1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thư Bác Hồ gửi ngoại trưỏng Mỹ Robert Lansing tháng 11 năm 1918

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi yuyu, 10/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bucmanxam

    bucmanxam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/03/2005
    Bài viết:
    93
    Đã được thích:
    0
    Mấy lần định viết bài trả lời trong chủ đề này mà rốt cuộc lại ngại. Gần đây tôi rất bận, nên không muốn bị lôi cuốn vào một cuộc tranh luận có thể căng thẳng nếu tôi trình bày ý kiến của mình. Nhưng đọc bài của bạn đtv đòi khóa nick của bác yuyu tôi thấy buồn cười quá. Cái kiểu không đấu lý lại được thì cấm đối phương mở mồm đúng là một truyền thống không mấy dễ chịu của văn hóa phong kiến nông nghiệp.
    Bác yuyu nêu ra một sự thật, bất kể sự thật ấy nói lên điều gì thì nó vẫn là sự thật. Vấn đề không nằm ở bản thân những chi tiết mà bác yuyu nêu ra, nó nằm ở đằng sau, tức là nguyên nhân và hậu quả của sự việc. Tôi sẽ nêu ý kiến về hai điểm này trong một bài viết khác, có điều trước đó tôi muốn hỏi bác yuyu : bác suy luận ra điều gì từ những thứ bác nêu ra, nghĩa là việc người dân VN ngày nay thậm chí còn không được hưởng các quyền tự do cơ bản như tự do báo chí, tự do ngôn luận như người dân An nam dưới thời bảo hộ (dù tất cả chúng ta đều biết đó chỉ là một trò mị dân không hơn không kém). Hi vọng bác trả lời nghiêm túc câu hỏi này. Nếu không, tôi rút lại quyết định viết bài, vì điều đó sẽ là một hành động lãng phí thời gian vô ích.
  2. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Theo tôi không cần khoá nick của yuyu làm gì,những người như yuyu sẽ lấy nick khác và tranh luận tiếp,ta sẽ không biết người mới là ai.
    Vấn đề những quyền cơ bản mà yuyu nởi VN không phải là không có,nó chỉ bị hạn chế bởi còn rất nhiều người chỉ muốn đạp đỏ chính quyền vô sản.Pháp luật đặt ra để hạn chế rất nhiều hành vi,hoạt động của con người,vậy ở đâu có pháp luật,có hạn chế thì ở đó con người thiếu tự do ư?Khi mà vẫn còn kể phạm tội thì pháp luật vẫn còn tác dụng quản thúc.
    Vấn đề VN cũng vậy,sẽ có tuyển cử đa nguyên năm 56,nếu không có một bộ phận tay sai thực dân phá rối,và nếu chúng vẫn còn thì luôn phải hạn chế.Tự do,dân chủ sẽ được mở rộng nếu không còn những người dưa vào cớ ấy để phá rối,trả thù.
  3. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Bạn nói vô lý quá !
    Chế độ ta là một chế độ của dân, do dân, vì dân.
    Bọn phá hoại thì ắt không phải là Nhân Dân rồi.
    Nhưng còn chính Nhân Dân thì sao ?
    Không thể vì cấm bọn phá hoại mà lại cấm cả Nhân Dân ?
    Tại sao Nhân Dân không được quyền ra báo ?
    Ô hay, bạn hãy trả lời đi chứ ?
  4. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    From Spirou (chuyen sang day cho phu hop):
    Trích từ bài của trond viết lúc 13:04 ngày 14/04/2005:
    Trích từ bài của yuyu viết lúc 05:46 ngày 14/04/2005:
    ......................................................
    2/ Trong số báo xuất bản năm 1942, nhà thơ Sóng Hồng , đăng bài "Là Thi Sĩ " nhại lại bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Diệu. Trong đó có câu :
    " Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ,
    Mỗi vần thơ, bom đạn phá cường quyền "
    mà không bị kiểm duyệt cắt xén.
    Như thế có phải là Tự Do Ngôn Luận không ?
    ......................................................
    Muốn chứng minh chủ nghĩa này, chế độ nọ tốt hơn là chủ nghĩa kia, xã hội khác - không sao cả. Nhưng làm ơn đọc kỹ, suy xét cho thấu đáo để đưa ra dẫn chứng đúng với sự thực lịch sử (nếu như có cái tâm chứ không phải tâm địa). Thỉnh thoảng lộng giả thành chơn kiểu dẫn chứng trên tựa như Yuyu tự thò tay bóp trứng của chính mình, làm mất danh tiếng nhà thông thái (!)của LSVH
    Bài thơ Nếu Thi Sĩ của Sóng Hồng ( nhại bài Là Thi Sĩ của Xuân Diệu) không được xuất bản công khai thời Pháp thuộc. Bài trên được Sóng Hồng viết ra để phục vụ mục đích "binh vận" viên đội Nguyễn Văn Vịnh - người sau này trở thành Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng VNDCCH, Khu trưởng khu 8 thời chống Pháp.
    Đề nghị bác yuyu giải thích cho các thành viên về sự ngụy biện xảo trá này.
  5. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39

    Em trả lời bác ở topic bên kia rồi,nghe bác hỏi lảm nhảm mệt quá. Còn bây giờ em trích một đoạn nói về XH bác gọi là Mĩ -Nguỵ trước 75. Nó đụng chạm nhiều,nếu em không cao hứng thì chắc không post đâu .Dù sao em cũng chỉ post một chương trong một cuốn sách của một người hiểu chế độ trước 75 hơn bác thôi.
    VỀ HAI CHẾ ĐỘ
    ĐỆ NHẤT
    VÀ ĐỆ NHỊ VIỆT NAM CỘNG HÒA
    (Chương 2 trong "Nói Chuyện Vơí Tổ Chức VNCH Foudation" đã xuất bản)
    Nguyễn Mạnh Quang
    Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ bỏ ra 400 trăm triệu Mỹ kim viện trợ cho hai nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để tái thiết xứ sở và ổn định xã hội. Nhờ có tiền viện trợ Mỹ, chính quyền của hai nước này đã sớm ổn định được xã hội và giúp cho nhân dân nước họ sớm hồi phục được nếp sống bình thường như trước chiến tranh. Sự thành công của hai quốc gia này đã khiến cho Hoa Kỳ hăng say mở rộng chương trình viện trợ kinh tế với một kế hoạch đại quy mô có danh xưng là Kế Hoạch Marshall (tên của vị ngọai trưởng trong chính quyền Truman) nhằm giúp cho các nước Âu Châu bị tàn phá bởi chiến tranh để tái thiết xứ sở và phục hồi kinh tế. Sau đó, chương trình này lại được mở rộng cho tất cả các quốc gia thuộc Á và Phi Châu cùng ở trong tình trạng như các nước Âu Châu. Trong số các quốc gia nhận viện trợ này, có cả mấy quốc gia cựu thù của Hoa Kỳ là Tây Đức, Nhật Bản và Ý Đại Lợi.
    Có một điều vô cùng quan trọng cần phải hiểu cho tường tận là viện trợ cho các quốc gia trên đây, không phải là Hoa Kỳ đem tiền viện trợ cho riêng cá nhân hay tập đoàn những người cầm quyền, mà là để giúp cho nhân dân những nước tiếp nhận viện trợ. Những người cầm quyền của các nước tiếp nhận viện trợ chỉ là đại diện cho nhân dân của nước họ khi họ còn cầm quyền để làm những công việc mà họ có trách nhiệm phải làm. Một điều khác cũng hết sức quan trọng khác là viện trợ cho các quốc gia trên đây không phải là Hoa Kỳ đem tiền của đi cho không, mà là có mục đích chính trị và chiến lược có lợi cho Hoa Kỳ cùng với một số điều kiện có lợi cho đại khối nhân dân của các nước tiếp nhận viện trợ và đòi hỏi chính quyền các nước này phải cam kết thi hành. Ở đây, người viết xin miễn bàn về mục đích chính trị hay chiến lược của Hoa Kỳ, chỉ xin đề cập đến những điều kiện mà Hoa Kỳ đòi hỏi các nhà cầm quyền các nước tiếp nhận viện trợ kinh tế phải thi hành. Những điều kiện đó là:
    1.- Dùng tiền viện trợ vào việc ổn định xã hội
    2.- Dân chủ hóa bộ máy chính quyền
    3.- Giảm thiểu bất công và thực thi công bằng xã hội
    4.- Tôn trọng những quyền tự do căn bản của người dân như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do di chuyển, v,v...
