1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thông tin Tp Hải Phòng - Album Ảnh Tp Hoa Phượng Đỏ | Mục lục Trang 1 : Thời đổi mới ở Hải Phòng ( t

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi thankiemvdk, 26/10/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Vắn tắt những cái tên ngắn liền với TP Hải Phòng !​
    I. Quán hoa
    Quán hoa trung tâm thành phố được xây dựng vào cuối năm 1941 do Đốc Lý Luyxiani chủ trì việc thiết kế và Chánh lục lộ Gôchiê phụ trách thiết kế mỹ thuật.

    Mẫu quán lấy 04 cột gỗ tròn làm trụ, mái cong, lợp mái ngói mũi hài vừa kết hợp giữa phương Tây và phương Đông được coi là hài hoà giữa không gian phố phường. Mỗi quán rộng 20 m2, cao gần 4 m, cách nhau 6 m. Tất cả các quán trải dài trên diện tích 300 m2. Gần đây, thành phố mở con đường đằng sau quán hoa vừa đẹp thêm cảnh quan thuận tiện cho kẻ mua, người bán. Quán hoa Hải Phòng từ lâu đã là nguồn cảm hứng của các hoạ sĩ, các nghệ sĩ nhiếp ảnh khi vẽ và chụp ảnh nghệ thuật về Hải Phòng.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    II. Đền Nghè

    Ngôi đền xinh xắn với qui mô vừa phải nhưng từ lâu đã trở thành một trong số những di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của địa phương. Đó là đền Nghè - ngôi đền thờ nữ tướng Lê Chân, người có công khai phá, tạo dựng vùng đất Hải Phòng.

    Tương truyền rằng bà sống hết thiêng. Khi bà gieo mình xuống sông thì hoá đá trôi trên mặt sông Kinh Thầy. Từ đoạn sông vùng Đông Triều quê cũ của bà đến bến Đá (nay là bến Bính) thì bập bồng xoay tròn trên mặt nước. Nhân dân làng An Biên biết bà đã hiển thánh, liền rủ nhau mang đòn, chão ra sông vớt và khiêng đá thiêng về. Khiêng đến khu vực Đền Nghè hiện nay thì trời bỗng nổi cơn giông gió, chão đứt. Dân làng bèn chọn khu đá rơi ấy để dựng đền thờ bà.
    Lúc đầu, đền thờ chỉ là một gian miếu nhỏ, mái lợp gianh. Năm 1919, đền Nghè mới được xây dựng khang trang như hiện nay.
    Đền có 2 nhà chính - Tiền tế và Hậu cung. Nóc nhà Tiền tế nổi bật hàng chữ Hán lớn "An Biên cổ miếu". Giữa Tiền tế và Hậu cung là nhà Thiên Hương 2 tầng, mái tâm đầu đao. Trong toà hậu cung đặt tượng bà Lê Chân, hai bên thờ song thân bà.
    Đến thăm Đền Nghè, quí khách thường chú ý đến 2 vật tích độc đáo - đó là Khánh đá và Sập đá. Khánh làm bằng một tấm đá nguyên dày 5cm được tách ra thành hình chiếc khánh (có chiều cao 1m, rộng 1,6m). Mặt trước khánh khắc nổi 2 con rồng chầu mặt nguyệt và hình mây bay xung quanh. Mặt sau khánh khắc hình mây bay và sóng nước, cả hai mặt có 2 núm tròn, lồi cao là chỗ để gõ. Tiếng khánh đá trong ngân vang êm dịu, lan tỏa, hướng ta tới cõi tâm linh huyền ảo mà thiêng liêng.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    III.Đình Hàng Kênh

    Đình Hàng kênh, tên chữ là Nhân Thọ còn có tên là đình Rồng Bay toạ lạc trên đường Nguyễn Công Trứ (thuộc thôn Trung Hành, xã Hàng Kênh cũ).

    Theo văn bia thì đình được xây dựng vào năm Mậu Tuất (1717) ở đường Hàng Kênh hiện nay. Đến năm 1841, Đình được chuyển ra vị trí hiện nay. Đình được xây dựng với qui mô lớn và làm trong nhiều năm (khoảng 15 năm). Đây chính là một đài tưởng niệm Ngô Quyền. Kiến trúc trọng yếu nhất của công trình "Đại Đình", làm theo kiểu vì "chồng giường kẻ hiên". Với 6 hàng chân cột, gồm 7 vì với 42 cây cột bằng gỗ lim nguyên cây, chu vi hơn 2m, cao tới 5,10m. Các bức chạm khắc với nhiều đề tài phong phú đã thể hiện trình độ khắc gỗ độc đáo và là một trong những ngôi đình tiêu biểu điển hình trong các ngôi đình được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ thứ 18. Chỉ ở một ngôi đình này, các nghệ nhân đã tạc gần 900 con rồng mang phong cách nghệ thuật thời Lê, không con nào giống con nào. Đó là các loại rồng mẹ, rồng con quấn quýt bay lượn giữa mây trời cùng chim muông và hoa lá cách điệu . Đi trong đình, chúng ta như lạc vào thế giới của rồng vô cùng sống động, lung linh, huyền ảo, bởi mỗi con rồng ở đây đều có những sắc thái biểu cảm riêng biệt mà qua trí tuệ tâm linh của người xưa đã gửi vào đôi tay tài hoa tác thành.
    Bên cạnh đình còn có văn miếu hàng huyện An Dương, có bia ghi tên những người đỗ tiến sỹ, cử nhân của huyện An Dương.
    Người Hàng Kênh không xây đền mà xây đình để thờ Ngô Quyền. Thế là từ lịch sử, ông đã đi vào cõi thiêng để bất tử trong tâm khảm của dân làng. Họ như muốn ông gắn bó với cuộc sống buồn vui, sướng khổ và nỗi truân chuyên của cả làng.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    IV. Bến Ngự

    Bến Ngự là điểm nút của phố Hoàng Văn Thụ và Bưu điện Hải Phòng. Đây chính là nơi nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã sinh ra và lớn lên.

    Tại đây có cầu tàu xây dựng vào năm 1896. Người ta kể rằng tháng 05/1918 vua Khải Định đi kinh lý Bắc Kỳ qua Hải Phòng đã dừng chân ở đây nên gọi là cầu Ngự. Nơi đây chính là chỗ chiếc tàu Đuy Mông Đuyếc Vin đưa Hồ Chủ Tịch sang thăm Pháp về nước, đã cặp bến ngày 20/10/1946. Lễ đón được tổ chức trọng thể tại đây. Trong kháng chiến chống Pháp, phố này là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt.
    Có một sự kiện lịch sử thời kháng Pháp mà cho đến tận ngày nay, nhiều người vẫn còn ghi nhớ. Đó là ngày 20/11/1946, tại nhà Dây thép (nay là Bưu điện thành phố), tiểu đội tự vệ của ta đã kiên cường đánh lui nhiều đợt tấn công của địch.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    V. Bưu điện Hải Phòng

    Năm 1875, người Pháp mở Bưu cục Hải Phòng và Qui Nhơn, sau khi các cơ sở tương tự đã được mở tại Sài Gòn, Hà Nội.

    Những con tem đầu tiên ở nước ta được phát hành vào năm 1864, hình vuông có hình chim đại bàng với đủ cỡ, loại. Ngày chuyển thư và đón thư thường được tiến hành khá nghiêm trang. Khi thư đi, trước nhà Bưu chính Hải Phòng treo cờ tam tài (cờ Pháp), đêm thì treo đèn. Khi thư đến thì ở Hải Phòng treo cờ xanh viền đỏ, ở miền trung treo cờ viền xanh. 5 phút sau khi kiểm tra, thư đã được trao cho các bưu tá. Điện thoại liên tỉnh Hải Phòng - Hà Nội chính thức có từ ngày 19/04/1906.
  2. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    VI. Tràng Kênh - Bạch Đằng
    Nơi đây - một vùng đất, một vùng núi, một vùng trời "bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu". Đó là miền đất mang đậm dấu tích lịch sử Tràng Kênh - Bạch Đằng ở phía bắc huyện Thuỷ Nguyên, cách nội thành Hải Phòng 20km. Về phía nam có sông Giá, phía đông có sông Chanh.

    Đó là miền đất mang đậm dấu tích lịch sử Tràng Kênh - Bạch Đằng ở phía bắc huyện Thuỷ Nguyên, cách nội thành Hải Phòng 20km. Về phía nam có sông Giá, phía đông có sông Chanh. Nơi đây núi non kỳ vĩ, di tích và thắng cảnh hoà hợp:
    Nhất cao là núi U bò
    Nhất lớn chợ Giá, nhất to sông Rừng

    Nguyễn Trãi từng viết về đất này: "các sông giao lưu, sóng nước liền trời, cây cối che bờ, thật là nơi hiểm yếu ở biên cảnh". Tràng Kênh - Bạch Đằng như dấu son đỏ chói ghi vào lịch sử, gợi lòng tự hào sâu sắc về nước non này, về những chiến công hiển hách ba lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, cùng những trang sinh động về cuộc sống của ông cha thời dựng nước. Những di tích bãi cọc, hang động ở chân núi U bò, núi Phượng Hoàng, nơi dấu quân, nơi Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đánh trống chỉ huy trận đánh. Đền thờ Trần Quốc Bảo còn đó rêu phong. Trong những năm 1960 - 1970, nhiều nhà khảo cổ đã khai quật, phát hiện những ngôi mộ cổ, có bếp đun nấu và trên 30 mảnh gốm, nhưng giá trị nhất là 3.476 hiện vật bằng đá quí. Đó là những chiếc rìu nhỏ xinh xắn, những chiếc vòng trang sức tròn nhẵn bóng chứng tỏ người thợ đá cổ Tràng Kênh thời xa xưa đã đưa kỹ thuật chế tác đồ đá lên đỉnh cao nghệ thuật. Người Tràng Kênh thời Hùng vương đã biết làm nông nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, săn bắn tê giác, voi, hổ, báo, lợn rừng, hươu, nai, ba ba, rùa, rái cá, làm gốm, đúc đồng, thì người Thuỷ Nguyên nay cũng lắm nhân tài và sản vật.
    Bây giờ Tràng Kênh - Bạch Đằng đã trở thành khu công nghiệp phía đông bắc của thành phố. Nơi đây có các xí nghiệp khai thác đá nung vôi hoá chất, đất đèn Tràng Kênh, có Nhà máy xi măng Chinfon với biểu tượng hoa Đào. Ở cửa sông Giá trông ra sông Bạch Đằng có Nhà máy sửa chữa tầu biển Phà Rừng do Phần Lan giúp ta xây dựng, có âu đà hiện đại. Biết bao nhiêu con tàu viễn dương đã vào đây để được "trẻ" lại với đại dương.
    Hồi niệm về những chiến công oanh liệt Tràng Kênh - Bạch Đằng càng thấy trân trọng: "nước trời một sắc, phong cảnh ba thu, bờ lau kiếm nát", càng đồng cảm với cách nói đầy tự hào của Phạm Sư Mạnh ở thế kỷ 13:
    VII.Núi Voi
    Qua quận Kiến An, quí khách sẽ đến được với Núi Voi (huyện An Lão). Núi như một con voi khổng lồ nằm phục giữa đồng bằng trên nền trời xanh biếc, có diện tích hơn 1 km2, cao 145 mét, soi bóng xuống dòng sông Lạch Tray. Nơi đây có nhiều dấu vết của người tiền sử thời vua Hùng dựng nước mà hiện vật độc đáo nhất là kiếm đồng Đông Sơn và nhiều di vật bằng đồng thời Đông Sơn.

