1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thư Bác Hồ gửi ngoại trưỏng Mỹ Robert Lansing tháng 11 năm 1918

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi yuyu, 10/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. PeterI

    PeterI Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/12/2003
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Cậu lại bảnh.
    Cậu làm sao mà trả lời được ? Bởi vì cậu đang tự lừa dối mình, cậu làm con đà điểu trốn tránh hiện thực !
    [/QUOTE]
    Còn thiếu bác ạ. Phải thêm vào mấy câu "rất hay" của bác mà bác vẫn nhai đi nhai lại khi có người khác ý kiến với bác ở bên VNE:
    cậu là đồ tha hoá trí tuệ, cậu đang nguỵ biện, cậu chả khác gì tên gian thần Hoàng Hạo với câu: "Thiên hạ đang thái bình, bệ hạ đừng lo".
    Thú thật là em cũng chẳng biết bây giờ ở nước ta có tự do ngôn luận hay không, nhưng em tin chắc là nếu những người như bác cầm quyền thì sẽ chẳng có cái quyền đó đâu vì hễ trái ý bác là bị chửi bới tơi bời. Bác mà làm thủ tướng, nếu có công dân nào mà chỉ trích chính phủ chắc cũng sẽ bị gọi là đà điểu, là tha hoá trí tuệ, là gian thần, là nguỵ biện. À mà chắc không chỉ có thế, vì bây giờ bác không có quyền nên những người bất đồng chính kiến với bác chỉ bị ăn chửi, chứ khi bác có quyền thì vào nhà đá như chơi.
  2. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Có bạn nào đã nói đúng,bạn yuyu chỉ đưa ra những lập luận để lái tranh cãi theo huớng của bạn ấy.Có thể bạn ấy tưởng rằng những người khác,những "hậu sinh",không biết gì về chế độ thuộc địa và bộ mặt thật của chế độ Mĩ Ngụy lúc trước (cũng được thành lập và lãnh đạo bởi những tên tay sai thực dân lão luyện ) ,nên bạn mới đánh lấp lửng,ca ngợi thời thuộc địa còn "tự do" bình đẳng hơn bây giờ.Hoặc ccũng có thể bạn chẳng biết gì cả về XH VN trước năm 75 hay 45 nên bạn mới nói càn như vậy.Tôi sẽ post một đoạn về định nghĩa thuộc địa cho bạn đọc,để bạn xem những quyền "tự do" mẫu quốc ban cho có làm được tích sự lớn lao gì không?
    Tôi biết bạn định lái vấn đề đến chỗ dân chủ,nhưng dân chủ không phải là liều thuốc vạn năng để giải quyết vấn đề kinh tế và những đòi hỏi của dân tộc.
    I. NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA HỆ THỐNG THUỘC ÐỊA.
    G. Balandier (*) đã xác định tình trạng thuộc địa với những lời lẽ như sau : "Sự thống trị được áp đặt bởi một thiểu số - gồm người ngoại quốc khác biệt hẳn từ nền tảng đến văn hóa - nhân danh tính ưu đẳng xã hội (hay chủng tộc) và văn hóa được xác định bởi những quan niệm (hay chủ thuyết), trên đại đa số người dân bản xứ kém thua về vật chất". Sự thống trị này thiết lập mối quan hệ giữa những nền văn minh dị loại : "một nền văn minh máy móc, kinh tế mạnh, với nhịp sinh hoạt nhanh và có nguồn gốc ky tô giáo được áp đặt trên những nền văn minh không có kỹ thuật tiến bộ, kinh tế lạc hậu, phát triển với nhịp độ chậm và từ căn bản không ky tô giáo". Tính chất đối chọi nhau giữa 2 xã hội trên giải thích việc phải sử dụng đến, không chỉ sức mạnh, mà cả một tổng hợp những khái thuyết biện giải ngụy tạo (pseudo-justifications), kèm với việc áp đặt một hệ thống giá trị và cách cư xử của thiểu số cầm quyền, nhằm kìm giữ uy quyền thống trị. Ðiều này đã ngăn chận sự phát triển của những xã hội bị đô hộ.
    Từ định nghĩa trên, có thể vẽ lại một cách chi tiết mô hình chung của những xã hội thuộc địa, với những yếu tố được cung cấp bởi những tác giả khác, như : Raymond Kennedy, Immanuel Wallerstein, O. Mamoni, Everett Hayen, Albert Memmi và Jacques Berque. Mô hình chung này gồm 6 nét chính hiện hữu trong hầu hết những xã hội thuộc địa : 1/ Sự khai thác kinh tế của người ngoại quốc; 2/ Sự lệ thuộc chính trị; 3/ Những ngăn cách xã hội và chủng tộc; 4/ Sự chia nhỏ xã hội để cai trị; 5/ Hệ thống những biện giải ngụy tạo; 6/ Thái độ tâm lý khác nhau của người đô hộ và bị đô hộ. Chúng ta sẽ giải thích từng đặc tính này và phân tích nhanh những hệ quả của nó trên sự phát triển của xã hội thuộc địa.
    1/ Sự Khai Thác Kinh Tế của Người Ngoại Quốc.
    Quyền lợi kinh tế đã là tác động chính của việc tiến chiếm thuộc địa. Ðối với người đô hộ, thuộc địa là nơi họ khai thác những tài nguyên ích dụng, có khi cần thiết cho mẫu quốc, để làm giàu riêng hay để nắm giữ uy quyền chính trị. Nên người đô hộ có thể, tùy theo nhu cầu và tài nguyên có sẵn trong thuộc địa, khai thác hoặc đất đai để có vài sản phẩm (đường, cà phê, chuối ...) hoặc những hầm mõ, giếng dầu, rừng, biển ... Và vì nhu cầu sinh hoạt của những cơ sở kinh doanh, người đô hộ phải tuyển dụng tại chỗ một phần công nhân cần thiết, huấn luyện họ và trả lương cho họ.