    Những điều kiện trên đây cũng được ghi rõ trong bản tối hậu thư đề ngày 26/7/1945 của Hoa Kỳ gửi cho chính phủ Nhật Bản yêu cầu phải đầu hàng. Dưới đây là một số trong những điều kiện ở trong bản tối hậu thư này và được sách Đệ Nhị Thế Chiến & Chiến Tranh Lạnh ghi lại như sau::
    "1.- Giới hạn chủ quyền Nhật Bản trong các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu , Shikoku và một số đảo nhỏ.
    2.- Chiếm đóng lãnh thổ Nhật.
    3.- Phá hủy hết các nhà máy kỹ nghệ chiến tranh.
    4.- Trừng phạt các tội nhân chiến tranh người Nhật.
    5.- Buộc Nhật phải công nhận và ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do tư tưởng cho nhân dân Nhật.
    6.- Dẹp bỏ mọi giới hạn để phục vụ và phát huy tinh thần dân chủ trong quốc gia Nhật."
    (1)
    Trông người lại nghĩ đến ta. Người viết mạnh tin rằng khi viện trợ kinh tế cho miền Nam Việt Nam thì Hoa Kỳ cũng đòi hỏi chính quyền miền Nam phải cam kết thi hành hai điều kiên 5 và 6 trên đây, nghĩa là phải dân chủ hóa chính quyền, giảm thiểu bất công và thực thi công bằng xã hội, công nhận và ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do tư tưởng cho nhân dân miền Nam giống như Nhật Bản, Tây Đức, Ý Đại Lợi (vốn là cựu thù của Hoa Kỳ) và các nước khác cũng tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ đã thực thi.
    Biết rõ được sự thực này và biết rõ là miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ viện trợ kinh tế để phục hồi kinh tế và ổn định xã hội và hy vọng miền Nam sẽ có một chính quyền dân chủ thực sự tuân hành hai điều kiện 5 và 6 trên đây (giảm thiểu bất công, thực thi công bằng xã hội, công nhận và ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do tư tưởng của nhân dân), người viết quyết định di cư vào Nam vào mùa Xuân năm 1955, giữa khi Sàigòn đang chìm trong khói lửa vì cuộc chiến đang diễn ra giữa một bên là tàn dư của thế lực thân Pháp cố đấm ăn xôi và một bên thế lực Gia-tô thân Mỹ đang được Mỹ hết lòng cưu mang và tích cực bảo vệ.
    Sinh ra trong thời đất nước bị ngọai nhân đô hộ, chính mắt chứng kiến thảm họa hai triệu người chết đói nằm ngổn ngang khắp cả đầu đình xó chợ, trưởng thành trong chín năm kháng chiến chống ngoại xâm, hai mươi năm có mặt ở miền Nam và đã phục vụ trong quân đội hơn 4 năm trời, người viết xin nêu lên những vấn đề dưới đây:
    1.- Các chính quyền miền Nam có thực thi những điều kiện như đã nói trên giống như các nước khác cũng tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ không?
    2.- Ở miền Nam lúc đó, tinh thần dân chủ có được phát huy hay không?
    3.- Chính quyền miền Nam có được dân chủ hóa hay không?
    4.- Chính quyền miền Nam có công nhận và ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do tưởng hay không?
    5.- Nếu không, thì thế lực nào là thủ phạm chủ động tạo nên?
    Trước khi tìm giải đáp cho những thắc mắc trên đây, thiết tưởng chúng ta cũng cần nên biết tổng quát những sự kiện thế giới dưới đây:
    Sự kiện 1.- Tây Đức, Nhật Bản và Ý Đại Lợi đều là những nước cựu thù của Hoa Kỳ, tất nhiên, vấn đề quản lý nhân dân và việc tổ chức lực lượng vũ trang bị Hoa Kỳ kiểm soát gắt gao hơn
    Sự kiện 2.- Tây Đức và Nam Hàn đều ở trong tình trạng:
    A.- Lãnh thổ chia đôi, một nửa thuộc chính quyền Cộng Sản quản lý và một nửa được người Hoa Kỳ chi viện kinh tế để phục hồi kinh tế và tái thiết xứ sở.
    B.- Quân đội Hoa Kỳ trú đóng trong lãnh thổ để đề phòng Cộng Sản tấn công bất ngờ.
    Sự kiện 3.- Tất cả các nước tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ như Nhật, Pháp, Ý Đại Lợi, Hòa Lan, Nhật Bản, Hy Lạp, v.v.. và ngay cả Hoa Kỳ đều có đảng Cộng Sản hoạt động công khai, chủ nghĩa Marx (Marxism) và lịch sử các nước theo chế độ Cộng Sản như Liên Sô, Trung Quốc và các nước Đông Âu đều được dạy trong các trung học và đại học. Tại các nước này, trong bất kỳ thư viện nào cũng có đầy đủ những tài liệu, sách, báo cùng các bài biên khảo về chủ nghĩa Marx và lich sử các nước Cộng Sản.
    Sự kiện 4. Ngọai trừ miền Nam Việt Nam, tất cả các nước tiếp nhận viện trợ Hoa Kỳ không có bàn tay Giáo Hội La Mã và không có cái thảm họa "lãnh chúa áo đen".
    Sự kiện 5.- Bản chất đố kỵ, tị hềm, ganh ghét, trịch thượng, hợm hĩnh, huênh hoang khoác lác, tham lam, tàn bạo, vơ vào, hiếu thắng, hiếu sát, khát máu, tàn sát những người khác tôn giáo và ưa thích trả thù một cách cực kỳ man rợ là bản chất của tín đồ Gia-tô bắt nguồn từ Cựu Ước và Tân Ước trong các sách Exodus (21:23-25), Leviticus (24: 19-20 và 26:1-18) và Deuteronomy (19:21), rồi được khai triển và cấy vào đầu óc tín đồ bằng chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã. Nói về những hạt giống ác tính bạo ngược và dã man này ở trong Cựu Ước, nhà viết sử Arno J. Mayer ghi nhận như sau:
    "Sự thật là tư tưởng và ý niệm trả thù chiếm một vị thế đáng kể trong Thánh Kinh Do Thái. Nguyên tắc trả thù được viết ra bằng những thành ngữ "mắt trả mắt, răng trả răng, chân trả chân, sinh mạng trả bằng sinh mạng" và được ghi rõ trong các sách Exodus (21:23-25), Deuteronomy (19:21) và Leviticus (24:19-20), Thánh Kinh Do Thái giải thích cặn kẽ sự trả thù trong tôn giáo được quy tụ chung quanh một ông Thượng Đế ưa thích trả thù và cũng đặt ra giới hạn chặt chẽ hơn là để cho tự do bạo hành.
    Với thời gian, trong khi Giáo Hội tỏ ra khoan dung với cá nhân người có tội, nhưng đối với tập thể thì sự trả thù trở thành hiển nhiên rõ ràng. Một trong những cuốn sách có ảnh hưởng nhiều trong các sách Thánh Kinh là cuốn Mặc Khải. Cuốn sách này tràn ngập tinh thần tức giận và trả thù, những sự hung dữ và dã man trong sách này đểu nhắm vào tất cả một lượt, ngọai trừ một số nhỏ được Chúa chọn. Và Giáo Hội thì luôn luôn đối xử tàn tệ với những người tà giáo như là tín đồ của các đạo Do Thái, Hồi Giáo và Tin Lành. Có lẽ những lời giải thích rõ ràng nhất trong truyền thống trả thù trong thế giới Kitô giáo là vịệc quy tội cho người Do Thái về cái chết của Chúa Jesus rồi Giáo Hội luôn luôn kêu gọi trả thù họ. Rõ ràng hơn nữa là ngay cả những tông đồ đạo Tin Lành cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc từ bỏ cái việc trả thù này.
    Dù là trường hợp nào đi nữa, trong Thánh Kinh và cũng là trong truyền thống đạo Do Thái và Kitô giáo, trả thù là một đề tài khẩn thiết và phức tạp hơn là ngẫu nhiên. Thánh Kinh tìm cách đặt giới hạn sự thúc bách trả thù về phương diện tâm lý và xã hội chì ở trường hợp nhân đạo có điều kiện, nhưng cũng nghịch lý và chứa đựng đầy tính chất độc ác và tàn bạo ở trong đó."