    Vào thế kỷ 16, Mạc Đăng Dung đóng quân ở núi Voi để chống vua Lê, chúa Trịnh. Phải chăng nghĩa quân đã "hành quân" trên con đường gập nghềnh nắng trải này trên đỉnh núi Chi Lai, lên bàn cờ tiên? Những bậc đá xanh xuống hang Họng Voi, hang Cá Trắm, Cá Chép, hang Bể, hang Chạn, Đấu Đong Quân...đã in dấu chân của bao nhiêu thế hệ.
    Tiếng mõ chùa Long Hoa văng vẳng trong không gian tĩnh lặng đưa ta vào cõi Phật. Núi Voi còn là nơi Phan Bá Vành dựng cờ khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn vào năm 1825. Dấu vết đồn quân Pháp có tên là Tượng Sơn trong một đêm (tháng 11/1888) bị nghĩa quân Cử Bình san bằng còn đó... Lịch sử đội du kích núi Voi vẫn còn đây...
    VIII. Đảo ngọc Cát Bà

    Đó là một quần đảo nổi tiếng cả nước với phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, có diện tích khoảng 20.000 héc-ta nằm ở phía Đông bắc Hải Phòng.
    Đi từ thành phố ra đảo bằng tàu thuỷ cao tốc khoảng hơn một giờ đồng hồ, đi bằng đường bộ khoảng 60km qua 2 phà, bạn sẽ dễ dàng tiếp cận đảo Ngọc. Giữa sóng nước mênh mông của biển khơi, ta bỗng gặp một khu rừng nhiệt đới. Rừng ở đây có diện tích hơn 17.300ha, trong đó có 570ha là rừng nguyên sinh. Dưới tán rừng già có hàng trăm cây thuốc quí, đặc biệt có cây thuốc bổ tim một củ, một lá.
    Cát Bà có hệ thực vật và động vật điển hình quí hiếm của rừng trên núi đá vôi, có nhiều hang động kỳ thú và bãi tắm thiên nhiên cát trắng, nước trong tới đáy. Trong rừng già còn loại kỳ đà Komodo cổ đại, sơn dương nặng trên 100kg. Vùng biển Cát Bà có nhiều bãi tôm, bãi câu cá hồng, cá nục, cá tráp; có áng thảm nuôi đồi mồi. Dưới các rạn đá ngầm chân đảo có bào ngư, trai ngọc và tôm rồng. Ở bãi hạ triều có tu hài (họ nhuyễn thể) được coi là "gà biển", thịt chắc và ngọt hơn cả bào ngư. Món tu hài nướng vắt chanh trở thành món đặc sản không thể thiếu ở các quán nhậu ven bờ biển.
    Ngày 1/4/1958, Bác Hồ đã ra thăm đảo Cát Hải và Cát Bà. Cầu tàu Cát Bà là nơi Bác đứng nói chuyện với quân dân trên đảo. Từ đấy, ngành thuỷ sản lấy ngành thuỷ sản lấy ngày 1/4 - ngày Bác Hồ về thăm làng cá làm Ngày hội truyền thống của ngành. Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày 1/4 ở vùng biển Cát Bà lại diễn ra cuộc đua thuyền rồng của huyện đảo và ngành thuỷ sản trong cả nước.
    Những nơi tham quan giải trí ở Cát Bà:
    Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27km, có nhiều đèo dốc quanh co, xuống khoăn, qua áng, men theo mép biển, xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh kỳ thú, non nước hữu tình.
    Vườn quốc gia Cát Bà: nằm cách thị trấn 15km về phía Tây bắc. Diện tích vườn rộng 15.200ha, trong đó có 9.800ha là rừng và nhiều hang động kỳ thú. Khu rừng nguyên sinh nhiệt đới ở đây có hệ động thực vật vô cùng phong phú. Thực vật có 745 loài, nhiều loại cây gỗ quí như trí lý, lát hoa, lim sẹt, giẻ hoa, kim giao, gỗ trắng. Đũa kim giao tiến vua có khả năng làm sủi bọt chuyển màu đỏ nếu đồ ăn có độc tố. Rừng già có cây chò dãi, loại cây được ghi trong sách đỏ, trên thế giới chỉ có ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Hệ động vật có tới 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng ngư, 11 loài ếch nhái. Đặc biệt có loài Voọc đầu trắng (họ khỉ) là loài thú đặc biệt quí hiếm trên thế giới chỉ còn lại ở Việt Nam. Điều kỳ lạ là quả mã tiền là loại quả độc, người ăn vào chết ngay, nhưng Voọc đầu trắng vẫn ăn ngon lành cả lá và quả.
    Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15km cạnh đường xuyên đảo, có nhiều nhũ đá thiên nhiên làm cho trí tưởng tượng của bạn bay bổng, dễ liên tưởng đến những hình ảnh của chốn bồng lai tiên cảnh. Động này chứa đựng cả trăm người.
    Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13km, trên đường xuyên đảo. Động còn có tên Động quân y vì trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường nằm ở trong lòng núi. Công trình còn đó ghi sâu chiến công về lòng dũng cảm của con người.
    Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, đẹp hơn cả động Trung Trang. Ở đây nhũ đá và hơi nước ẩm quanh năm gợi cho ta tưởng tượng ra đường lên trời, đường xuống biển và nhiều vòm tinh tú, núi vàng, núi bạc...
    Các bãi tắm: Cát Cò I, Cát Cò II, Cát Dứa, Cát Ông, Đường Danh... là những bãi tắm nhỏ xinh, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt tới đáy. Người ta dự định xây dựng ở đây những "thuỷ cung" để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập lượn lờ bên những cụm san hô đỏ.
  3. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    IX. Nhà hát thành phố và quảng trường nhà hát
    Quảng trường Nhà hát thành phố trước đây có tên là Place Theatre municipal. Khu vực này vốn là chợ của làng An Biên xưa. Nhà hát cao 2 tầng, mái vòm, trang trí lẵng hoa, có 400 chỗ ngồi.

    Khu vực này vốn là chợ của làng An Biên xưa. Nhà hát cao 2 tầng, mái vòm, trang trí lẵng hoa, có 400 chỗ ngồi. Tại đây ngày 23/8/1945 đã ra mắt Uỷ ban nhân dân Cách mạng Lâm thời của thành phố Hải Phòng - và là nơi diễn ra nhiều sự kiện chính trị lớn của thành phố.
    X. Khu phố cũ của Hải Phòng

    Bao gồm các phố: Tam Bạc, Quang Trung, Phan Bội Châu...

    Phố Tam Bạc: chạy dọc theo sông Tam Bạc từ cầu Lạc Long đến đạp Tam Kỳ dài 1.415m. Phố được hình thành từ cách đây hơn 1 thế kỷ, có vị trí đặc biệt trong quá trình hình thành đô thị Hải Phòng.
    Phố Quang Trung: hình thành gắn liền với việc xây kênh đào Bonnal vào năm 1885. Trước có tên gọi là phố Savatxivơ (hay còn gọi lài Xa hoa Sinh theo âm Hán). Ngày nay phố Quang Trung nằm trong khu vực buôn bán sầm uất nhất của Hải Phòng.
    Phố Phan Bội Châu: trước đây phố có tên gọi là Tông ki Noa. Người dân quen gọi là phố Đông Kinh. Cư dân chủ yếu là người Hoa. Từ năm 1954 phố mang tên Phân Bội Châu. Nhà số 158 là nơi Nhà Cách mạng Trung Quốc Tôn Trung Sơn đã từng sống vào khoảng năm 1907 khi ông sang Việt Nam vận động người Hoa giúp đỡ Cách mạng trong nước
    XI. Sông Bạch Đằng

    Nằm về phía Đông bắc Hải Phòng, dài 20km, rộng tới 2 km lúc thuỷ triều lên.

    Bạch Đằng là tên gọi một dòng sông tuy không dài, nhưng bao la hùng vĩ, là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh: Hải Phòng và Quảng Ninh. Sông Bạch Đằng đã được ghi vào sử sách về những chiến công oanh liệt của dân tộc Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước chống lại các thế lực ngoại xâm

    XII. Bến Nghiêng - Bến tàu không số

    Bến nghiêng Đồ Sơn hiện là bến đỗ của tàu ra thăm Hòn Dáu.

    Sắp tới nơi đây sẽ là cảng xuất phát của tàu du lịch đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long, Móng Cái. Ngày 15/5/1955 tên lính Pháp xâm lược cuối cùng đã rút khỏi miền Bắc theo hiệp định Giơ-ne-vơ, hiệp định đình chiến giữa Pháp và Việt Nam dân chủ cộng hoà sau 9 năm kháng chiến gian khổ.
    Bến tàu không số ở chân đồi Vạn Hoa cạnh thung lũng xanh, nay là khách sạn 100 phòng của công ty du lịch quốc tế Đồ Sơn. Dấu tích cầu cảng K15 nay còn lại là những cột bê-tông. Cầu cảng này được xây dựng và bảo vệ tuyệt đối bí mật, là nơi đỗ của những chiếc tàu không số, 2 vỏ chở vũ khí chi viện cho miền Nam. Ngày 11/10/1962 chiếc tàu gỗ chở 30 tấn vũ khí đã xuất phát ở đây. Sau 6 ngày lênh đênh trên biển cả, tàu đã cập bến tại Cà Mau, chuyển giao toàn bộ vũ khí cho quân khu 9. Tất cả có gần 100 thuyền với tổng số 168 chuyến đi xuất phát tại đây. Đây là đường được mệnh danh là "đường mòn Hồ Chí Minh trên biển".

    ---------------------------------------------------------------------------------------
    XIII. Đền Lý Học

    Thờ danh nhân văn hoá Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là danh sĩ đời nhà Mạc, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân Cư Sĩ, quê làng Trung Am huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Năm 1535, ông thi đỗ Trạng Nguyên làm quan đến chức Tả Thị Lang Bộ Lễ và được Vua Mạc Phúc Hải phong tước Trình quốc công (nên người đời gọi ông là Trang Trình). Ông là người nổi tiếng tài đức song toàn, xứng đáng là "cây đại thụ", nhà học giả, nhà triết gia thế kỷ XVI. Thơ văn của ông còn được truyền tụng rất nhiều. Bộ "Bạch Vân thi tập", "Trình quốc công Bạch Vân thi tập", "Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập" (còn gọi là "Bạch Vân quốc ngữ thi tập"), đều là những di sản văn học quí giá còn lưu lại cho đời sau. Ông mất năm 1585.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    XIV. Hồ Tam Bạc

    Hồ thuộc địa phận xã An Biên cũ, nay thuộc dải trung tâm thành phố. Năm 1885, Pháp mở rộng, nắn thẳng Lạch Liêm Khê của xã An Biên cũ thành một con kênh ngăn khu vực người Tây và người Việt, nối sông Tam Bạc với sông Cấm dài 2.800m, rộng 74m, sâu 7m, khối lượng đào đắp tới 1 triệu 760 nghìn mét khối gọi là Vung Bonnal. Sông này tên cũ gọi là sông đào Bonnal. Năm 1925, Pháp lại lấp đi một phần sông đến tận Nhà triển lãm ngày nay nên nhân dân gọi nôm na là sông Lấp.