    Nhưng, bằng những kỹ thuật mới được mang đến, bằng cách đưa vào và phát triển việc sử dụng tiền tệ và tín dụng, và với việc du nhập những giá trị hay kiểu sống mới, người đô hộ rõ ràng là những người canh tân, hay tác nhân làm thay đổi xã hội : họ làm xáo trộn một trật tự đã được thiết lập, hay một sự tiến hóa đang có tại chỗ; khêu khích sự xuất hiện những nhu cầu và những ước vọng mới chưa được biết đến; phát triển một số tiện nghi cần thiết cho việc làm ăn của họ (đường sắt, đường bộ, viễn thông, điện thoại...); họ cũng du nhập vào những nhân sự có khả năng chuyên môn (hành chánh, kỹ thuật) để nắm giữ những mặt dịch vụ khác trong guồng máy quản trị sản xuất và quản trị xã hội.
    Nói cách khác, việc chiếm thuộc địa đã kích thích sự xuất hiện trong những xã hội cổ truyền những động đậy đầu tiên cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Nhưng những động đậy đầu tiên này lại bị chính kiểu khai thác kinh tế thuộc địa chủ nghĩa kìm hãm. Dù vậy nó cũng dần dần tự biến thành một sức mạnh thực sự của sự phát triển tự sinh, vì 4 lý do sau đây :
    - Trước nhất, đó là sự phát triển luôn luôn bị giới hạn trong một số khu vực kinh tế, hay trên sự khai thác một vài tài nguyên nhất định, chứ không bao giờ là sự phát triển toàn diện. Trong hầu hết mọi trường hợp, người đô hộ, một mặt để tránh sự cạnh tranh có thể xảy ra, đã kìm chế sự phát triển của nền kinh tế tự túc tự cấp ở mức độ đủ để thỏa mãn những nhu cầu cần thiết tối thiểu của người bản xứ, song song với việc phát triển những khu vực đặc quyền đặc lợi của họ. Kế đến, những sản phẩm được lấy ra từ thuộc địa thường không được sử dụng tại chỗ, được chuyên chở về mẫu quốc, đã cấm cản những thuộc địa sử dụng một yếu tố quan trọng cho sự phát triển. Ba là, tiền lương trả cho công nhân bản xứ luôn luôn vô cùng thấp so với mức lương phải trả cho công nhân cùng loại tại mẫu quốc. Việc này đã kìm giữ mức sống, ước vọng và khả năng tích lũy tư bản của người bị đô hộ. Và cuối cùng, người bản xứ chỉ có quyền hy vọng những chức vụ phụ thuộc, dưới sự lãnh đạo của những kỹ thuật viên và quản trị viên đến từ mẫu quốc, và ngay cả sự di chuyển của họ cũng bị giới hạn nặng nề.
    2/ Lệ Thuộc Chính Trị.
    Ðặc điểm chính yếu thứ hai của tình trạng thuộc địa là sự lệ thuộc chính trị. Có nghĩa là mọi quyết định chính trị quan trọng quan hệ đến thuộc địa đều được ban hành bởi chính quốc, trong khi những cơ quan quyền lực được tổ chức tại những thuộc địa chỉ có trách nhiệm thi hành và phổ biến những tin tức cần thiết. Cũng có những thuộc địa được phép tổ chức một chính phủ địa phương (gồm các Hội Ðồng, Quốc Hội ...) nhưng những cơ quan này cũng chỉ được quyền quyết định rất giới hạn, và phải lệ thuộc vào ý muốn của mẫu quốc.
    Tình trạng lệ thuộc chính trị này phản ánh đầy đủ tình trạng thuộc địa : người đô hộ luôn ngăn cản sự tham dự của người bản xứ vào sinh hoạt chính trị, để giữ họ trong tình trạng hoàn toàn lệ thuộc vào những quyết định và vào sự quản trị của những chức quyền tại chính quốc. Vì điểm này nên nhiều tác giả đã đồng hóa tình trạng thuộc địa với sự lệ thuộc.
    Trong mọi thuộc địa, những người địa phương tìm cách làm chính trị đều bị xem là những phần tử nguy hiểm hăm dọa tính lệ thuộc này, đều bị dán cho những nhãn hiệu là ''quấy rối chính trị'' và bị bắt bớ lưu đầy. Phần đông những người lãnh đạo của những quốc gia mới được công nhận, từ Gandhi đến N'' krumah ... đều đã trải qua những ngày, hoặc dài hoặc ngắn, trong những nhà tù của những kẻ đô hộ. Tai Congo, dưới thời người Bỉ đô hộ, không một hiệp hội tư nào, và dưới bất cứ hình thức nào, được hiện hữu nếu không có phép của nhà cầm quyền đô hộ.
    Tuy cũng có những trường hợp, sự độc lập tương đối về chính trị được công nhận cho một vùng đất nào đó, kèm với sự khai thác kinh tế của toàn bộ vốn đầu tư ngoại quốc. Nhưng, với sự khác biệt này, tình trạng của vùng đất đó vẫn nang tính thuộc địa.
  3. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    3/ Những Hàng Rào Ngăn Cách Xã Hội và Chủng Tộc.
    Chính quyền đô hộ thiết lập tại các thuộc địa một đoàn ngũ nhân viên, gồm : công chức, quản trị viên, cảnh binh, quân đội ...; rồi những đại diện thương mại, những con buôn, những kiều dân cũng đến đó lập nghiệp. Quan hệ giữa những người ngoại quốc này và người dân bản xứ cũng bị giới hạn theo nhu cầu của công việc và của cuộc sống. Người bản xứ vẫn sống giữa họ với nhau, ngăn cách với xã hội của người ngoại quốc mới đến.
    Thêm vào đó, yếu tố mầu da, da trắng của phần đông những người mới đến, đã tao ra cái gọi là ''làn ranh mầu da'' (color line). Làn ranh này được ghi rõ trong cách thiết kế đô thị, với những khu vực dành riêng cho người ngoại quốc cách biệt hẳn với phần còn lại, mà chỉ những người bản xứ có nhiệm vụ phục dịch mới được ra vào. Kèm với những qui định thưởng phạt, hoặc kín đáo hoặc công khai, đối với sự vi phạm làn ranh này, cho thấy mục tiêu của người đô hộ trong việc cố giữ sự chia cách này để kiểm soát xã hội.
    4/ Chia Nhỏ Xã Hội Ðể Cai Trị.
