1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thông tin về Hoàng Sa và Trường Sa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi anhducxm12, 22/08/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. neptune_vietnam

    neptune_vietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/10/2005
    Bài viết:
    182
    Đã được thích:
    0
    Một bác khác từ Mông Cổ có ý kiến, tất nhiên là người Mông Cổ chẳng thích gì người Tàu:
    Vê? lá thư cu?a Phạm Văn Đô?ng năm 1958

    Năm 1958 Thủ tướng của miền Bắc Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng, đã ký một lá thư mà sau này gây rất nhiều tranh cãi. Lá thư ngày 14-9-1958 nói chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành với một tuyên bố của Bắc Kinh về hải phận của Trung Quốc.
    Lá thư này được nhiều người xem là sự thừa nhận của Bắc Việt đối với chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa.
    Gần đây, sau những tranh cãi giữa hai nước về chủ quyền ở hai hòn đảo, lá thư của ông Phạm Văn Đồng lại được đưa ra thảo luận, tuy không chính thức, ở Việt Nam va? trong giới ngươ?i Việt ơ? nước ngoa?i.
    Vậy nhận định của giới nghiên cứu nước ngoài về lá thư là như thế nào?
    BBC Tiếng Việt đã hỏi tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary. Đầu tiên ông giải thích hai quan điểm khác nhau của Bắc Việt trong thập niên 1950 và 1974, năm Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc.
    Tiến sif Balazs Szalontai: Trong các năm 1955-1958, ban lãnh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước vì phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu ủng hộ của quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc này là Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Hà Nội không thể hy vọng xác lập quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong tương lai gần, và vì vậy họ không thể có sự bất đồng lớn với Trung Quốc về các hòn đảo. Lúc này, chính phủ Bắc Việt tìm cách có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ cố gắng tránh đưa ra tuyên bố công khai ủng hộ những tuyên bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay ký vào một văn kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo này.
    Sang năm 1974, tình hình hoàn toàn khác. Việc thống nhất Việt Nam không còn là khả năng xa vời. Giả sử Trung Quốc có không can thiệp, Hà Nội có thể dễ dàng lấy các đảo cùng với phần còn lại của miền Nam. Từ 1968 đến 1974, quan hệ Việt - Trung đã xuống rất thấp, trong khi Liên Xô tăng cường ủng hộ cho miền Bắc. Trong tình hình đó, quan điểm của Bắc Việt dĩ nhiên trở nên cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với thập niên 1950.
    Vì những lý do tương tự, thái độ của Trung Quốc cũng trở nên cứng rắn hơn. Đến năm 1974, Bắc Kinh không còn hy vọng Hà Nội sẽ theo họ để chống Moscow. Thực sự vào cuối 1973 và đầu 1974, Liên Xô lại cảm thấy sự hòa hoãn Mỹ - Trung đã không đem lại kết quả như người ta nghĩ. Washington không từ bỏ quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng không bỏ đi ý định tìm kiếm hòa hoãn với Liên Xô. Ngược lại, quan hệ Xô - Mỹ lại tiến triển tốt. Vì thế trong năm 1974, lãnh đạo Trung Quốc lại một lần nữa cảm thấy bị bao vây. Vì vậy họ muốn cải thiện vị trí chiến lược ở Đông Nam Á bằng hành động chiếm Hoàng Sa, và tăng cường ủng hộ cho Khmer Đỏ và du kích cộng sản ở Miến Điện.
    BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
    Tiến sif Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
    Như tôi nói ở trên, trong những năm này, Bắc Việt không thể làm phật ý Trung Quốc. Liên Xô không cung cấp đủ hỗ trợ cho công cuộc thống nhất, trong khi Ngô Đình Diệm ở miền Nam và chính phủ Mỹ không sẵn sàng đồng ý tổ chức bầu cử như đã ghi trong Hiệp định Geneva. Phạm Văn Đồng vì thế cảm thấy cần ngả theo Trung Quốc.
    Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
    Dù sao trong tranh chấp lãnh thổ song phương này giữa các quyền lợi của Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của Bắc Việt, theo nghĩa ngoại giao hơn là pháp lý, gần với quan điểm của Trung Quốc hơn là với quan điểm của miền Nam Việt Nam.
    BBC: Ngoài ra người ta còn nghe nói đến một tuyên bố tán thành với Trung Quốc của Ung Văn Khiêm, đưa ra năm 1956 khi ông này là Thứ trưởng Ngoại giao của Bắc Việt. Phía Trung Quốc đã công khai viện dẫn đến tuyên bố này. Nó có giúp ta hiểu thêm về lá thư của ông Phạm Văn Đồng?
    Tiến sif Balazs Szalontai: Theo trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, vào giữa năm 1956, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Ban đầu tôi nghi ngờ sự chân thực của tuyên bố này. Năm 2004, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí xóa đi những chương tranh cãi của lịch sử Triều Tiên khỏi trang web của họ. Tức là họ sẵn sàng thay đổi quá khứ lịch sử để phục vụ cho mình.
    Tôi cũng chấp nhận lý lẽ rằng nếu ông Khiêm quả thực đã nói như vậy, thì có nghĩa rằng ban lãnh đạo Bắc Việt thực sự có ý định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng nay tôi nghĩ khác, mà một lý do là vì tôi xem lại các thỏa thuận biên giới của Mông Cổ với Liên Xô.

