1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thông tin về Hoàng Sa và Trường Sa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi anhducxm12, 22/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển Đông
    I. Đặt vấn đề:

    Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia độc lập, có nền văn hiến lâu đời và đang phát triển ở vùng Đông Nam Á. Diện tích chung toàn vùng lãnh thổ của Việt Nam là 329.314,5km2, dân số 82.032.300 người, mật độ trung bình trong cả nước là 249 người/km2 (số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2004). Lãnh thổ Việt Nam gồm có vùng núi, vùng trung du và đồng bằng, vùng biển, hải đảo và vùng trời. Phía Bắc, Việt Nam tiếp giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và có đường biên giới chạy dài 1.150km. Về phía Tây, nước Việt Nam tiếp giáp nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân dân Lào và có 1.650km đường biên giới với nước này.
    Phía Tây Nam, Việt Nam tiếp giáp với lãnh thổ của Vương quốc Campuchia, có chiều dài 1.137km đường biên giới chung. Bờ biển của Việt Nam kể từ biên giới Việt-Trung cho đến biên giới Việt-Campuchia dài khoảng 3.260km. Nếu tính cả bờ biển các đảo và quần đảo trên biển Đông thì chiều dài này còn lớn hơn nhiều, khiến Việt Nam có độ dài bờ biển lớn hơn Thailand, ngang bằng với Malaysia và đứng đầu các nước ở bán đảo Trung Ấn. Theo Công ước Quốc tế, mỗi quốc gia có quyền ấn định lãnh hải của mình là 12 hải lý kể từ đường cơ sở, vùng tiếp giáp lãnh hải rộng 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế được quy định với chiều rộng là 200 hải lý. Thềm lục địa cũng được tính cho đến 200 hải lý. Như vậy, Việt Nam có chủ quyền trên một vùng biển khá rộng lớn, khoảng 1 triệu km2 ở biển Đông .Vùng biển Việt Nam hiện nay tiếp giáp với ranh giới, lãnh hải của tám quốc gia: Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei, Campuchia, Thailand và Singapore.

    Việt Nam có vùng trời bao trùm trên đất liền được xác định bằng các đường biên giới và trên biển là ranh giới phía ngoài lãnh hải và không gian của các hải đảo. Điểm cực Bắc trên đất liền của Việt Nam nằm ở vĩ độ 23o23?T Bắc, kinh độ 105o20?T Đông thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam được xác định ở địa điểm xóm Mũi, Rạch Tàu, tỉnh Cà Mau, thuộc vĩ độ 8o34?T Bắc, kinh độ 104o40?T Đông. Điểm cực Đông nằm ở vĩ độ 20o40?T Bắc, kinh độ 109o24?T Đông thuộc bán đảo Hòn Khói, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Điểm cực Tây được xác định tại vĩ độ 22o22?T Bắc, kinh độ 102o10?T Đông, thuộc vùng núi Pulasan, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.

    Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, trên vòng cung châu Á ?" Thái Bình Dương. Đây là vùng kinh tế đang được phát triển và sẽ là vùng kinh tế phát triển nhất trong thế kỷ XXI. Mặt khác, Việt Nam nằm gần đường hàng hải quốc tế nối liền các quốc gia ở miền Tây Á và Nam Á với các nước ở miền Đông Á và Bắc Á. Vị trí địa lý này tạo nên những tiềm lực phát triển cho Việt Nam trong tương lai, giúp cho chính sách đối ngoại đa phương và đường lối kinh tế mở có điều kiện nhanh chóng trở thành hiện thực để đạt tới một nước Việt Nam thịnh vượng.
    Với những điều kiện thuận lợi như thế để đưa Việt Nam trên đường phát triển nhưng ?oTranh chấp của quyền lãnh thổ, nhất là lãnh hải là một thách thức lớn của khu vực, trong khi đó, an ninh trên biển là điểm yếu của khu vực này?, đó là đánh giá của Hội nghị bàn tròn Chân Á Thái Bình Dương lần thứ VIII (06 ?" 08-06/1994 tại Kula Lumpur, Malaysia) với chủ đề ?oXây dựng lòng tin và giảm xung đột ở Thái Bình Dương?

    Trong việc tranh chấp chủ quyền lãnh hải mà đặc biệt là hai khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong biển Đông hiện nay tuy chưa phải là cơn bùng phát dữ dội đe dọa đến nền hòa bình và an ninh khu vực Đông Nam Á, nhưng đây là điểm nóng âm ỉ mà khả năng ?ocó thể có? xảy ra trong tương lai.
    Trong tình hình đó, tên gọi chỉ khu vực Biển Đông ở Đông Nam Á giữa các nước lại không thống nhất. Việt Nam gọi là Biển Đông, Trung Quốc gọi là Nam Hải (-海) và tên gọi quốc tế lại là Biển Nam Trung Hoa (South China sea).Những cách gọi này dễ gây ra ngộ nhận về vấn đề chủ quyền quốc gia ở biển Đông.
    Chính vì vậy để góp phần tìm hiểu những vấn đề trên biển Đông cũng như những vấn đề liên quan đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam .Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu bằng việc khảo sát tên gọi khu vực biển này trên các tài liệu mà chúng tôi có được.

    II. Nội dung:

    Qua khảo sát, tổng cộng 20.713 bản đồ, trong đó:

    - 11.900 bản đồ có liên quan đến Trung Quốc.
    - 7.640 bản đồ có liên quan đến Việt Nam.
    - 738 bản đồ có liên quan đến khu vực Đông Nam Á.
    - 117 bản đồ có liên quan đến biển Đông.
    - 318 bản đồ có liên quan đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương (1941 - 1945).
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Chúng tôi thấy rằng, bản đồ sớm nhất có chú thích vùng biển Đông của khu vực Đông Nam Á là bản đồ miêu tả khu vực đảo Hải Nam của Trung Quốc vào đời nhà Đường (618-907) của Đại học California được ghi là biển Giao Chỉ (Chiao-chih Ocean). Xem hình 1

    Bằng việc khảo sát 20.713 bản đồ nói trên, chúng tôi thấy rằng bản đồ liên quan đến Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á và Việt Nam sớm nhất là bản đồ được xuất bản từ năm 1575 cho đến bản đồ được xuất bản trước năm 1814, khu vực biển Đông không được một tác giả nào ghi chú cả.(Xem bản đồ 2, 3)
    Tên gọi Biển Trung Hoa và Biển Nam Trung Hoa trong các bản đồ thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương đã được sử dụng không nhất quán trong Bộ Tư lệnh quân đội Đồng minh ở Đông Nam Á.(Xem bản đồ 4 )
    Trong tất cả các bản đồ của Trung Quốc công bố, chúng tôi thấy rằng Trung Quốc đã thống nhất sử dụng tên gọi Nam Hải để ghi chú khu vực biển Đông. (Xem bản đồ 5)
     Hình 1: Bản đồ miêu tả khu vực Hải Nam của Trung Quốc vào đời Đường (nguồn Thư viện Đại học California, Hoa Kỳ)
    Hình 2: Bản đồ Đông Nam Á năm 1575, khu vực Biển Đơng khơng ghi chú  tên gọi (Nguồn: Thư viện ĐH Hồng Kông)
    Hình 3: Bản đồ Đông Nam Á năm 1814,khu vực Biển Đông ghi chú là China Sea (Nguồn: Thư viện ĐH Hồng Kông)
    Hình 4: Nguồn:  Bản đồ Chính phủ Vichy Đông dương đầu hàng Nhật bản, ngày 23/07/1941 (Thư viện Văn phòng Quốc hội Mỹ)
    [​IMG]
    Như vậy, cho đến nay chúng ta thấy rằng để gọi tên khu vực biển Đông ở Đông Nam Á có nhiều cách gọi khác nhau:
    - Việt Nam gọi là Biển Đông.
    - Trung Quốc gọi là Nam Hải.
    - Các tổ chức quốc tế gọi là South China Sea.
    Như chúng ta đã biết bờ biển của Việt Nam dài khoảng 3.260 cây số từ biên giới Trung Quốc cho tới vịnh Thái Lan. Phía Đông Việt Nam là biển nên đã có danh xưng thông thường là Biển Đông, lưu hành rộng rãi trong dân gian; một chứng cớ trong nhiều chứng cớ khác là đã được chuyển ngữ ra tiếng Pháp là L''Océan Oriental trong cuốn du ký của tác giả người Pháp năm 1736.(1)
    Tên nôm na Biển Đông chứa đầy tình tự dân tộc đã được luôn luôn nhắc nhở tới nhất là qua ca dao, phong dao và tục ngữ nước nhà .