    Sự tách biệt giữa người đô hộ và bị đô hộ chỉ là một biện pháp trong nhiều chia cắt khác của chính sách chia nát xã hội thuộc địa để cai trị. Trong nội bộ của người dân địa phương cũng thấy có những sự phân biệt khác : giữa người bản xứ với người lai không da đỏ, như ở Nam Mỹ; giữa người gốc Ấn và gốc Phi châu như ở Nam Phi ...; giữa những chủng tộc, những bộ lạc, giai cấp ... Và đôi khi giữa những tập họp xã hội khác nhau do có sự thù hận rất lâu xa nhưng nay được khích động đào sâu thêm. Những khác biệt xã hội này cũng có thể xuất phát từ việc phân chia thứ hạng đã có sẵn trong trật tự xã hội cũ, nay được chế độ thuộc địa khai thác, làm cho thành gay gắt hơn và thêm vào đó những cách biệt mới.
    Tại Phi châu, mức độ tiến hóa - hay mức độ tây phương hóa - cũng là một tiêu chuẩn quan trọng được dùng để phân biệt và xếp hạng giữa những người Phi châu với nhau. Tại Congo thuộc Bỉ, những hội tư chỉ mở cửa cho những người ?~Phi châu Tiến bộ?T (Noirs évolués), như : Hội Những Người Tiến Bộ của Thành Phố Stanley (Association des Evolués de Stanley-ville), Hội Phụ Nữ Tiến Bộ của Babua (Association des Evoluées-Femmes de Babua). Tương tự như vậy, hoạt động của những nhà truyền giáo cũng tạo ra sự đối nghịch giữa những người ''cải đạo'' và những người được gọi là ''ngoại đạo tà giáo''. Và sự khác biệt giữa nhiều Giáo Hội Ky-tô thuộc các cường quốc khác nhau, hay của những Dòng Truyền Giáo khác nhau, cũng được du nhập vào những vùng đất thuộc địa, làm cho tình trạng chia rẽ xã hội càng trầm trọng thêm.
    Sự chia cắt xã hội này đưa đến việc tạo thành những nhóm rất nhỏ, phân biệt nhau một cách cứng ngắt và hiềm khích lẫn nhau, làm trở ngại rất lớn cho việc thực hiện những hoạt động tập thể của người bản xứ cần thiết cho sự phát triển. Sống trong xã hội này, người dân bản xứ dễ bị rơi vào tình trạng mất tự tin nơi chính mình : tự cảm thấy bất lực trong việc tự lãnh đạo lấy mình, không thể không bị rơi vào tình trạng hổn loạn vô chính phủ; góp phần vào việc xác định vai trò lãnh đạo của người đô hộ; rồi đưa đến những cuộc chiến tranh tương tàn nồi da xáo thịt, hoặc độc tài ...
    5/ Hệ Thống của Những Biện Giải.
    Người đô hộ cũng xây dựng một hệ thống những biện giải, cần thiết cho những mục tiêu thực tiễn của họ, và được tập thành trong một ''chủ thuyết thuộc địa''. Ðó là toàn bộ những luận chứng, qua đó người đô hộ giải thích vị trí của họ tại những thuộc địa, giải thích thế đứng và tư cách của kẻ bề trên đối với người bản xứ.
    Chủ thuyết loại này phần lớn được dựng lên trên đức tin, đã thành ấn tượng hay thành kiến, vào tính ưu đẳng có tính di truyền của người da trắng, cho rằng những chủng tộc da mầu thiếu phẩm chất trí thức (trí thông minh) và thiếu luân lý cần thiết để có được những máy móc thiết bị và để khai thác những tài nguyên trong đất nước họ; họ không biết tự lãnh đạo để tránh khỏi phải rơi vào tình trạng vô chính phủ hay độc tài; cho rằng chế độ thuộc địa đã cải thiện điều kiện sống của người bản xứ, đã cạo rửa họ và mang đến cho họ nhiều ích dụng xã hội. Rồi từ đó, những cơ sở kinh doanh thuộc địa, theo một số tiêu chuẩn nào đó, được khoác một bộ mặt nhân đạo. Ðó cũng được gọi là ''nghĩa vụ khai hóa'' (mission civilisatrice) của người đô hộ.
    Từ đó, chủ thuyết này còn biện minh rằng : người đô hộ cũng không cần tăng lương cho công nhân bản xứ, vì người bản xứ chỉ biết phung phí chứ không biết quản lý tiền bạc. Cũng như không cần phải cho người bản xứ một trình độ giáo dục cao vì họ không đủ thông minh cần thiết để hấp thụ và sử dụng. Nói chung, người bản xứ không đòi hỏi gì hơn ngoài những gì họ hiện có, nên cũng không cần phải khêu gợi những ước vọng của họ vì chẳng những không có ích lợi gì cả mà còn có thể đẩy họ đến thái độ bất mãn và thất vọng.
    Ngay trong trường hợp giữa những người cùng chủng tộc, có khi cùng quốc tịch, nhưng ở vào 2 vị trí khác nhau : người đô hộ và bị đô hộ, cũng thấy có loại thành kiến tương tự. Thí dụ như : một số khá lớn người Anh của thế kỷ 18 cho rằng những người Anh đã di dân đến những thuộc địa ở Bắc Mỹ là gồm những người thô bạo, vô học ..., và nói thứ tiếng Anh bậy bạ.
    Và khi chỉ là một thiểu số nhỏ (đúng trong mọi trường hợp), người đô hộ, trước nhất, áp đặt uy quyền và qui luật của họ trên một thiểu số người bản xứ chịu qui phục và cần sự bao bọc của họ, rồi dựa trên thiểu số người bản xứ này mà thiết lập uy quyền trên đại khối quần chúng bị họ đô hộ. Chủ thuyết thuộc địa cho phép người đô hộ ngăn trở mọi hình thái phát triển tự sinh tự quản của những quốc gia thuộc địa, mà theo cách lập luận của họ là ?okhông thể thực hiện được?.
    6/ Những Thái Ðộ Tâm Lý.