    ("Indeed, the idea and percept of vengeance occupy a notable place in the Hebrew Bible: the proverbial avenging principle?"eye for eye, tooth for tooth, foot for foot, life for life?"is set down in Exodus (21:23-25), Leviticus (24:19-20), and Deuteronomy (19:21). The Jewish Scriptures expound a religion of vengeance centered around a vengeful God at the same time that they set rigid limits rather than give a free course to violence....
    But with the time, while the Church was lenient with individual sinners whose vengeance it reined in, it became distinctly avenging in dealing with the sinful collectively. The Book of Revelation, probably one of the more influential books of the Holy Bible, is permeated with a wrathful and vengeful spirit, its savageries directed against one and all, except the small number of the elect. And the Church was unremittingly harsh toward misbelievers and heretics, such as Jews, Muslims, and Protestants. The sempiternal cry for revenge against the Jews, blamed for the death of Jesus, perhaps best illustrates the force of the avenging tra***ion in the Christian worlds, all the more so since the apostles of the Protestant Reformation never even considered repudiating it.
    In any case, in the Sacred Writings - in the Judo-Christian tra***ion - vengeance is an urgent and perplexing rather than adventitious theme. The Scriptures seek to set limits to a socially and psychologically con***ioned avenging impulse or drive which is only too human but also paradoxial and freighted with inhuamnity." ) (2)
  6. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Sự kiện 6:- Ngọai trừ các nhà lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo các quốc gia tiếp nhận viện trợ Hoa Kỳ trên đây đều là những chính khách không những đã không có tiếng tăm xấu xa gì đối với nhân dân nước họ, mà trái lại họ còn có uy tín về tư cách và thành tích giúp ích cho dân cho nước họ, không có ai bị nhân dân nước họ lên án là "quân phản quốc". Trước Đệ Nhị Thế Chíến, Đại Hàn nằm dưới ách thống trị của người Nhật và cũng có rất nhiều Hàn gian ra làm tay sai cho người Nhật, nhưng trong các chính quyền Nam Hàn do người Hoa Kỳ bảo trợ, không có một người Hàn gian nào được Hoa Kỳ đưa lên nắm quyền lãnh đạo Nam Hàn. Tương tự như vậy, không ai có thể tìm thấy một tài liệu nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Tây Đức là Đức gian hay đã từng làm tay sai cho một nước thù địch với nước Đức. Đài Loan, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Hồi Giáo cũng vậy.
    Trái lại, các nhà lãnh đạo của chính quyền Quốc Gia thời ông Bảo Đại và Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam đều là Việt gian bán nước với thành tích vừa làm tay sai cho Đế Quốc Vatican vừa làm tay sai cho cường quốc ngoại bang cấu kết với Giáo Hội La Mã trong việc đánh chiếm và thống tri Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày chính quyền Quốc Gia ra đời vào năm 1949 cho đến ngày tàn của chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/4/1975. Dưới đây là phần chứng minh:
    Về Ông Bảo Đại : Nguyên là con đẻ ông vua Việt gian Khải Định được đưa lên làm vua bù nhìn cho chính quyền Liên Minh Đế Quốc Pháp - Thập Ác Vatican và trở thành "con tin" của Giáo Hội với người vợ là tín đồ Gia-tô "ngoan đạo" là cô Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan. Sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí viêt về sự kiện này như sau:
    "1934: (Bảo Đại) lấy Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan, con một đại điền chủ miền Nam. Thị Lan theo đạo Ki-tô, gây nhiều trở ngại. Ngô Đình Thục cực lực chống đối vì theo đúng phép đạo, Bảo Đại phải "rửa tội" rồi mới được thành hôn. Pháp dàn xếp cho một giáo sĩ ngọai quốc bí mật làm lễ cưới theo phép đạo. Như thế, Bảo Đại trở thành Vua Ki-tô đầu tiên trong lịch sử Việt Nam." (3)
    Bảo Đại lên làm vua bù nhìn và đã có bà vợ là tín đô Gia-tô ngoan đạo kèm bên cạnh rồi, mà vẫn còn bị Giáo Hội La Mã cho tín đồ Gia-tô tay sai của Giáo Hội theo dõi và hướng dẫn theo còn đường của Giáo Hội mong muốn, trong đó có Gia-tô Nguyễn Hữu Bài, Gia-tô Ngô Đình Khôi (con rể của Nguyễn Hữu Bài). Tháng 3 năm 1945, Nhật hất cảng Pháp và Vatican, làm chủ nước Đông Dương thì ông lại trở thành ông vua bù nhìn cho Nhật. Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng các nước Đống Minh Mỹ Anh Pháp và Trung Hoa, ********* lên nắm chính quyền, ngày 25/8/1956, Bảo Đại thoái vị, rồi giao ấn tín cho chính quyền ********* và tuyên bố:
    "Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết tất cả các giai cấp,. đảng phái, cho đến các người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh ra sự chia rẽ. Còn về phần Trẫm sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để ai lợi dụng danh nghiệp của Trẫm hay của hoàng gia mà lung lạc dân nữa. Việt Nam Độc Lập muôn năm! Dân chủ cộng hòa muôn năm! Bảo Đại" (4)
    Thế rồi ngày 16/3/1946, được chính phủ Việt Nam cho sang Trùng Khánh thăm viếng chính quyền Tưởng Giới Thạch, ông ở lại Trung Hoa. Điều này không có gì đáng trách. Thế nhưng, sau đó, ông di chuyền đến ở Hông Kông và nổi tiếng là một tay ăn chơi đàng điếm, một Playboy nổi tiếng tại thành phố quốc tế này. Rồi năm 1949, ông được chính quyền Pháp đưa lên lập chính quyền, và Pháp thành lập quân đội quốc gia do Pháp đài thọ tất cả chi phí về trang bị, vũ trang, huấn luyện và trả lương hàng tháng cho tất cả nhân viên của chính quyền và tất cả các quân nhân các cấp trong Quân Đội Quốc Gia. Sự kiện này chứng tỏ chính quyền của ông trở thành chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lực Pháp - Vatican, và Quân Đội Quốc Gia trở thành quân đội đánh thuê cho liên minh đế quốc này. Một trong những việc làm tay sai nổi tiếng nhất cho Đế Quốc Thập Ác Vatican của chính quyền quốc gia trong thời gian này là việc ban hành Dụ số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1950 để hợp pháp hóa khối bất động sản khổng lồ (đã ăn cướp được của dân ta từ năm 1862) của Giáo Hội La Mã do các ông tu sĩ Gia-tô người Pháp đứng tên bằng cách chuyến sang cho các ông tu sĩ Gia-tô người Việt đứng tên (với mục đích phòng hờ nếu Liên Quân Pháp-Vatican bị đại bại và phải triệt thóai khỏi Việt Nam thi khối tài sản kếch sù này đã là của Giáo Hội Gia-tô Việt Nam do người Việt Nam đứng tên rồi, do đó chính quyền Việt Nam không còn lý do cho đó là tài sản của người Pháp rồi quốc hữu hóa).
    Về ông Ngô Đình Diệm: Là một tín đồ Gia-tô thuộc lọai "bế ngửa" và là một trong những người con của tên Việt gian Gia-tô Ngô Đình Khả (đã từng cùng tên Việt gian Nguyễn Thân dẫn quân thập tự bản địa đi đánh phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền chỉ huy của cụ Phan Đình Phùng tại căn cứ Ngàn Trươi và Vụ Quang, và cũng là nhân vật chủ chốt cho đào mả cụ Phan lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những thất bại của các đạo quân thập tự Việt Nam ở vùng này trước đó), Ông Ngô Đình Diệm được chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican biệt đãi cho vào học trường hậu bổ và được bổ dụng làm trị huyện Hải Lăng ngay sau khi hoàn tất khóa học về phương cách đàn áp nhân dân tại trường này vào năm 1922. Khi làm tri huyện ở Hải Lăng và sau đó ở Hòa Đa, Diệm nổi tiếng về hành động truy lùng và tra tấn các nhà ái -quốc chống chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican bằng cách bắt trói nạn nhân ngồi trên một cái ghề có khóet lỗ ở dưới ngay chỗ hậu môn, rồi đốt nến (đèn cầy) ở dưới làm cho nạn nhân bị xấy khô và đau nhức vào tới tận ruột gan. Sau đó, nạn nhân trở thành phế nhân.