    Tôi nhận ra rằng tuyên bố của Ung Văn Khiêm thực ra không có tác dụng ràng buộc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố của một quan chức như ông Khiêm được coi như đại diện cho quan điểm chính thức của ban lãnh đạo. Nhưng ban lãnh đạo cũng có thể bỏ qua ông ta và những tuyên bố của ông ta bằng việc sa thải theo những lý do có vẻ chả liên quan gì. Đó là số phận của Ngoại trưởng Mông Cổ Sodnomyn Averzed năm 1958. Trong lúc đàm phán về biên giới Liên Xô ?" Mông Cổ, ông ta có quan điểm khá cứng rắn, và rất có thể là vì ông ta làm theo chỉ thị của ban lãnh đạo. Nhưng khi Liên Xô không chịu nhả lại phần lãnh thổ mà Mông Cổ đòi, và chỉ trích ?othái độ dân tộc chủ nghĩa? của Averzed, Mông Cổ cách chức ông ta.
    Trong trường hợp Ung Văn Khiêm, ông ta khi ấy chỉ là thứ trưởng, và chỉ có một tuyên bố miệng trong lúc nói riêng với đại biện lâm thời cu?a Trung Quốc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố miệng không có cùng sức mạnh như một thông cáo viết sẵn đề cập đến các vấn đề lãnh thổ. Nó cũng không có sức nặng như một tuyên bố miệng của lãnh đạo cao cấp như thủ tướng, nguyên thủ quốc gia hay tổng bí thư. Rõ ràng các lãnh đạo Bắc Việt không ký hay nói ra một thỏa thuận nào như vậy, vì nếu không thì Trung Quốc đã công bố rồi.

    BBC:Theo ông, lá thư của Phạm Văn Đồng có ý nghĩa pháp lý nào không?
    Tiến sif Balazs Szalontai: Nó khiến cho quan điểm của Việt Nam bị yếu đi một chút, nhưng tôi cho rằng nó không có sức nặng ràng buộc. Theo tôi, việc các tuyên bố của Trung Quốc nhấn mạnh nguyên tắc ?oim lặng là đồng ý? không có mấy sức nặng. Chính phủ miền Nam Việt Nam đã công khai phản đối các tuyên bố của Trung Quốc và cố gắng giữ các đảo, nhưng họ không ngăn được Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trung Quốc đơn giản bỏ mặc sự phản đối của Sài Gòn. Nếu Hà Nội có phản đối lúc đó, kết quả cũng sẽ vậy thôi.