    Từ những đặc điểm nêu trên đưa đến sự phát triển một tổng hợp tâm lý trong mối quan hệ giữa người đô hộ và người bị đô hộ. Người đô hộ nhìn và cư xử với người bị đô hộ theo hình ảnh được tạo sẵn, như với người chưa trưởng thành, chỉ đủ khả năng chịu trách nhiệm một phần về chính mình, trong tinh thần luôn luôn có một phần tối tăm và sống trong sự lo lắng thường trực. Cách đối xử của họ đối với người bị đô hộ là sự trộn lẫn giữa thái độ phụ chuyên, nghi ngại và sợ sệt. Họ cho rằng người bị đô hộ cần phải được canh chừng, kiểm soát và cấm phạt. Rồi, vì phần đông không biết nói ngôn ngữ của người bản xứ, người đô hộ ẩn núp sau những bức tường được dựng lên một cách giả tạo nhằm giới hạn sự cộng thông hay giữ khoảng cách xã hội, chỉ giao tiếp với những người bản xứ trung thành với họ, và chỉ giao phó cho những người này một phần trách nhiệm kèm với những điều cấm phạt ít nhiều khắc khe.
    Về phía người bị đô hộ, với những hình ảnh được người đô hộ ghi ấn vào đầu, họ công nhận sự thua kém đối với người đô hộ mà họ kính nể và ao ước được giống. Nhưng thế giới của người đô hộ vẫn luôn luôn khác biệt và khó hiểu đối với họ vì, trước nhất, đó là thế giới ngoại nhập, và vì chủ định của người đô hộ muốn che đậy một phần lớn để kìm giữ khoảng cách. Nên khi người bị đô hộ tiếp thu được cách sống ''tiến bộ'' của người đô hộ, thì những người sau này đã tiến tới một kiểu sống khác, và người bị đô hộ ''tân tiến nhất'' vẫn luôn luôn là người đi sau.
    Luôn luôn đánh giá cao người đô hộ, và tiêu chuẩn sống của những người này luôn luôn là điểm cao không bao giờ vói tới được, người bị đô hộ phải thừa nhận tính ưu đẳng của người đô hộ. Người bị đô hộ, không bao giờ tự tìm thấy giá trị của chính mình để tự xác định mình, mà chỉ có thể tự nhận biết được mình qua sự so sánh kém thua -- cái kém thua mà họ luôn luôn muốn bắt kip nhưng không bao giờ đạt được ấy. Nên khi phải phủ nhận hình ảnh của người đô hộ, họ sẽ bị rơi vào tình trạng hụt hẫng, mất phương hướng (một cách giống như Freud đã viết trong "Meurtre du Père"). Chính sự kinh nể thái quá đối với người đô hộ ấy, cộng với những thất vọng, những hụt hẫng, cuối cùng đưa đến sự hiềm khích, rồi thù hận.
    Trạng thái hổn loạn tâm lý ấy, nơi người bị đô hộ như vừa nêu trên, được gọi là ''cắt đoạn đoạn nhân cách'' (fragmentation de personnalité) - hay sự ''phá nhân cách'' (dépersonnalité). Ðưa đến hiện tượng một số người, hay những nhóm người, sống bên lề xã hội vì, một mặt không tự hội nhập lại được với tập thể đồng bào của họ, và mặt khác cũng không tự nhận diện được là mình khác biệt với người khác, để trở thành chính mình.
  4. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    II. QUAN HỆ LỆ THUỘC TRONG HỆ THỐNG THUỘC ÐIA.
    Sáu đặc điểm chính yếu vừa nêu giúp vẽ lại mô hình của hệ thống tổ chức thuộc địa. Như vừa thấy trên, hệ thống được hợp thành bởi 2 ''tiểu hệ thống'' khác biệt nhau, là : ''tiểu hệ thống đô hộ?T và ''tiểu hệ thống bị đô hộ?T. Nhưng giữa 2 tiểu hệ thống ấy phải có một số điểm tiếp cận, dù rất giới hạn. Việc nghiên cứu những điểm tiếp cận này, mà qua đó tiểu hệ thống đô hộ tìm cách rành buộc tiểu hệ thống kia trong ảnh hưởng của mình, sẽ giúp thấy được cách sinh hoạt nội bộ của xã hội thuộc địa.
    Ở đây, chúng ta xét đến 4 điểm tiếp cận chính được nhìn thấy trong hầu hết các xã hội thuộc địa, đó là : Uy quyền chính trị, học đường, nơi làm việc và các Giáo đường. Hãy xét tuần tự 4 điểm tiếp cận này.
    1/ Uy Quyền Chính Trị.
    Uy quyền chính trị của xã hội cổ truyền, với những người lãnh đạo và với cách tổ chức quyền hành cũ, thường vẫn tồn tại trong xã hội thuộc địa nhưng được xác định lại và được xoay hướng khác : không còn là uy quyền tự trị, nhưng là một loại uy quyền thừa nhiệm, đóng vai trò trung gian giữa người dân bản xứ và uy quyền đô hộ.
    Uy quyền chính trị cổ truyền được giao phó, bởi uy quyền đô hộ, 2 nhiệm vụ chính. Trước nhất, dưới danh nghĩa là người cầm quyền cấp dưới được uy quyền đô hộ sử dụng để giúp phổ biến và thi hành những mệnh lệnh, như : tuyển dụng nhân viên, tổ chức các cơ quan hành chánh và dịch vụ công cộng, và thu thập tin tức tình báo. Hai là, uy quyền chính trị cổ truyền được tin dùng ở chức năng cảnh sát, với một số quyền hạn được ban phát, nhằm bảo đảm an bình và trật tự xã hội.
    Qua 2 nhiệm vụ trên, uy quyền địa phương trở thành nhân viên quảng bá và kiểm soát của uy quyền đô hộ. Chính uy quyền cổ truyền dạy cho dân tôn trọng phát luật mới, chấp nhận những khuôn mẫu xã hội mới, với những giá trị mới. Thí dụ như : một số hoạt động hay hành động được chấp nhận, hay được thông qua trước kia trong xã hội cổ truyền, nay bị cấm đoán và chính những người lãnh đạo bản xứ đóng vai trò quảng bá những điều luật mới mẽ đó, để hướng dẫn sự thay đổi thái độ và thay đổi cách cư xử phải có.
    Ngoài ra, việc uy quyền đô hộ sử dụng những người lãnh đạo của xã hội cổ truyền còn được xem là biểu tượng hội nhập của chế độ thuộc địa. Sự hiện diện của những người lãnh đạo cũ trong cấu trúc quyền lực mới cho thấy, ít nhất trong mắt người dân bản xứ, rằng xã hội cổ truyền không bị hủy hoại, để qua đó tiến hành những thay đổi mà uy quyền cổ truyền phải chấp nhận.
