1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thư Bác Hồ gửi ngoại trưỏng Mỹ Robert Lansing tháng 11 năm 1918

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi yuyu, 10/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Bác hãy đọc đi rồi nói.Lập luận như bác từ đầu là:VN bây giờ thua thời thuộc địa vì không có những thứ như bác kể,em chỉ cho bác thấy những thứ ấy chẳng đáng một đòng xu trong XH thuộc địa;Bác lại cố vớt vat:Vậy nó sẽ có giá trong XH Mĩ_Nguỵ,thì em post cho bác biết xem nó đáng giá bao nhiêu!
  2. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    3.- Miền Nam đề cao và nhân danh "dân chủ và tự do" để chống lại "miền Bắc độc tài Cộng Sản". Nhưng miền Nam lại độc tài hơn cả miền Bắc. Nói đến độc tài của một chế độ chính trị là nói đến bộ máy cai trị bằng công an, mật vụ và cảnh sát. Bộ máy công an, mật vụ và cảnh sát của chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm được sử gia Joseph Buttinger ghi nhận như sau:
    "ông Nhu cho thiết lập các nhiều tổ chức kiểm soát nhân dân. Các tổ chức này đã làm cho chế độ bị thù ghét bởi ngay cả những người mà sự ủng hộ của họ hết sức cần thiết cho chế độ. Đó là những người nắm quyền chỉ huy quân đội. Những tổ chức công an, mật vụ và cảnh sát nhận lệnh trực tiếp từ ông Nhu. [Ký giả] Halberstam nói rằng có tới 13 tổ chức cảnh sát, công an và mật vụ khác nhau. Tổ chức mật vụ quan trọng nhất của ông Nhu là một tổ chức gài những chỉ điểm viên vào trong các cơ quan của chính quyền do Bác-sĩ Trần Kim Tuyến làm giám đốc. Tổ chức này có danh xưng tàng hình là Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị Phủ Tổng Thống. Ông Nhu cho tổ chức những buổi họp "tự kiểm thảo" theo kiểu Cộng Sản ở trong Đảng Cần Lao Nhân Vị, và tổ chức Thanh Niên Cộng Hoà mặc đồng phục mà ông là "Vị Lãnh Đạo Tối Cao". Ông bắt chước các phương pháp phát xít để kiểm soát nhân dân. Cái gọi là "Lực Lượng Đặc Biệt" của chế độ và các cung cách mà ông Nhu sử dụng lực lượng này vào năm 1963 giống như vai trò "Đạo Quân Thần Tốc" của chế độ Đức Quốc Xã, thiết lập các tổ mật vụ gài trong các tổ chức này và trong chính quyền, ý đồ tổ chức nhân dân thành những tổ (nhóm nhỏ) mà tổ trưởng phải chịu trách nhiệm về lòng trung thành của các tổ viên, việc tổ chức các cuộc họp tố Cộng, việc sử dụng kỹ thuật tuyên truyền và việc quấy phá nhân dân vốn đã mệt nhoài vì những cuộc mit tinh và biểu tình ủng hộ lãnh tụ vĩ đại và chế độ. Không có một mánh mung chuyên chế độc tài nào là ông Nhu không sử dụng và ông ta luôn luôn làm ra vẻ những mánh mung này là do ông vừa mới sáng chế ra. Chỉ có một thứ vũ khí mà ông không bao giờ nghĩ tới để sử dụng trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa Cộng Sản. Thứ vũ khí đó là chế độ dân chủ."