    Xem đó, danh xưng Biển Đông đã ăn sâu vào bên trong ý thức của dân tộc Việt Nam và được người dân Việt Nam quen dùng để chỉ phần lãnh hải Việt Nam dọc theo duyên hải ở phía Đông Việt Nam. Tuy nhiên có một điều khiến một số người thắc mắc là biển ở phía Đông Việt Nam đó cũng đã được Trung Quốc đặt cho danh xưng là Nam Hải mà Âu-Mỹ đặt cho những danh xưng Mer de Chine Méridionale hay South China Sea. Để giải các nghi vấn này, thiết tưởng không gì bằng ta thử tra một số từ điển có uy tín của Trung Quốc cũng như của các nước khác xem họ ghi chép gì về vùng biển này.

    Theo từ điển Từ Hải, ?oNam Hải là tên biển, ở về phía Nam Phúc Kiến và Quảng Đông, phía Tây hải hiệp Đài Loan, phía Đông Việt Nam thuộc Pháp. Về phía Nam biển đó có bán đảo Malaysia, Bà-La-Châu (tức đảo Bornéo) thuộc địa Anh, Phi Liệt (thay vì Luật) Tân thuộc địa Mỹ, cho nên hải quyền (tức chủ quyền trên mặt biển) là chung cho cả các nước Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật?(2).
    Từ điển Từ Nguyên định nghĩa Nam Hải đại khái như từ điển Từ Hải và đặt vị trí Nam Hải ở phía Nam Phúc Kiến, nhưng có thêm một chi tiết là phân giới giữa hải hiệp Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) và Vịnh Bắc Kỳ (Du Quỳnh Châu hải hiệp nhi Tây vi Đông Kinh loan chí Khâm huyện chi Minh Giang Khẩu dữ An Nam phân giới . (3)

    Cũng trong Từ Nguyên, nhưng là Từ Nguyên Cải Biên Bản in năm 1951 và tái bản năm 1984, Nam Hải đã được định nghĩa với mấy chi tiết mới như sau: Nam Hải : tên biển, xưa lại có tên là Chướng Hải; người ngoại quốc gọi là Nam Trung Quốc Hải, vị trí ở phía Nam Phúc Kiến và Quảng Đông, phía Tây Đài Loan và Phi Luật Tân, phía đông bán đảo Trung Nam [tức Việt Nam] và bán đảo Malaysia, phía Bắc Ba-La-Châu (Bornéo) và đảo Tô-Môn-Đáp-Lạp [Sumatra]. Có điều là thời xưa, biển nước ta [tức Trung Quốc] mệnh danh là Nam Hải, có thời đã bao quát cả Ấn Độ Dương nữa; vậy chẳng nên giới hạn diện tích Nam Hải ở phạm vi như chép ở trên .(4)
    Trong định nghĩa vừa trích dẫn, có mấy điều đáng chú ý như sau :

    - Nam Hải xưa lại có tên là Chướng Hải. Danh xưng Chướng Hải dùng để chỉ biển ở cách huyện Hải Phong 50 dặm về phía Nam, mà huyện Hải Phong thuộc tỉnh Quảng Đông. Vậy vị trí của Nam Hải là ở về phía Nam hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông như cũng đã thấy ghi như vậy ở các tài liệu trên.
    - Có một điểm mới mẻ so với [các bộ từ điển] Từ Hải và Từ Nguyên Hợp Đính Bản là [từ điển] Từ Nguyên Cải Biên Bản đã ghi sự kiện ngoại nhân mệnh danh Nam Hải là Nam Trung Quốc Hải.
    - Không rõ căn-cứ vào sử-liệu nào, Từ-Nguyên Cải Biên Bản đã ghi thêm có thời Nam-Hải đã bao quát cả Ấn Độ Dương.
  3. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
     
    Vì vậy, nhận xét chung về ba tài liệu trích dẫn bên trên, ta có thể ghi nhận mấy sự kiện sau: Cả ba tài liệu đều đặt vị trí Nam Hải ở phía Nam hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông. Tài liệu thứ nhất [từ-điển] Từ-Hải [in năm 1948] ám chỉ Nam Hải trải dài đến tận bán đảo Malaysia và chủ trương Trung Quốc cũng có quyền ở Nam Hải như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật.
    - Tài liệu thứ hai, Từ Nguyên [in năm 1949] chỉ ghi phân giới giữa hải hiệp Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) và Vịnh Bắc bộ của Việt Nam lúc đó thuộc Pháp.
    - Tài liệu cuối, tức Từ Nguyên Cải Biên Bản [in năm 1951 và 1984] đã lợi dụng danh xưng Mer de Chine [Méridionale] của Pháp và danh xưng South China Sea của Anh, Mỹ để ám chỉ Nam Hải có một diện tích kéo dài về phương Nam xa đến tận Ấn Độ Dương, có thời quá cả Ấn Độ Dương ! Khi Từ Nguyên Cải Biên Bản ghi ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc Hải (người ngoại quốc xưng Nam Trung Quốc Hải hay Biển Nam Trung Hoa), chắc chắn là các soạn giả đã lợi dụng các danh xưng Pháp Mer de Chine (Méridionale) và danh xưng Mỹ, Anh South China Sea. Cả ba danh xưng này có một điểm chung là thiếu minh xác khiến có thể hiểu là biển của Trung Quốc ở về phía Nam.

    Sự thật là cả ba danh xưng đó chỉ có thể nghĩa là biển của Hoa Nam, của Nam phần Trung Quốc, như cuốn Tối tân thực dụng Hán Anh Từ điển đã ghi bằng Anh ngữ là the Southern Sea stretching from the Taiwan Straits to Kwangtung. Nói cho thật đúng, Nam Hải ở chữ Hán xưa, cũng có nghĩa là những nơi xa ở phương Nam, nhưng nghĩa này không hề có liên hệ gì với danh xưng Nam Hải (nghĩa số 2 ở trên) của biển Trung Hoa mang tên đó.

    Theo ý kiến chúng tôi, giới hạn Nam Hải của Trung Quốc xưa, chỉ đến ngang đảo Hải Nam là cùng như chính danh xưng đảo Hải Nam chỉ rõ như vậy.
    Một bằng chứng có giá trị khác nữa là định nghĩa sau đây của danh xưng Nam Hải trong cuốn Tối tân Thực dụng Hán Anh Từ điển, do toàn là học giả Trung Hoa biên soạn, ấn hành ở Hong Kong năm 1971, như sau : ?oNam Hải : (1) name of a county in Kwangtung Province. (2) the Southern Sea, stretching from the Taiwan Straits to Kwangtung. (3) in old China, a term of faraway places in the South?.(5)

    Ngoài cuốn từ điển của Liang Shi Chiu còn bộ từ điển vĩ đại Hán Hòa của T. Morohashi nhan đề Dai Kan Wa Jiten -- Đại Hán Hòa Từ Điển -- Showa [niên hiệu Chiêu Hòa] năm 32 tức năm 1957, gồm 12 cuốn và một cuốn sách dẫn; cũng thấy ghi ở cuốn II, trang 566, cột 2 : Nam Hải là Minami Shina Kai [hay : Nam Chi Na Hải, the South China Sea] và cuốn Longman Dictionary of English Language and Culture (London 1992, tr. 209, cột 2) thấy ghi chép như sau : Nam Hải : Minami Shina Kai (Nam Chi Na Hải - The South China Sea. China Sea : a part of the Pacific Ocean, off the Coast of China.