    Năm 1885, Pháp mở rộng, nắn thẳng Lạch Liêm Khê của xã An Biên cũ thành một con kênh ngăn khu vực người Tây và người Việt, nối sông Tam Bạc với sông Cấm dài 2.800m, rộng 74m, sâu 7m, khối lượng đào đắp tới 1 triệu 760 nghìn mét khối gọi là Vung Bonnal. Sông này tên cũ gọi là sông đào Bonnal. Năm 1925, Pháp lại lấp đi một phần sông đến tận Nhà triển lãm ngày nay nên nhân dân gọi nôm na là sông Lấp.
    Năm 1985, nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Hải Phòng, sông Lấp đến tuổi "bách niên" (1885 - 1985) đã được "cải lão hoàn đồng". Thành phố đắp đập ngăn sông Tam Bạc để nối thông đường Trần Nguyên Hãn với đường Quang Trung; mở rộng thêm để làm bến xe ô tô. Xe Tam Bạc đi đến các tỉnh, thành phố trong cả nước. Các hàng quán, ki - ốt cũ hai bên hồ được tháo dỡ hết, thành phố xây cống tự đóng mở cho nước thuỷ triều thông thương và giữ nước khi thuỷ triều xuống và đặt tên là hồ Tam Bạc.
    Năm 1999, hồ Tam Bạc một lần nữa được cải tạo lớn. Lòng hồ được đào sâu hơn, hai bên bờ có rào chắn, trồng phượng vĩ, cây xanh, có đường đi dạo và ghế đá ngồi hóng gió. Sáng sớm và chiều tối, hàng trăm người đi bộ tập thể dục quanh hồ, hít thở với "lá phổi xanh" của thành phố.
  4. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    XV. Casino Đồ Sơn: Huyền thoại và sự thật
    Chon von nằm ở mỏm cuối cùng của dãy núi 9 ngọn, được ví như 9 con rồng chầu ra biển của bán đảo Đồ Sơn, toà lâu đài Vạn Hoa, nay là Casino Đồ Sơn, mang trong mình những huyền thoại khiến ta tò mò.
    Huyền thoại casino
    Kiến trúc mang phong cách lâu đài Âu châu thời Phục hưng với hai chóp nhọn ấy là công trình của một cô gái Hải Phòng quê mùa hồi những năm 20 của thế kỷ trước. Không có nhiều tài liệu lưu trữ về công trình này, người ta nói rằng cô gái ấy trúng xổ số Đông Dương do chính quyền thuộc Pháp phát hành. Món tiền quá lớn không biết để làm gì, cô mua đất và xây lên toà nhà đẹp đẽ này.
    Năm 1992, Nhà nước Việt Nam giao lâu đài này cho Công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Trung tâm của dự án liên doanh trị giá 34 triệu USD này, ngoài các dịch vụ du lịch, có việc được mở một sòng bạc tại Đồ Sơn. Một thời gian ngắn nữa, sòng bạc sẽ chuyển xuống khu khách sạn mới xây rất đẹp dưới chân thung lũng xanh. Khi ấy, hình ảnh về casino Đồ Sơn sẽ không còn gắn với toà nhà có hai chóp nhọn đẹp đẽ như thế này...
    Hoạt động từ năm 1995, casino Đồ Sơn đã để lại trong dân gian nhiều giai thoại. Một trong những giai thoại ấy mang tên Tăng Phát Bảo. Quốc tịch Mỹ, gốc Hoa, con người ngày nay tên tuổi gắn liền với một vụ buôn bán quota hàng dệt may và đang bị tạm giam này, từng tham gia hội đồng quản trị của một casino tận đế chế cờ bạc Las Vegas trước khi là ông chủ của Casino Đồ Sơn. Vụ án quota vỡ ra cuối năm 2004, nhưng trước đó gần chục năm thì ở Hải Phòng, nếu nói ai lắm tiền, mà là lắm tiền theo nghĩa bất chính, thì người ta ví kẻ đó với Tăng Phát Bảo!
    Trước năm 2000, khi quốc lộ 5 mới chưa hoàn thành, việc khách nước ngoài thuê máy bay trực thăng từ Hà Nội xuống Đồ Sơn đánh bài không phải là hiếm. Hoặc từ Sài Gòn, khách chơi gọi điện để casino đưa xe ra đón tận sân bay... Thực tế chuyện đón đưa khách đến chơi, thắng hoặc thua bạc trở về không phải là chuyện lạ, ?ođó chẳng phải là quy định quốc tế gì đâu, đơn giản chỉ là một thứ văn hoá doanh nghiệp của chúng tôi?, ông Trần Phương An, phó tổng giám đốc người Việt Nam nói.
    Cách đây vài năm, người viết bài trong một chuyến đi Đồ Sơn đã thử đột nhập vào casino theo cách nhập vào một nhóm khách du lịch Trung Quốc. Qua được lần cửa thứ nhất, đến mục trình giấy tờ, bảo vệ phát hiện thấy thừa ra một người so với tập giấy tờ. Thế là a lê hấp, mời bác ra. Bác không phải là người ngoại quốc, không được vào. Ở Hải Phòng, sự cẩn mật của casino có lẽ chỉ còn kém có trại tạm giam của ngành công an. Ngay từ lối đi vào, các trạm gác đã mọc lên rải rác. Không cần đếm, cũng thấy ngay có đến ba lớp bảo vệ cho đến trước cửa kiểm soát. Tại đây, có những tấm biển rất dễ thấy: không nhận người dưới 18 tuổi, không mang theo máy ảnh, máy quay phim, không mang theo túi xách hoặc các vật lạ.
    Nếu không được phép của lãnh đạo liên doanh, đừng có nói chuyện vào! Tiển Chí Kiên, chủ nhiệm hành chính cao cấp, trợ lý đặc biệt của tổng giám đốc casino nói như vậy. Xin cho chiếc thẻ khách, Kiên dẫn tôi đi qua năm bảy tầng kiểm soát với máy scaner và không quên nhắc tôi gửi lại đồ đạc, nhất là máy ảnh trước khi bước vào phòng đánh bạc. ?oCác ông có tính đến chuyện sòng bài bị cướp không??, tôi hỏi. ?oKhông loại trừ. Nhưng các bạn biết là tội phạm ở Việt Nam chưa thể có những phương tiện hiện đại như máy bay hay tàu ngầm để có thể tấn công sòng bạc. Cộng với sự trợ giúp của công an, không lo chuyện bị cướp như kiểu trong phim Hollyood. Mười năm hoạt động, chưa có sự cố mất an ninh nào. Trừ vài trường hợp hướng dẫn viên du lịch người Việt Nam dẫn khách vào cũng cao hứng đổi tiền và đánh bạc bị bảo vệ phát hiện!?, ông An nói.
    Đánh bạc trong casino Đồ Sơn như thế nào? Ông An có vẻ không rõ lắm vì ông mới về làm việc một thời gian ngắn. Nhưng Tiển Chí Kiên thì thành thạo lắm. Người Việt gốc Hoa, Kiên là công thần của casino từ ngày đầu thành lập, anh kể về các trò đỏ đen. Đây là slot machine. Người đánh với máy. Bỏ các đồng xèng vào khe này, giật cái tay quay kia là xong. Các loại hình khác thì dùng chíp. Chíp là những miếng nhựa tròn đặc biệt in hoa văn và có mệnh giá khác nhau. Trong casino không dùng tiền mặt, tiền phải đổi ra xèng hoặc chíp. Thắng bạc hoặc đánh không hết, khách đổi xèng, chíp để lấy lại tiền mặt. Mệnh giá lớn nhất của các đồng chíp trong casino Đồ Sơn lên đến 5.000 USD, nhỏ nhất thì chỉ 1 USD. Không có chuyện khách sát phạt nhau, mà là khách đánh bạc với công ty.
    Trong căn phòng rộng có đến cả sào Bắc bộ, có tám chiếc bàn màu xanh. Đó là các môn chơi Baccarat, Black jack, Roullet, Big - Small... Có bàn chơi bằng các con bài tây, có bàn lại dùng một chiếc nón kỳ diệu như của... anh Long Vũ. Thay vì chiếc kim chỉ số, một viên nhựa tròn như quả bóng bàn nảy công cốc trên hai mâm xoay ngược chiều nhau quyết định vận đỏ hay đen. ?oTất cả là trên nguyên tắc may mắn hoặc không may mắn. Không thể có chuyện lừa bịp ở đây?, Tiển Chí Kiên nói. Cầm càng các bàn chơi là chủ cái, họ là các chàng trai, cô gái người Việt Nam đang thoăn thoắt cầm những chiếc xẻng như chiếc bay của thợ nề để hót chíp. Tài năng và tay nghề của chủ cái có thể nhận biết được một phần qua cách chia bài, thu tiền của họ. ?oTuyệt đối không được gian lận, không được sai hỏng. Casino có camera theo dõi tất cả các bàn, ngoài ra, chúng tôi có các floor man là các ông người nước ngoài mặc áo đỏ ngồi trên các ghế cao kia kiểm soát?.
    Hơi tiếc, chúng tôi không được gặp bà Clara Chan, tổng giám đốc. Nhiều người nói rằng đó là một phụ nữ tài năng, có phong cách làm việc quyết đoán nhưng độ lượng và rất nhiều tình người. Bà chủ gốc Hoa này còn là một phụ nữ xuân sắc và rất... kén chồng.
    Casino hơi vắng. Chỉ có khoảng dăm chục người châu Á trung tuổi, có vẻ như là những người gốc Việt đang chơi mấy trò Roullet, Baccarat... và làm tôi hơi ngỡ ngàng về các chương trình làm từ thiện một cách rất vô tư như tặng quà Giáng sinh cho trẻ em nghèo, tài trợ tiền tỉ cho đội bóng đá Hải Phòng và nhất là số tiền nộp thuế đến gần 30 tỉ đồng/năm của casino!
    Theo Lưu Quang Phổ
  5. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    TP với những chiếc Cầu :​
    1. Cầu Tre
    Cầu Tre vốn là cây cầu thô sơ, nhỏ, lúc đầu làm bằng tre, sau này có thay bằng sắt, bắc qua lạch thoát triều ngăn cách xã Lạc Viên với xã VạnMỹ, Phương Lưu... Khi làm đường Đà Nẵng (đoạn kéo dài từ Ngã Năm đến Vạn Mỹ) đã thay bằng cầu bê tông rộng.
    Tên cầu Tre bây giờ chỉ còn lưu lại qua tên một đơn vị hành chính cấp cơ sở của quận Ngô Quyền: phường Cầu Tre

    2. Cầu treo Tam Bạc
    Cầu treo Tam Bạc bắc qua sông Tam Bạc từ sau ngày giải phóng thành phố. Cầu chỉ dành cho người đi bộ và xe thô sơ. Cầu thẳng với đầu phố Trạng Trình và ngõ 99 phố Hạ Lý.
    Nhu cầu đi lại của nhân dân qua cầu treo Tam Bạc rất lớn, nhưng vì sông này còn phục vụ đắc lực tuyến vận tải thuỷ nên cầu Treo vấn tạm ở gần hạ lưu sông. Năm 1991, thành phố đã quyết định sau khi làm xong cầu Lạc Long mới sẽ dỡ cầu cũ và cầu treo, phá bỏ đập Nguyễn Tri Phương, đồng thời nạo vét sông Tam Bạc để khôi phục tuyến giao thông thuỷ của đoạn sông này.

    3. Cầu Rào
    Cầu Rào bắc qua sông Lạch Tray, trên đường Hải Phòng đi Đồ Sơn có tên là đường 14, đường 353, nay mới được đổi tên là Phạm Văn Đồng. Vì vị trí cầu thuộc địa phận làng Rào, tên nôm của làng An Khê, nên được gọi như vậy.
    Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Pháp làm đường Hải Phòng - Đồ Sơn, dẫn đến nơi nghỉ mát và xây pháo đài quân sự ở mỏm núi. Nhưng còn sông Rào rộng chưa bắc cầu nên cản trở đi lại, mặc dù đã có phà kéo bằng dây cáp.
    Nhưng do nhiều ý kiến khác nhau về việc nên làm cây cầu này hay đắp đập trong Hội đông thành phố và công luận, mặt khác cũng do khó khăn về tài chính nên tháng 2/1907, Thống sứ Bắc Kỳ mới quyết định chuyển số tiền 8000đ tài trợ cho Hải Phòng xây một khách sạn để làm cầu Rào. Tuy nhiên, việc triển khai khá chậm.
    Lúc đầu, cầu Rào đặt ở gần cổng khách sạn Chuyên gia hiện nay, làm bằng sắt, dài 174m. Tháng 12/1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, quân ta đã lột hết ván lát mặt cầu và phá một số thanh giằng ngang.
    Năm 1947, Pháp đã sửa lại và đặt lô cốt ở hai đầu cầu để bảo vệ. Năm 1960, ta đã sửa chữa lớn, nhưng ngày 2-9-1969 bom Mỹ đã phá sập cầu. Ta đã phải đặt cầu phao để thay cầu cứng. Suốt thời kỳ chiến tranh, cầu bị đánh phá ác liệt.
    Sau hoà bình, tháng 8-1976, cầu Rào được làm lại ở vị trí hiện nay, bằng phương pháp lắp hẫng dùng bê - tông cốt thép ứng xuất trước. Ngày 28-1-1980, cầu được khánh thành. Cầu mới dài 174m, rộng 12m. Ngày 16-7-1987, cầu lại bị sập nhịp mố phía Bắc. Vì vậy phải dỡ bỏ và được làm lại bằng sắt kiên cố với hai làn xe như hiện nay.