    ("Nhu created the various instruments of government control over the population that made the Diem regime hated even by people on whose support it depended: the leaders of the armed forces. The regime ''s secret services and special information and police forces took their orders from Nhu. Halberstam says that at one time there exist no less than thirteen different secret police organizations. The most important of Nhu''s secret services was an organization of informers inside the administration headed by Dr. Tran Km Tuyen, whose euphemeric title was Director of Political and Social Research Service of the Presidency. Nhu held Communist-type "self-criticism" sessions in the semisecret Personalist Party, and with his uniformed Republican Youth, of which he was "Supreme Leader", he imitated fascist methods of popular control. The regime''s so-called Special Forces, and the manner in which Nhu used them in 1963, were reminiscent of the role of the Storm Troopers under the Nazis,setting up of secret cells in existing organizations and in the administration, the attempt to organize all citizens into small groups whose leaders were made reponsible for the members'' loyalty, , the propaganda techniques, and the perpetual harassment of a tired population with meetings and "spontaneous" demonstrations in favor of the regime and its great leader. There were not one totalitarian strategem that Nhu did not employ, always pretending that it was his own latest invention. The only weapons he never thought of using in the struggle against Comminism were the weapons of democracy.)" (11)
    Trong khi Miền Bắc lấy đại khối dân nghèo chiếm tỉ lệ trên 80% dân số làm nòng cốt và liên kết với khối trung nông để củng cố quyền lực và thiết lập chế độ độc tài Cộng Sản, thì miền Nam lấy thiểu số giáo dân Gia-tô chưa tới 6% dân số liến kết với thiêu số giầu có và tiểu tư sản thị dân để thiết lập chế độ độc tài tôn giáo. Nói về tàn ác thì mức độ tàn ác và bóc lột, miền Bắc có lẽ phải ngả mũ chào thua chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm. Nói đến mức độ tàn ác của một chế độ là nói đến con số nạn nhân bị bắt giam và sát hại. Con số nạn nhân bị bắt giam và bị sát hại trong các đợt cải cách ruộng đất ở miền Bắc được, sử gia Bernard B. Fall ghi lại trong cuốn The Two Vietnams như sau:
    "Trong khi không thể đưa ra được con số chính xác, nhưng con số phỏng đoán đã được nghiên cứu là vào khoảng gần 50 ngàn người Bắc Việt bị hành hình trong các đợt cải cách ruộng đất, và khoảng gấp đôi con số trên bị bắt đưa đi các trại lao động "(while it?Ts obviously impossible to give precise figures, the best educated guesses on the subject are the probably close to 50,000 North Vietnamese were executed in connection with the land reform and that at least twice as many were arrested and sent to forced labor camps" (12)
    Mới đây, sử gia Pierre Brocheux của Pháp cho rằng con số nạn nhân của phong trào cải cách ruộng đất chỉ từ 15.000 tới 50.000. (13)
    (Cũng nên biết, con số nạn nhân bị bắt giam và bị sát hại ở miền Bắc là do nhu cầu chính trị có tính cách giai đọan của bất kỳ một cuộc cánh mạng chính trị và xã hội nào trong lịch sử để hủy diệt tất cả những đặc quyền, đặc lợi và tàn tích phong kiến và thực dân và giai cấp phong kiến còn sót lại trong nhân dân. Dĩ nhiên là nó chỉ xẩy ra trong một giai đọan đó mà thôi. )
    Trong khi đó, ở miền Nam con số nạn nhân bị chính quyền bắt giam và sát hại lớn hơn gấp hai lần. Con số này được các sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Thập Giá và Lưỡi Gươm ghi lại sự kiện này như sau:
    "Mùa hè năm 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến dịch Tố Cộng và qua luật 10/1959, ông đã lập các Toà Án Quân Sự Đặc Biệt, như bộ máy đàn áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng ba ngày, khỏi có quyền bào chữa, tất cả những người Cộng Sản, những người có quan hệ với Cộng Sản (những chiến sĩ yêu nước chống Pháp, cả cha mẹ và bạn bè của họ), tất cả những bị cáo được xem là phạm đến an ninh quốc gia. Các cuộc càn quét đã dẫn về hàng ngàn "tên đỏ", từ nay gọi là ********* và nhiều người trong số đó đã bị giết... Trong lãnh vực này, tài liệu bí mật của Lầu Năm Góc (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) cũng giống những gì do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phổ biến hồi đó: "Suốt thời gian của cái gọi là Chiến Dịch Tố Cộng được tung ra vào mùa hè năm 1955, từ 50,000 (50 ngàn) đến 100,000 (100 ngàn) người đã bị nhốt vào ngục. Nhưng bản báo cáo có nói, phần lớn những kẻ bị bắt giam đây không phải là đảng viên Cộng Sản". Đó là lời của F. Butterfield viết trong bản phân tích Tài Liệu Lầu Năm Góc (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ). Tác giả còn thêm: "Chương trình công dân vụ, đã thất bại, bởi vì Tổng Thống Diệm hầu như chỉ phát (gửi) toàn những người di cư miền Bắc hay là Công Giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng những thứ người đó không phải là người của họ". (Pentagon Papers, trang 12" (14)
    Sách Vietnam Why Did We Go? ghi nhận con số này rõ ràng hơn và nhiều hơn, nguyên văn như sau:
    "Giữa năm 1955 và 1960, tối thiểu có tới 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người bị hành hình hay bị sát hại bằng cách này hoặc bằng cách khác, 275 ngàn người bị bắt tra vấn và giam giữ. Cuối cùng có tới 500 ngàn (khoảng nửa triệu) người bị cầm tù tại các trại giam. Bộ máy đàn áp của chính quyền Gia-tô (Công Giáo) trở nên hết sức ghê gớm và tàn bạo khiến cho Hoa Kỳ đã phải vừa ngấm ngầm vừa công khai phản đối chính sách Gia-tô hóa quá trơ trẽn của chính quyền Diệm. Nhiều tu sĩ Phật giáo theo gương ni cô Thanh Quang quyết tâm phản đối chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm. Phải can đảm lắm người ta mới có thể chuẩn bị để tự thiêu cho mục đích duy trì niềm tin tôn giáo. Các nam nữ tu sĩ Phật Giáo tự thiêu đã làm sống lại tinh thần Phật Giáo của hàng triệu Phật Giáo đồ khiến cho họ quyết tâm chống lại những luật lệ bất công của chính quyền Diệm. Giáo Hội La Mã chẳng hề tỏ ra đau buồn hay kính phục những người tử đạo Phật Giáo này." ("Beetween 1955 and 1960 at least 24,000 were wounded, while 80,000 people were executed or otherwise murdered, 275,000 had been detained or interrogated. Eventually, about 500,000 were sent to concentration or detention camps. The Catholic state machinery of suppression became so overpowering and ruthless that the US had to protest, privately and officially, the barefaced religious character of Diem''s Catholic policy. Many more Buddhist monks followed the example Nun Nu Thanh Quang in protest against Diem''s Catholic regime. It took tremendous personal courage to prepare oneself for death by fire in order to uphold one''s own religious belief. The self-immolation of Buddhist monks and nuns helped revive the religiosity of millions of Buddhists, who became determined to resist the unjust laws of Diem government. The Catholic Church never expressed any sorrow or admiration for those Buddhist martyrs.") (15)
    Sách Đảng Cần Lao ghi lại con số nạn nhân ở Liên Khu V như sau:
    "Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm có ngờ đâu ông em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu người một cách khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa... đã bị cán bộ Cần Lao giết, vì vu cho là Cộng Sản, phá hoại chế độ... đã được kiểm kê vào các năm 1964-1965 là 300,000 (300 ngàn) người! Hơn ba trăm ngàn người chết oan, để rồi chỉ có một mình [Ngô Đình] Cẩn ở miền Trung đền tội, thật là một điều bất công cùng cực!" (16)
    Chúng ta thấy các nguồn tài liệu trên đây đưa ra ba con số nạn nhân bi giết hại không giống nhau. Linh-mục Trần Tam Tỉnh chỉ nói đến con số nạn nhân bị bắt, bị giam trong các Chiến Dịch Tố Cộng được phát động mùa hè năm 1955 mà thôi, và không nói rõ con số nạn nhân bị sát hại là bao nhiêu. Trong khi đó thì sách Vietnam Why Did We Go? ghi rõ số nạn nhân bị bắt, bị tra vấn, bị thương tật, bị sát hại và bị đưa vào các trại giam. Sách Đảng Cần Lao nói rõ con số nạn nhân bị sát hại ở các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa là 300 ngàn người.
