, chữa mãi không khỏi, công việc lại quá nhiều, nhất là sau khi tổ chức thành công Đại hội Đảng thành phố lần thứ 8 nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 để thống nhất tư tưởng và hành động toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau đó, tôi bị sưng màng phổi, viêm họng hạt, chuyển sang ?ohen xuyễn?. Nhờ các bác sĩ Đông, Tây y, và tự rèn luyện nâng thể lực lên, nên tôi đã qua khỏi. Cũng từ đó sức khoẻ được nâng lên, đủ sức chống chọi với bao gian nguy thử thách về mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị, để tồn tại đến ngày hôm nay...
    Để triển khai Nghị quyết Đại hội 8 của thành phố, tôi chỉ đạo Uỷ ban Nhân dân thành phố và các ngành thực hiện thật tốt các công trình làm dở dang. Tôi cũng xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng và Chính quyền, không chồng chéo giẫm chân lên nhau. Khi đã có nghị quyết của Đảng, chính quyền cụ thể hoá và triển khai thực hiện. Đảng không ?olấn sân? của chính quyền. Khi có khó khăn chính quyền không thể khắc phục được, Đảng sẽ giúp đỡ. Công việc của Đảng là trực tiếp nghiên cứu xây dựng các Nghị quyết trên bình diện mô hình XHCN, đi từng bước có chọn lọc, Nghị quyết nào ra trước, Nghị quyết nào ra sau cho phù hợp. Trước khi ra Nghị quyết, tập thể Thành uỷ đi thực tế khảo sát tình hình, tổ chức thí điểm làm được khoảng 30% có kết quả rồi mới họp Thành uỷ ra Nghị quyết. cách làm đó coi như qui trình ra các Nghị quyết của Đảng, nó tránh tình trạng duy ý chí và giáo điều của đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chưa khảo nghiệm, mới nghe báo cáo, mới nảy sinh ý nghĩ hay hay trong đầu đã vội vàng ra Nghị quyết, như vậy Nghị quyết sẽ không sát với thực tế, quần chúng không chấp nhận, làm mất uy tín của Đảng, mất công sức của cán bộ cấp dưới.
    Trong 4 năm 3 tháng làm Bí thư Thành phố, tôi đã chủ trì đề ra 46 Nghị quyết về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hoá, đời sống, dịch vụ du lịch... Tính bình quân hơn một tháng ra một Nghị quyết, nhưng không Nghị quyết nào trùng với Nghị quyết nào, được nhân dân, Đảng viên hoan nghênh thực hiện rất nhiệt tình, chưa có ai kêu là Thành uỷ ra quá nhiều Nghị quyết! Tất cả Nghị quyết đó, cái nọ bổ sung cho cái kia hình thành một mô hình XHCN về lí luận và thực tế. Có những Nghị quyết như: Ngói hoá nông thôn; Xoá bỏ hố xí thùng, xây dựng hố xí tự hoại, giải phóng cho chị em làm vệ sinh thường phải vất vả suốt đêm, kể cả ngày 30 Tết; Nghị quyết bê tông hoá ngõ xóm trong nội thành, không để tình trạng đi lại lầy lội trong các xóm ngõ; Nghị quyết xoá bỏ ?o6 tệ nạn xã hội? trong một năm, không còn ăn mày, ăn xin và trẻ em lang thang trong thành phố; Nghị quyết tiếp tục cải tiến quản lí nông nghiệp; Nghị quyết về giao thông; Nghị quyết về Công nghiệp và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động; Nghị quyết về Văn hoá quần chúng; Nghị quyết về Thương nghiệp và thu mua lương thực; Nghị quyết về Xây dựng cơ bản, về lấn biển khai hoang mở rộng thành phố hướng ra biển; Nghị quyết về Xây dựng Đảng, các Tổ chức quần chúng v.v...
    Tất cả các Nghị quyết được thực hiện đến nơi, đến chốn từ 70% trở lên. Tất cả những kết quả thực hiện các Nghị quyết được người dân nhìn thấy, sờ thấy, đếm được...
    Có những việc làm của Thành uỷ, UBND Thành phố, đến nay tôi đã rời khỏi Thành phố về Hà Nội công tác gần 20 năm nhưng mỗi khi về Hải Phòng gặp nhân dân, cán bộ, là anh em nhắc đến như gói quà Tết hàng năm của Thành phố vào những dịp 2-9 Quốc khánh, Tết âm lịch... Những kỉ niệm không bao giờ quên! Rồi công trình lấn biển, hố xí tự hoại, đường lát bê tông hoặc tấm đan... đi đến đâu nhân dân cũng nhắc tới...