    4. Cầu Niệm
    Cầu Niệm bắc qua sông Lạch Tray trên trục quốc lộ số 10, thay cầu Lãm Hà. Năm 1952, trong âm mưu bình định đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên yên - Hải Phòng - Hà Nội, được Mỹ chi viện, Pháp củng cố căn cứ quân sự vùng Hải Phòng - thị xã Kiến An. Do đó, cầu Niệm được xây dựng mới bằng sắt kiên cố và rộng hơn, không chỉ cho ô tô qua lại mà còn phục vụ cho tuyến đường xe lửa Hải Phòng - sân bay Kiến An. Nền đường xe lửa cũng được đắp, nhưng khi cầu Niệm mới căn bản hoàn thành thì chiến dịch Đông - Xuân 1953-1954 quân ta thắng lớn nên kế hoạch làm đường xe lửa phải đình lại.
    Sau tiếp quản, ta tháo hai nhịp cầu sắt ở hai đầu cầu thay bẳng nền đất và đưa cầu Niệm vào khai thác. Ngày 2-9-1967 Mỹ đánh hỏng cầu này và liên tiếp bắn phá nhiều lần khiến cầu bị hỏng hoàn toàn. Sau hoà bình, ngày 19-5-1980, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cầu Niệm được khởi công xây dựng lại bằng bê - tông cốt thép ứng xuất trước và phương pháp hẫng. Sau 20 tháng thi công, ngày 31-12-1981, cầu đã được chính thức khánh thành. Cầu dài 174m, rộng 15m.

    5. Cầu Lạc Long
    Cầu Lạc Long bắc qua sông Tam Bạc, nối phố Điện Biên Phủ với phố Bạch Đằng, dài 92m. Cầu có vai trò đặc biệt quan trọng vì nằm trên trục đường giao đường bộ của thành phố với quốc lộ số 5.
    Cầu được xây dựng vào loại sớm nhất thành phố, gần như đồng thời với hai cầy nay đã không còn là cầu Pôn Đume (Paul Doumer) và cầu La nhiên (Laniel). Lúc đầu mang tên cầu Giốp (Joffre). Giốp nguyên là đại uý công binh đã tham gia xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai, sau thế chiến thứ hai được phong thống chế. Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là cầu Ngô Quyền, từ năm 1954 đổi mang tên Lạc Long
    Vì nằm trong mạch máu giao thông quan trọng của thành phố Hải Phòng nên cầu Lạc Long là mục tiêu đánh phá của nhiều cuộc chiến tranh, bị phá hoại nhiều lần. Chính vì vậy trong thời gian này ta phải đắp đập Nguyễn Tri Phương ngăn sông Tam Bạc để giải quyết giao thông. Do yêu cầu phát triển của thành phố, năm 1991, Uỷ ban nhân dân thành phố đã quyết định xây dựng cầu Lạc Long mới, dài 146,6m, rộng 15m, mố trụ bằng xi - măng cốt thép, dầm bằng bê-tông ứng xuất trước. Đầu cầu hai bên đều được mở rộng; đập Nguyễn Tri Phương, cầu Lạc Long cũ và cầu treo Tam Bạc đều được dỡ bỏ để thông tuyến đường thuỷ của sông Tam Bạc.
    Cầu Lạc Long mới được khởi công ngày 13-9-1992 và khánh thành vào ngày 2-9-1993.

    6. Cầu Hạ Lý
    Cầu Hạ Lý bắc qua sông đào Hạ Lý, thuộc địa bàn xã Hạ Lý cũ. Cầu lúc đầu mang tên Hạ Lý, dân quen gọi là cầu Xi - măng vì ở gần nhà máy Xi - măng Hải Phòng. Sau cách mạng tháng Tám đổi mang tên Tô Hiệu.
    Sông đào Hạ Lý đã chia đôi làng Hạ Lý. Làng Hạ Lý xưa địa giới tận ngã ba Xi - măng hiện nay (ngã ba Bạch Đằng - Hùng Vương).
    Việc đào sông Hạ Lý đã giải quyết nhu cầu giao thông đường thuỷ nhưng lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Chính vì vậy từ năm 1923, người ta đã đòi hỏi phải xây cầu, bàn về kiến trúc của cầu rẩt nhiều sao cho cầu không gây cản trở cho việc đi lại của thuyền bè trên sông. Cuối cùng, Hội đồng thành phố phải mời các kỹ sư cầu đường, các nhà vận tải thuỷ hội thảo. Ngày 3-12-1926, Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định xây ở cửa sông đào Hạ Lý tạm một chiếc cầu treo để tiếp thông đường 5, sau đó chiếc cầu kiên cố mới được xây dựng. Về vị trí đặt cầu mới, lúc đầu có người bàn nên làm thêm một cầu nữa cho ô tô và người đi bộ ở vị trí cầu xe lửa (cầu Quay), mở đường nhựa song song với đường sắt nhưng vì quá tốn kém nên không được Hội đồng thành phố chấp nhận. Sau người ta thống nhất làm cầu cất ở vị trí hiện nay.
    Dầm giữa hai đầu cầu đặt cột cao, có hai tảng bê-tông nặng, dùng tời để nâng nhịp giữa lên cho thuyền qua lại vào giờ qui định (khi nhịp nâng lên thì hai tảng bê tông hạ xuống và ngược lại, khi nhịp giữa hạ thì chúng ở đỉnh hai cột cao). Cầu xây dưng năm 1934. Trong chiến tranh bị hư hỏng nhiều lần, đặc biệt là bị bom Mỹ đánh sập từ năm 1969. Sau khi Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc và ký Hiệp định đình chiến Pari, cầu Hạ Lý được sửa chữa nhiều lần. Đầu năm 1988 cầu được xây kiên cố và cố định các nhịp như hiện nay.

    7. Cầu An Dương
    Cầu An Dương bắc qua sông đào Lạch Tray, nằm trên tuyến đường Tôn Đức Thắng qua đạp Cái Tắt ra quốc lộ số 5. Cầu An Dương cùng đường Tôn Đức Thắng góp phần quan trọng để giải toả giao thông, giãn bớt mật độ xe cộ cho tuyến đường Bạch Đằng, cầu Lạc Long và cầu Hạ Lý.
    Việc xây dựng cầu được khởi công ngày 1-1-1983 và khánh thành ngày 2-9-1984. Cầu dài 222m, rộng 12m. Vật liệu và phương pháp xây lắp cũng như cầu Rào, cầu Niệm nhưng có cải tiến kỹ thuật về bố trí các bó thép có cường độ chịu lực cao, thay đổi công nghệ đúc dầm hộp (trước kia đúc liền, nay đúc rời bốn mảng riêng rồi ghép lại thành hộp) nâng cao công nghệ lắp ráp và dây chuyền sản xuất các khối dầm hộp.
    8. Cầu Xe Lửa (cầu Quay)
    Cầu dài 100m, bắc qua sông Tam Bạc, nằm trên tuyến đường sắt Hải Phòng đi Hà Nội - Lao Cai và Vân Nam do Công ty Pháp Hoả xa Đông Dương và Vân Nam xây dựng. Đoạn đường sắt Hải Phòng - Hà Nội được đưa vào khai thác ngày 16-6-1902. Khi mới, cầu được gọi là cầu Quay, vì cầu này có thể quay dọc theo chiều sông khi cho thuyền bè đi lại. Trụ quay đặt ở mố giữa cầu, bằng hệ thống ròng rọc, lúc đầu do 5, 6 người quay bằng tay. Năm 1951 đổi là cầu Hoa Lư. Hoa Lư là kinh đô nước ta đời Đinh và Tiền Lê. Năm 1954 đổi là cầu Tam Bạc.
    Trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, cầu Xe Lửa này bị máy bay Đồng minh đánh. Khi quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng cuối năm 1946, quân dân ta đã lột đường ray, bóc tà vẹt mặt cầu để chặn địch. Sau tiếp quản, cầu đã được sửa chữa lứon. Nhưng trong chiến tranh phá hoại, cầu bị hư hỏng do bị nhiều lần đánh phá ác liệt. Sau này cầu đã được sửa chữa nhưng không còn quay được.

    Được thankiemvdk sửa chữa / chuyển vào 13:38 ngày 13/07/2007
  6. laocodonno1

    laocodonno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/05/2007
    Bài viết:
    24
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
  7. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    TP với những Bến xưa​
    1. Bến Vân Đồn
    Bến này là bến Gôđơluy (Quai M.Godelu). Theo danh mục tên đường phố năm 1936, bến dài 140m, bắt đầu từ đại lộ Paul Bert (phố Điện Biên Phủ ngày nay) đến phố Félix Faure (phố Nguyễn Tri Phương ngày nay). Như vậy, bến Gốtđơluy ngày ấy là đoạn đường bên cạnh sông Tam Bạc và dọc theo khu Đài liệt sỹ thành phố, từ cầu Lạc Long đến đập Nguyễn Tri Phương bây giờ. Năm 1954 đổi mang tên bến Vân Đồn.
    Vân Đồn là một hòn đảo lớn ở vùng biển Đông Bắc nước ta từng là một thương cảng quan trọng của nước ta từ đời Lý, Trần, Lê. Đến thời Lê - Trịnh mở cảng Phố Hiến, cảng Vân Đồn không còn sầm uất như xưa. Vân Đồn còn là vị trí tiền tiêu xung yếu trong công cuộc bảo vệ đất nước. Nhiều danh tướng nước ta đã được cử trấn thủ nơi này.
    Từ sau chiến tranh phá hoại của Mỹ, đập Nguyễn Tri Phương được đắp ngăn sông Tam Bạc, bến Vân Đồn không còn tác dụng. Sau khi cầu Lạc Long hoàn thành, bến nằm ở dưới gầm cầu.

    2. Bến Vạn Kiếp
    Bến Vạn Kiếp từ ngã ba Chi Lăng - Hùng Vương đến bờ sông Cửa Cấm, chạy dọc theo sông đào Hạ Lý ở phía tả ngạn. Từ khi đào sông Hạ Lý đến thời tạm chiếm, vị trí bến được xác định không thống nhất. Trước năm 1945, khởi điểm của bến tính từ cầu xe lửa (cầu Quay) đến bến phà đầu cửa sông Hạ Lý với chiều dài1.050m. Bản đồ hành chính Hải Phòng do Liên Thương xuất bản năm 1953 lại xác định khởi điểm từ đường Xi - măng (tức đường Chi Lăng) đến nhà máy Xi - măng. Danh mục đường phố Hải Phòng do Thị trưởng Hải Phòng ban hành kèm theo quyết định 207TC - QĐ ngày 15-7-1953 được Thủ hiến Bắc phần duyệt y ngày 7-5-1954 cũng xác định từ đường Chi Lăng đến sông Cửa Cấm. Nay đường được tính từ ngã ba Chi Lăng - Hùng Duệ Vương đến cầu Xi - măng, dài 962m, rộng 4,5m.
    Vạn Kiếp (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng) là một vị trí hiểm yếu bên sông Lục Đầu. Nơi đây, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285), quân dân nhà Trần đã bố trí các trận địa mai phục chặn đường rút lui của Thoát Hoan, tiêu diệt nhiều địch. Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1287-1288) Thoát Hoan đã chiếm lĩnh trận địa này, xây dựng thành căn cứ vững chắc, sau bị quân ta tập kích, quân Nguyên đã phải rút lui khỏi căn cứ này. Nay ở Vạn Kiếp có đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
    Bến thuộc địa bàn xã Hạ Lý, trước giải phóng thuộc khu Tam Bạc. Lúc mới mở đặt tên là bến Căngđơlô (Quai Candlot). Sau cách mạng tháng Tám đổi là bến Vạn Kiếp. Thời tạm chiếm dùng lại tên bến Căngđơlô. Từ năm 1954 lấy lại tên bến Vạn Kiếp.
    Nửa cuối (đoạn phía Bắc) chạy dọc theo đường bảo vệ nhà máy Xi - măng. Đây là nơi tập kết nguyên vật liệu của nhà máy bằng đường thuỷ như đá, chất phụ gia.... Đoạn cầu Xi - măng đến đầu đường Chi Lăng thời Pháp thuộc chỉ có cơ sở của xưởng xây dựng cơ khí T.M.F.I.C, sở Xôpha, kho Phong Lợi Thành của chủ Hoa Kiều chứa hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có nhà của công nhân nhà máy Xi - măng ở xen kẽ với dân làng Hạ Lý.