    Sự khác biệt về các con số nạn nhân bị bắt giam, bị tra tấn và bị sát hại trên đây trở thành cái cớ cho tín đồ Gia-tô cuồng tín người Việt cãi cuội để phủ nhận việc tàn sát đồng bào ta trong các chiến dịch "làm sáng danh Chúa" ở Liên Khu V được ngụy trang bằng các Chiến Dịch Tố Cộng của chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm trong thời kỳ này. Sự thật là 3 con số trên đều đúng cả. Chúng ta không biết vì lý do gì Linh-mục Trần Tam Tỉnh đã không nói đến con số nạn nhân bị giết hại (vì chưa nắm vững vẫn đề hay chưa có con số chắc chắn hoặc vì một lý do thầm kín mà ông không tiện nói ra). Ông chỉ nói lửng là "nhiều người trong số đó đã bị giết". Bản văn trong sách "Vietnam Why Did We Go?" nói rõ con số nạn nhân 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn bị giết, 275 ngàn bị tra vấn và 500 ngàn người bị đưa vào các trại giam. Ai đã từng đọc qua các tài liệu nói về những hành động tra tấn của các hung thần Gia-tô và thảm cảnh các trại giam của các chế độ đạo phiệt Gia-tô trong lịch sử thế giới, nhất là vào thời Trung Cổ ở Âu Châu đều biết rõ là tất cả những thành phần thuộc các tôn giáo khác chẳng may lọt vào tay các ông hung thần này đều có thể coi như đã chết. Và, anh em họ Ngô, theo Đại sứ Henry Cabot Lodge là loại người cuồng giáo kiểu Trung Cổ. Và, theo Linh mục đặc phái viên của chính Vatican, tinh thần Ki-tô ở miền Nam Việt Nam vào cuối thập niên 1967 vẫn còn nặng mang tinh thần phe đảng bí mật kiểu Trung Cổ. Khâm sứ Vatican tại Sài Gòn năm 1963 là Savatore d?TAsta cũng phải thú thực rằng ông ta chứng kiến cảnh các nghi can bị công an mật vụ Ngô Đình Diệm tra tấn (torture). Thế mà còn có người viết sử gốc đạo Ki-tô như ông bà Hoàng Ngọc Thành tìm cách lấp liếm, chối tội cho chủ cũ rằng Khâm sứ Vatcan đã lầm lẫn, chẳng bao giờ có chuyện tra tấn nạn nhân, và hai ông bà Thành vẫn nhất định phải tung hô, cùng kêu gọi mọi người đồng xướng, rằng "Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm, Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống." Ông bà Thành chỉ quên không nhắc một điều là "toàn dân Việt Nam" nhớ ơn Tổng thống đến độ phải nổi lên tru diệt đi anh em nhà họ Ngô; và, thực ra nếu có "nhớ" đến họ Ngô, thì toàn dân Việt Nam, hoặc đại đa số Việt Nam, chỉ nhớ đến cái thành tích ba đời Việt gian của cha con, ông cháu Ngô Đình Khả.
  3. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    LỜI KẾT VỀ CÁC CHÍNH QUYỀN MIỀN NAM
    Thứ nhất, chính quyền quốc gia được cho ra đời vào năm 1948 và lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng được cho ra đời vào năm này để lạc dẫn nhân dân Việt Nam trong mưu đồ tái chiếm Việt Nam của Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Vatican. Rồi mấy năm sau, cũng chính liên minh xâm lược này bỏ tiền ra thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và trả lương hàng tháng để quân đội này đánh thuê cho chúng.
    Thứ hai, miền Nam Việt Nam trong thời 1954-1975, nằm dưới ách thống trị độc tài của hai chế độ đạo phiệt Gia-tô giống y như các nước Âu Châu trong thời Trung Cổ. Vì phải sống dưới hai chế độ đạo phiệt Gia-tô này, nhân dân miền Nam mới khốn khổ trong bao nhiêu năm trường.
    Thứ ba, như đã trình bày ở trên, chính quyền quốc gia được liên minh giặc cho ra đời vào năm 1948 cho đến ngày 23/10/1955, nhân vật lãnh đạo là ông Bảo Đại, nhưng ông chỉ đóng vai bù nhìn như triều đình Huế trong thời kỳ 1885-1945. Mọi công việc quản lý nội bộ, ngọai giao, quân sự, kinh tế, tài chánh, thương mại, giáo dục đều nằm trong tay người Pháp và Tòa Thánh Vatican đồng quản lý. Hai chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của ông Gia-tô Ngô Đình Diệm và Đệ Nhị Cộng Hòa của ông Gia-tô Nguyễn Văn Thiệu chỉ là một thứ công cụ do Liên Minh Mỹ-Vatican dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của Vatican và nhu cầu chiến lược "be bờ" chống Cộng Sản của Hoa Kỳ. Như đã trrình bày ở trên, ông Bảo Đại được Pháp và Vatican nuôi dưỡng đào luyện để làm vua bù nhìn cho họ, hai ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là những Việt gian có thành tích bán nước cho Pháp và Vatican trước khi được đưa lên cầm quyền. Người viết xin miền bàn về ông Bảo Đại. Hai ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều không có một chút liêm sỉ tối thiểu của một người lãnh đạo chính quyền và đều không đáng xách dép cho ông Thủ Tướng Sirik Matak và Phó Thủ Tướng Long Beret của nước Cao Mên.