    NHẬN XÉT

    Biển Đông hay Đông Hải là một bán nội hải (semi enclosed sea) nằm về phía Đông của Việt Nam.
    Biển Đông được nhân dân Việt Nam gọi theo thói quen như một danh từ riêng.
    Cũng có người cho rằng gọi là Nam Hải với ý nghĩ "biển của người (Việt) Nam. Còn tên gọi biển Nam Trung Hoa gợi ý cho những nhà hàng hải hiểu rằng vị trí nước Trung Quốc nằm ở phiá Bắc của "Biển Đông" này.
    Các nhà hàng hải Tây phương muốn cho tiện nên gọi nó là biển Nam Hoa (South China Sea-ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc hải).
    Theo quy định của Ủy ban quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn nhất gần nhất hoặc mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên có tên gọi theo cách thứ nhất.(6)

    Tuy nhiên, những biển có tên lục địa nguyên không có nghĩa thuộc quyền sở hữu của quốc gia nó mang tên, như một số người ngộ nhận, mà mọi chủ quyền về biển Đông đều tuân theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (Xem bản đồ 6) , song trên các bản đồ quốc tế đều phải ghi đúng như tên gọi quy định.
  4. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7


    Về vấn đề theo quy định của Ủy ban quốc tế về biển, chúng ta thấy có mấy nội dung cần phải trao đổi :
    Một là: biển rìa ở khu vực Đông Nam Á là biển Đông chưa bao giờ được người Trung Quốc phát hiện ra .
    Mà ngược lại, nước Việt Nam chúng ta là một quốc gia ven bờ biển Đông, nên ngay từ xa xưa ông cha ta đã biết sử dụng biển để phục vụ cho cuộc sống sinh cơ lập nghiệp và bảo vệ tổ quốc, đồng thời giao lưu kinh tế văn hóa với nước ngoài. Nghề biển là một nghề truyền thống của dân tộc ta đã đi vào truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tục xâm mình mỗi khi xuống biển và thủy chiến là sở trường của Việt Nam từ xưa đến nay.

    Biển Đông cũng đã đi vào ca dao tục ngữ và còn truyền miệng cho đến ngày nay. Trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng của nền văn hóa biển vẫn còn đó. Trống đồng Đông Sơn cũng đã có mặt ở hầu hết các nước trong khu vực.
    Nói như Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo ?oTát cạn nước biển Đông cũng không rửa sạch tanh hôi? và trong cuốn ?oDư địa chí? của Nguyễn Trãi soạn năm 1435, vua Lê Thái Tông đã chép: ?oHải, Đông Hải dã? có nghĩa là ?oBiển tức biển Đông vậy?.
    Do đó chúng ta phải đấu tranh làm cho thế giới và khu vực thấy rõ việc đòi chủ quyền toàn bộ biển Đông của Trung Quốc là vô lý.

    Hai là: biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn nhất, gần nhất.
    Với nội dung này, trong tình hình hiện nay dễ gây ra ngộ nhận vì tên quốc tế của biển Đông là South China Sea làm cho mọi người lầm tưởng khu vực biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc vì vào năm 1983 Trung Quốc cho vẽ lại bản đồ lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mở rộng khu vực, bao gồm bờ biển Philippines, Tây giáp bờ biển Malaysia mà họ gọi đó là ?omiền Đông hải? của Trung Quốc. Chúng ta phải làm cho dư luận quốc tế thấy rõ biển Nam Trung Hoa theo quy định quốc tế là không đồng nghĩa với cái gọi là ?omiền Đông Hải? của Trung Quốc.

    Ba là: quy định của Ủy ban quốc tế về biển của Liên Hiệp Quốc như trên không có nghĩa là các biển rìa không thể không có tên khác.
    Đối với biển Đông, có tên là biển Trung Hoa hoặc biển Nam Trung Hoa là do hiểu biết chưa đầy đủ về lịch sử vùng biển này của các nhà hàng hải phương Tây lúc họ đi qua và gọi tên, dẫn đến sau này người ta quen sử dụng chứ không hề có ý nghĩa là vùng biển của Trung Quốc.
    Đối với một số biển rìa khác, người ta cũng không nhất định phải đặt theo địa danh lục địa lớn nhất, gần nhất như trường hợp biển Nhật Bản theo cách gọi của người Nhật hay biển Đông hoặc biển Korea theo cách gọi của Hàn Quốc mà quốc tế đã bước đầu công nhận.

    Ở đây chúng ta phải nhắc lại trường hợp của Philippines, bờ biển phía Tây của quần đảo này không lấy tên là South China Sea mà được Philippines đặt tên là biển Luzón (Luzón Sea) vì Philippines phản đối việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông.
    Quan điểm và lập trường của Philippines trong trường hợp này cho đến nay đã được quốc tế thừa nhận.

    Bốn là: đấu tranh để đổi lại tên gọi ?obiển Nam Trung Hoa? là một vấn đề cần thiết vì tương lai đấu tranh cho chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chứ không chỉ là đổi tên cho phù hợp với vị trí địa lý hay cách gọi của người Việt Nam.
    Một thực tế mà chúng ta thấy rõ là nếu chúng ta quan niệm theo quy định quốc tế về tên gọi biển mà chúng ta yên tâm rằng tên gọi ?obiển Nam Trung Hoa? không hề ảnh hưởng đến chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như hiện nay thì thật là tai hại và mơ hồ về âm mưu và thủ đoạn lâu dài của Trung Quốc về cái gọi là ?omiền Đông Hải?.

    Tại sao trong nước ta gọi là biển Đông, còn các văn bản quốc tế và bản đồ tiếng nước ngoài thì gọi là biển Nam Trung Hoa. Chúng ta có thể giải thích rằng đó là tên quốc tế đã quen gọi và đã được thống nhất cách gọi trên các bản đồ quốc tế, chúng ta không thể sửa được. Vậy thì tại sao người Hàn Quốc họ làm được?
    Do đó vấn đề đặt ra là một mặt chúng ta phải tuyên truyền để cộng đồng quốc tế hiểu rằng biển Nam Trung Hoa là tên gọi chứ không phải là thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Mặt khác, trong những điều kiện có thể làm được chúng ta nên tiến hành đấu tranh về mặt luật pháp quốc tế ngay từ bây giờ để có thể đổi tên biển Nam Trung Hoa thành một tên gọi khác hợp lý hơn trong các quan hệ quốc tế.

    Từ việc khảo sát và nghiên cứu vấn đề sử dụng thuật ngữ biển Đông và biển Nam Trung Hoa, chúng tôi thấy rằng căn cứ vào các yếu tố lịch sử, chính trị, văn hóa và quan hệ quốc tế của Việt Nam và của các nước Đông Nam Á hiện nay, tên gọi biển Đông (tên gọi của Việt Nam) và tên gọi biển Nam Trung Hoa (South China Sea ?" tên gọi quốc tế) có thể được thay đổi theo ba phương án sau đây:

    1. Thống nhất tên gọi quốc tế của biển Đông là biển Việt nam (Vietnam Sea) trên các văn bản, văn kiện và bản đồ quốc tế hiện nay bởi lý do sau đây: căn cứ vào Luật Biển quốc tế năm 1892, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt nam chiếm gần 1.000.000km2/ 3.500.000km2 của biển Đông.
    2. Thay đổi tên gọi quốc tế của biển Đông hiện nay là South China Sea thành tên gọi chính thức biển Đông Nam Á (Southeast Asia Sea)
    3. Thống nhất tên gọi quốc tế của biển Đông là biển Đông (East Sea).
    Phương án thứ nhất giống như trường hợp hiện nay của Hàn quốc đang đấu tranh kêu gọi các tổ chức quốc tế thay thuật ngữ ?obiển Nhật Bản? thành ?obiển Đông? hoặc ?obiển Korea? thuộc chủ quyền của Hàn quốc. Sau năm năm đấu tranh, hiện nay Hàn quốc đã thu được những kết quả đáng kể, ví dụ như: website của Tổng thống Pháp Jacque Chirac đã thay thuật ngữ ?obiển Nhật Bản? (mer du Japon) thành thuật ngữ ?obiển Đông? (mer d?TOrient). Nhà xuất bản sách giáo khoa BJU Press nổi tiếng và Tạp chí Địa lý quốc gia của Hoa Kỳ cũng đã thống nhất gọi biển Nhật Bản thành biển Đông hoặc Korea Sea.