    3. Bến Hàm Tử
    Từ đầu cầu Quay đến phố Trần Nguyên Hãn (Bản đồ thời Pháp thường ghi từ phố Tam Kì đến phố Hải Dương), dài 476m, rộng 4m. Bến thuộc đất xã An Dương, trước giải phóng thuộc khu Đường Cát. Tuy chỉ là bến tàu sông nội địa nhưng ở vào vị trí gần các chợ Sắt, An Dương và nằm ở địa đầu ngã ba sông nên trước kia bến này cũng khá sầm uất, tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền.
    Bến lúc mới mở gọi là Keđờ l''''''''abatoa (Quai de Lábattoir) nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì đây là ngã ba sông; sau cách mạng tháng Tám dùng tên dân gian này, từ năm 1954 đổi mang tên như hiện nay.
    Bến trước kia chỉ có kho, bãi, quán trọ, kể cả lô đất ở Bệnh viện Đông Y hiện nay, nguyên là nhà thương Hoa Kiều. Công trình kiến trúc có đền Tam Kì, cũng mới xây dựng sau này, thờ một thái hậu nhà Tống, bi quân Nguyên đuổi đã nhảy xuống biển tự tận.

    4. Bến Chương Dương
    Nằm dọc theo sông đào Hạ Lí về phía hữu ngạn, song song với bến Vân Đồn ở tả ngạn sông đào này. Bến bắt đầu từ phố Hạ Lí đến bờ sông Cấm, dài 875m. Nay đoạn phố Phan Đình Phùng tiếp giáp với bến Chương Dương nằm trong nhà máy đóng tàu Bạch Đằng nên bến này là con đường cụt, không thông được với phố Phan Đình Phùng nữa. Đoạn từ chân cầu Hạ Lí đến ngã ba vườn Dâu dài 330m, rộng 7m. Bến thuộc địa bàn xã Hạ Lí cũ, trước giải phóng thuộc khu Tam Bạc.
    Lúc mới mở gọi là bến Van Vônlenhôven (Quai Van Vollenhoven), mang tên một viên quan cai trị người Pháp tạm quyền chức Toàn quyền Đông Dương từ tháng 1 1914 đến tháng 3 - 1915. Từ năm 1954 mang tên hiện nay.
    Do ở vị trí thuận lợi gần sông Cửa Cấm lại không như bến Vạn Kiếp (Candlot) mà gần một nửa thuộc khu vực nhà máy Xi măng được coi là bến chuyên dùng của nhà máy, nên bến Chương Dương trước đây có nhiều canô, sà lan, thuyền bè cập, đậu. Dọc bến này lại có nhà máy Gạo, nhà máy Chỉ... đều là những nhà máy lớn đông công nhân. Cạnh đó là khu dân cư cả người làng cũ và thợ thuyền, phu phen các nơi đến làm ăn sinh sống hay tạm trú khá đông.
    Trong chiến tranh phá hoại bến nằm trong khu vực đánh phá ác liệt, cầu Hạ Lí bị oanh tạc nhiều lần, các nhà máy ở đây đều bị hư hỏng nặng... nên dọc bến này chỉ còn nhà máy đóng tàu, nhà máy Xay hoạt động.
    Sau ngày giải phóng, nhà máy Xay được mở rộng, ở đầu bến phía thượng lưu đặt tại Nhà máy đóng tàu II.
    5. Bến Cảng Hải Phòng
    Giới hạn của Cảng Hải Phòng thời Pháp thuộc chi thấy ghi ở điều 1 "Qui tắc chung về thuế quan" do Cảng Hải Phòng ấn hành năm 1875 (Kí hiệu ở Thư viện Quốc gia: M.5993). Theo văn bản này thì "Cảng Hải Phòng được giới hạn giữa đồn binh ở trên phía hữu ngạn sông Cửa Cấm, đối diện với lạch Vàng Châu và đồn binh ở thượng lưu lạch Hải Phòng trên tả ngạn sông Cửa Cấm''''''''''''''''
    Đối chiếu với sách Đồng Khánh địa dư chí lược thì đồn binh ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 1 tại xã Lạc Viên mà các bản đồ của chính quyền đô hộ Pháp vẫn ghi là Fort Annamite (đồn binh Annam). Còn đồn ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 3 đặt ở địa phận xã Bích Động huyện Thủy Nguyên. Đối chiếu với bản đồ Hải Phòng của bộ tham mưu quân sự Pháp cùng thời thì lúc ấy giới hạn cảng từ cửa sông Tam Bạc chỗ mom thủy đội đến đầu đường Lê Lai hiện nay.
    Sau đó, nhiều tài liệu của chính quyền Pháp xác định từ đại lộ Ferry (Cù Chính Lan) đến đại lộ Bonnal (Trần Phú) với chiều dài 1140m. Nhưng cũng có tài liệu của Pháp lại cắt đoạn từ phố Cù Chính Lan đến phố Bến Bính hiện nay gọi là bến Tự Do (Quai Liberté). Hiện nay cảng Hải Phòng, sau khi xây nhà máy Đông lạnh thì chỉ còn từ đó đến chỗ tiếp giáp đường Cửa Cấm.
    Bến Cảng Hải Phòng thuộc địa phận làng Gia Viên trước đây, trước giải phóng, được quyền tự quản, không thuộc khu hành chính nào. Lúc mới mở gọi là Cảng Hải Phòng, dân chúng thường gọi là bến Sáu Kho vì lúc ấy có 6 kho hàng. Ca dao xưa về Hải Phòng có câu:
    Hải Phòng có bến Sáu Kho
    Có sông Cửa Cấm có lò Xi - măng.
    Sau khi toàn quyền Đông Dương Pátxkiê (Pierre Pasquier) chết, đổi gọi là Cảng Pátxkiê. Tuy nhiên, nhân dân ta trong thời Pháp thuộc và tạm chiếm vẫn gọi là bến Sáu Kho. Sau cách mạng tháng 8 - 1945 đổi là bến Cửa Cấm. Năm 1954 đổi gọi là bến Bạch Đằng. Sau tiếp quản thường gọi là bến Cảng Hải Phòng hay Cảng Hải Phòng.
    Cảng Hải Phòng được xây dựng đã trên 100 năm. Ngay sau Hòa ước Giáp Tuất (1874), thực dân Pháp đã khai thác khu bến này phục vụ cho tàu thuyền của độí quân viễn chinh do tên lái súng Giăng Đuypuy (Jean Dupuis) thám hiểm dò đường.
    Cảng Hải Phòng còn có các cảng phụ trợ như Cảng Chùa Vẽ - Đoạn Xá, Cảng Vật Cách và Cảng nổi Hòn Một trong vịnh Hạ Long. Năm 1993, Cục Hàng Hải và Cảng Hải Phòng đã triển khai kế hoạch cải tạo lớn để khắc phục tình trạng bồi lắng phù sa luồng lạch ra vào Cảng Hải Phòng.
    Cảng Hải Phòng ngày nay vẫn là đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh phía Bắc và cả nước. Năng lực bốc xếp của cảng giai đoạn 2001 - 2005 là 10.000.000 - 15.000.000 tấn/năm.
    6. Bến Cảng Chùa Vẽ
    Bến Cảng Chùa Vẽ dài khoảng 200m được xây dựng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, sau đó tiếp tục được cải tạo nâng cấp, xây dựng kho tàng và các công trình phụ trợ. Thực ra, khu Cảng Chùa Vẽ là một bộ phận của Cảng Hải Phòng gồm hai cảng Chùa Vẽ và Đoạn Xá. Cảng Chùa Vẽ hiện có 3 cầu tàu, 5000 m2 kho, 32.000 m2 bãi. Cảng Đoạn Xá có 330m cầu và 10.000 m2 bãi chứa Côngtennơ (Container). Hiện đã có đường sắt dẫn đến cầu tàu và vào bãi.
    Sở dĩ gọi là Cảng Chùa Vẽ vì được xây dựng gần chùa Vẽ (Hoa Linh tự), xã Đông Hải.
    Đoạn đường sắt từ ga chính trên đường Lương Khánh Thiện vào cảng chính được nối tiếp xuống tới Cảng Chùa Vẽ tổng cộng dài gần 5km, góp phần đáng kể vào việc giải tỏa hàng hóa nhập qua cảng Hải Phòng được nhanh chóng, đồng thời tạo thành một mạch giao thông liên tục xuyên qua các bến Cảng, kho tàng và các cơ sở sửa chữa, đóng tàu thuyền, chế biến và đánh bắt hải sản.
    Cảng Chùa Vẽ là bến đỗ của tàu khách Thống Nhất trên tuyến Hải Phòng - thành phố Hồ Chí Minh. Sau 16 năm hoạt động (1975 - 1991) tuyến tàu khách đường thủy Hải Phòng - thành phố Hồ Chí Minh do ít khách và chân hàng nên tạm ngừng hoạt động.

    7. Bến phà Bính
    Bến phà Bính kéo dài từ phố Cù Chính Lan đến phố Bến Bính dài khoảng 160m, rộng 8m. Có vỉa hè rộng ở cả hai bên. Vỉa hè phía giáp sông Cấm rộng hơn lòng đường. Bến thuộc địa bàn xã Gia Viên. Trước giải phóng thuộc khu Trung Ương. (Có tài liệu đưa bến này vào phố Bến Bính).
    Lúc đầu chỗ này gọi là bến đò Bính, vì là bến của con đò do người xã Bích Động, huyện Thủy Nguyên ở phía tả ngạn sông Cấm chở khách sang sông đậu ngay ở chỗ đầu phố Bến Bính, gần cổng nhà máy Đông lạnh hiện nay. Khi lô đất này thành nhượng địa của Pháp, gọi là bến Lục Lộ (Ke đê tờravô publicơ - Quai des Travaux Publiques) vì Ti Lục Lộ, tức Sở Công chính đặt ở gần đó. Tháng 11 năm 1921, Ti Lục Lộ Hải Phòng mở rộng xây dựng cả tuyến từ phố J.Ferry (Cù Chính Lan) đến Brierè de L''''''''isle (phố Bến Bính) và đặt tên là bến Tự Do (ke de libetê = Quai de Liberté). Theo tường thuật của báo Tương lai Bắc Kì thì ''''''''bến này thực ra là mặt phẳng nghiêng từ bờ tới sông, vẫn dùng làm vũng sửa tàu (bassin de radoub) cho các chủ tàu nhỏ không có vũng sửa nêng''''''''. Sau khi tiếp quản đổi gọi là bến phà Bính.
    Thời Pháp thuộc tuy tên gọi là bến Lục Lộ hay bến Tự Do nhưng trên nhiều tài liệu của Pháp ghi bến này nằm trong bến Cảng chính, gọi chung là Ke guvecnơ giênêran Patxkiê (Quai Gouverneur Générel Pasquier), nghĩa là bến toàn quyền Patxkiê.
    Bến phà Bính là một bến lớn sầm uất của thành phố. Ở đây có bến của các tàu khách Hải Phòng đi Cát Hải, Cát Bà, Hòn Gai, Cửa Ông, Dân Tiến, Mũi Ngọc, Phả Lại, Bắc Giang...

    Hiện nay Bến phà Bình chỉ còn hoạt động với những chiếc phà tư nhân trở khách đi xe máy, xe đạp và các bà các chị sương sớm gánh hàng chợ từ Thuỷ Nguyên sang đi để khỏi đi vòng kể từ khi Cầu Bính đi vào hoạt động ở bên kia. Nhưng Bến Bính hiện vẫn còn hoạt động là đầu mối duy nhất trong nội thành có Tàu Cao Tốc từ Hải Phòng đến Hạ Long và Móng Cái của Tỉnh Quảng Ninh.
    Được thankiemvdk sửa chữa / chuyển vào 13:57 ngày 13/07/2007
  8. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Tìm hiểu nhân vật Lịch Sử Hải Phòng
    1. Bảo Hoàn tức Nguyễn Văn Hoàn (1910 - ?)