    Tới năm 1933 được chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Pháp -Vatican đưa lên làm Thượng Thư Bộ Lại, nhưng vì cuồng tín quá hóa ra ngu xuẩn, Diệm tham gia vào âm mưu băng đảng thân Giáo Hội của Nguyễn Hữu Bài và Nguyễn Đệ, đi vận động cho Cựu Toàn Quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) thân Giáo Hội lên thay thế Toàn Quyền Pierre Pasquier (có tinh thần chống Giáo Hội). Âm mưu này bị bại lộ vì có Luật Sư Lê Văn Kim mật báo cho Toàn Quyền Pasquier. "Tòan Quyền Pasquier nổi sùng cho cả Bài, Đệ và Diệm về vườn, truất hết các chức tước. Riêng Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định nơi cư trú ở Quảng Bình". (5)
    Không biết vì bị cho về vườn mà sinh ra bất mãn với người Pháp hay vì học theo bài học của ************* Charles Maurice de Talleyrand mà chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong Chương 16 trong bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã - Quyển Hai (Tacoma, WA: TXB, 1999), Ngô Đình Diệm cùng với người anh lớn nhất là Ngô Đình Khôi chạy theo o bế Nhật phản lại Pháp, và đứa con trai đầu lòng của Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân được cho đi học tiếng Nhật rồi làm mật thám chỉ điểm cho Nhật truy lùng các nhà ái quốc Việt Nam. Vì theo Nhật và phản Pháp, đầu năm 1944, anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Nhu bị Pháp điều tra. Vì thế mới có chuyện Giám Mục Ngô Đình Thục viết thư đề ngày 21/8/1944 gửi cho Tòan Quyền Jean Decoux năn nỉ xin tha cho đàn em bằng cách để kể lể công lao huyết hãn của người cha là Ngô Đình Khả đã liều chết trong chiến dịch dẫn quân thập tự đi truy lùng và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền chủ huy của cụ Phan Đình Phùng ở Vụ Quang vào năm 1894. Độc giả có thể tìm thấy lá thư lịch sử này trong cuốn Việt Nam Niên Biểu, tập I-A: 1939-1946 của Chính Đạo (Houston: Văn Hóa, 1996, tr. 200); bản dịch qua Việt ngữ trong Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Đỗ Mậu (Westminster, CA: 1993, tr. 1042-1043).
    Tháng 8/1950, Diệm được Tòa Thánh Vatican cho người dẫn sang Hoa Kỳ trao cho Hồng Y Francis Spellman lo lót chạy chọt với tín đồ Gia-tô có thế giá trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ để đưa về Việt Nam cầm quyền. Khi đến Hoa Kỳ, Diệm được cho lưu trú trong Chủng Viện Maryknoll ở Lakewood (New Jersey) và Chủng Viện Ossining ở New York. Tháng 10/1950, Diệm được các vị chức sắc Gia-tô cao cấp ở Hoa Kỳ đưa đến trình diện các nhân vật cao cấp của Bô Ngọai Giao Hoa Kỳ trong một bữa tiệc được tổ chức ở Khách Sạn Mayflower, Washington, D.C. để họ tìm hiểu về khả năng chinh trị và thành tích dấn thân của Diệm đối với nhân dân Việt Nam. Được hỏi sẽ phải giải quyết vấn đề Viêt Nam như thế nào, không cần suy nghĩ, Diệm trả lời theo phản ứng Pavlov một cách ngon lành rằng ông "tin tưởng vào quyền lực của Tòa Thánh Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực," COO, Tr.242 (6) . Câu trả lời ngu xuẩn trên đây khiến cho khi phải chấp thuận cho Diệm về Việt Nam cầm quyền, hội đồng chính phủ Hoa Kỳ phải đặt ra vấn đế về trình độ thông minh và khả năng chinh trị của Diệm với Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower, và Tổng Thống Eisenhower "chỉ có thể trấn an hội đồng chính phủ bằng câu nói, "Trong đám mù, thằng chột làm vua." (7)
    Sau khi được Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền và giao cho Giáo Hội La Mã nắm độc quyền bao thầu công việc nội trị, Diệm cùng mấy anh em nhà Ngô và bọn tu sĩ Gia-tô tác oai tác quái, tổ chức 13 cơ quan mật vụ khác nhau đê thiết lập chế độ đạo phiệt Gia-tô, tiến hành kế Họach Ki-tô Hóa miền Nam bằng bạo lực với danh nghĩa là các Chiến Dịch Tố Cộng" kể từ mùa hè năm 1955. Cho đến giữa năm1963, các chiến dịch tố cộng này đã tàn sát tới hơn 300 ngàn nạn nhân trong các tỉnh thuộc Liên Khu V. Hoa Kỳ hết lòng khuyên răn cũng không được. Thấy rằng khuyên răn hoài cũng không được, Hoa Kỳ dự tính bật đèn xanh cho quân đội nổi lên lật chế độ đạo phiệt khốn nạn này.
    Thấy Hoa Kỳ dự tính làm mạnh, anh em nhà Ngô tính chuyện bắt tay với chính quyền Hà Nội để hù lại Hoa Kỳ. Quá bực mình với bọn người cuồng nô vô tổ quốc này, Hoa Kỳ thực sự bật đèn xanh cho quân đội nổi lên "trừ bạo cứu dân". Khôi hài nhất là vào giờ蠰hút quân đội đã tấn công mạnh vào Dinh Gia Long, thấy rằng thực sự là nguy hiểm rồi, Ngô Đình Diệm đành phải cầu cứu với Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge bằng những lời lẽ và khẩu khí được ông cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ McNamara kể lại với nguyên văn như sau:
    "Theo chương trình, Lodge sẽ đi Hoa Thịnh Đốn vào ngày 1 tháng 11. Trước khi lên đường, ông còn tháp tùng Đô Đốc Felt đến thăm viếng xã giao ông Diệm. Trước đó, ông Diệm đã ghi sẵn trên một miếng giấy nhỏ nói rằng ông mong muốn khi Đô Đốc Felt ra về, ông Lodge ở nán lại để ông được nói chuyện khỏang 15 phút thôi. Sau đó, ông Lodge gửi điện tín về Hoa Thịnh Đốn nói rằng, "Khi tôi vừa đứng lên, ông Diệm nói, "Nhờ nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi (ông Diệm) là người tốt và thẳng thắn, rằng tôi (ông Diệm) thích giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn ngay bây giờ hơn là chỉ nói suông để rồi sau đó chúng ta mất tất cả. Xin ông hãy nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi (ông Diệm) thuận theo tất cả các đế nghị của ông ấy (Tổng Thống Kennedy) một cách nghiêm chỉnh và mong muốn sẽ thực thi những đề nghị này, những phải có thời gian." Ông Lodge nhận xét thêm, "Tôi cảm thấy đây là một bước khác trong cuộc nói chuyện mà ông Diệm đã khởi sự tai cuộc họp mặt ở Đà Lạt vào ngày Chủ Nhật 27/10/63. "Nếu Hoa Kỳ muốn có thương thảo toàn bộ vấn đề, tôi (ông Diệm) nghĩ rằng chúng ta đang ở tư thế phải làm như vậy. Vì hiệu quả, xin hãy nói cho chúng tôi biết các ông muốn cái gì thì chúng tôi sẽ làm cái ấy. Hy vọng sẽ bàn thảo vấn đề này ở Hoa Thịnh Đốn." ("Lodge was scheduled to leave Saigon for consultations in Washington on November 1 (1963). Just before getting on the plane, he joined Admiral Felt in a courtesy call on Diem. Earlier Diem had sent a note saying he wished Lodge to stay fefteen minutes after Felt left. Lodge did so. Later, he cabled Washington: "When I got up to go, he said: Please tell President Kennedy that I am a good and a frank ally, that I would rather be frank and settle questions now than talk about them after we lost everything....Tell President Kennedy that I take all his suggestions very seriously and wish to carry them out but it is a question of timing." Lodge added this comment: "I felt that this is another step in the dialogue which... Diem had begun at our meeting in Dalat on Sunday October 27. If U.S. wants to make a package deal, I would think we were in a position to do it... In effect he said: Tell us what you want and we''ll do it. Hope to discuss this in Washington emphasis added." (8)
    Qua phần trình bày trên đây, chúng ta thấy rõ Ngô Đình Diệm sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình Gia-tô thuộc loại siêu cuồng tín. Cha ruột của Diệm là Ngô Đình Khả, một tên Gia-tô cuồng tín vừa làm Việt gian bán nước cho Đế Quốc Vatican vừa làm Việt gian bán nước cho Đế Quốc Pháp với thành tích đào mả cụ Phan lấy xác đốt thành tro rồi bắn xuống sông Lam Giang cho mất xác để trả thù theo truyền thống của Giáo Hội La Mã. Cha nào con ấy. Vì thế cho nên đàn con và cháu của Ngô Đình Khả đều trở thành những người nối nghiệp cha tiếp tục cái nghề Việt gian bán nước cho quân cướp ngọai thù. Riêng về Ngô Đình Diệm, được Giáo Hội La Mã cưu mang đem sang Hoa Kỳ, (đài thọ hết tất cả mọi chi phí từ vé máy bay, nơi cư trú, miếng ăn chỗ ngủ cho đến việc di chuyền) để vận động với các nhân vật có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ cho về Việt Nam cầm quyền với mục đích vừa làm Việt gian tay sai cho Giáo Hội La Mã để biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia theo đạo Gia-tô vừa làm tay sai cho Hoa Kỳ để biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng.