    Ấy thế mà bọn vô tổ quốc, tàn dư của hai chế độ này, ngày nay vẫn còn tác oai tác quái ở trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, vẫn còn diễn những vở hài kịch Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm, Phục Hồi Niềm Tin, Phục Hồi Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa Foundation với dã tâm rước cái "tôn giáo ác ôn" (văn hào Voltaire gọi như vậy) trở lại thống trị dân ta bằng một chế độ đạo phiệt Gia-tô khốn nạn như thời kỳ 1954-1975.
    SƠ LƯỢC VÀI SỰ THẬT VỀ VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG THỜI KỲ 1954-1975
    A.- TIỀN BẠC CỦA HOA KỲ ĐỔ VÀO.- Miền Nam Việt Nam trong những năm 1955-1975 là tiền đồn chống Cộng của Hoa Kỳ với tiền bạc viện trợ Hòa Kỳ đổ vào như nước để thiết lập các căn cứ quân sự và giao cho Giáo Hội La Mã bao thầu công việc quản lý bộ máy cai trị (chính quyền) miền Nam. Cho đến năm 1961, số tiền của Mỹ đổ vào đã lên tới hơn bảy (7) tỷ Mỹ kim. Tính ra mỗi tháng hơn 100 triệu. Sự kiện này được ông Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara ghi lại như sau:
    "Chúng tôi đã thương lượng với Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO) và Hoa Kỳ có thể sẽ tiếp tục bảo vệ Đông Dương. Nên chỉ trong khoảng từ năm 1955 đến năm 1961 chúng tôi đã đổ hơn bảy tỷ Mỹ kim vào miền Nam Việt Nam để giúp đỡ về kinh tê và quân sự." "We had also negotiated the Southeast Asia Treaty (SEATO), con***ionally pledging the United States to protect Indochina. And we had pumped more than $7 biillion in economic and military aid to South Viet Nam from 1988 to 1961". (17)
    Cho đến tháng 4 năm 1975, số tiiền này lên đến hơn 140 tỉ Mỹ kim. Ngoài ra, hàng năm có tới hơn nửa triệu quân nhân và hàng trăm ngàn nhân viên dân sự Mỹ làm việc trong các cơ quan chính quyền và các công ty tư nhân của Hoa Kỳ thả tiền ra tiêu sài hàng ngày và du hí, tạo nên cảnh phồn vinh giả tạo theo định luật "kinh tế giây chuyền" với hơn: 500 ngàn gái điếm, hơn 300 ngàn người làm cho các sở Mỹ, gần một triệu quân nhân, trên 500 ngàn công chức, không biết bao nhiêu ngàn gái bán bar, bao nhiều ngàn chủ bar, bao nhiêu ngàn phụ nữ lấy chồng Mỹ, bao nhiều ngàn người lái xe taxi, bao nhiêu ngàn người đạp xích lô, bao nhiều ngàn người thợ may, bao nhiêu người bán xe bánh mì và giải khát, v.v.., tính ra có đến từ 4 đến 5 triệu người trong số 20 triệu dân miền Nam sông nhờ vào đồng tiền của những người Mỹ hiện diện ở miền Nam vãi ra và tiền viện trợ Mỹ đổ vào xây dựng các căn cứ quân sự để tiến hành chiến tranh. Miền Nam lúc đó thực sự đã trở thành một xã hội " nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng".
    B.- CHÍNH QUYỀN DÂNG NƯỚC VIỆT NAM CHO ĐẾ QUỐC VATICAN.- Sau nhiều năm nghiên cứu, người viết có thể khẳng định rằng trong thời kỳ 1955-1975, miền Nam Việt Nam bị coi như là của riêng của Giáo Hội La Mã. (Tổng Thống Gia-tô Ngô Đình Diệm đã cho tổ chức một buổi lễ vô cùng long trọng vào tháng 2 năm 1959 để chính thức dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Maria (Giáo Hội La Mã ) và có Hồng Y Agagianian đại diện Tòa Thánh Vatican tiếp nhận , việc nước bị coi như là việc riêng của các ông tu sĩ Gia-tô và của người cầm quyền.