    BBC:Ngày nay, người ta có thể làm gì với lá thư của ông Đồng? Trong một giai đoạn dài, ở Việt Nam chỉ là sự im lặng. Ông nghĩ liệu người Việt Nam bây giờ có thể công khai tranh luận về nó mà không sợ là điều này chỉ có lợi cho Trung Quốc?
    Theo tôi, do lá thư của Phạm Văn Đồng chỉ có giá trị pháp lý hạn chế, nên một sự thảo luận công khai về vấn đề sẽ không có hại cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng dĩ nhiên chính phủ hai nước có thể nhìn vấn đề này theo một cách khác.
    Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006)

  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Tôi đếm được 10/11 cái bãi đá mà tài liệu đưa ra?
  3. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Trong các cuộc xung đột và tranh cãi, nếu các bên cứ khăng khăng lý lẽ ban đầu của mình thì đương nhiên chỉ có thể giải quyết bằng vũ lực. mà đã giải quyết băng vũ lực thì ai sẽ thắng thì chúng ta ai cũng đoán được. suy cho cùng ai thắng thì bên kia cũng không chịu khuất phục, lại oán tương oán mà cãi nhau chẳng biết đến bao giờ.
    Tôi thiết nghĩ các bên nên có sự nhìn nhận, đánh giá quan điểm của nhau. từ đó có chính sách tuyên truyền, quảng báo trong dân chúng một cách hợp lý. Chứ cứ tình trạng kích động tinh thần dân tộc kiểu cực đoan như hiện nay thì sẽ chẳng đâu vào đến đâu.
    Người VN chúng ta không bao giờ chịu khi chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Nhưng người TQ hay người Phi cũng vậy. Sẽ không bao giờ có chuyện TQ từ bỏ với cái cách tuyên bố kiểu chủ quyền thế này. Họ cũng có nhân dân của họ đứng đằng sau. Nước Phi và Mã cũng như vậy. Như thế hai quần đảo sẽ luôn là thùng thuốc súng nằm giữa các nước xung quanh. Chỉ chực nổ mà thôi. Vậy ai được lợi: lợi là những cường quốc nằm ngoài vùng này, là những cường quốc xuất khẩu vũ khí cho các nước trong vùng.
    Cách giải quyết phải thế nào? không phải bằng hô hào khẩu hiệu, bằng biểu tình rần rần phản đối. Cách đó chẳng qua là ép chính phủ phải đổ thêm dầu vào ngọn lửa đang trực bùng cháy. Cách giải quyết là phải làm thế nào tháo được ngòi nổ, phải cân nhắc quyền lợi của mỗi bên trên cơ sở sự có mặt của các bên. Cứ khăng khăng, là duy nhất của tôi thì không bao giờ giải quyết được mớ bòng bong này.
  4. hcmt