    Sinh ra trong một gia đình tiểu tư sản trí thức, Bảo Hoàn (tức Nguyễn Văn Hoàn sinh năm 1910 - không rõ năm mất), tại làng Dư Hàng nay là xã Dư Hàng Kênh, huyện An Hải, Hải Phòng. Năm 1921 học tại trường tiểu học Hải An. Năm 1927 - 1929, tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng yêu nước ở Hải Phòng có gây dựng cơ sở trong giới học sinh. Nguyễn Văn Hoàn tham gia vào tổ chức này và hoạt động trong nhóm học sinh với biệt danh Bảo Hoàn.
    Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Chí Chử, Bảo Hoàn cùng nhóm Việt Nam Quốc dân Đảng có một số hoạt động tuyên truyền, gây ảnh hưởng cho Việt Nam Quốc dân Đảng trong học sinh các trường Hải An, Bonnal, in và rải truyền đơn vận động một số tiểu thương tiểu chủ ủng hộ hoạt động của đảng này. Sau khi Việt Nam Quốc dân Đảng yêu nước tại Hải Phòng bị tan vỡ, Nguyễn Văn Hoàn được Hoàng Sĩ Yết, người cùng làng tuyên truyền giác ngộ và kết nạp vào ********************** (10/1930). Sau khi chuyển sang Đảng Cộng sản Bảo Hoàn sinh hoạt Đảng với chi bộ đường phố Cát Cụt, chủ yếu hoạt động trong khu vực nội thành. Cùng với các đảng viên trong chi bộ, ông đã tích cực tham gia trong công tác tuyên truyền, vận động cách mạng trong công nhân, học sinh. Cuối năm 1931, ông bị bắt, giam tại nhà tù Hải Phòng, Hỏa Lò Hà Nội và cuối cùng bị đày đi Côn Đảo.
    Đầu năm 1937, Bảo Hoàn ra khỏi nhà tù đế quốc và về sinh sống tại làng Dư Hàng, được một thời gian thì bắt được liên lạc với Nguyễn Văn Cúc (tức Nguyễn Văn Linh). Nguyễn Văn Cúc phân công Bảo Hoàn làm việc tại hiệu may Bình Dân (nhà ông Thưởng - phố Cầu Đất) lúc này là cơ sở của Thành ủy Hải Phòng. Sau đó, Nguyễn Văn Hoàn lại được phân công sang chi nhánh báo Đảng tại đường Cát Dài. Những năm 1937 - 1939, Bảo Hoàn tích cực tham gia tuyên truyền, cổ động bán báo chí công khai của Đảng trong công nhân học sinh.
    Cuối năm 1939, thực dân Pháp đàn áp phong trào cách mạng, đóng cửa các tờ báo công khai của Đảng. Chúng bắt giam Nguyễn Văn Hoàn sau đó kết án quản thúc 20 năm tại làng Dư Hàng. Sau đó một thời gian ở tại làng, Bảo Hoàn bỏ trốn vào Nam Bộ (quê ông nội). Sau khi cách mạng tháng Tám thành công thì tham gia kháng chiến trong lực lượng cảnh sát xung phong tại Thủ Đức. Đầu năm 1946 thì chuyển sang làm công tác tuyên truyền của Đảng bộ Tây Ninh cho đến ngày tập kết ra Bắc (8/1954). Sau khi tập kết ra Bắc, ông được phân công làm cán bộ tổ chức của trường Đại học nhân dân, sau đó được cử tham gia công tác cải cách ruộng đất. Năm 1960, về công tác tại Hải Phòng, phụ trách cải tạo ngành giao thông, rồi chuyển về công tác tại Ủy ban hành chính thành phố. Tháng 10/1983 ông nghỉ công tác về sinh sống những năm cuối đời tại làng Dư Hàng. Với thành tích tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, Bảo Hoàn đã được tặng bằng có công với nước và nhiều huân chương cao quý

    2. Bùi Lâm (1905 - 1974)

    Tên thật là Nguyễn Văn Dị, sinh ngày 15/3/1905, tại xã Gia Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, sớm có tinh thần yêu nước thương nòi. Từ thủa ấu thơ đã theo cha ra Hải Phòng, đến năm 16 tuổi đã xuống tàu làm thủy thủ cho hãng tàu buôn Pháp, chạy qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La tinh...
    Vào khoảng những năm Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918), ở châu Âu phong trào cách mạng lên cao, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại đã xảy ra: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, cuộc binh biến của thủy thủ Pháp (trong đó có Tôn Đức Thắng) ở Hắc Hải để ủng hộ nhà nước Cộng hòa Xô Viết vừa ra đời, Nguyễn Ái Quốc đưa yêu sách đòi quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Vécxay (1919). Ở Pháp, Bùi Lâm được đọc báo Người cùng khổ của Nguyễn Ái Quốc, đã cố công tìm gặp được Người vào năm 1922. Trong cuộc đời làm thủy thủ Bùi Lâm thấy cảnh đồng bào bị thực dân Pháp bóc lột, đói khổ, nhưng chúng cứ chuyên chở thóc gạo sang Pháp. Khi nghe Bùi Lâm kể chuyện tàu Pháp chở gạo sang, mà nhân dân ta chết đói, Nguyễn Ái Quốc đã nhắc Bùi Lâm và các thủy thủ Việt Nam ''Phải nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước''. Từ đây, Người giao nhiệm vụ cho Bùi Lâm và các thủy thủ Việt Nam tổ chức đường dây liên lạc, chuyển tài liệu cách mạng về nước.
    Tháng 11/1925 Bùi Lâm gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, đến cuối năm 1927, ông được Đảng Cộng sản Pháp cử đến Mátxcơva học trường Đại học Phương Đông. Khoảng cuối năm 1929, về Sài Gòn, hoạt động trong tổ chức An nam Cộng sản Đảng, trực tiếp phụ trách công đoàn. Khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, Bùi Lâm được cử làm Ủy viên thường vụ xứ ủy Nam Kỳ. Đến 2/1931, được phái ra miền Bắc công tác và bị địch bắt ở Hải Phòng, bị kết án 5 năm tù khổ sai, đày đi Côn Đảo. Sau mãn hạn tù (12/1936) Bùi Lâm về Hải Phòng hoạt động. Khoảng 9/1941, lại bị bắt ở Thanh Hóa và bị thực dân Pháp giam cầm, đày đọa rất dã man ở các nhà tù: Hỏa Lò (Hà Nội), Hải Phòng, Quảng Ngãi, Ban Mê Thuột, Sơn La... Cuộc sống tù đày không làm cho Bùi Lâm lùi bước, trái lại ông luôn luôn tỏ ra là một đảng viên cộng sản kiên định, trung thành, tin tưởng ở tiền đồ xán lạn của cách mạng. Tháng 3/1945 ông vượt ngục, tích cực tham gia giành và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
    Ngày 14/2/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh (số 21) lập Tòa án quân sự đặc biệt và cử ông phụ trách. Với cương vị này Bùi Lâm đã góp phần thực hiện đường lối bảo vệ cách mạng của Đảng, kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng, điển hình là bọn ở phố Ôn Như Hầu. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp ông phụ trách Tòa án quân sự Liên khu III, rồi lại phụ trách Tòa án Nhân dân Liên khu. Từ năm 1954 - 1957, giữ chức Giám đốc Vụ Hành chính Tư pháp (thuộc Bộ Tư pháp) và Viện trưởng Viện công tố Trung ương (1958). Năm 1960 trúng cử đại biểu quốc hội khóa II và làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại nước Cộng hòa Nhân dân Bungari và tại nước Cộng hòa Dân chủ Đức (1964). Sau khi về nước ông được cử giữ chức Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao... Ngày 10/5/1974 ông qua đời.
    Trong suốt cuộc đời hoạt động của Bùi Lâm đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá ''Là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, bất cứ ở lĩnh vực và cương vị nào cũng đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Đồng chí là người được Đảng, Nhà nước và Bác Hồ tin cẩn, được bè bạn kính yêu''.

    3. Cô Ký Nghĩa (Nguyễn Thị Thảo)

    Khi Việt Nam Quốc dân Đảng ở Hải Phòng thành lập Cô Ký Nghĩa tên là Nguyễn Thị Nghĩa tức Nguyễn Thị Thảo, đã tham gia ngay từ đầu, rồi giác ngộ em trai là Quốc Bảo cùng tham gia nghĩa đảng. Bà còn là em gái của nhà doanh nghiệp yêu nước Nguyễn Sơn Hà. Theo yêu cầu của Đảng, Nguyễn Thị Nghĩa bỏ nhà lên Hà Nội cùng Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Nhất, Đoàn Thị Tâm mở cửa hàng nữ trang ở phố Hàng Da, thực chất là cơ sở của Trung ương Quốc dân Đảng.
    Trong lúc, Nguyễn Thị Nghĩa bị truy lùng, Báo Đông Pháp ra ngày 19/6/1932 đưa tin ''Một nữ đảng viên quan trọng của Hội kín bị các nhà chức trách truy tìm lâu nay đã bị bắt ở Hải Phòng, người đó tên là Nguyễn Thị Nghĩa''. Khi ra tòa vì không có chứng cứ buộc chúng phải tha, nhưng mật thám vẫn ngầm theo dõi. Vì vậy, Nguyễn Thị Nghĩa phải chuyển chỗ ở vào Nho Quan rồi vào xưởng sản xuất dầu trẩu của anh trai. Năm 1936, Pháp phải thả chính trị phạm, một số chiến sĩ cách mạng ở Hải Phòng đã tạm trú tại cơ sở này như Bùi Lâm, Hoạt (lùn), Tưởng Dân Bảo... cả Nguyễn Văn Linh khi ở Nam ra Bắc cũng đến ở đây, đều được Nguyễn Thị Nghĩa chăm lo ăn uống, thuốc men và lộ phí. Riêng Tưởng Dân Bảo vốn là yếu nhân của Quốc dân Đảng bị đầy ra Côn Đảo tù chung với Trần Huy Liệu, Nguyễn Bình, Lê Văn Phúc, Phạm Tuấn Tài... Khi bị biệt giam ở Hòn Cau, Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Bình, Trần Huy Liệu cùng thuộc nhóm mà người ta cho là bị xích hóa. Chính vì vậy mà Tưởng Dân Bảo bị đội Lãng - một đảng viên Quốc dân Đảng quá khích, bất thình lình đâm vào sau gáy. Cho rằng Bảo đã chết, đội Lãng đâm cổ tự tử. Lãng chết còn Bảo được cứu sống, nhưng sức khỏe sa sút nhiều, khi về Nghĩa Trang được Nguyễn Thị Nghĩa hết sức chăm lo chạy chữa, sức khỏe hồi phục. Tình cảm đồng chí, đồng hương ở Hải Phòng khiến hai người nên vợ nên chồng. Hai người đều trở thành đảng viên đảng cộng sản. Theo yêu cầu của tổ chức vợ chồng bà Ký Nghĩa chuyển vào Nghệ An mở cửa hàng buôn cá, tiếp đó lại chuyển vào số 7 đường Sacne (Charnair) Sài Gòn làm đại lý sơn cho hãng Nguyễn Sơn Hà, hai nơi trên đều là cơ sở của Đảng Cộng Sản thời bí mật. Khi cách mạng thành công, theo chỉ thị của Đảng , vợ chồng bà đã rút được số tiền lớn của Hãng sơn Nguyễn Sơn Hà gửi ở ngân hàng để mua tầu, thuê thuyền ra Côn Đảo kịp thời đón được mấy trăm chiến sĩ cách mạng trở về, trong đó có: Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh... nếu chỉ chậm ít ngày, các chiến sĩ cách mạng sẽ bị mắc kẹt vì Pháp núp sau quân Anh trở lại, số phận họ sẽ khó lường.
    Trong kháng chiến chống Pháp, vợ chồng bà Ký Nghĩa vẫn tiếp tục hoạt động. Chồng bà được cử vào làm Trưởng ban kiểm tra 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ, có lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Chí Hòa. Tổ chức đã bí mật cứu Tưởng Dân Bảo ra khỏi nhà lao đưa lên chiến khu. Nhưng do hậu quả của đòn tra tấn, sức khỏe ngày càng suy kiệt, ông đã qua đời ở chiến khu. Sau ngày thống nhất đất nước, hài cốt ông đã được chuyển về nghĩa trang liệt sĩ Hồ Chí Minh. Sau khi an táng người chồng - người đồng chí ở nghĩa trang liệt sĩ được một năm, bà Ký Nghĩa bị cảm và đột ngột qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi vợ chồng bà đã gắn bó với cách mạng