    2/ Trường Học.
    Trong xã hội thuộc địa, giáo dục có thể được tổ chức và trông coi hoặc bởi chính quyền thuộc địa, hoặc bởi những đoàn truyền giáo, hoặc bởi những tổ chức từ thiện. Nhưng nhìn chung, giáo dục chỉ chú trọng vào một vài lãnh vực chuyên môn rất giới hạn và chỉ mở cửa cho một số rất nhỏ người bản xứ, nhất là từ cấp trung học trở lên. Hệ thống giáo dục này không nhằm đào tạo nên những người lãnh đạo bản xứ, nhưng nhằm đặc biệt đào tạo những ''phần tử ưu tú tiến bộ'' (élite évolué) để lập thành đội ngũ những cán bộ hành chánh và kỹ thuật cần thiết phải có trong chính phủ, xí nghiệp và các cơ quan dịch vụ công cộng.
    Những người bản xứ, xuất thân từ xã hội cổ truyền, nhưng được đào tạo theo chương trình giáo dục và giáo khoa của xã hội đô hộ, sẽ được sử dụng như những cán bộ để làm trung gian giữa chính quyền thuộc địa địa phương với quần chúng. Họ là cái cầu chính nối liền 2 tiểu hệ thống vì, ở mức độ nào đó, họ hiểu được cùng lúc người bản xứ và người đô hộ.
    Tuy nhiên, vai trò trung gian này cũng biến những cán bộ bản xứ ấy thành một nhóm người sống ngoài lề của xã hội bị đô hộ. Và cuối cùng, cũng từ trong nhóm người này lại thấy xuất hiện những thành phần trung kiên nhất của phong trào giải thực, như sẽ được trình bày ở phần sau.
    3/ Nơi Làm Việc.
    Xã hội đô hộ cũng tạo ra, trong những thuộc địa, nhiều nơi làm việc mới, như : văn phòng hành chánh, cơ quan dịch vụ công cộng, kỹ nghệ, thương mại v.v ... Trong những nơi làm việc này, người đô hộ cố tạo dựng những thói quen, khung cảnh làm việc, thái độ và cách cư xử quen thuộc với họ và được họ cho là cần thiết vì có hiệu năng cao.
    Người bản xứ được nhận vào làm việc được huấn luyện từ từ, bởi tinh thần tự nguyện học theo vì tôn trong người đô hộ hơn là bởi sự áp bức, đến chỗ chấp nhận cách cư xử, thường xuyên cả những giá trị, mà trước kia được xem là xa lạ ít nhiều đối với văn hóa truyền thống của họ. Ðặc biệt nhất là chế độ thăng cấp, được phân bố cho những người được xem là ''tiến bộ'', trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy người bản xứ tự đồng hóa, hay tự thích hợp, với nền văn hóa mới được áp đặt lên trên xã hội cổ truyền bởi tiểu hệ thống đô hộ.
    4/ Giáo đường.
    Trong hầu hết những xã hội thuộc địa, người nghiên cứu cũng thấy có những hoạt động truyền giáo, được tiến hành song song hoặc bổ túc cho việc tiến chiếm thuộc địa của những sức mạnh thế tục. Hoạt động chính của các giáo đường, được ghi nhận khắp nơi, chủ yếu là những hoạt động như trường học, nhà thương, ... hay những chương trình hợp tác và, hoặc ít hoặc nhiều tùy theo từng thời kỳ, dụ người bản xứ cải đạo.
    Qua việc dụ người cải đạo, hay bởi những dịch vụ giáo dục và từ thiện, giáo đường đóng vai trò của một nhân viên quảng bá và đóng góp tích cực vào việc hội nhập những lề lối cư xử, không chỉ ở lãnh vực luân lý tinh thần, mà cả trong những lãnh vực vệ sinh, kinh tế v.v... Giáo đường là nơi quảng bá những kiến thức và những giá trị mới, là một kiểu đồng hóa nhưng ít trực tiếp hơn, qua những chức vụ trong tổ chức giáo đoàn và bởi mối quan hệ tôn giáo, được giáo đường thiết lập, giữa những cá nhân thuộc 2 tiểu hệ thống : đô hộ và bị đô hộ.
    Ðồng thời, những công tác giáo vụ cũng tạo ra xung quanh các giáo đường những nhóm người sống ngoài lề của xã hội cổ truyền. Những người cải đạo tự xem, hay được xem, như không còn thuộc vào xã hội truyền thống nơi họ sinh ra nữa, nhưng cũng không hẳn đã hội nhập được vào với xã hội ngoại quốc, cho đến khi họ tạo được một nhóm thiểu số của chính họ, nhất là trong trường hợp tôn giáo truyền thống hợp tác chặc chẽ với cuộc sống xã hội như thường thấy ở hầu hết các xã hội cổ.
    Không phải chỉ với những hoạt động tôn giáo nhưng một cách tổng quát, xã hội đô hộ muốn dùng những nhóm thiểu số mới được tạo ra, và sống ngoài lề xã hội cũ, như chất men tác động vào chính xã hội cổ truyền, để làm thay đổi các mặt sinh hoạt của xã hội đó.
    Có thể kể thêm những hoạt động khác, như đông đảo những hội tư chẳng hạn, được người đô hộ khuyến khich và tổ chức để quảng bá văn hóa mới trong xã hội bị đô hộ, như : các hội cựu học sinh, những cộng đồng tôn giáo, những hiệp hội nghề nghiệp v.v..., được thành lập theo kiểu mẫu có sẵn trong xã hội đô hộ. Hoạt động của các hội tư này thường đem lại nhiều kết quả hơn trong việc quảng bá văn hóa mới vào xã hội bị đô hộ.
    5/ Hiện Tượng Lệ Thuộc Tập Thể.