    hcmt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/05/2003
    Bài viết:
    387
    Đã được thích:
    0
    Đó cũng là điều em nghĩ đến nhưng có vài điểm nghĩ khác. Em đồng ý hiện nay có nhiều nước tuyên bố chủ quyền, một mình VN thì khó có thể tác động hay áp đặt các nước khác trừ trường hợp ta là cường quốc. NHưng VN có thể góp phần tạo ra một môi trường, một phương cách để vấn đề được giải quyết phù hợp với tình thế của VN.
    Em cũng thấy biểu tình, hô khẩu hiệu không đúng cách sẽ làm vấn đề thêm phức tạp, mình biểu tình, Phi, Maly cũng biết biểu tình vậy, hay vừa rồi Đài có xem việc VN biểu tình ra gì đâu, hôm trước biểu tình hôm sau nó cho máy bay thăm đảo, rồi tổng thống của nó cũng dự định thăm đảo...rồi đến bao giờ thì người PHi, VN...mới thật lòng ngồi lại với nhau cùng vạch ra một trật tự, một chiến lược về biển.
    Mà nếu các nước liên quan không ngồi lại thì tình thế biển đông sẽ là từng nước 1 đấu tay đôi với TQ, lúc đó dù là dùng, ngoại giao, vũ lực, hay kinh tế, chính trị thì các nước nhỏ đều không có được lợi thế.
    Em thấy nhiều người sôi sụng hăng máu...như vậy cũng hay, nhưng người nhà thì biết nhau cả rồi, chủ trương của nhà nước thì cũng đã rõ bao năm nay rồi...nhưng VN sẽ đấu tranh khẳng định chủ quyền ở một cái thế nào? ở một thế bất lợi hay ở trong một trật tự nào đó mà ở đó những nước nhỏ không quá thua thiệt so với nước lớn.
    Có một trật tự để giải quyết vấn đề thì dĩ nhiên vấn đề không thể là giải quyết được ngay, đảo thuộc về ai còn là do sự khôn khéo đấu tranh của từng nước, nhưng có một trật tự quốc tế thì những con cá lớn mới phải đắn đó khi hành động.
    Em thấy, TQ lâu lâu hay khích này, khích nọ, mục đích là để người dân các nước Asean không ngồi lại được với nhau, do đó họ có thể đấu tay đôi với từng nước một. Xa hơn, TQ có thể đi đêm với nước này nước nọ để cô lập những nước còn lại. Ở VN, nhà nước nhấn mạnh trật tự ổn định, không phải là không có lý do. Bởi vì đó là thứ duy nhất mà các nước Asean có thể ngồi lại, đám phán với nhau. Nếu không tin, bác có thể gặp 1 người PHi, Đài, hay Malay rồi hỏi, bác có tán thành với tôi không về việc chúng ta hợp tác để giải quyết vấn đề trong hòa bình trật tự, tránh cảnh kẻ mạnh an hiếp kẻ yếu hay là bác tán thành với tôi về việc tôi biểu tình, hô khẩu hiệu các đảo ấy là của tôi?. :(
    Được hcmt sửa chữa / chuyển vào 16:32 ngày 25/01/2008
  5. Wehrmacht1

    Wehrmacht1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/12/2007
    Bài viết:
    852
    Đã được thích:
    2
    Để hướng tới kỉ niệm 20 năm sự kiện 14.03.1988 , Wehrmacht xin được trình bày tình hình hiện tại về các đảo của và bãi đá tại Trường Sa tổng hợp từ nhiều ngưồn khác nhau để một số bạn được rõ hơn, và loại bỏ nghi ngờ về việc Trung Khựa có sân bay tại Trường Sa như giang hồ đồn đại.
    Duới đây là bản đồ đã được sửa chữa thật chính xác về các vị trí quan trọng được kiểm soát bởi 5 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philipin và Malaysia.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Về sự kiện 14.03.1988, có thể tóm lược như sau:
    Tương quan lực lượng:

    Trong trận này, 2 tàu vận tải và 1 tàu đổ bộ của VN phải chống chọi với 4 tàu chiến của cộng sản TQ với quân số đông gấp nhiều lần được trang bị pháo 100 ly, tên lửa và ngư lôi cực kỳ hiện đại.
    - đầu năm 1988, Trung Khựa cho quân đổ bộ chiếm 5 bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ
    - 3 bãi đá xung quanh đảo Sinh Tồn là
    Gạc Ma (Johnson South Reef)
    Cô Lin (Johnson North Reef)
    và Len Đao( Len Dao Reef)
    chiếm vị trí tiếp vận rất quan trọng nên thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các bãi đá này, đặc biệt là bãi Gạc Ma giữ vị trí quan trọng nhất (xem thêm trên bản đồ).
    - 5h sáng ngày 14.03.1988 tàu HQ-605 do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng đến Len Đao và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền .
    8h20ph cùng ngày , tàu của cộng sản TQ bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của VN. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6h ngày 15/3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.
    - 6h ngày 14.03.1988, tàu HQ-505 đã do đồng chí Vũ Huy Lễ cắm cờ khẳng định chủ quyền tại bãi Cô Lin.Tàu HQ-505 đã bị bắn cháy sau khi ủi bãi ngay sau đó vài giờ, nhưng ta vẫn giữ được bãi Cô Lin.
    -tàu HQ-604 do đồng chí Vũ Phi Trừ chỉ huy đã nhanh chóng tiếp cận bãi Gạc Ma ngay trong đêm 13.03.1988 cùng các chiến sĩ công binh và tổ bảo vệ đảo mang theo vật liệu để làm nhà và cắm cờ khẳng định chủ quyền trên đảo.
    6h sáng 14.03.1988, TQ đổ quân tấn công bãi Gạc Ma, 7h 30 TQ nổ súng bắn cháy tàu HQ-604.Đồng chí Vũ Phi Trừ - Thuyền trưởng, đồng chí Trần Đức Thông - Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ, chiến sĩ tàu đã anh dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
    Thiếu uý Trần Văn Phương đã bị địch quân sát hại dã man bằng lưỡi lê và hi sinh anh dũng khi cùng đồng đội và các chiến sĩ công binh giữ cờ bảo vệ đảo Gạc Ma: "KHÔNG ĐƯỢC LÙI BƯỚC! PHẢI ĐỂ CHO MÁU CỦA MÌNH TÔ THẮM LÁ CỜ TỔ QUỐC VÀ TRUYỀN THỐNG VINH QUANG CỦA QUÂN CHỦNG"
    Kết quả:
    Trong trận chiến đấu ngày 14/3/1988, VN bị tổn thất : 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích (sau này cộng sản Trung Quốc trao trả VN 9 đồng chí, 61 người mất tích), 40 đồng chí bị bắt (có 1 trung tá).
    Trong 03 bãi đá mà TQ đánh chiếm của VN năm 1988: Len Đao, Gạc Ma và Cô Lin thì TQ chỉ chiếm được Đá Gạc Ma, 02 bãi đá còn lại thì VN vẫn giữ được.Một ý chí chiến đấu kiên cường của những người lính VN.
    Tàu 505 và 604 thuộc Lữ đoàn vận tải 125, khi ấy nhiệm vụ là chở vật liệu ra xây mốc chủ quyền. Khi nhận lệnh ra giữ đảo, hai tàu này đã phải làm nhiệm vụ của tàu chiến đấu. Hơn nữa, VN cũng bất ngờ về dã tâm và mức độ gây hấn của bọn cộng sản Trung Quốc
    Hiện tại Việt Nam giữ 6 đảo, có 01 sân bay (tên chữ in ngiêng trên bản đồ) và khoảng gần 30 bãi đá:
    Đảo Song tử tây (Southwest Cay)
    Đảo Sơn Ca (Sand Cay)
    Đảo Nam Yết (Nam Yit Island)
    Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island)
    Đảo Trường Sa Lớn (Spratly Island) - 01 sân bay tại đây.
    Đảo An Bang (Amboyna Cay)
    Trung Quốc hiện tại chỉ chiếm giữ các bãi đá gồm 9 bãi :
    Xu-bi (Subi Reef)
    Ga Ven(Gaven Reef)
    Huy-gơ (Hughes Reef)
    Châu Viên (Cuarteron Reef)
    Chữ Thập (Fiery Cross Reef )
    Gạc Ma (Johnson South Reef)
    Ken Nan (Kennan Reef)
    First Thomas Soal (chiếm từ Philippin)
    Vành Khăn Mischief Reef (chiếm từ Philippin)
    Ở bãi Gạc Ma thì TQ đã xây dựng 05-06 nhà cao chân kiên cố cùng nhiều công trình khác, còn ở bãi Chữ Thập thì TQ đã xây dựng 04 nhà cao chân kiên cố, cùng vài hệ thống phòng không.
    Đài Loan chiếm duy nhất 1 đảo Ba Bình và có 01 sân bay quân sự tại đây.
    Philippin chiếm 6 đảo nhỏ và 4 bãi đá :
    Đảo Loại Ta (Loaita Island)
    Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay)
    Đảo Bình Nguyên (Flat Island)
    Đảo Vĩnh Viễn (Nansha Island)
    Đảo Thị Tứ (Thitu Island)
    Đảo Bến Lạc (West York Island)
    Malaysia chiếm 5 bãi đá
    Được Wehrmacht1 sửa chữa / chuyển vào 20:50 ngày 27/01/2008
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    chả cần phải nổ súng mới là đánh chiếm
    chuyện gì cũng nhân nhượng thì giờ ở Tây Nguyên có nước Đề Ga tự trị rồi
    rồi thì :những con hổ giải phóng...người Chăm"
    "mặt trận ...Kho me"
    "tổ chức giải phóng... tin lành",v.v.....
    chuyện nhỏ ko ngăn chận sẽ xé ra to cái luật nó thế
  7. letrungtam