    Phương án thứ ba nếu gọi là biển Đông (East Sea) thì sẽ ngộ nhận với tên gọi ?obiển Đông Trung Hoa? thuộc Trung Quốc hoặc biển Đông của Hàn Quốc.
    Phương án thứ hai là phù hợp đối với nguyện vọng và quyền lợi của tất cả các nước Đông Nam Á khi mà tất cả các nước Đông Nam Á trở thành thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và để tiếp tục đấu tranh với Trung Quốc trong cái gọi là ?omiền Đông Hải? của Trung Quốc.
    Trong ba phương án trên, chúng tôi thấy rằng phương án thứ hai là khả thi và có khả năng thuyết phục các nước Asean thống nhất với phương án này.
  5. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7



    KIẾN NGHỊ

    a. Chính phủ nên chỉ đạo tất cả các Ban ?" Ngành khi in ấn và phát hành tài liệu liên quan đến số liệu về vấn đề biên giới, lãnh thổ, lãnh hải, ? thì phải thống nhất và chính xác.(7)
    b. Chúng tôi kiến nghị đến Bộ Chính Trị nên chỉ đạo Bộ Ngoại Giao và Vụ ASEAN của Bộ Ngoại giao Việt Nam đấu tranh và thuyết phục với các nước thành viên ASEAN về việc thống nhất tên gọi biển Đông thay cho tên gọi biển Nam Trung Hoa. Có thể trước mắt là gọi trong khối ASEAN

    c. Chúng tôi kiến nghị Bộ Chính Trị chỉ đạo Bộ Ngoại Giao hoặc Bộ Văn Hóa Thông Tin có thể đứng ra thành lập một tổ chức phi chính phủ được mang tên ?oTrung tâm tình nguyện Việt Nam? để hoạt động nhằm mục đích tăng cường hơn nữa hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, thuyết phục các tổ chức trên thế giới mà quan trọng trước tiên là Hội Thủy văn học quốc tế và tổ chức Tiêu chuẩn hóa các tên gọi khu vực địa lý của Liên Hiệp Quốc thảo luận và tiến đến thay đổi tên gọi cho biển Đông.

    d. Tổ chức ?oTrung tâm tình nguyện Việt Nam? nên tổ chức một website để quảng bá hình ảnh Việt nam ra thế giới và đính chính những thông tin sai lệch về Việt Nam. Cũng thông qua trang Web này, nên có những giải thưởng khuyến khích cho những cá nhân hoặc tập thể nào có thành tích trong việc quảng bá những hình ảnh của Việt nam ra nước ngoài cũng như góp phần đính chính những thông tin sai lệch về Việt Nam.
    Chú thích:
    (1) Le Royaume du Tonkin - Ce Royaume est situé entre La Chine, l?TOcéan Oriental, la Cochinchine et le Pegu. Langlet Du Freynoy (l?TAbbé Nicolas, 1674-1755). Méthode pour étudier la Géographie; tr. 115, T. IV, 1736.
    (2) Từ Hải Hợp Đính Bản, bản in lại năm 37 Trung Hoa Dân Quốc tức năm 1948, Tập Tý, trang 218.
    (3) Từ Nguyên, bản in năm 38 Trung Hoa Dân Quốc, tức năm 1949, Tý Tập, trang 234
    (4) Từ Nguyên Cải Biên Bản, Hong Kong, 1984, Tập Tý, trang 94.
    (5) A New Practical Chinese English Dictionary - E***or in Chief: Liang Shi Chiu; E***ors: Chu Liang Chen, David Shao, Jeffreg C. Tung, Chung Lu Shen - The Far East Bo ok Co LDT, Hong Kong, 1971, tr. 121, cột 2.
    (6) xem website Đảng C ộng sản Việt Nam, phần Biển đảo Việt Nam.
    (7)Trong Lịch sử Việt Nam tập I của HĐKHXH TP.HCM ?" Viện KHXH TP.HCM do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001, các tác giả đã cho ra một số liệu thiếu chính xác về chiều dài đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia; số liệu chính thức phải là: 1.137km; nhưng trong sách thì chỉ có 930km.
    Hình 1 : Bản đồ Trung quốc ghi chú Biển Đông là Nam Hải (nguồn Bản đồ do Phòng nghiên cứu khoa học bản đồ biên soạn và NXB bản đồ Trung Quốc xuất bản và phát hành tháng 05/2004)
    hình 2 : sơ đồ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh  hải ven bờ lục địa việt nam
    hình 3 : Sơ đồ mặt cắt khái quát các đường biển Việt Nam (Nguồn: Sách Địa lý Lớp 8, NXB GD, 2004)
    [​IMG]
    ĐINH KIM PHÚC 13.7.2006
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Phủ nhận hoàn toàn quan điểm của nhà nước Trung Quốcvề vấn đề hai quần đảo Hoàng sa-Trường sa của Việt Nam
    Biển Đông đang tích tụ ?osóng ngầm?. Các quốc gia tranh chấp chủ quyền với Việt Nam trên biển Đông đột nhiên gia tăng các hoạt động khẳng định chủ quyền. Ngày 5/3/2009, thủ tướng Malaysia thăm đảo Đá Kiệu Ngựa (Swallow Reef) và Đá Hoa Lau (Ardasier Reef). Ngày 10/3/2009, Tổng thống Philippines ký đạo luật về đường cơ sở. Sự kiện căng thẳng Mỹ-Trung trên biển Đông ngày 8/3/2009 và Trung Quốc cử tàu hộ tống đến khu vực tranh chấp đã làm cho tình hình khu vực thêm kịch tính.


    Ngày 16/3/2009, trả lời Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc, ông Trương Học Cương, chuyên gia vê? vấn đê? Đông Nam Á cu?a Viện Nghiên cứu Quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc cho biết, việc Chính phu? Trung Quốc cư? ta?u Ngư Chính 311 thi ha?nh hộ tống ta?u đánh cá va? ta?u thuyê?n qua lại trên vu?ng Biê?n Nam Trung Hoa la? một bước đi quan trọng trong việc tăng cươ?ng kiê?m soát vê? chu? quyê?n đối với vu?ng Biê?n Nam Trung Hoa trong ti?nh hi?nh diêfn biến phức tạp trên vu?ng biê?n na?y. Ông nói: ?oViệc Trung Quốc cư? ta?u Ngư Chính 311 tới vu?ng Biê?n Nam Trung Hoa thi ha?nh tuâ?n tiêfu đaf thê? hiện chu? quyê?n cu?a Trung Quốc đối với vu?ng biê?n na?y, la? một biện pháp va? bước đi quan trọng trong việc tăng cươ?ng sự qua?n lý va? kiê?m soát thực tế đối với vu?ng biê?n va? các đa?o liên quan trên Biê?n Nam Trung Hoa. Việc Trung Quốc tăng cươ?ng công tác vê? mặt na?y cufng phu? hợp với luật pháp quốc tế, la? quyê?n lợi không thê? tranh cafi cu?a Trung Quốc trong ti?nh hi?nh Biê?n Nam Trung Hoa hiện nay?.
    Tơ? Hoa?n Câ?u Thơ?i báo tại Trung Quốc trong số mới nhất 18/3/2009 vư?a có ba?i cu?a tác gia? Đới Hy (la? đại tá không quân va? la? một nha? bi?nh luận có tiếng vê? các vấn đê? chiến lược. Tơ? Hoa?n câ?u Thơ?i báo la? ấn ba?n bô? sung cu?a cơ quan ngôn luận cu?a đa?ng C ộng sa?n Trung Quốc - Nhân dân Nhật báo, ra môfi tuâ?n hai lâ?n bă?ng tiếng Trung) kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trươ?ng Sa.


    Ba?i bi?nh luận có tựa đê? ?oQuân đội cu?a chúng ta câ?n thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Sa đê? ba?o vệ việc phát triê?n nguô?n ta?i nguyên Nam Ha?i? bắt đâ?u bă?ng nhận định ră?ng nguyên tắc nê?n ta?ng cu?a Trung Quốc trong xư? lý các tranh chấp lafnh thô? la? ?~Gạt bất đô?ng đê? cu?ng phát triê?n?T.