    C.- CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BỊ HẠN CHẾ VÀ KIỂM SÓAT CHẶT CHẼ.- Những bài học lịch sử nói về thời Trung Cổ, nhất là những hành động tội ác trùng trùng của Giáo Hội La Mã, đời sống bê bối thối tha của các ông giáo hòang và giới tu sĩ Gia-tô bị cấm tuyệt đối. Các thuyết lý khoa học như thuyết Tiến Hóa của Charles Robert Darwin (1809-1882), các chủ thuyết xã hội, công sản và dân chủ bị hạn chế tối đa.
    D.- NHÂN QUYỀN VÀ CÁC QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ BỊ CHÀ ĐẠP.- Thiểu số tín đồ Gia-tô nắm quyền trị nước, ngang tàng hống hách, tác oai tác quái, tha hồ tung tác, tha hồ gieo tai giáng họa cho nhân dân
    Cụ Phan Khắc Sửu và Bác-sĩ Phan Quang Đán đắc cử dân biểu với số phiếu trên 70% tại đơn vị của họ ở Sàigòn bị loại ra khỏi Quốc Hội một cách ngang ngược, không cần biết đến pháp luật và cũng không cần biết đến dư luận quần chúng.
    Các ông Lê Quang Vinh (Ba Cụt), Hồ Hán Dân, Tạ Chí Diệp, Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Xuân Gia, Vũ Tam Anh, Đại Tá Hòang Thụy Năm, v.v.. kẻ thì bị xử tử, người thì bị ám sát hay bị thủ tiêu.
    Phật Giáo bị kỳ thị và bị triệt hạ, truyền thống văn hóa dân tộc bị miệt thị, bị dồn vào đường cùng phải vùng lên đòi quyền sống.
    Các trụ sở của các tờ báo Tự Do của nhóm ông Hiếu Chân, Đái Đức Tuấn, Bùi Xuân Uyên và tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện bị chính quyền đập phá, nhân viên biên tập bị truy lùng.
    Văn hào Nhất Linh bị bức tử. Những người có nhiệt tâm với đất nước như 18 nhân sĩ trong nhóm Trí Thức Tiến Bộ Caravelle bị truy lùng, bị bắt giam, có người bị thủ tiêu.
    Tướng sạch Nguyễn Văn Hiếu được nhân dân kính mến quý chuộng bị bắn chết giữa thủ đô Sài Gòn mà không hề nói đến việc đem thủ phạm ra xét xử.
    F.- NHỮNG NGƯỜI KHÁC ĐẠO BỊ TÀN SÁT.- Hơn 300.000 (ba trăm ngàn) dân trong các tỉnh thuộc Liên Khu V bị tàn sát trong những năm 1955-1963 qua những chiến dịch "làm sáng danh Chúa" được ngụy trang bằng cụm từ "Chiến Dịch Tố Cộng".
    E.- GIAI CẤP BINH SĨ BÓC LỘT.- Người viết không biết tiền viện trợ của người Mỹ để trả lương hàng tháng cho một người lính miền Nam lúc bấy giờ (từ tháng 7/1954 cho đến giữa năm 1964) là bao nhiêu, nhưng qua bàn tay phù thủy của chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm, tiền lương từ binh nhì đến hạ sĩ (nằm trong giai cấp bị trị) mỗi tháng trừ tiền cơm rồi, binh nhì chỉ có 519 đồng, hạ sĩ khoảng 550 đồng, và tiền phu cấp vợ của một hạ sĩ hay binh nhất hoặc binh nhì mỗi tháng là 30 đồng (tương đương với 6 tô phở), phụ cấp cho mỗi người con của họ mỗi tháng là 100 đồng. Anh em lính quân dịch (bị động viên) trong những năm 1957 và năm 1958 còn thê thảm hơn nữa. Mỗi binh nhì quân dịch chỉ được phát cho có 120 đồng một tháng (4 đồng 1 ngày, chưa được một tô phở lúc đó là 5 đồng).