    letrungtam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2008
    Bài viết:
    16
    Đã được thích:
    0
    Sự kiện lớn như vậy mà sao sách LS lại chả nói gì đến nó vậy nhỉ
  8. Wehrmacht

    Wehrmacht Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/02/2005
    Bài viết:
    1.969
    Đã được thích:
    0
    Sự việc này đã được bàn bạc, và tổng hợp thông tin chi tiết ở gần 900 trang topic về Hoàng Sa Trường Sa bên Box Thảo Luận chỉ trong ngót nghét 3 tháng, trong đấy cũng có nhiều tài liệu khá hay mà anh em HS-TS để trong đó.
    Bạn có thể xem thêm tại www.*******.org
    hoặc blog Hoang Sa http://360.yahoo.com/profile-JgdZf2I5dKfeED7s2Jlq5msyXw--?cq=1
    Nói chung hiện tại trong ttvnol và trên mạng có rất nhiều nguồn thông tin bổ ích về vấn đề này.Để hiểu rõ được thì cũng phải đọc khá nhiều đấy bạn ạ.
    Lúc đó bạn sẽ hiểu tại sao sách lịch sử lại không nhắc đến.Mình chỉ tóm tắt ngắn gọn vì sao sách LS không nói đến là:
    11-1991, LX chính thức sụp đổ, để giữ vững chế độ CS không sụp theo LX ,Việt Nam phải thay đổi hẳn quan điểm đối ngoại, bắt tay giảng hoà với TQ và dựa hẳn vào TQ , mặc dù trước đó Việt Nam đã đánh nhau tơi bời với TQ mấy lần , Hiến Pháp Việt Nam năm 1987 ghi rõ : Trung Quốc là kẻ thù lớn của dân tộc Việt Nam.Và để giữ mối hoà hiếu này mà sách LS và các phương tiện truyền thông phải giấu đi những chương đen tối trong một thời gian dài như vậy.

    Topic HS-TS bên Box Thảo Luận cũng có khá nhiều tài liệu rất hay nhưng vì là topic Thảo Luận nên nhiều lúc hơi bị loãng vì các member mải tranh luận và spam.
  9. lehongphu

    lehongphu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    1.581
    Đã được thích:
    0
    Xin cho biết có thế tìm đọc cái "Hiến Pháp Việt Nam năm 1987" trên ở đâu?
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Hê hê, bác hỏi khó rồi, làm sao mà kiếm ra đây!
    [​IMG]
    Cái dzụ NC vs BC kia thì trong HP1980 có nói (Lời nói đầu).
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:42 ngày 04/02/2008

Chia sẻ trang này