    ?oTuy nhiên, với ti?nh hi?nh hiện tại Nam Ha?i, chúng ta đaf luôn luôn ?~gạt bất đô?ng?T nhưng chưa đu? nôf lực trong tham gia ?~cu?ng phát triê?n?T.

    Không giống Philippines hay một số nước khác ti?m phương cách luật pháp đê? xung đột với Trung Quốc, nhiê?u quốc gia lại du?ng các biện pháp kín đê? lặng lef rút dâ?n ta?i nguyên tư? quâ?n đa?o Nam Sa.

    Chúng ta chi? có thê? đạt được một sự công nhận (chu? quyê?n) rof ra?ng nếu thúc đâ?y phát triê?n va? khai thác nguô?n ta?i nguyên ơ? Nam Ha?i?.
    Tiếp tục, ngày 19/3/2009 báo China Daily đã trích lời của ông Wu Zhuang (Võ Trang),Cục trươ?ng Cục Ngư nghiệp va? Qua?n lý Ca?ng cá Nam Ha?i , thông báo về việc Trung Quốc đang xem xét khả năng phái các chiến tàu bổ sung nhằm tuần tiểu ?ocác vùng kinh tế đặc biệt của mình? ở vùng biển Nam Trung Hoa.Theo Wu Zhuang, Trung Quốc đang đụng chạm với ?onhững hách thức và phức tạp? mới trong khi giám sát tại các vùng kinh tế đặc quyền của mình tại vùng biển Nam Trung Hoa.Và ?oSự cần thiết tăng cường hoạt động tuần tra tại những vùng nước này để bảo vệ những quyền và lợi ích của Trung Quốc đã chín muồi để đối phó với những trường hợp tiến hành việc đánh bắt hải sản bất hợp pháp và những tham vọng về lãnh thổ vô căn cứ đối với các đảo?.
    Trước đó, trên trang web của Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc (CRIonline) ngày 17/3/2009 với bài: ?oCội nguô?n cu?a vấn đê? Biê?n Nam va? lập trươ?ng nguyên tắc cu?a Trung Quốc? đã viết: ?oTrên vấn đê? Biê?n Nam, Trung Quốc xưa nay đê?u có chu? quyê?n không thê? tranh cafi, đô?ng thơ?i chu? trương gia?i quyết sự tranh chấp quốc tế qua đa?m phán ho?a bi?nh.

    Trung Quốc la? nước phát hiện va? đặt tên sớm nhất cho quâ?n đa?o Nam Sa [quần đảo Trường Sa], đô?ng thơ?i cufng la? nước thực thi chu? quyê?n sớm nhất va? bê?n vưfng nhất đối với quâ?n đa?o Nam Sa. Việc na?y đaf được chứng minh bă?ng lịch sư? va? căn cứ pháp lý đâ?y đu?, nhận được sự công nhận lâu da?i cu?a cộng đô?ng quốc tế. Trong chiến tranh thế giới lâ?n thứ hai, Nhật Ba?n đaf phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng phâ?n lớn khu vực cu?a Trung Quốc, trong đó kê? ca? quâ?n đa?o Nam Sa. ?oTuyên bố Cai-rô? va? ?oThông cáo Potsdam? cu?ng các văn kiện quốc tế khác đaf quy định rof việc trao tra? lại lafnh thô? cho Trung Quốc tư?ng bị Nhật cướp đoạt năm xưa, dif nhiên trong đó kê? ca? quâ?n đa?o Nam Sa. Tháng 12 năm 1956, Chính phu? Trung Quốc lúc bấy giơ? đaf chi? định quan chức cấp cao tiếp qua?n quâ?n đa?o Nam Sa, đô?ng thơ?i đaf tô? chức lêf ba?n giao trên đa?o, cắm mốc ky? niệm va? cư? quân đội đến đóng tại quâ?n đa?o Nam Sa. Năm 1952, Chính phu? Nhật Ba?n chính thức ba?y to? ?otư? bo? tất ca? mọi quyê?n lợi, danh nghifa va? yêu sách vê? quyê?n lợi đối với Đa?i Loan, các ho?n đa?o Ba?nh Hô? va? quâ?n đa?o Nam Sa?, tư? đó quâ?n đa?o Nam Sa đaf chính thức trơ? vê? với  Trung Quốc.
    Trong quafng thơ?i gian khá da?i sau chiến tranh, hoa?n toa?n không tô?n tại cái gọi la? vấn đê? Biê?n Nam. Vê? các khu vực xung quanh Biê?n Nam cufng chưa có bất cứ một nước na?o đưa ra ý kiến bất đô?ng đối với việc Trung Quốc thực thi chu? quyê?n đối với quâ?n đa?o Nam Sa va? các vu?ng biê?n xung quanh quâ?n đa?o na?y. Trước năm 1975, Việt Nam đaf rof ra?ng công nhận Trung Quốc có chu? quyê?n lafnh thô? đối với quâ?n đa?o Nam Sa. Trước thập niên 70 thế ky? 20, các nước Phi-li-pin, Ma-lai-xi-a v.v không có bất cứ văn ba?n pháp luật va? ba?i phát biê?u cu?a nha? lafnh đạo na?o nói đến phạm vi lafnh thô? nước họ bao gô?m quâ?n đa?o Nam Sa. Nghị quyết cu?a Chính phu? nhiê?u nước va? cộng đô?ng quốc tế cufng công nhận quâ?n đa?o Nam Sa la? lafnh thô? cu?a Trung Quốc. Thí dụ như, Hội nghị ha?ng không khu vực Thái Bi?nh Dương thuộc tô? chức ha?ng không dân dụng quốc tế triệu tập tại Ma-ni-la va?o năm 1955 đaf thông qua nghị quyết số 24, yêu câ?u nha? đương cục Đa?i Loan Trung Quốc tăng cươ?ng việc quan trắc khí tượng trên quâ?n đa?o Nam Sa, tại hội nghị không có bất cứ một đại biê?u na?o đưa ra ý kiến bất đô?ng hoặc ý kiến ba?o lưu vê? việc na?y. Ba?n đô? do nhiê?u nước xuất ba?n cufng ghi rof quâ?n đa?o Nam Sa thuộc vê? Trung Quốc. Trong đó có ?oTập ba?n đô? mới Thế giới? do Bộ trươ?ng Ngoại giao Nhật Ba?n Ohira Masayoshi đê? nghị xuất ba?n va?o năm 1962, ba?n đô? thế giới do Việt Nam lâ?n lượt xuất ba?n va?o năm 1960 va? năm 1972 v.v. Tư? thế ky? 20 đến nay, bách khoa toa?n thư có thâ?m quyê?n cu?a rất nhiê?u nước như ?oBách khoa toa?n thư Liên Xô? xuất ba?n năm 1973 va? ?oNiên giám Thế giới? do Hafng Kyoto Nhật xuất ba?n năm 1979 đê?u thư?a nhận quâ?n đa?o Nam Sa la? lafnh thô? cu?a Trung Quốc??
  7. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Sự thật lịch sử như thế nào?
    Năm 1945 Nhật Bản bị các nước Ðồng minh đánh bại trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương phải đầu hàng. Một trong những việc nước này phải làm khi đầu hàng là từ bỏ các đất đai ở ngoại quốc mà Nhật Bản đã chiếm được trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ quân phiệt, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Lần đầu tiên Trung Quốc chính thức lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo này là khi trong một cuộc họp báo ở Manila ngày 17.5.1949 Tổng thống Philippines Quirino đã tuyên bố là vì quần đảo Trường Sa ở kế cận quần đảo Philippines nên nó phải thuộc về Philippines. Hai ngày sau, ngày 19 tháng 5, Bắc Kinh đã có phản ứng. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố như sau:

    ?oLời tuyên truyền vô lý của Chính phủ Philippines đối với lãnh thổ của Trung Quốc rõ ràng là sản phẩm chỉ thị của Chính phủ Hoa kỳ. Bọn khiêu khích Philippines và những kẻ Hoa Kỳ ủng hộ chúng phải bỏ ngay mưu đồ mạo hiểm đó đi, nếu không thì hành động này có thể đưa tới những hậu quả nghiêm trọng. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không bao giờ để cho bất cứ một ngoại bang nào xâm lược quần đảo Nam Sa hay bất cứ đất đai nào khác thuộc về Trung Quốc?.( 1)
    Tuy nhiên Trung Quốc chỉ nói chứ không đưa ra được một bằng chứng nào, dù là lịch sử hay pháp lý, cho thấy Trường Sa thuộc quyền Trung Quốc làm chủ.
    Đầu tháng 9 năm 1951, theo lời mời của Chính phủ Hoa kỳ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị Hòa bình nhóm họp ở thành phố San Francisco (Hoa kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt tình trạng chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật Bản. Ðiểm đáng chú ý là cả Trung Quốc và Đài Loan đều không được mời tham dự hội nghị. Trong hội nghị, vấn đề chính là thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Hoa Kỳ đề nghị ngày 12.7.1951. Ngày 8.9.1951, ngoại trừ Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc, các nước tham dự hội nghị đã ký hòa ước với Nhật Bản.(2)
    Vì thấy mình bị Hoa Kỳ gạt ra ngoài hội nghị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay từ cuối năm 1950 đã có phản ứng. Một mặt họ ra một số tuyên bố chính thức, mặt khác họ cho đăng các bài báo để lên án việc không mời Trung Quốc tham dự hội nghị và để trình bày quan điểm của Trung Quốc về một số vấn đề cần phải được thảo luận, trong đó có vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngày 4.12.1950 Chu Ân Lai, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao, trong bản tuyên bố đầu tiên của nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đã nêu ra căn bản chính để ký một hòa ước với Nhật Bản:

    ?oBản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng đã được các quốc gia trong Ủy hội Viễn đông thỏa thuận và thông qua ngày 19.6.1947 các văn kiện quốc tế mà Chính phủ Hoa Kỳ đã ký kết là căn bản chính cho một hòa ước liên hợp với Nhật Bản?. (3)
    Chu Ân Lai còn nói thêm:

    ?oNhân dân Trung Quốc rất ước muốn sớm có một hòa ước liên hợp với Nhật Bản cùng với các quốc gia đồng minh khác trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên căn bản của hòa ước phải hoàn toàn thích hợp với bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng được qui định trong các văn kiện này?. (4)
    Tuy bản tuyên bố trên của Trung Quốc không đề cập đến vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ đề cập tới các vấn đề khác, nhưng vì nó đã nêu ra quan điểm chính yếu của Trung Quốc nên chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ nó cùng với bản tuyên bố ngày 15.8.1951 là tuyên bố chính thức của Trung Quốc về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để tìm hiểu giá trị các luận cứ của Trung Quốc.
    Thực vậy, khi nghiên cứu dự thảo hòa ước San Francisco của Anh- Mỹ gửi cho các quốc gia được mời tham dự hội nghị, Chính phủ Trung Quốc thấy điều 2 của bản dự thảo này không qui định là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Nhật Bản từ bỏ phải được trao cho quốc gia nào. Vì thế ngày 15.8.1951, sau khi đề cập tới quan điểm của Trung Quốc về từng vấn đề một được nêu trong bản dự thảo.(5) Châu Ân Lai đã tuyên bố:

    ?o... Dự thảo Hiệp ước qui định là Nhật Bản sẽ từ bỏ mọi quyền đối với đảo Nam Uy (đảo Spratly-Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (quần đảo Paracel-Hoàng Sa), nhưng lại cố ý không đề cập tới vấn đề tái lập chủ quyền trên hai quần đảo này. Thực ra, cũng như các quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa và đảo Nam uy lúc nào cũng là lãnh thổ của Trung Quốc. Dù các đảo này đã có lúc bị Nhật Bản chiếm đóng trong một thời gian trong trận chiến tranh xâm lăng do đế quốc Nhật Bản gây ra, sau khi Nhật Bản đầu hàng Chính phủ Trung Hoa đã thu hồi những đảo này.
    "Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do đó tuyên bố: dù Dự thảo Hiệp ước Anh-Mỹ có chứa đựng các điều khoản về vấn đề này hay không và dù các điều khoản này có được soạn thảo như thế nào, chủ quyền bất khả xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa sẽ không vì thế mà bị ảnh hưởng?. (6)
    Chu Ân Lai sau đó kết luận vấn đề này bằng cách phủ nhận giá trị bất cứ một thỏa ước nào ký với Nhật Bản mà không có sự tham dự của Trung Quốc:

    ?oChính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một lần nữa tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị, soạn thảo và ký hòa ước với Nhật Bản dù nội dung và kết quả một hiệp ước như vậy có như thế nào, Chính phủ Nhân dân Trung ương cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp, và vì vậy sẽ vô hiệu?. (7)
    Tuy rằng lời kết luận này nhằm toàn thể hòa ước với Nhật Bản, nó cũng bao trùm luôn cả vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  8. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Trong bản tuyên bố này chúng ta nhận thấy có những điểm đáng chú ý như sau:
    Thứ nhất, tuy tuyên bố là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa lúc nào cũng là lãnh thổ của Trung Quốc, Chu Ân Lai lại không nêu ra một chi tiết nào để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này.
    Sự không dẫn chứng của Chu Ân Lai đối với vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải chăng vì Trung Quốc biết không có một căn cứ nào vững vàng, về pháp lý cũng như về lịch sử, để chứng minh chủ quyền này nên Trung Quốc phải bỏ không viện dẫn chứng cớ.
    Thứ hai, bản tuyên bố này, cũng như các bản tuyên bố khác sau này của Trung Quốc, và cả của Ðài Loan, đã đề cập tới việc Chính phủ Trung Hoa thu hồi Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945.
    Chúng ta biết rằng năm 1938, trước khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, nói là để khai thác thương mại nhưng thực ra chính là để lập căn cứ chiến lược làm bàn đạp tấn công vùng Ðông Nam Á. Theo R. Serene thì ?oNăm 1938 Nhật Bản mượn cớ khai thác thương mại đã chiếm đảo Phú Lâm để bành trướng sự kiểm soát tới các đảo Cam Tuyền và Linh Côn??.(8) Rồi đến ngày 31.3.1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra một thông cáo loan tin là ngày hôm trước (30.3.1939).
    Nhật Bản đã quyết định đặt quần đảo Trường Sa duới quyền kiểm soát của Nhật Bản vì lý do tại đây đã thiếu một chính quyền hành chính địa phương nên đã làm thiệt hại đến quyền lợi của Nhật Bản.( 9) Trong suốt thời gian của Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã đóng quân trên hai quần đảo này cho tới khi đầu hàng quân đội Ðồng minh.
    Vào cuối năm 1943, trong lúc chiến tranh đang ở mức độ ác liệt nhất thì các nhà lãnh đạo cấp cao của Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc đã bí mật gặp nhau tại Cairo, thủ đô nước Ai Cập, từ 23 đến 27 tháng 11 năm 1943(10) để thảo luận các chiến lược tiêu diệt phe Trục (Ðức- Ý- Nhật). Ngày 26-11-1943, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã ký một bản tuyên cáo chung (thường được gọi là Tuyên cáo Cairo) trong đó có một đoạn như sau:

    ?oÐối tượng của các nước này (tức là của ba nước Ðồng minh) là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các đảo ở Thái Bình dương mà nước này đã cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ Nhật Bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn châu, Ðài Loan và Bành Hồ, phải được hoàn trả Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ phải bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác đã chiếm được bằng võ lực và lòng tham?. (11)
    Ðọc đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy Tuyên cáo Cairo có hai qui định quan trọng. Thứ nhất, chỉ có các đất Mãn châu, Ðài Loan và Bành Hồ được hoàn trả cho Trung Quốc thôi. Thứ hai, còn các lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm được thì bản tuyên cáo này chỉ qui định việc trục xuất Nhật Bản, chứ không hề nói tới việc hoàn trả chúng cho Trung Quốc. Chỉ có điều đáng tiếc, và đó cũng là nguyên nhân gây ra những vụ tranh chấp về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau này, là Tuyên cáo Cairo đã không nói các lãnh thổ khác ấy phải được hoàn trả cho nước nào.
    Quyết định của Tam cường tại Hội nghị Cairo được tái xác nhận trong một hội nghị thượng đỉnh Tam cường khác nhóm tại Potsdam từ 17.7 đến 2.8.1945 để ấn định các điều kiện cho Nhật Bản đầu hàng. Tổng thống Hoa Kỳ, Thủ tướng Anh(12) và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đã ra một tuyên ngôn (thường gọi là Tuyên ngôn Potsdam) ngày 26.7.1945 trong đó có ghi là ?oCác điều khoản của bản Tuyên cáo Cairo sẽ được thi hành?. (13)
    Tại hội nghị Potsdam này các nhà lãnh đạo Tam cường đã quyết định chia Ðông Dương làm hai khu vực để cho tiện việc giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây. Vĩ tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới: việc giải giới ở khu vực Bắc vĩ tuyến ủy thác cho quân đội Trung Hoa (quân Tưởng Giới Thạch) và ở khu vực phía Nam do liên quân Anh-Ấn đảm nhận.(14) Vì quần đảo Hoàng Sa nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên việc giải giới quân đội Nhật trú đóng ở đây thuộc thẩm quyền của quân Tưởng. Trái lại, việc giải giới ở quần đảo Trường Sa phải do liên quân Anh-Ấn đảm nhận do lẽ quần đảo này nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 8 và 12.
    Nhật Bản khi đầu hàng đã chịu điều kiện qui định trong bản Tuyên cáo Cairo và ghi nhận trong Văn kiện đầu hàng ngày 2.9.1945.(15) Ðồng thời, khi ra lệnh cho quân đội Nhật Bản ở nước ngoài đầu hàng và nộp vũ khí cho quân đội Ðồng minh, Nhật hoàng Hirohito đã ban hành Tổng Mệnh lệnh số 1, trong đó điều I khoản (a) qui định là:

    ?oCác tư lệnh Nhật Bản và tất cả lục, hải quân cùng các lực lượng phụ thuộc ở trên đất Trung Hoa (ngoại trừ Mãn châu), Ðài Loan và Ðông Pháp ở 16 độ bắc vĩ tuyến đầu hàng Ðại Nguyên soái Tưởng Giới Thạch?. (16)
    Bản Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam hoàn toàn không đề cập tới vấn đề hoàn trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Nhật Bản đã xâm lược vào đầu Chiến tranh thế giới thứ 2. Sự thiếu sót này có phải là do các nhà lãnh đạo đồng minh sơ ý hay quên không? Lẽ dĩ nhiên là không. Trái lại, chúng ta phải giải thích là các nhà lãnh đạo Tam cường đã không quan niệm hai quần đảo này là phần lãnh thổ của Trung Quốc. Ðiểm đặc biệt đáng chú ý hơn nữa là chính Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, Ðại Nguyên soái Tưởng Giới Thạch, đã tham dự cả hai hội nghị và đã ký vào cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam, chứ không phải một người đại diện nào khác để nói là có thể đã không thi hành đúng chỉ thị của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực sự thuộc chủ quyền của Trung Quốc thì không có lý gì họ Tưởng chỉ đòi hoàn trả có Mãn châu, Ðài Loan và Bành Hồ thôi mà lại không đòi luôn Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, trong bản văn của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam chúng ta cũng không thấy từ ?ovân vân?để có thể nói là vấn đề đã được bao hàm trong hai văn kiện này.
    Mười hai năm sau khi tham dự Hội nghị Cairo và ký bản Tuyên cáo, ngày 8.2.1955 Tưởng Giới Thạch vẫn còn nhắc lại là:

    ?oTrong thông cáo công bố vào lúc bế mạc hội nghị, chúng tôi đã tuyên bố là tất cả các lãnh thổ do Nhật Bản ?~cướp?T của Trung Hoa, kể cả Ðông Tam Tỉnh, Ðài Loan và Bành Hồ phải được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Lời tuyên bố này đã được bản Tuyên ngôn Potsdam công nhận và Nhật Bản chấp nhận khi nước này đầu hàng?. (17)
    Một lần nữa, ông hoàn toàn không nói gì đến việc phải hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Vào lúc ông nói lời trên ông không phải là không biết có sự tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo này mà cả chính phủ của ông lẫn chính phủ của Mao Trạch Đông đang đòi.
    Như chúng ta được biết, cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép Trung Hoa Dân Quốc giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Hoàng Sa thôi, chứ không hề cho phép Trung Hoa Dân Quốc thu hồi quần đảo này cùng là giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Trường Sa hay thu hồi quần đảo đó. Vì thế việc chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa Dân Quốc là bất hợp pháp và vi phạm trầm trọng luật quốc tế vì đi trái với quyết định của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam.
    Vì các lý do vừa kể trên, chúng ta phải nhìn nhận rằng lời tuyên bố ngày 15.8.1951 của Chu Ân Lai đã mâu thuẫn với lời tuyên bố ngày 4.12.1950 cũng của họ Chu. Một bên Trung Quốc đòi các quốc gia phải tuân theo hai văn kiện quốc tế này và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng, trong đó việc chia đôi Ðông Dương để giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây cũng là một chính sách căn bản, một bên lại cho việc tiếp thu hai quần đảo không hề được qui định trong hai văn kiện quốc tế là một hành vi hợp pháp.
    Thực vậy, điều 2 của Hòa ước San Francisco sau khi đã nói về việc Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với tất cả các lãnh thổ nào không phải là lãnh thổ chính của Nhật Bản mà nước này đã chiếm được từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất cho đến khi chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ 2 đã qui định thêm trong đoạn (f) như sau:

    ?oNhật Bản khước từ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi trên quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa?.
    Các qui định trong điều 2 như vậy đã theo đúng với quyết định của Hội nghị Cairo năm 1943 được diễn tả trong bản Tuyên cáo Cairo mà Trung Quốc vẫn luôn đòi phải được coi là căn bản chính cho một hòa ước ký với Nhật Bản đã nói ở bên trên. Nói cách khác, chính Trung Quốc đã coi quyết định của các đại cường là hợp lý, hợp tình và hợp pháp.
    Về quan điểm của Trung Quốc đối với vấn đề giá trị của hai văn kiện quốc tế quan trọng này, chúng ta đã thấy (a) khi cuộc tranh luận tại Liên Hiệp Quốc về địa vị của đảo Ðài Loan đang tiến hành, ngày 24.8.1950 Trung Quốc đã gửi một bức công điện cho tổ chức quốc tế này trong đó có đề cập tới Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam mà các quốc gia ký kết phải tôn trọng và tuân hành(18) (b) hoặc như qua lời tuyên bố ngày 4.12.1950 của Chu Ân Lai nói trên, (c) cũng như trong lời tuyên bố ngày 15.8.1951 của Chu Ân Lai như sau:

    ?oDù xét về thủ tục mà hòa ước được chuẩn bị hay về nội dung, ta thấy Dự thảo Hòa ước Anh-Mỹ trắng trợn vi phạm các thỏa ước quốc tế quan trọng, mà Anh-Mỹ đều là phe kết ước, như là ... bản Tuyên cáo Cairo, ... bản Tuyên ngôn Potsdam ...
    Vi phạm sự thỏa thuận theo bản Tuyên cáo Cairo và bản Tuyên ngôn Potsdam, Dự thảo Hòa ước chỉ qui định là Nhật Bản sẽ khước từ các quyền đối với Ðài Loan và Bành Hồ?. (19)
    Hòa ước San Francisco là một văn kiện quốc tế nhằm thi hành những quyết định của Hội nghị Cairo 1943, nó cũng phải có hiệu lực như bản Tuyên cáo Cairo.
  9. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Hơn một tháng sau khi lên tiếng ngày 15.8.1951 về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói trên, khi bình luận về việc ký Hòa ước San Francisco, trong một thông cáo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 18.9.1951, Chu Ân Lai không hề nói gì về vấn đề hai quần đảo này cả mà chỉ lập lại lập trường cũ, phủ nhận giá trị và hiệu lực của hòa ước vì đã được ký kết mà không có sự tham dự của Trung Quốc.(20)
    Sự im lặng này càng khó hiểu hơn nữa khi chắc chắn là Trung Quốc phải biết rằng Hội nghị San Francisco đã bác bỏ đề nghị của phái đoàn Liên Xô đòi trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc và về phản ứng của phái đoàn Quốc gia Việt Nam.(21)
    Thực vậy, ngày 5.9.1951, trong phiên họp khoáng đại hội nghị thứ 2 của hội nghị San Francisco, đại biểu Liên Xô Andrei A. Gromyko sau khi chỉ trích tính cách bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản dự thảo hòa ước của Anh-Mỹ để ký với Nhật Bản đã đưa ra một đề nghị 7 điểm gọi là để hướng dẫn việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Ðiểm 6 đề nghị trao trả hai quần đảo này cho Trung Quốc. Nhưng hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với với 48 phiếu chống.
    Hai ngày sau, 7.9.1951 Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, đã lên tiếng tái xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao như sau :