    Đoạn văn do ông cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ McNamara kể lại trên đây cho thấy những lời lẽ của Ngô Đình Diệm nói với ông Cabot Lodge bộc lộ hẳn cái vai trò Việt gian làm tay sai cho Hoa Kỳ, nhưng lại mưu đồ phản trắc, không những đi qua trớn trong việc Kitô Hóa miền Nam bằng bạo lực mà lại còn mưu đồ bắt tay với chính quyền miền Bắc để bắt chẹt Hoa Kỳ cho nên hối bất cập. Bản văn này cho chúng ta thấy rõ lời ông Ngô Đình Diệm năn nỉ nhờ ông Cabot Lodge nói với Tổng Thống Kennedy rằng sẽ ngoan ngoãn làm tất cả những gì Hoa Kỳ muốn làm. Thế nhưng, "nhất sự bất tín, vạn sự bất khả tín." Đã quá trễ! Hứa bao nhiêu đi nữa thì Hoa Kỳ cũng không còn tin được con người có truyền thống mưu mô, lươn lẹo và lật lọng như anh em ông Ngô Đình Diệm.
  7. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Sự kiện 6:- Ngọai trừ các nhà lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo các quốc gia tiếp nhận viện trợ Hoa Kỳ trên đây đều là những chính khách không những đã không có tiếng tăm xấu xa gì đối với nhân dân nước họ, mà trái lại họ còn có uy tín về tư cách và thành tích giúp ích cho dân cho nước họ, không có ai bị nhân dân nước họ lên án là "quân phản quốc". Trước Đệ Nhị Thế Chíến, Đại Hàn nằm dưới ách thống trị của người Nhật và cũng có rất nhiều Hàn gian ra làm tay sai cho người Nhật, nhưng trong các chính quyền Nam Hàn do người Hoa Kỳ bảo trợ, không có một người Hàn gian nào được Hoa Kỳ đưa lên nắm quyền lãnh đạo Nam Hàn. Tương tự như vậy, không ai có thể tìm thấy một tài liệu nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Tây Đức là Đức gian hay đã từng làm tay sai cho một nước thù địch với nước Đức. Đài Loan, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Hồi Giáo cũng vậy.
    Trái lại, các nhà lãnh đạo của chính quyền Quốc Gia thời ông Bảo Đại và Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam đều là Việt gian bán nước với thành tích vừa làm tay sai cho Đế Quốc Vatican vừa làm tay sai cho cường quốc ngoại bang cấu kết với Giáo Hội La Mã trong việc đánh chiếm và thống tri Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày chính quyền Quốc Gia ra đời vào năm 1949 cho đến ngày tàn của chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/4/1975. Dưới đây là phần chứng minh:
    Về Ông Bảo Đại : Nguyên là con đẻ ông vua Việt gian Khải Định được đưa lên làm vua bù nhìn cho chính quyền Liên Minh Đế Quốc Pháp - Thập Ác Vatican và trở thành "con tin" của Giáo Hội với người vợ là tín đồ Gia-tô "ngoan đạo" là cô Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan. Sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí viêt về sự kiện này như sau:
    "1934: (Bảo Đại) lấy Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan, con một đại điền chủ miền Nam. Thị Lan theo đạo Ki-tô, gây nhiều trở ngại. Ngô Đình Thục cực lực chống đối vì theo đúng phép đạo, Bảo Đại phải "rửa tội" rồi mới được thành hôn. Pháp dàn xếp cho một giáo sĩ ngọai quốc bí mật làm lễ cưới theo phép đạo. Như thế, Bảo Đại trở thành Vua Ki-tô đầu tiên trong lịch sử Việt Nam." (3)
    Bảo Đại lên làm vua bù nhìn và đã có bà vợ là tín đô Gia-tô ngoan đạo kèm bên cạnh rồi, mà vẫn còn bị Giáo Hội La Mã cho tín đồ Gia-tô tay sai của Giáo Hội theo dõi và hướng dẫn theo còn đường của Giáo Hội mong muốn, trong đó có Gia-tô Nguyễn Hữu Bài, Gia-tô Ngô Đình Khôi (con rể của Nguyễn Hữu Bài). Tháng 3 năm 1945, Nhật hất cảng Pháp và Vatican, làm chủ nước Đông Dương thì ông lại trở thành ông vua bù nhìn cho Nhật. Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng các nước Đống Minh Mỹ Anh Pháp và Trung Hoa, ********* lên nắm chính quyền, ngày 25/8/1956, Bảo Đại thoái vị, rồi giao ấn tín cho chính quyền ********* và tuyên bố:
    "Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết tất cả các giai cấp,. đảng phái, cho đến các người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh ra sự chia rẽ. Còn về phần Trẫm sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để ai lợi dụng danh nghiệp của Trẫm hay của hoàng gia mà lung lạc dân nữa. Việt Nam Độc Lập muôn năm! Dân chủ cộng hòa muôn năm! Bảo Đại" (4)
    Thế rồi ngày 16/3/1946, được chính phủ Việt Nam cho sang Trùng Khánh thăm viếng chính quyền Tưởng Giới Thạch, ông ở lại Trung Hoa. Điều này không có gì đáng trách. Thế nhưng, sau đó, ông di chuyền đến ở Hông Kông và nổi tiếng là một tay ăn chơi đàng điếm, một Playboy nổi tiếng tại thành phố quốc tế này. Rồi năm 1949, ông được chính quyền Pháp đưa lên lập chính quyền, và Pháp thành lập quân đội quốc gia do Pháp đài thọ tất cả chi phí về trang bị, vũ trang, huấn luyện và trả lương hàng tháng cho tất cả nhân viên của chính quyền và tất cả các quân nhân các cấp trong Quân Đội Quốc Gia. Sự kiện này chứng tỏ chính quyền của ông trở thành chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lực Pháp - Vatican, và Quân Đội Quốc Gia trở thành quân đội đánh thuê cho liên minh đế quốc này. Một trong những việc làm tay sai nổi tiếng nhất cho Đế Quốc Thập Ác Vatican của chính quyền quốc gia trong thời gian này là việc ban hành Dụ số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1950 để hợp pháp hóa khối bất động sản khổng lồ (đã ăn cướp được của dân ta từ năm 1862) của Giáo Hội La Mã do các ông tu sĩ Gia-tô người Pháp đứng tên bằng cách chuyến sang cho các ông tu sĩ Gia-tô người Việt đứng tên (với mục đích phòng hờ nếu Liên Quân Pháp-Vatican bị đại bại và phải triệt thóai khỏi Việt Nam thi khối tài sản kếch sù này đã là của Giáo Hội Gia-tô Việt Nam do người Việt Nam đứng tên rồi, do đó chính quyền Việt Nam không còn lý do cho đó là tài sản của người Pháp rồi quốc hữu hóa).