    Hôm 30-5-2004 vừa rồi tôi ra Đình Vũ xem đường xuyên Đảo. Đến phà Đình Vũ, anh em phụ trách bến phà, cũng như nhân dân xúm lại quanh tôi hỏi thăm sức khoẻ. Đồng chí Vang phụ trách ở đó nói: ?oBác để lại ?olộc? cho chúng con được hưởng, ai cũng nhớ công ơn của bác...?. Tôi rất cảm động, nói: ?oĐảo Đình Vũ với đường xuyên Đảo đã góp phần làm cho hàng vạn người giàu có đấy! Các đồng chí quản lí tốt sẽ giàu to. Đồng chí rất trẻ, tôi gặp đồng chí lần đầu, trông chiếc thẻ đeo trên ngực mới biết tên tuổi. Vậy mà, đúng như sách cổ đã dạy: ?oVi ân bất cầu báo, thụ ân bất năng vong...? (làm ơn không cần mong được báo đáp lại, chịu ơn không nên quên). Cảm ơn đồng chí đã thể hiện tinh thần đó?. Tối hôm ấy tôi về làm việc ở Thành phố, đồng chí Then, nguyên Bí thư Huyện uỷ An Lão, nay là Uỷ viên Thường vụ Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng (Đồng chí Then người thôn Đại, xã An Thọ, huyện An Lão) anh em tâm sự, đồng chí nhắc lại bao kỉ niệm hồi làm khoán trong nông nghiệp, lúc chưa khoán dân đói như thế nào, một số người phải đi tha phương cầu thực, sau làm khoán phấn khởi như thế nào, và nay cả huyện An Lão đều khá giả. Thật là bao nỗi buồn vui sâu sắc thời kì quá khứ...
    Những năm 1983-1984 nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Hàng năm không phải lên Trung ương xin gạo, xin mỳ. Ngoài mua thóc nghĩa vụ (giá 0,2 đ//kg thóc) Hải Phòng được đồng chí Tố Hữu, đồng chí Trần Phương đồng ý cho mua thóc của nông dân sau khi làm xong nghĩa vụ với Nhà nước với giá 1,70đ/kg. Tuy giá ngoài cao so với giá nghĩa vụ nhiều, nhưng với giá nhập bằng đô la Mỹ chỉ bằng gần 1/2, Nhà nước lại không phải lỗ vốn bán lương thực cho Hải Phòng, còn Hải Phòng có thêm lương thực trả cho lao động ở các nơi về thành phố tham gia lao động lấn biển với giá 1kg và l đồng/ ngày công lao động. Mọi người phấn khởi lắm.
    Thời gian đó Hải Phòng được coi như mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước. Khách đến tham quan ngày một đông. Báo chí ca ngợi, có ngày báo Nhân Dân đăng 4 bài về Hải Phòng. Bí thư Thành uỷ Hải Phòng cũng được cấp trên các ngành quan tâm. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt như Tổng Bí thư Lê Duẩn, ************* Trường Chinh... cũng rất quan tâm, đã có những dự kiến này dự kiến khác về tương lai của Bí thư Thành uỷ (những dư luận đó cũng làm cho một số người lo lắng và dần dần trở nên đố kị, ghen tị. Sự ác ý ấy hình thành dần dần từ nhỏ đến lớn, đến ngày 2-8-2003 mới bộc lộ hết để khách quan nhìn nhận có cơ sở khoa học kết luận chính xác, có căn cứ, không suy diễn... Việc này khá dài, 20 năm sau, mới hiểu thấu được sự tình...).
    Trong khi phong trào đang lên, biết bao nhiêu đoàn các địa phương, các ngành đến Hải Phòng học tập, rút kinh nghiệm, tổng kết, thì giữa năm 1983, đồng chí Đỗ Mười nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cử 3 Đoàn sắp xếp công nghiệp về 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.
    Đoàn về Hải Phòng do đồng chí Tô Duy làm trưởng đoàn. Về Hải Phòng trong lúc tình hình chính trị, tư tưởng và các mặt hoạt động rất tốt đẹp... Đồng chí Tô Duy xuống không làm việc với Thành uỷ mà chỉ làm việc với UBND thành phố. Đồng chí còn nói với đồng chí Bắc, cán bộ Văn phòng Uỷ ban và một số đ/c trong Đoàn là: ?oTôi không gặp anh Thành, anh Thành có đến gặp tôi thì gặp...?. Đồng chí Tô Duy cử đồng chí Phí Đức Phong, cán bộ của Đoàn đến gặp tôi nói: ?oKì này Đoàn xuống sắp xếp công nghiệp để giúp cho Hải Phòng phát triển cả công, nông nghiệp...?.
    ( còn nữa )
    Được thankiemvdk sửa chữa / chuyển vào 20:16 ngày 08/07/2008

Chia sẻ trang này