    Những điểm chính yếu được liệt kê trên cho thấy rằng : khắp nơi trong hệ thống thuộc địa, chỗ nào có sự cọ sát giữa 2 tiểu hệ thống, tiểu hệ thống đô hộ tìm mọi cách ''giao hóa'' những thành viên của tiểu hệ thống bị đô hộ. Ðiểm đặc trưng ghi nhận được trong kiểu ?~giáo hóa?T này là nỗ lực của những ''người đã được giáo hóa'', nhằm hội nhập vào xã hội luôn luôn xa lạ với chính họ. Ðiều này cho thấy việc quảng bá văn hóa mới không nhằm tạo dựng sự bình đẳng xã hội giữa người đô hộ và ''người đã được giáo hóa'', mà đúng hơn là tạo sự lệ thuộc của lớp người sau đối với lớp người trước.
    Ðó là sự quảng bá một chiều nhằm tạo sự chấp nhận, của tiểu hệ thống bị đô hộ, vị trí vừa khác biệt vừa ưu đẳng của tiểu hệ thống đô hộ. Tuy nhiên, việc quảng bá này cũng tạo ra sự cọ sát thực sự giữa 2 nền văn hóa, và mối quan hệ mà tiểu hệ thống đô hộ phải giữ để rành buộc tiểu hệ thống bị đô hộ cũng tạo ra những tác động ngược lại, ảnh hưởng lên, và làm thay đổi ít nhiều xã hội đô hộ. Ðiều này giải thích sự thâm nhập của văn hóa Phật giáo vào giới trí thức Tây phương từ thế kỷ 19. Dù vậy, trong sự gặp gỡ văn hóa này, xã hội bị đô hộ cũng chỉ có thể tự nhận biết và tự xác định mình trong và bởi sự lệ thuộc mà nó bị ràng buộc với xã hội đô hộ.
    Ở đây tiểu thể và đại thể gặp nhau trong mối quan hệ hữu cơ tương thuộc lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội - từ sự phá nhân cách ở mức độ cá nhân, như đã nói trên, gặp sự phá nhân cách tập thể ở mức độ xã hội. Ðến đây, xã hội bị đô hộ không còn khả năng tự nhận biết những đặc tính riêng của nó nữa, không còn nhận biết cái gì thuộc nó trước kia, vì lịch sử của nó đã bị đập tan một cách bất thần. Ý thức về dòng sinh mệnh lịch sử đã thoát khỏi nó, nó bị đẩy vào trong toa xe lửa tốc hành mà không phải chính nó cầm tay lái, đưa đến việc nó không còn khả năng xác định được vai trò và hành động lịch sử của chính nó.
    Từ phá nhân cách cá nhân đến mất nhân cách tập thể là 2 giai đoạn trên bình diện tâm lý và xã hội của cùng một hiện tượng quảng bá và lệ thuộc thấy được trong hầu hết những xã hội thuộc địa.
    6/ Hiện Tượng Rút Mình của Xã Hội Bị Ðô Hộ.
    Trong thực tế, những ràng buộc được xã hội đô hộ áp đặt, như đã được nói qua, không chi phối toàn diện xã hội bị đô hộ. Nó chỉ tạo ra những nhóm ''tiến bộ'' nhỏ, chỉ giáo hóa được một vài lãnh vực, làm thay đổi một phần nhỏ trong nền văn hóa và cách tổ chức của xã hội cổ truyền. Hay nói cách khác, xã hội cổ truyền vẫn tiếp tục hiện hữu, với ít nhiều thay đổi. Ðiều này giải thích tạo sao sau cả ngàn năm bị tộc Hán đô hộ mà dân tộc Việt Nam vẫn còn tồn tại và thoát ra được khỏi sự lệ thuộc, dù có bị sây sát hay méo mó khá nhiều; và giải thích tại sao sau cả ngàn năm bị văn minh Ky-tô giáo La-mã thống trị mà Âu châu vẫn thoát ra và phục hưng được, để có sự phát triển như được thấy ngày nay.
    Và, không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy, trong xã hội bị đô hộ, có hiện tượng thu mình lại trong chính nó kèm với sự lệ thuộc. Hiện tượng thu mình này được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau : thái độ phủ nhận hệ thống thuộc địa vốn là thực tại trước mắt, hoặc một cách tiêu cực, hoặc một cách tích cực hơn, là tìm về với những giá trị và những cơ chế xã hội văn hóa cổ truyền. Ðưa đến sự thành hình các phong trào ?~qui bản?T (fondamentalisme) hay ?~toàn nguyên?T (intégrisme).
    7/ Những ?~Giá Trị Tị Hộ?T (les valeurs-refuges).
    Xã hội bị đô hộ cố tìm về một số giá trị cổ truyền, hay sáng tạo ra những giá trị mới, và trao cho chúng một vai trò cứu tinh rất nặng nề - những giá trị này trở thành chiếc phao cấp cứu, được xem như biểu tượng của ''sự vật tự thân'' (theo nghĩa của chữ ''chose-en-soi'' hay ?~noumène?T của Kant) mà người ta không muốn đánh mất nó. Có nghĩa là, những giá trị đó được biểu hiện và được tin cậy như là một ''nơi tị hộ'' mà xã hội bị đô hộ có thể dung thân được, và qua đó còn có thể tìm được, hay tin là có thể tìm thấy được lại chính nó.
    Mối quan hệ gia đình, chẳng hạn, trở thành một giá trị rất lớn khi những cá nhân cảm thấy bất an, bị hăm dọa bởi sự dời đổi chỗ ở quan trọng bứng họ ra khỏi môi trường văn hóa của họ. Cũng vậy, tinh thần bảo tồn những tập tục cổ truyền đã trở lại chi phối cuộc sống ngay khi có sự áp đặt những luật pháp mới của người đô hộ. Những nổ lực lưu giữ những sắc thái cổ truyền : những bài hát, điệu múa, món ăn, y phục v.v... hay niềm tin đặt vào những huyền thoại được khoác cho những sắc thái có tính biểu tượng, nhắc lại quá khứ như một thiên đường đã mất.
    Nói chung, chính trong quá khứ, trong lịch sử, trong tổ chức xã hội xưa mà xã hội bị đô hộ đi tìm những giá trị để ẩn mình vào đó. Hành động quan trọng nhất của xã hội bị đô hộ là không hướng về việc xây dựng tương lai, nhưng lại chú tâm vào việc tái lập quá khứ, và cái quá khứ mới tái lập này lại trở nên ngày càng trừu tượng, huyền bí hơn.
    8/ Hiện Tượng Giáng Thế.