    Về ông Ngô Đình Diệm: Là một tín đồ Gia-tô thuộc lọai "bế ngửa" và là một trong những người con của tên Việt gian Gia-tô Ngô Đình Khả (đã từng cùng tên Việt gian Nguyễn Thân dẫn quân thập tự bản địa đi đánh phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền chỉ huy của cụ Phan Đình Phùng tại căn cứ Ngàn Trươi và Vụ Quang, và cũng là nhân vật chủ chốt cho đào mả cụ Phan lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những thất bại của các đạo quân thập tự Việt Nam ở vùng này trước đó), Ông Ngô Đình Diệm được chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican biệt đãi cho vào học trường hậu bổ và được bổ dụng làm trị huyện Hải Lăng ngay sau khi hoàn tất khóa học về phương cách đàn áp nhân dân tại trường này vào năm 1922. Khi làm tri huyện ở Hải Lăng và sau đó ở Hòa Đa, Diệm nổi tiếng về hành động truy lùng và tra tấn các nhà ái -quốc chống chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican bằng cách bắt trói nạn nhân ngồi trên một cái ghề có khóet lỗ ở dưới ngay chỗ hậu môn, rồi đốt nến (đèn cầy) ở dưới làm cho nạn nhân bị xấy khô và đau nhức vào tới tận ruột gan. Sau đó, nạn nhân trở thành phế nhân.
    Tới năm 1933 được chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Pháp -Vatican đưa lên làm Thượng Thư Bộ Lại, nhưng vì cuồng tín quá hóa ra ngu xuẩn, Diệm tham gia vào âm mưu băng đảng thân Giáo Hội của Nguyễn Hữu Bài và Nguyễn Đệ, đi vận động cho Cựu Toàn Quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) thân Giáo Hội lên thay thế Toàn Quyền Pierre Pasquier (có tinh thần chống Giáo Hội). Âm mưu này bị bại lộ vì có Luật Sư Lê Văn Kim mật báo cho Toàn Quyền Pasquier. "Tòan Quyền Pasquier nổi sùng cho cả Bài, Đệ và Diệm về vườn, truất hết các chức tước. Riêng Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định nơi cư trú ở Quảng Bình". (5)
    Không biết vì bị cho về vườn mà sinh ra bất mãn với người Pháp hay vì học theo bài học của ************* Charles Maurice de Talleyrand mà chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong Chương 16 trong bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã - Quyển Hai (Tacoma, WA: TXB, 1999), Ngô Đình Diệm cùng với người anh lớn nhất là Ngô Đình Khôi chạy theo o bế Nhật phản lại Pháp, và đứa con trai đầu lòng của Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân được cho đi học tiếng Nhật rồi làm mật thám chỉ điểm cho Nhật truy lùng các nhà ái quốc Việt Nam. Vì theo Nhật và phản Pháp, đầu năm 1944, anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Nhu bị Pháp điều tra. Vì thế mới có chuyện Giám Mục Ngô Đình Thục viết thư đề ngày 21/8/1944 gửi cho Tòan Quyền Jean Decoux năn nỉ xin tha cho đàn em bằng cách để kể lể công lao huyết hãn của người cha là Ngô Đình Khả đã liều chết trong chiến dịch dẫn quân thập tự đi truy lùng và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền chủ huy của cụ Phan Đình Phùng ở Vụ Quang vào năm 1894. Độc giả có thể tìm thấy lá thư lịch sử này trong cuốn Việt Nam Niên Biểu, tập I-A: 1939-1946 của Chính Đạo (Houston: Văn Hóa, 1996, tr. 200); bản dịch qua Việt ngữ trong Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Đỗ Mậu (Westminster, CA: 1993, tr. 1042-1043).
    Tháng 8/1950, Diệm được Tòa Thánh Vatican cho người dẫn sang Hoa Kỳ trao cho Hồng Y Francis Spellman lo lót chạy chọt với tín đồ Gia-tô có thế giá trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ để đưa về Việt Nam cầm quyền. Khi đến Hoa Kỳ, Diệm được cho lưu trú trong Chủng Viện Maryknoll ở Lakewood (New Jersey) và Chủng Viện Ossining ở New York. Tháng 10/1950, Diệm được các vị chức sắc Gia-tô cao cấp ở Hoa Kỳ đưa đến trình diện các nhân vật cao cấp của Bô Ngọai Giao Hoa Kỳ trong một bữa tiệc được tổ chức ở Khách Sạn Mayflower, Washington, D.C. để họ tìm hiểu về khả năng chinh trị và thành tích dấn thân của Diệm đối với nhân dân Việt Nam. Được hỏi sẽ phải giải quyết vấn đề Viêt Nam như thế nào, không cần suy nghĩ, Diệm trả lời theo phản ứng Pavlov một cách ngon lành rằng ông "tin tưởng vào quyền lực của Tòa Thánh Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực," COO, Tr.242 (6) . Câu trả lời ngu xuẩn trên đây khiến cho khi phải chấp thuận cho Diệm về Việt Nam cầm quyền, hội đồng chính phủ Hoa Kỳ phải đặt ra vấn đế về trình độ thông minh và khả năng chinh trị của Diệm với Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower, và Tổng Thống Eisenhower "chỉ có thể trấn an hội đồng chính phủ bằng câu nói, "Trong đám mù, thằng chột làm vua." (7)
    Sau khi được Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền và giao cho Giáo Hội La Mã nắm độc quyền bao thầu công việc nội trị, Diệm cùng mấy anh em nhà Ngô và bọn tu sĩ Gia-tô tác oai tác quái, tổ chức 13 cơ quan mật vụ khác nhau đê thiết lập chế độ đạo phiệt Gia-tô, tiến hành kế Họach Ki-tô Hóa miền Nam bằng bạo lực với danh nghĩa là các Chiến Dịch Tố Cộng" kể từ mùa hè năm 1955. Cho đến giữa năm1963, các chiến dịch tố cộng này đã tàn sát tới hơn 300 ngàn nạn nhân trong các tỉnh thuộc Liên Khu V. Hoa Kỳ hết lòng khuyên răn cũng không được. Thấy rằng khuyên răn hoài cũng không được, Hoa Kỳ dự tính bật đèn xanh cho quân đội nổi lên lật chế độ đạo phiệt khốn nạn này.