    Trong khi đó thì tiền lương của một chuẩn úy mới ra trường là 3250 đồng, phụ cấp hàng tháng cho vợ của họ vào khoảng 600 đồng, và mỗi đứa con mỗi tháng khoảng 500 đồng (Nếu không đúng xin quý vị bổ túc). Về phương diện lương bổng, cấp bực chuẩn úy bị xếp vào loại hạ sĩ quan cao cấp (từ trung sĩ đến thương sĩ nhất). Lương của một thiếu úy độc thân mỗi tháng vào khỏang 3.700 đồng, phụ cấp hàng tháng của một người con của một sĩ quan cấp thiếu úy (được coi như là nằm trong giai cấp thống trị) khoảng chừng không dưới 600 đồng và phụ cấp của người vợ lên đến khoảng từ 800 hay 1.000 đồng một tháng.Theo lời một sĩ quan cấp tá cho biết, trong thời 1955-1964, tiền phụ cấp hàng tháng của đứa con thứ 3 của một sĩ quan lên tới 1,300 (một ngàn ba trăm) đồng một tháng. Ghê gớm, kinh khủng và khốn nạn hơn nữa là tiền thưởng cho bọn mật vụ thủ tiêu các thành phần đối lập chính trị như các ông Tạ Chí Diệp, Vũ Tam Anh, Nguyễn Bảo Tòan, Phạm Xuân Gia, v.v..., một nạn nhân là một triệu đồng .(Sẽ được nói rõ ở Chương 5).
    Chúng ta thấy rõ tiền lương hàng tháng của một người lính trong Quân Đội Cộng Hòa Miền Nam còn thua kém cả tiền phụ cấp hàng tháng của một người vợ sĩ quan. Tiền phụ cấp cho vợ một người lính (từ hạ sĩ xuống tới binh nhì) chỉ bằng từ 1/30 đến 1/40 của tiền phụ cấp hàng tháng cho người vợ sĩ quan từ cấp thiếu úy trở lên. Tiền phụ cấp hàng tháng của một đứa con của họ chỉ bằng khỏang 1/7 và 1/13 tiền phụ cấp hàng tháng của một đứa con của sĩ quan. Tình trạng này kéo dài cho đến giữa năm 1964 mới được Tướng Nguyễn Khánh hủy bỏ cùng với Luật Gia Đình của vợ Ngô Đình Nhu (được ban hành vào ngày 2 tháng 1 năm 1959). Binh lính bị đối xử như là nô lệ với đồng lương chết đói như vậy mà lại còn bị cưỡng bách phải mua nước mắm thối do các bà sơ độc quyền bao thầu cung cấp.
    Sự chênh lệch này nói lên tình trạng bất công trong quân đội do những người lãnh đạo chế độ chủ trương để biến quân linh thành một bầy nô lệ.
    G.- TU SĨ VÀ TÍN ĐỒ GIA TÔ TAY SAI CỦA GIÁO HỘI TÁC OAI TÁC QUÁI .- Ngoại trừ thủ đô Sàigòn và các thành phố lớn, các vùng nông thôn được đặt dưới quyền sinh sát của các ông linh mục lãnh chúa hay bọn tay sai. Người dân tất nhiên là khốn khổ trăm bề, còn khốn khổ hơn cả thân phận những người nông nô ở Âu Châu trong thời Trung Cổ. Đặc biệt là những tỉnh thuộc Liên Khu V, Biệt Khu Hải Yến (Cà Mâu) trong các khu dinh điền, trong các khu trù mật và trong các ấp chiến lược là những nơi mà chính quyền đang cho tiến hành Kế Họach Kitô Hóa
  4. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    1. Nguyễn Mạnh Quang, Đệ Nhị Thế Chiến & Chiến Tranh Lạnh (Tacoma, WA: TPS, 1994) tr.157-158
    2. Arno J. "Mayer, The Furies Violence and Terror in the French and Russion Revolution Princeton (New Jersey: Princeton Univ Press, 2000), tr.128-130
    3. Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa 1997), tr. 36
    4. Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, Tập 3, tr. 870.