    4. Đào Trọng Hiến (? - 1963)

    Không rõ năm sinh, mất năm 1963 tại Hà Nội. Người xã Kim Thìa huyện Đan Phượng (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Vốn là nhà giáo mẫu mực tốt nghiệp Sư phạm theo hệ thống đào tạo trường Tây, nhưng ông am hiểu Hán học, chịu ảnh hưởng Nho giáo nên đạo đức, tác phong rất mẫu mức, được giáo viên ở hai huyện Tiên Lãng, An Lão kính mến. Đối với quan lại nơi nhậm chức, ông giữ thái độ đúng mực, không xu phu. Do đó có uy tín trong giáo giới và công chức.
    Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đào Trọng Hiến được Mặt trận ********* tỉnh Kiến An giới thiệu ứng cử, ông đã trúng với số phiếu cao. Cũng trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Kiến An khóa đầu, ông trúng cử và được bầu là Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh thay thế Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời Nguyễn Dương Lâm. Cuối năm 1947, ông được điều động nhận nhiệm vụ mới, Giám đốc Sở Thương binh Xã hội, rồi Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III. Sau hiệp định Giơnevơ (1954), ông về công tác ở Bộ Nội vụ (cũ), giữ chức vụ Phó hiệu trưởng trường Hành chính trung ương. Chức Hiệu trưởng do một vị lãnh đạo bộ kiêm nhiệm, do đó công việc diều hành trực tiếp của trường chủ yếu là do nhà sư phạm có kinh nghiệm Đào Trọng Hiến. Năm 1963, ông lâm bệnh nặng qua đời.
    Đánh giá về Đào Trọng Hiến, ông Lê Quốc Thân, người có quan hệ công tác và giúp đỡ ông khi ở Hải Kiến, ở Liên khu III, ở Bộ Nội vụ đã viết: ''Có thể nói suốt quá trình hoạt động, ông luôn tỏ rõ là một cán bộ có tinh thần trách nhiệm, tận tụy trong công việc, cuộc sống mẫu mực, chịu đựng gian khổ và liêm khiết''. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Cúc ( 1901 - 1981) tốt nghiệp Nữ hộ sinh thời Pháp, theo kháng chiến, bà đã săn sóc sức khỏe cán bộ, nhân viên rất tận tụy. Năm 1981, bà lâm bệnh, biết không qua khỏi, đã đem hơn 367 gam vàng nữ trang và cũng là khoản tài sản dành dụm của cả cuộc đời hai ông bà ủng hộ nhà nước. Được tin, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã tặng bằng khen.

    5. Đào Văn Thê (1909 - 1936) và Anh em

    Ông sinh ra trong một gia đình quan lại, người thôn Thượng, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo nay thuộc thành phố Hải Phòng.
    Vào những năm 1927-1928, hai người em cùng cha khác mẹ của ông, là Đào Văn Lĩnh và Đào Văn Chiểu đang dạy học ở nội thành Hải Phòng đã tham gia và là đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng lớp đầu. Riêng Đào Văn Lĩnh, thời gian học ở trường Sự phạm Hà Nội đã kết bạn với Nguyễn Thái Học (lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng) và ông đã tham gia nhóm ''Nam đồng Thư xã''. Chính ông là người Cổ Am đầu tiên tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng. Ông còn là thành viên trong tỉnh bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Hải Phòng. Năm 1927, Đào Văn Lĩnh về quê tuyên truyền tôn chỉ mục đích của đảng này để tổ chức thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng ở Cổ Am, đầu năm 1928 thì tổ chức được thành lập với gần 20 đảng viên. Thời kỳ đầu, tổ chức có tên là ''Tứ dân liên hiệp đoàn'' và Đào Văn Thê cũng là một trong số những đảng viên đầu tiên của chi bộ Cổ Am.
    Tháng 7/1929, Đào Văn Lĩnh và Đào Văn Chiểu bị mật thám bắt ở Hải Phòng. Đào Văn Thê được lãnh trách nhiệm thay Đào Văn Lĩnh, giữ vững sự chỉ đạo của Tỉnh bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Hải Phòng với chi bộ ở Cổ Am và Vĩnh Bảo, Phụ Dực (Thái Bình). Đến cuối năm 1929, ở Vĩnh Bảo đã có thêm 5 chi bộ Việt Nam Quốc dân Đảng nữa thành lập. Đào Văn Thê là người trực tiếp truyền đạt mọi chỉ thị của tỉnh bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Hải Phòng đến từng chi bộ này. Đầu tháng 2/1930, Đào Văn Thê từ Hải Phòng về truyền đạt lệnh khởi nghĩa giành chính quyền ở Vĩnh Bảo và huyện Phụ Dực (Thái Bình). Lúc đó, chi bộ Cổ Am do Trần Quang Diệu lĩnh trách nhiệm chỉ huy khởi nghĩa, cướp chính quyền ở Vĩnh Bảo. Còn Đào Văn Thê chịu trách nhiệm chỉ huy khởi nghĩa cướp chính quyền ở huyện Phụ Dực.
    Sau khi bị giặc Pháp bắt, kẻ thù đã đưa Đào Văn Thê và đồng chí của ông đi cầm tù ở Côn Đảo. Cả 5 anh em ông (3 anh em trai và 2 anh em rể) đều bị tống ngục với mức án tù khổ sai. Đào Văn Lĩnh, sau nhiều trận đòn tra tấn dã man của kẻ thù đã hi sinh tại Côn Đảo. Còn Đào Văn Thê, vào đầu năm 1936, trong chuyến vượt ngục bằng bè, mảng, đã hi sinh giữa biển cả xa xôi. Cuộc đời và sự hi sinh của anh em Đào Văn Thê mãi mãi còn đọng lại trong lòng nhân dân đất Cổ Am như tấm gương bất khuất trước kẻ thù, dành trọn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho quê hương đất nước.
  9. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Các Khu công nghiệp - Khu chế xuất​
    1.Khu Công nghiệp Đồ Sơn:
    Nằm trên đường 353 từ Hải Phòng đi Đồ Sơn, thuộc địa phận huyện Kiến Thụy và thị xã Đồ Sơn.
    Chủ đầu tư : Công ty Liên doanh KCN Đồ Sơn Hải Phòng
    Địa chỉ: 100 Văn Cao, quận Ngô Quyền, Hải Phòng
    Điện thoại: 031.729760 - 729761;
    Fax: 031.729774
    Email: dosoniz@dosonindustrialzone.com.vn ;
    Website: www.dosonindustrialzone.com.vn
    Tổng giám đốc: Ông Đào Mạnh Sến
    Ngày thành lập: 26-6-1997;
    đổi tên thành KCN Đồ Sơn Hải Phòng ngày 09/01/2006
    Vốn đăng ký: 75.000.000 USD

    Các thành viên liên doanh:
    + Công ty Asia Glorious Development (Hồng Kông)
    + Công ty Xây dựng và Phát triển cơ sở hạ tầng Hải Phòng

    Địa điểm đầu tư­: Đư­ờng 353, huyện Kiến Thuỵ và phường Ngọc Xuyên, thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng

    Tổng diện tích: 150ha
    * Cơ sở hạ tầng:
    - Hệ thống đường nội bộ trong KCN được trải nhựa bê tông, phù hợp với tiêu chuẩn VN H30. Đường trục chính rộng 34m, đường trục phụ rộng 21,5m.
    - Về cấp điện: Sử dụng hệ thống lưới điện quốc gia do Công ty điện lực Hải Phòng trực tiếp cấp điện cho các doanh nghiệp trong KCN. Chất lượng và dung lượng điện đảm bảo cung cấp ổn định 24h/ngày. Đảm bảo cung cấp điện ổn định cho từng doanh nghiệp.
    - Về cấp nước: nước được cung cấp từ Nhà máy nước sông He với công suất 10.000m3/ngày, chất lượng đạt tiêu chuẩn TC505/BYT của Bộ Y tế. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí bằng cách sử dụng nguồn nước ngầm.
    - Nước thải trong khu được xử lý qua trạm xử lý nước thải của KCN đạt tiêu chuẩn quốc tế, công suất 5000m3/ngày đêm.
    Hệ thống cáp thông tin liên lạc đầy đủ, có cả đường truyền quốc tế ADSL.
    - Xử lý chất thải rắn : Thành phố Hải Phòng sẽ cung cấp dịch vụ thu gom rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp sau khi đã qua xử lý thô của từng doanh nghiệp.
    - Hệ thống thoát nuớc thải bằng ống bê tông cốt thép li tâm >>>Ăộ400 đẫn từ doanh nghiệp đến trạm xử lý nước thải của khu công nghiệp, được xử lý tại trạm xử lý của khu,sau đó được thoát tới hệ thống thoát nước thải của thành phố.
    * Dự án kêu gọi đầu tư :
    - Các ngành công nghiệp sạch, cơ khí vừa và nhỏ;
    - Sản xuất kim loại chế tạo, lắp ráp thiết bị điện, điện tử, máy móc phụ tùng, phương tiện vận tải...
    - Chế biến nông sản, thực phẩm, thuỷ sản, sản xuất đồ uống, chế tạo đồ gỗ mây tre và hàng phi kim loại...
    - Dệt may, giầy dép, bao bì, da, giấy, đồ nhựa...
    2. Khu Công nghiệp Đình Vũ :
    Nằm trên địa bàn Phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
    Có cảng Đình Vũ cho tàu có trọng tải lớn, cảng hàng lỏng Hải Phòng, cách sân bay Cát bi 12km, cách ga tàu hỏa Hải Phòng 8km, sẽ có đường sắt đến tận KCN nằm trong tuyến đường sắt quốc tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh (Trung quốc)
    Chủ đầu t­ư: CÔNG TY LIÊN DOANH PHÁT TRIỂN ĐÌNH VŨ
    Địa chỉ: tầng 5, khu văn phòng Harbour View, số 4 Trần Phú, Hải Phòng
    Điện thoại: 031.836169; Fax: 031.859130
    Email: dvdjvc@dvez.com;
    Website: http://www.dvez.com
    Tổng giám đốc: Ông Philip Martel

    Ngày thành lập: 02-04-1997
    Vốn đăng ký: 79.930.000USD

    Các thành viên liên doanh:
    - Công ty Công trình giao thông Hải Phòng
    - Công ty INFRA ASIA DEVELOPMENT (Haiphong) Limited

    Địa điểm đầu t­ư:
    Quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

    Tổng diện tích: 982 ha

    Thời gian hoạt động: 50 năm
    Đặc điểm:

    * Cự ly với các trung tâm kinh tế và giao thông trong khu vực:
    - Cách trung tâm thành phố Hải Phòng 5km
    - Liền kề cảng Hải Phòng
    - Cách sân bay Cát bi 12km
    - Cách ga Hải Phòng 8km, đ­ường sắt đến tận KCN nằm trong tuyến đ­ường sắt quốc tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh (Trung quốc)
    - Sát Quốc lộ 5 kéo dài đã đư­ợc nâng cấp thành đư­ờng có 4 làn xe
    * Hạ tầng kỹ thuật:
    - Tổng diện tích: 982 ha. Giai đoạn 1 là 164 ha.
    - Hệ thống đường giao thông nội bộ hoàn chỉnh, đ­ường chính rộng 68m, đ­ường phụ rộng 24m.
    - Thông tin liên lạc: Trung tâm Bưu điện khu Đình Vũ với tổng đài điện tử 2000 số SIEMENS EWSD, cáp quang ngầm T4, truy cập Internet tốc độ cao ADSL (Mega VNN) và dịch vụ thuê kênh riêng với tốc độ truyền dẫn lên tới 2Mbps.
    - Cấp điện: sử dụng điện lư­ới quốc gia với sự hỗ trợ của một trạm phát điện công suất 1.000 KVA
    - Cấp nư­ớc: Nư­ớc sạch trong khu do công ty cấp nước Đình Vũ đảm nhiệm đấu nối theo nguồn nước thành phố, công suất giai đoạn I: 400m3/ ngày đêm. Cuối năm 2004, công suất cung cấp nước sạch sẽ tăng lên 20.000 m3/ ngày đêm. Hệ thống đường ống cấp nước cứu hỏa tại các khu vực khác nhau của khu công nghiệp được bố trí sẵn.
    - Khu công nghiệp cung cấp dịch vụ thu gom và xử lý nước thải sau khi nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã được xử lý sơ bộ tại các nhà máy trong khu.
    * Giá thuê đất tiêu chuẩn:

    + Khu vực I (Khu đất tiếp giáp mép n­ước và khu cảng hàng lỏng) : 45 - 90USD/m2/44 năm
    + Khu vực II (Khu đất tiếp giáp với cảng): 40 - 75USD/m2/44 năm
    + Khu vực III (Các khu đất còn lại) : 35 - 50USD/m2/44 năm

    Giá thuê đất sẽ đ­ược thoả thuận giữa KCN Đình vũ và chủ đầu t­ư dựa trên các yếu tố: vị trí lô đất, diện tích lô đất, dự án đầu t­ư, tiện ích công cộng.