    Một hiện tượng khác của thái độ tự thu mình khá thường được thấy trong những xã hội bị đô hộ là sự xuất hiện, dưới nhiều dạng khác nhau, của hiện tượng ''giáng thế'' (messie) hay ''tiên tri'' (prophète), mà Balandier có nêu ra nhiều thí dụ cụ thể từ thực tế thu nhận được ở Phi châu.
    Nói chung, đó là những phong trào tôn giáo, giáo phái, hội kín được khởi xướng bởi vài ''tiên tri'' địa phương, muốn làm sống lại những huyền thoại, bằng cách ''phong thánh'' cho một vài người và bằng việc tạo ra những lý thuyết mới, với sự pha trộn hổn tạp giữa những nét chính của tôn giáo cổ truyền với những yếu tố của tôn giáo mới được người đô hộ du nhập (ví dụ như Cao Ðài giáo ở Việt Nam, chẳng hạn). Qua đó xã hội bị đô hộ diễn tả, một cách kín đáo nhưng không che dấu được hoàn toàn, những thất vọng cũng như những hy vọng của mình.
    Tuy nhiên, các dạng giáng thế này không có sức tác động mạnh như những ý thức hệ, nhất là từ thời cận đại đến nay. Nó không đề nghị những hành động cụ thể, mà chỉ giữ vai trò của một ước mơ hay một mộng tưởng.
  5. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Theo những gì được trình bày ở trên, cho thấy tương lai phát triển của xã hội thuộc địa là một tương lai không tưởng, với 3 yếu điểm chính, là : xã hội vòng biên, mất quân bình và bị bế tắc tâm lý, được ghi gọn như sau :
    1/ Xã Hội Vòng Biên (société périphérique).
    Xã hội bị đô hộ còn được gọi là ''xã hội vòng biên'' vì được coi như nằm trên vòng tròn mà xã hội đô hộ của chính quốc là trung tâm (du centre), theo quan niệm cấu trúc chủ nghĩa (structuralisme) vẫn còn nhiều ảnh hưởng hiện nay.
    Xã hội thuộc địa phải chịu tình trạng vừa xa tâm vừa lệ thuộc nơi tâm. Xa trung tâm, nó không hưởng được, một cách trực tiếp và tức thời, những tác động được tạo ra bởi những hoạt động, năng lực, sức tiến và đà tiến có sẵn ở chính quốc - trung tâm, nên luôn luôn trễ ở phía sau đối với trung tâm. Mặt khác, nó lại bị lệ thuộc quá đáng, gần như hoàn toàn, vào trung tâm : chính từ trung tâm đưa đến cho nó những sáng kiến, những hứng khởi mới và luôn luôn kèm theo những mệnh lệnh.
    Nhưng, hơn đâu hết, chính trên bình diện kinh tế, sự lệ thuộc được thể hiện rõ ràng và trầm trọng nhất - kinh tế của xã hội thuộc địa hoàn toàn được điều hướng về mục tiêu thỏa mãn nhu cầu và quyền lợi tức thời cũng như cho sự tiến hóa của chính quốc và chỉ có lợi cho chính quốc. Ðó là điều mà Albert Meister gọi là ''le carcan du pacte colonial - cái gông của minh ước thuộc địa''.
    Vậy, xã hội bị đô hộ là kiểu xã hội bị tước đoạt mọi lực năng động nội tại, sức bật cần thiết cho sự phát triển tự sinh tự quản. Xã hội này chỉ hiện hữu bởi và cho chính quốc - trung tâm, cái trung tâm mà nó ở xa nhưng hoàn toàn bị ràng buộc.
    2/ Xã Hội Mất Quân Bình.
    Thứ nữa, xã hội bị đô hộ, nhất là trên mặt kinh tế, là một xã hội mất quân bình trầm trọng. Chỉ thấy có sự phát triển nơi một vài khu vực kinh tế, được khai thác bởi người đô hộ, trong khi phần còn lại của xã hội cổ truyền thường bị kìm giữ ở mức độ thấp nhất của nền kinh tế tự túc. Mặt khác, việc khai thác những tài nguyên thiên nhiên được đẩy mạnh quá đáng, với việc sử dụng những kỹ thuật tương đối cao, trong khi kỹ nghệ chế biến thì gần như hoàn toàn không được thiết lập.
    Xã hội bị đô hộ còn bị mất quân bình trên nhiều lãnh vực khác nữa : một số nhỏ người được ''giáo hóa'' sống giữa đại khối người dân bản xứ mù chữ. Mặt khác, thiểu số người được giáo dục đào tạo này, được xem là thành phần ưu tú của xã hội, lại là những người ''mất gốc'' nhất, tách rời với quần chúng và sống như ''người tị nạn'' trong xã hội của người đô hộ. Những thành phố tương đối tân tiến mọc lên giữa vùng đất nước rộng lớn còn chìm trong lạc hậu. Thất nghiệp lan tràn trong khi vẫn thiếu công nhân có trình độ tay nghề cần thiết.
    Trong khi đó, xã hội truyền thống vẫn hiện hữu nhưng một phần bị mất tổ chức; trong khi xã hội tân tiến, vì chỉ được áp đặt một cách giả tạo bề ngoài, nên không bám rễ thực sự. Làm cho sự mất tổ chức trong xã hội truyền thống càng trầm trọng thêm. Ðể cuối cùng đưa đến sự tự hủy của hệ thống thuộc địa, sẽ được bàn đến ở phần Giải Thực.
    3/ Xã Hội Bị Bế Tắc Tâm Lý.
    Cuối cùng, chính những hình ảnh của quá khứ mà xã hội bị đô hộ hướng về để tự tìm thấy lại chính nó, những giá trị cổ truyền mà nó muốn bảo tồn, làm cho xã hội này trở thành một ''xã hội bị bế tắc''. Chính từ nổi thống khổ của cảm giác tự thấy mình thua kém, thấy mình bất lực, đưa đến việc tìm về với quá khứ, với huyền thoại, hay với ảo tưởng; và điều này hủy hoại mọi phấn kích, của cá nhân cũng như của tập thể, rất cần thiết cho sự phát triển tự sinh tự quản của xứ sở.