    Thấy Hoa Kỳ dự tính làm mạnh, anh em nhà Ngô tính chuyện bắt tay với chính quyền Hà Nội để hù lại Hoa Kỳ. Quá bực mình với bọn người cuồng nô vô tổ quốc này, Hoa Kỳ thực sự bật đèn xanh cho quân đội nổi lên "trừ bạo cứu dân". Khôi hài nhất là vào giờ蠰hút quân đội đã tấn công mạnh vào Dinh Gia Long, thấy rằng thực sự là nguy hiểm rồi, Ngô Đình Diệm đành phải cầu cứu với Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge bằng những lời lẽ và khẩu khí được ông cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ McNamara kể lại với nguyên văn như sau:
    "Theo chương trình, Lodge sẽ đi Hoa Thịnh Đốn vào ngày 1 tháng 11. Trước khi lên đường, ông còn tháp tùng Đô Đốc Felt đến thăm viếng xã giao ông Diệm. Trước đó, ông Diệm đã ghi sẵn trên một miếng giấy nhỏ nói rằng ông mong muốn khi Đô Đốc Felt ra về, ông Lodge ở nán lại để ông được nói chuyện khỏang 15 phút thôi. Sau đó, ông Lodge gửi điện tín về Hoa Thịnh Đốn nói rằng, "Khi tôi vừa đứng lên, ông Diệm nói, "Nhờ nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi (ông Diệm) là người tốt và thẳng thắn, rằng tôi (ông Diệm) thích giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn ngay bây giờ hơn là chỉ nói suông để rồi sau đó chúng ta mất tất cả. Xin ông hãy nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi (ông Diệm) thuận theo tất cả các đế nghị của ông ấy (Tổng Thống Kennedy) một cách nghiêm chỉnh và mong muốn sẽ thực thi những đề nghị này, những phải có thời gian." Ông Lodge nhận xét thêm, "Tôi cảm thấy đây là một bước khác trong cuộc nói chuyện mà ông Diệm đã khởi sự tai cuộc họp mặt ở Đà Lạt vào ngày Chủ Nhật 27/10/63. "Nếu Hoa Kỳ muốn có thương thảo toàn bộ vấn đề, tôi (ông Diệm) nghĩ rằng chúng ta đang ở tư thế phải làm như vậy. Vì hiệu quả, xin hãy nói cho chúng tôi biết các ông muốn cái gì thì chúng tôi sẽ làm cái ấy. Hy vọng sẽ bàn thảo vấn đề này ở Hoa Thịnh Đốn." ("Lodge was scheduled to leave Saigon for consultations in Washington on November 1 (1963). Just before getting on the plane, he joined Admiral Felt in a courtesy call on Diem. Earlier Diem had sent a note saying he wished Lodge to stay fefteen minutes after Felt left. Lodge did so. Later, he cabled Washington: "When I got up to go, he said: Please tell President Kennedy that I am a good and a frank ally, that I would rather be frank and settle questions now than talk about them after we lost everything....Tell President Kennedy that I take all his suggestions very seriously and wish to carry them out but it is a question of timing." Lodge added this comment: "I felt that this is another step in the dialogue which... Diem had begun at our meeting in Dalat on Sunday October 27. If U.S. wants to make a package deal, I would think we were in a position to do it... In effect he said: Tell us what you want and we''ll do it. Hope to discuss this in Washington emphasis added." (8)
    Qua phần trình bày trên đây, chúng ta thấy rõ Ngô Đình Diệm sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình Gia-tô thuộc loại siêu cuồng tín. Cha ruột của Diệm là Ngô Đình Khả, một tên Gia-tô cuồng tín vừa làm Việt gian bán nước cho Đế Quốc Vatican vừa làm Việt gian bán nước cho Đế Quốc Pháp với thành tích đào mả cụ Phan lấy xác đốt thành tro rồi bắn xuống sông Lam Giang cho mất xác để trả thù theo truyền thống của Giáo Hội La Mã. Cha nào con ấy. Vì thế cho nên đàn con và cháu của Ngô Đình Khả đều trở thành những người nối nghiệp cha tiếp tục cái nghề Việt gian bán nước cho quân cướp ngọai thù. Riêng về Ngô Đình Diệm, được Giáo Hội La Mã cưu mang đem sang Hoa Kỳ, (đài thọ hết tất cả mọi chi phí từ vé máy bay, nơi cư trú, miếng ăn chỗ ngủ cho đến việc di chuyền) để vận động với các nhân vật có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ cho về Việt Nam cầm quyền với mục đích vừa làm Việt gian tay sai cho Giáo Hội La Mã để biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia theo đạo Gia-tô vừa làm tay sai cho Hoa Kỳ để biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng.
    Đoạn văn do ông cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ McNamara kể lại trên đây cho thấy những lời lẽ của Ngô Đình Diệm nói với ông Cabot Lodge bộc lộ hẳn cái vai trò Việt gian làm tay sai cho Hoa Kỳ, nhưng lại mưu đồ phản trắc, không những đi qua trớn trong việc Kitô Hóa miền Nam bằng bạo lực mà lại còn mưu đồ bắt tay với chính quyền miền Bắc để bắt chẹt Hoa Kỳ cho nên hối bất cập. Bản văn này cho chúng ta thấy rõ lời ông Ngô Đình Diệm năn nỉ nhờ ông Cabot Lodge nói với Tổng Thống Kennedy rằng sẽ ngoan ngoãn làm tất cả những gì Hoa Kỳ muốn làm. Thế nhưng, "nhất sự bất tín, vạn sự bất khả tín." Đã quá trễ! Hứa bao nhiêu đi nữa thì Hoa Kỳ cũng không còn tin được con người có truyền thống mưu mô, lươn lẹo và lật lọng như anh em ông Ngô Đình Diệm.
  8. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Mấy bạn trên tiếp tục đánh trống lảng một cách thảm hại.
    Thế này nhé :
    Tôi đồng ý tất cả những điều các bạn trích dẫn bài báo, ý kiên v.v...
    Tôi đồng ý chế độ Thực Dân và Mỹ - Nguỵ là xấu xa v.v...
    Thế được chưa ?
    Vậy là chúng ta chấm dứt tranh luận về vấn đề này nhé ?
    Nhưng câu hỏi của tôi là :
    Tại sao nhân dân ta không được hưởng 4 quyền Tự Do Cơ Bản như đã từng được hưởng dưới chế độ Thực Dân và Mỹ - Nguỵ ?.
    Tôi nhắc lại là các bạn không được lạc đề nữa . Hãy tập trung vào chủ đề chính. Rõ chưa ?
  9. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Về Nguyễn Văn Thiệu: Cựu Đại Tá Phạm Liễu viết trong cuốn "Trả Ta Sông Núi 2" về ông Nguyễn Văn Thiệu như sau:
    "Sau năm 1954, ông Thiệu đã được lên tới cấp Thiếu Tá, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu ở Huế, dưới quyền Đại Tá Trương Văn Xương. Mùa Thu năm 1954, khi cuộc tranh chấp giữa Tướng Nguyễn Văn Hinh và Thủ Tướng Diệm bùng nổ, Thiếu Tá Thiệu gia nhập Đảng Con Ó, cùng với Trung Tá Trần Thiệm Khiêm, Thiếu Tá Hoàng Xuân Lãm, Đại Úy Trần Văn Trung, Nguyễn Văn Mạnh, v.v... để yểm trợ Nguyễn Văn Hinh. Sau khi Tướng Hinh phải rời nước, nhóm Thiếu Tá Thiệu bị đưa về Sàigòn điều tra. Để thoát khỏi sự nghi kỵ của chế độ Diệm, Thiếu Tá Thiệu xoay qua đường giây Thiên Chúa Giáo của nhà vợ.
    Nguyên ông Thiệu lấy bà Kim Anh, người Mỹ Tho, có đạo Thiên Chúa, đã lâu nhưng không chịu rửa tội.... Nhưng sau ngày ông Diệm cầm quyền, đạo Thiên Chúa biến thành một thứ chìa khóa danh vọng và quyền lực cho những ai tham vọng. Bởi thế ông Thiệu quyết tâm "trở lại với đạo". Trung Tá Thiệu cẩn thận năn nỉ Linh-mục Bửu Dưỡng, lý thuyết gia bản xứ của Đảng Cần Lao, đích thân rửa tội cho ông ta ở Đà Lạt. Nhờ vậy, ông Thiệu được thăng cấp Đại Tá và được giao cho nắm Sư Đoàn 1 rồi Sư Đoàn 5 ở Biên Hòa. Đại Tá Thiệu còn được vào Quân Ủy của Đảng Cần Lao... (9)
    Sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí viết về Nguyễn Văn Thiệu như sau:
    "Ngày 19/6/11965, Thiệu được của làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, tức Quốc Trưởng. Ngày 3/9/1967, nhờ sự tiếp tay của Hồng Y New York là Francis Spellman và Đại Sứ Ellsworth Bunker, Thiệu "đắc cử" Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1957-1975) với 34.8% số phiếu." (10)
    Đọan văn do cựu Đại Tá Phạm Văn Liễu kể lại cho chúng ta thấy mục đích của Nguyễn Văn Thiệu theo đạo Gia-tô là để chiếm lòng tin của Giáo Hội La Mã với hy vọng sẽ thăng quan tiến chức, và đọan văn trích từ sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí cho thấy rõ Nguyễn Văn Thiệu nhờ có Hồng Y Spellman (Giáo Hội La Mã) và Đại Sứ Bunker của Hoa Kỳ "tiếp tay" mới được đưa lên làm tồng thống để làm cái công việc mà Ngô Đình Diệm đã làm cho Giáo Hội La Mã và Hoa Kỳ trước kia. Khác với Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu thuộc lọai "đạo đứng", không thuộc lọai siêu cuồng tín và siêu ngu xuẩn như Diệm, cho nên Thiệu chỉ theo đạo với mục đích lợi dụng Giáo Hội La Mã làm cái cầu để tiến thân, để rồi trả ơn Giáo Hội bằng cách để cho nhóm tín đồ Gia-tô cuồng tín cho ra đời cái gọi là "Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm" và để mặc cho "bọn quạ đen" tung hòanh, rúc rỉa thân xác miền Nam Việt Nam, chứ không triệt để tiến hành Kế Hạch Kitô Hóa miền Nam như Diệm đã làm trước kia. Đặc biệt hơn nữa, Thiệu không dám phản lại Hoa Kỳ như Ngô Đình Diệm đã làm. Vì vậy mà trước khi cuốn cờ bỏ chạy, Hoa Kỳ đã hết lòng lo cho các ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm chạy trước vào chiều tối ngày 25/ 4/1975.