    ?oEt comme il faut franchement profiter de toutes occasion pour étouffer les germes de discorde, nous afirmons nos droits sur les iles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet-Nam?.(22) (tạm dịch là: ?oCần nói thật rằng phải lợi dụng tất cả mọi trường hợp để chặn đứng những mầm xung đột, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ Việt Nam?)
    Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco long trọng ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn, không có một phái đoàn nào phản đối.
    Sự im lặng lại càng trở nên khó hiểu hơn nữa khi trong bản tuyên bố ngày 5.5.1952(23) về hòa ước mà Trung Hoa Dân Quốc đã ký với Nhật Bản ngày 28.4.1952, Chu Ân Lai không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dù hai quần đảo này đã được đề cập tới trong điều 2 của hòa ước như sau:

    ?oÐiều 2. Hai bên nhìn nhận là theo điều 2 Hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8 tháng chín năm 1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã khước từ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan đến Ðài Loan (*******) và Bành Hồ (the Pescadores), cũng như quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa?. (24)
    Theo điều khoản này, Nhật Bản chỉ nhắc lại việc khước từ chứ không nói rõ là Nhật Bản hoàn trả hai quần đào này cho Trung Hoa Dân Quốc. Chính vì vậy trên trang mạng Japan Focus ngày 21/03/2009 đăng nghiên cứu của Kimie Hara cho rằng các vụ tranh chấp trên Thái Bình Dương từ Đông Bắc xuống Đông Nam Á, gồm cả vùng Trường Sa, là di sản của Hiệp ước San Francisco năm 1951.Bài viết nói các cường quốc sau Thế Chiến 2 đã không ghi rõ chi tiết chủ quyền nhiều đảo và quần đảo qua việc đặt tuyến phân ranh giới Acheson Line. Sau đó, tác động của việc hoạch định lằn ranh bao vây nước Trung Hoa cộng sản và Bắc Triều Tiên lại tạo thêm sự phức tạp cho vấn đề.Tác giả cho rằng nay, để giải quyết các vấn đề, mọi bên đều cần có sự nhượng bộ và giải pháp đa phương, gồm cả Nhật Bản, nước thua trận trong Thế Chiến 2.
    KẾT LUẬN:
    Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, mới đây nhất, ngày 17-3-2009, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc đưa tàu ngư chính 311 ra hoạt động tại Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng nói:

    ?oLập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rất rõ ràng. Mọi hoạt động khai thác hải sản và tài nguyên biển ở Biển Đông cần được thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển của các nước liên quan theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982. Việt Nam quan tâm và sẽ theo dõi sát hoạt động của tàu ngư chính 311 ở Biển Đông?. 
    Tất cả các vấn đề trên là quá rõ ràng, những luận cứ và luận chứng mà Chính phủ Trung Quốc đưa ra trong vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam chỉ có thể lừa được một số người chứ không thể phủ nhận được các văn kiện của Bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và sự thật lịch sử. Chính phủ Trung Quốc hãy chấm dứt ngay mọi hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.
    CHÚ THÍCH:
    (1) Ðề cập tới trong bài "Notes on the Nanwei and Sisha Islands," đăng trong People?Ts China, Bắc Kinh, tập IV, số 5, phụ trương ngày 1.9.1951, tr. 7.
    (2) Toàn văn bản Hòa ước San Francisco đăng trong: (a) United Nations Treaty Series, tập 136, tr. 46 và tiếp theo, và (b) American Foreign Policy, 1950 1955: Basic Documents do bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xuất bản năm 1957, ấn bản số 5446, tr. 425 439.
    (3) ?oChou En lai?Ts Statement on the Peace Treaty with Japan? đăng trong People?Ts China, tập II, số 12, phụ trương ngày 16.12.1950, tr. 17
    (4) Chou En lai?Ts Statement, tr. 19.
    (5) Bản Anh ngữ nhan đề ?oForeign Minsiter Chou En lai?Ts Statement on the U.S. British Draft Peace Treaty with Japan? đăng trong (a) People?Ts China, tập IV, số 5, phụ trương ngày 1.9.1951, tr. 36 ; hay (b) bản tin Tân Hoa xã số 777, Bắc Kinh ngày 16.8.1951, tr. 75 78.)
    (6) Foreign Minister, tr. 4.
    (7) Foreign Minister, tr. 6.
    (8) R. Serene, "Petite Histoire des Paracels," đăng trong Sud Est Asiatique, Bruxelles, số 19, th. 1/1951, tr. 38.
    (9) Xem: (a) B.B., ?oLes Iles Spratlys? đăng trong L?TAsie Francaise, Paris, tập 39, số 269, th. 4/1939, tr. 123; (b) Charles Rousseau, ?oChine, France, Japon, Philippines et Vietnam Différend Concernant l?TAppartenance des Iles Spratlys et Paracels? đăng trong Revue Generalle De Drroit International Public, Paris, năm thứ 76, tập 76, số 3, th. 7 9/1972, tr. 828.
    (10) Chi tiết về hội nghị này và hội nghị Tehran được in trong tập The Foreign Relations Of The United States Diplomatic Papers: The Conferences at Cairo and Tehran, 1943, (viết tắt: FRUS Cairo Tehran), Government Printing Office, Washington, D.C., 1961.
    (11) Frus Cairo Tehran, tr. 448 449.
    (12) Mới đầu là Winston Churchill, sau là Clement Attlee khi Đảng Bảo thủ Anh thất cử.
    (13) Documents on American Foreign Relations, do Raymond Dennett và Robert K. Turner biên tập và Prince University Press xuất bản năm 1948, tập VIII: 1.7.1945 31.12.1946.
    (14) Jean R. Sainteny, Histoire D?TUne Paix Manquée: Indochine 1945 1947, Amiot Dumont, Paris, 1953, tr. 50.
    (15) Xem United States Statutes at Large, trong Executive Agreement Series, số 493, tập 59, phần II, Government Printing Office, Washington, D.C., 1945, tr. 1734 1735.
    (16) Herbert Feis thuật lại trong sách Japan Subdued: The AtomicBomb and The end of the war in the Pacific, Princeton University Press, Princeton, New Jersey, 1961, tr. 139.
     (17) Xem bài ?oReview of International Situation? đăng trong President Chiang Kai Shek?Ts selected speeches and messages in 1955, do China Publishing Co. Xuất bản tại Ðài Bắc năm 1956, tr. 22. Ðông Tam tỉnh nói ở đây là danh xưng người Trung Hoa vẫn dùng để gọi Mãn châu.

    (18) Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Đối ngoại quan hệ văn kiện tập, Bắc Kinh, tập I, tr. 134.
    (19) Đối ngoại, tập II, tr. 30 và 36.
    (20) Nhân dân nhật báo, Bắc Kinh, ng. 8.2.1955, tr. 4.
    (21) Toàn bản văn nhan đề ?oForeign Minister Chou En lai?Ts Statement on San Francisco Peace Treaty? đăng trong People?Ts China, tập IV, số 7, ngày 1.10.1951, tr. 39.
    (22) Từ 2.6.1948 đến 26.10.1955 phần đất do Chính quyền Sài Gòn quản lý.
    (23) Tài liệu của Ban Biên giới chính phủ.
    (24) Toàn bản văn đăng trong People?Ts China, tập V, số 10, ng. 16.5.1952, tr. 4.
    (25) Toàn bản văn hòa ước giữa Trung Hoa Dân quốc và Nhật Bản đăng trong Treaties and Agreement, sđd, tr. 454 456.
    ĐINH KIM PHÚC

Chia sẻ trang này