    Trong những xã hội bị đô hộ, người ta còn thấy rõ có sự phát triển của khuynh hướng được các nhà tâm lý - xã hội học gọi là ''chủ nghĩa ẩn dật'' hay ''chủ nghĩa bất động'', là hậu quả của hiện tượng ?~bể vụn nhân cách?T như đã được nói ở trên. Sống trong thứ chủ nghĩa này, người dân bản xứ không còn tìm thấy hứng khởi trong cuộc sống hàng ngày, không còn hăng say làm việc, và điều này thường được người đô hộ gọi là ''sự lười biếng'' của người bị đô hộ.
    Thêm vào đó là những trở ngại kinh tế khác : hoàn toàn thiếu vốn để đầu tư, thiếu tay nghề chuyên môn v.v... Những điểm yếu có tính cơ cấu và tâm lý của xã hội bị đô hộ, được liệt kê trên, làm cho sự phát triển trở nên vô cùng khó khăn, đầy vấn nạn, và trong vài trường hợp gần như vô vọng.
  6. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Chế độ Thực Dân đã cáo chung là phải rồi. Bởi vì nó là một chế độ phi nhân, không đáp ứng được nguyện vọng cao quí nhất của con người là Tự Do.
    Chế độ Phát Xít xx xxxx xxx cũng sụp đổ vì những lý do tương tự.
    Bất cứ chế độ nào khác, cũng sẽ sụp đổ, chẳng chóng thì chầy, nếu nó không đáp ứng được khát vọng Tự Do của con người.
    Tuy nhiên, chúng ta không nên sa đà vào những vấn đề quá rộng lớn như vậy, hoặc nên bàn nó ở một chủ đề khác.
    Ở đây vấn đề rất đơn giản và rõ ràng :
    Đó là 4 quyền Tự Do Cơ Bản mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra từ năm 1918, đã từng được thực hiện ở nước ta năm 1936 và ở miền Nam từ 1954 -1975. ( Mặc dù không hoàn hảo, nhưng hiển nhiên là tồn tại )
    Tại sao sau 1975 những quyền Tự Do Cơ Bản này lại biến mất ?
    Vấn đề rất đơn giản và rõ ràng, xin các bạn đừng lạc đề.
    u?c masktuxedo s?a vo 23:03 ngy 14/04/2005
  7. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Cậu ngây thơ quá hay vờ ngây thơ ?
    Cậu sa vào "tiểu tiết " mà quên "đại cục " hay vờ quên ?
    Này nhé ,
    Cho dù một bài thơ cụ thể có được xuất bản công khai hay không, thì có một sự thực không ai có thể chối cãi được là dưới chế độ thực dân và Mỹ - ngụy , nhân dân ta đước phép ra báo và lập nhà xuất bản .
    Tôi hỏi cậu hãy trả lời công khai, đừng có lảng tránh, tại sao ngày nay nhân dân ta không được phép ra báo và lập nhà xuất bản ?
  8. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    --------------------------------------------------------------------------------------
    Thưa nhà lý luận vĩ đại yuyu, xin mạn phép trả lời vài câu với bác.
    Hai đoạn bôi màu vàng, bác làm ơn nhòm lại lịch sử, ít nhất là cái sách giáo khoa lịch sử mà bác nói rồi làm ơn dùng cái đầu của bác sau khi tắm (lúc nó nguội và tỉnh táo nhất- em mong thế) để nghiên cứu lại xem đó là giai đoạn lịch sử nào, đảng nào nắm quyền ở Pháp rồi hẵng nói, tiện đó xem luôn sau khi chính phủ đó đổ, tình hình diễn ra như thế nào.
    Về câu hỏi cuối cùng em xin trả lời: Độc lập trưóc hết không phải để dành cho những vị địa chủ lắm tiền nhiều của, ruộng đất thẳng cánh cò bay, cũng không để dành cho những nhà chính khách sa lông, nghe hơi ngồi chõ, ngoài buôn nước bọt ra không có gì để kiếm sống.
    Độc lập dành cho những người cùng khổ, những người "KHÔNG CÓ ĐƯỢC CÁI QUYỀN LÀM NGƯỜI" những người đó sống thế nào, chiếm bao nhiêu phần trăm dân số VN thời đó hy vọng nhà thông thái biết rõ hơn cái kẻ mệt mỏi và lười biếng nay.
    Vậy đầu tiên và trước hết độc lập cho nhiều người cái "quyền làm người" tất nhiên nó tước đi của một số ngưòi khác cái quyền làm người...GIÀU.
    Cuối cùng về vấn đề báo chí, mong bác tỉnh táo xem xét, những tập đoàn báo chí khổng lồ ở Mỹ đã tung hứng cho cuộc chiến Iquar, họ có phải là những tờ báo tư nhân không, đó có là tự do ngôn luận không.
    lời khuyên cuối của em, bác thuốc trưòng phái mà ngưòi ta thưòng gọi là các mạng cải lương, nên em chẳng hy vọng bác sẽ làm được cái gì thiết thực cho bất kỳ ai!!!
  9. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Cậu nói bậy quá !
    Ai dậy cậu những tư tưỏng bậy bạ, láo lếu, phân biệt giai cấp như vậy ?
    Nếu không cậu phạm tội " Phá hoại khối đoàn kết dân tộc " !
    (Nói đùa, đừng sợ nhé, bởi cậu chỉ là một nạn nhân đáng thương của sự nhồi sọ tội ác trên mà thôi )
    Đây này Bác Hồ kêu gọi :
    "Hỡi đồng bào cả nước !
    .........Chúng ta phải đứng lên ! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, giai cấp, dân tộc ....
    HỄ LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
    thì phải đứng lên đánh thực dân cứu Tổ Quốc ! "
    Vậy Độc Lập rồi thì Tự Do đâu ?
    Tại sao Nhân Dân không được Tự Do ra Báo ?
    Cứ cho là chỉ Dân Nghèo mới được hưởng quyền Tự Do này, như nhận định ngu xuẩn của cậu, thì những quyền ấy đâu ?
    Ô hay cậu trả lời đi chứ ?
  10. dtvd

    dtvd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2003
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Đề nghị khoá nick cua yuyu lai. Nick này toàn tuyên truyền chống cộng và phat biểu trệch hướng, ảnh hưởng đến toàn diễn đan.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này