    CHÍNH TÌNH VIỆT NAM ĐỐI VỚI 6 SỰ KIỆN THẾ GIỚI
    Tới đây, thiết nghĩ răng, chúng ta hồi tưởng xem trong suốt thời kỳ từ tháng 7/1955 cho đến ngày 30/4/1075 dưới ách thống trị của hai chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Gia-tô Nguyễn Văn Thiệu, miền Nam Việt Nam ở vào những trường hợp nào trong những điều nêu ra ở trên? Theo sự hiểu biết của người viết thì thực tế của miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975 như sau:
    Đối với sự kiện 1, miền Nam Việt Nam không phải là cựu thù của Hoa Kỳ. Vì thế Hoa Kỳ chi viện cho miền Nam khá hào hiệp và để mặc cho Giáo Hội La Mã và cho anh em Ngô Đình Diệm bao thầu việc quản lý nhân dân miền Nam.
    Đối với sự kiện 2: Về Phần A (lãnh thổ chia đôi), miền Nam Việt Nam giống y hệt như Tây Đức và Nam Hàn. Phần B (Quân đội Hoa Kỳ trú đóng) thì Miền Nam Việt Nam gần như thế,
    Đối với sự kiện 3. và sự kiện 4, miền Nam Việt Nam hoàn toàn trái ngược với Tây Đức, Nam Hàn và tất cả các nước tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ. Nói cho rõ hơn, Miền Nam Việt Nam nằm trọn trong bàn tay của Giáo Hội La Mã, chương trình giáo dục bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ. Tất cả những gì nói đến những việc làm bất chính, bạo ngược và dã man của Giáo Hội, tất cả những tài liệu nói về đời sống bê bối thối tha các Giáo Hoàng, của và giai cấp tu sĩ Gia-tô, tất cả các học thuyết khoa học và chính trị không phù hợp với quan điểm của Tòa Thánh Vatican đều bị lọai bỏ. Quyền lực của Giáo Hội hầu như bao trùm lên tất cả mọi sinh họat của người dân, từ chính tri, kinh tế, quân sự, văn hóa, tôn giáo, giáo dục cho đến xã hội, thương mại và các việc bao thầu cung cấp dịch vụ. Không một phạm vi họat động nào là không có bàn tay của Giáo Hội.
    Đối với sự kiện 5: Đây là sự thật về bản chất của những tín đồ Gia-tô của Giáo Hội. Độc giả có thể kiểm chứng bằng cách tìm đọc các tài liệu mà người viết đã trích dẫn. Một cách khác nữa để kiểm chứng là quan sát cung cách hành xử cùng những lời lẽ trong cung cách hành văn và lý luận của họ trên các diễn đàn ngôn luận (báo chí, truyền thanh, truyền hình và internet), trong hội đồng "chuột" "chống Cộng miệng" tại các địa phương ở Bắc Mỹ.
    Đối với sự kiện 6, thiết tưởng phần trình bày về nhà lãnh đạo của chính quyền Quốc Gia là ông Bảo Đại và hai nhà lãnh đạo của miền Nam trong thời kỳ 1954-1975 là hai ông Gia-tô Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đã nói lên các tính cách "không những không có chính thống, không có chính nghĩa, mà còn là phản dân tộc" của những người cầm quyền Quốc Gia và chính quyền Miền Nam Việt Nam. Người viết xin nhấn mạnh là chính quyền do ông Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu không có chính nghĩa vì những lý do dưới đây:
    1.- Khát vọng thống nhất đất nước là khát vọng của bất kỳ dân tộc nào bị rơi vào tình trạng đất nước bị phân chia. Việc Thỏa Hiệp Genève 1954 quy định tạm thời chia đôi nước ta là do áp lực của các cường quốc Nga và Trung Hoa để giải quyết chíến tranh Đông Dương 1945-1954, có ngầm ý gỡ thể diện cho Pháp và thiên vị Vatican. Tuy nhiên, Thỏa Hiệp này quy định điều khỏan tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước vào tháng 7 năm 1956. Miền Nam nằm dưới quyền cai trị của Giáo Hội La Mã, chủ tâm ngăn cản, không cho tổ chức tổng tuyển cử với dã tâm duy trì miền Nam thành một quốc gia riêng biệt. Hoa Kỳ, vì thế bí chiến lược, phải nhắm mắt buông xuôi. Làm như vậy là phản lại nguyện vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Hễ phản dân tộc là không có chính nghĩa (Chủ tâm của Vatican là biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt theo đạo Ki-tô. Chủ tâm của Hoa Kỳ là biến miền Nam thanh tiền đồn chống Cộng theo nhu cầu giai đọan của "chiến lược be bờ"). .
    2.- Thành tích của các lãnh đạo miền Nam: Các ông Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu là những người lãnh đạo chính quyền quốc gia và chế độ Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa. Điều đáng buồn là những người này không những không có thành tích lăn lộn chìm nổi với nhân dân ta trong cuộc chiến chống lại liên quân giặc xâm lăng Pháp -Vatican, mà lại còn là những người có quá trình gắn liền với liên minh giặc, có thành tích bán nước và làm tay sai cho giặc, bị lịch sử và nhân dân lên án và kết tội là Việt gian phản quốc. Đã là Việt gian mà lên nắm quyền lãnh đạo chính quyền của miền Nam thì làm sao miền Nam có chính nghĩa được?
  10. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Tổng kết: Vậy là trải qua mấy trang tranh luận, bác yuyu rốt cục đã rút lại "3 khoản" trong số "4 khoản" mà bác ấy nêu ra. Rốt cục lại chỉ còn có mỗi "quyền ra báo" là thời nay có vẻ không bằng thời Pháp (bác yuyu đã tự điều chỉnh mình, xin hoan nghênh - xin nhớ là "quyền ra báo" chứ không phải "quyền tự do báo chí" vì thời PHáp thực chất không có quyền này).
    Bây giờ, với bằng chứng là vnexpres - tờ báo điện tử tư nhân đầu tiên ra đời cách đây mấy năm, và sau đó là sự ra đời tiếp tục của tờ "Ngôi sao", đã cho thấy quyền tự do ra báo của nhân dân ở chế độ XHCN ngày nay. Cũng xin nhắc lại rằng dư luận gần đây cho rằng tợ "tintucvietnam" cũng sẽ mở lại trong một ngày gần đây (tờ này bị đóng cửa vì không làm đúgn thủ tục xin phép ra báo - như vậy tức là có một thủ tục hợp pháp để ra báo - các bác chú ý điều này nhé).
    Thân.
    P.S. KHông nên và không cần khoá nick bác yuyu làm gì. Thứ nhất là chúng ta nên giải thích cho những người còn chưa hiểu, chứ không nên buộc họ phải im lặng một cách ấm ức. Thứ hai là tôi chả khoá nick ai bao giờ hết, vì khoá một cái là họ lại tạo nick mới ngay.
    To yuyu: Bác có mắng một số ngưòi là "Sa vào tiểu tiết". Theo tôi bác làm như vậy là không đúng. Những tiểu tiết đó không phải tự họ đưa ra, mà là bác đưa ra. Vậy nếu mắng họ như thế tức là bác đã sa vào tiểu tiết trước tiên. Ở đây đúng ra bác nên cảm ơn người khác đã "bắt giò" mình, vì chúng ta tranh luận không phải vì "Cái tôi" mà vì sự thực. Do đó một người chỉ ra cái sai của mình tức là đã chỉ ra sự thực. Rồi có thể xin lỗi vì đã đưa tin sai (có thể không cần xin lỗi vì bác không cố ý, mà chỉ do nhầm lẫn???). Sau đó bác có thể tiếp túc đưa ra những bằng chứng mới, nếu có.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này