    Giá đặc biệt: Giá thuê đất có thể thấp tới mức 20USD/ m2 áp dụng cho các nhà đầu t­ư ký hợp đồng thuê đất trong giai đoạn 2002 - 2004 (áp dụng đối với đất nằm trong khu vực III của Khu kinh tế Đình vũ).
    * Phí các tiện ích: Loại tiện ích
    + Phí Điện : Theo quy định của Chính phủ áp dụng cho KCN.
    + N­ước : Theo quy định của KCN.
    + N­ước thô : Thoả thuận (tuỳ theo chất l­ượng và tiêu chuẩn n­ước)
    + Thu gom n­ước thải : 0,28USD/ m3
    + Thông tin liên lạc : theo giá qui định của B­ưu điện Hải Phòng
    + Thu gom chất thải rắn: theo qui định của Công ty môi tr­ường đô thị Hải Phòng
    * Phí dịch vụ:
    + Bên sử dụng dịch vụ cần thanh toán khoản phí dịch vụ hàng năm là 0,45USD/ m2/năm (chưa có VAT) cho công ty TNHH PT Đình Vũ để quản lý và cung cấp các dịch vụ, gồm:
    + Sửa chữa, bảo d­ưỡng và làm sạch mọi con đư­ờng, vỉa hè, cống, rãnh, đường ống...
    + Giữ gìn và chăm sóc các khu vực có cây trồng
    + Cung cấp, bảo dưỡng và sửa chữa mọi thiết bị chiếu sáng
    + Bảo hiểm các khu vực công cộng (nếu có)
    *Các dự án kêu gọi đầu tư:
    - Ngành công nghiệp dầu khí và hoá dầu,
    - Nhóm ngành sản xuất và tiêu dùng (thực phẩm, chế biến nông thuỷ sản, dệt, may mặc, da, gốm, thuỷ tinh, cao su và các sản phẩm nhựa...)
    - Nhóm ngành sản xuất nguyên vật liệu cơ bản (Vật liệu xây dựng, hoá chất, gốm sứ, sắt thép, kim loại màu...)
    - Nhóm ngành chế tạo và lắp máy (Máy móc tổng hợp, thiết bị điện và điện tử, thiết bị vận tải, đóng tàu, sản xuất phụ tùng ô tô xe máy và sản xuất các thiết bị và dụng cụ chính xác...)
    + Khuyến khích các dự án có:
    - Tỷ lệ hàng xuất khẩu lớn,
    - Sử dụng nhiều lao động.

    Được thankiemvdk sửa chữa / chuyển vào 08:56 ngày 16/07/2007
  10. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Tìm hiểu về HÒN DÁU - TP Hải Phòng​
    Tên Hán Việt còn gọi là Dấu Sơn, nằm phía Đông Nam bán đảo Đồ Sơn, cách mỏm cực Nam của bán đảo Đồ Sơn 1km.
    Thời Lý - Trần, Hòn Dáu là một trong những tiền đồn của quân dân Đại Việt để chống xâm lược. Sau khi Thực dân Pháp chiếm Hải Phòng năm 1873 đã cho khởi công xây dựng cây đèn biển trên đảo Dáu vào năm 1884 và hoàn thành vào năm 1896, bắt đầu hoạt động từ tháng sáu năm 1898.
    Đây là mốc toạ độ chuẩn quốc gia. Năm 1930 lập trạm khí tượng Hải văn. Đèn biển Hòn Dáu đặt trên đỉnh cao 128m, được xây dựng từ năm 1892. Cự ly chiếu sáng 25 hải lý, hướng dẫn tàu biển ra vào cảng Hải Phòng. Trên đảo còn lưu giữ khu rừng nguyên sinh quí hiếm. Đảo Dáu là điểm du lịch và di tích lịch sử của Hải Phòng. Hàng năm vào các ngày 8, 9, 10 tháng 2 Âm lịch diễn ra lễ hội đảo Dáu của ngư dân Đồ Sơn tại đền thờ Nam Hải Thần Vương để cầu may.

    ĐẢO DÁU - TỪ HUYỀN THOẠI ĐẾN HIỆN THỰC
    [​IMG]
    Đảo xanh màu huyền thoại
    Theo giai thoại của dân địa phương ở đây truyền lại, Đảo Dáu chứa đựng một bí ẩn từ ngàn xưa: Nếu ai lên đảo mà mang về dù chỉ một cành cây, viên đá ... cũng sẽ bị ốm đau, tại hoạ. Có lẽ đây cũng là lý do giải thích tại sao phong cảnh tự nhiên trên Đảo Dáu dù đã trảI qua nhiều giai đoạn của lịch sử, vật đổi, sao dời nhưng đến nay được giữ gìn ngần như nguyên vẹn. ĐI tới đảo bằng những con tàu gỗ nhỏ chở khách, vượt qua một eo biển khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ. Trên những chiếc tàu này, du khách sẽ được nếm trải một khoảng thời gian đủ để thấy rằng lênh đênh trên biển thật khó quên. Bởi những con sóng lừng gây lắc ngang dữ dội luôn xuất hiện mỗi khi tàu thuyền đi qua eo biển hẹp giữa Đảo Dáu và bờ Vạn Hoa của Đồ Sơn.
    Đảo Dáu là một chứng tích oanh liệt của một Hải Phòng trung lũng quyết thắng trong 2 cuọc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vì thế, không chỉ bởi phong cách còn hoang sơ với một không gian thoáng đãng giữa biển khơI, một huyền thoại của đảo từ ngàn xưa, hòn đảo lịch sử này đã trở thành một điểm đến hấp đến du khách trong và ngoài nước.
    Tuy nhiên theo Tiến sĩ Trần Trung Dũng ?" Giám đốc sở du lịch Hải phòng: Mặc dù được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Cảng, nhưng cho đến nay ngành du lịch vẫn thiếu vằng các sản phẩm du lịch chất lượng cao mang tính đặc thù, các sự kiện văn hoá vui chơi giải trí lớn. Thu nhập xã hội từ du lịch như tiêu thụ hàng hoá, đồ lưu niệm, dịch vụ du lịch và xuất khẩu tại chỗ chưa tương xứng với tiềm năng của HảI phòng. Còn một điều trớ trêu là ngành du lịch tuy là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch nhưng không được quản lý một loại tài nguyên du lịch và khẩu tại chỗ chưa tương xứng với tiềm năng của HảI phòng. Còn một điều trớ trêu là ngành du lịch tuy là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch nhưng không được quản lý một loại tài nguyên du lịch nào. tài nguyên du lịch hiện nay lại do chính quyền các địa phương và các thành phần kinh tế khác nhau quản lý nên đã dẫn đến tình trạng ?o cha chung không ai khóc?. Hiện nay chưa phân định được trách nhiệm và lợi ích của các ngành, các cấp và cộng đồng địa phương nên việc bảo vệ, tôn tạo không được quan tâm đúng mức, kém hiệu quả làm huỷ hoại tài nguyên tại quần thể thiên nhiên Cát Bà, bán đảo Đồ Sơn...
    Đảo nhỏ đã thức dậy
    Kỹ sư Bùi Quang Khả - Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Phó tổng Giám đốc Công ty cổ phần du lịch quốc tế Hòn Dáu cho biết: Một đồ án quy hoạch lại Đảo Dáu đã được hình thành từ vài năm nay nhằm phát triển du lịch biển đảo. Nhưng chỉ từ giữa năm 2005 đến nay mới được thực hiện. Quy hoạch tổng thể này về sử dụng đất, giao thông để phân đợt xây dựng, thiết kế các khu đô thị chức năng, bao gồm: khu trung tâm hội họp và biểu diễn, khu khách sạn 5 sao ?" 200 giường, khu Resort 1, khu bãi tám lưới, khu Resort 2, khu bảo tồn hảI đăng, đền thờ, khu bãi tắm công viên biển, khu thế giới nước, khu Resrot 3,4 khu nhà nghỉ ven đồi, khu đón tiếp, bãi đỗ xe, cầu cảng quốc tế... Tổng mức đầu tư cho dự án khoảng 100 triệu USD.
    Khen cho con mắt tinh đời. Đảo Dáu quả là một vị trí đắc địa không chỉ có ý nghĩa về quân sự, hàng hảI mà còn là một núi vàng nếu biết phát triển du lịch tại đây. Thế mà phảI mất bao nhiêu năm, Du lịch Hải phòng mới nhìn ra giá trị đích thực của Đảo Dáu. Theo ký sư Bùi Quang Khả, khu vực mũi Đồ Sơn hướng hoàn toàn ra vịnh Bắc Bộ, địa thế được bao bọc xung quanh là biển, do vậy rất thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển du lịch biển. Khu vực Đảo Dáu nằm cách mũi bán đảo Đồ SƠn điểm gần nhất khoảng 800m, được bao bọc xung quanh là biển. Trên khu vực này theo khảo sát vẫn còn một rừng nguyên sinh hơn 100 năm tuổi, với nhiều loại thực vật quý hiếm tạo nên một lá phổi xanh rất thích hợp với loại hình du lịch sinh thái. Đền thờ Nam HảI Đại vương ( tục gọi là thờ thần biển) nằm ngay trên bờ trái của Đảo Dáu, từ lâu đã nổi tiếng linh thiêng thu hút nhiều du khách thập phương cứ mỗi độ xuân về. Ngọn Hải đăng Hòn Dáu cũng là một công trình kiến trúc lịch sử được bảo tồn khá tốt, không chỉ với chức năng hàng hảI, nơI đây cong là một bảo tàng lưu giữ dấu tích lịch sử của hai cuộc kháng chiến và những lần viếng thăm của các lãnh tụ Đảng và nhà nước ta.
    Nhìn lại quy mô của dự án của Ông Khả ta thấy cũng na ná dự án lấn biển làm du lịch trên đảo Tuần Châu ( Quảng Ninh) của ?o chúa đảo? Nguyễn Đình Tuyển những năm 2000. Khi đó ai dám bảo sẽ lấp một eo biển, làm cây cầu ra hòn đảo nghèo Tuần Châu để làm du lịch? Sự nghiệp lớn bao giờ cũng đến với những người giám nghĩ, dám làm. Đến nay Tuần Châu đã nhanh chóng trở thành nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Nói lại câu chuyện đầu tư trên đảo Tuần Châu để nhìn lại Hòn Dáu, liệu du lịch Hải Phòng từ đây sẽ có thêm một thương hiệu nổi tiếng? Tất cả vẫn còn ở phía trước nhưng chắc rằng những tiềm năng dồi dào được thiên nhiên ban tặng bấy lâu, cùng với những ý tưởng lớn sẽ có một sự nghiệp đầy hứa hẹn./.
    MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỒ SƠN VÀ HÒN DÁU NGÀY NAY
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

Chia sẻ trang này