    5. Chính Đạo, Nhâ⮠Vật Chí,1997, tr. 263
    6. Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu (Fremont, CA: TXB, 1997) tr. 23
    7. Lê Hữu Dản, Sđd ., tr. 24
    8. Robert S. McNamara, In Retrospect The Tragedy And the Lessons Of Vietnam (New York: Times Book Random House. 1995), tr. 83:
    9. Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, 2 tập (Houston, Texas: Văn Hóa, 2003), tập I, tr. 307-308
    10. Chính Đạo, Nhân Vật Chí (1997), tr. 403.
    11. Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A. Praeger, 1967), tập II, tr. 956
    12. Barnard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), tr.155-156
    13. Pierre Brocheux, Ho Chi Minh: Du Révolutionaire à l?Ticône (Hồ Chí Minh: Từ nhà các mạng tới thần tượng) (Paris: Payot, 2003), tr. 225
    14. Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm, Sđd., tr.130-131
    15. Avro Manhattan, Vietnam Why Did We Go? (Chino, CA: Chick Publications, 1984), tr. 117
    16. Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), tr.133
    17. Robert S. McNamara, Sđd., tr. 44
  5. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Em đã trả lời bác yuyu cho câu hỏi mòn mỏi của bác:"tại sao nhân dân ta không được lập toà soạn và phát hành báo " rồi,nhưng ở topic khác,lạc đề nên bị xoá.Bây giờ em trả lời ở đây:Bác hãy thống kê xem VN có bao nhiêu toà soạn và tờ báo.Tất cả của nhà nước,và bác về đọc xem tài sản của nhà nước là của ai?
    Trình độ của bác có vẻ hạn chế,hoặc là bác lấp liếm,dùng từ "nhân dân" làm vỏ bọc,che đậy từ "tư nhân",hay "cá nhân" của bác.Nếu vậy thì bác cũng về đọc sách đi,ráng phân biệt được sự khác nhau của TB và CS,chứ đừng so sánh ngây ngô rồi la lên :ở đây có,sao ở đây không có? sự
  6. tbminh

    tbminh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Tự do báo chí tự do ngôn luận nói chung ở các nước đều được định nghĩa chặt chẽ . Singapore , Malaysia trong thời kỳ đầu phát triển , chính phủ đều siết chặt việc kiểm duyệt . Báo chí thực sự là một vũ khí của chính phủ , về công tác đối ngoại thì chúng là tiếng nói của chính phủ . Ví như Nhật - Tàu mấy ngày nay , chẳng phải báo chí 2 bên đấu khấu quyết liệt đó sao ? Sự đấu khẩu của báo chí 2 nước cũng đồng nghĩa với sự đấu khẩu của 2 chính quyền .
    Về xuất bản thì trước sau gì tư nhân cũng có quyền xuất bản , đó là xu hướng tất yếu . Trước đây chỉ có nhà xuất bản quốc doanh , nay có liên kết xuất bản giữa tư nhân và nhà nước . Quốc hội cũng đã có xem xét để tư nhân hoá ngành xuất bản . Mở ra cũng lắm cái phiền đấy . Tuy nhiên xu hướng là phải mở , cái quan trọng là đúng lúc .
    Về Diệm thì không nói làm gì . Các bác đều biết Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ( ông cũng là nhà văn nổi tiếng , anh trai của nhà văn Thạch Lam ) - người được ***** bổ nhiệm làm trường đoàn đàm phán qua Pháp , cầm chắc Bộ trưởng bộ ngoại giao . Phút cuối ông theo Diệm . Sau phải uống thuốc độc tự tử vì sợ Diệm hành hạ thân xác . Với những người không chung quan điểm , kể cả không phải cộng s. thì Diệm vẫn giết thẳng cánh . 1 là bị thủ tiêu bí mật . 2 là bị bọn mật vụ Tuyến cùng anh cu Ngô Đình Cẩn tra tấn chết đi sống lại . Nhiều người bị bắt , bị nhồi xăng vào bụng cho trương lên , bọn tra tấn nhảy lên bụng mà giẫm . Chết không được mà sống cũng không xong . Ông Tường Tam sợ quá mà lặng lẽ uống thuốc độc .
  7. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Tất cả những tờ báo và nhà xuất bản đó đều là của nhà nước bạn ạ.
    Nhân dân không phải là một thực thể trừu tượng "không ai cả".
    Nhân Dân chính là tôi, là bạn, là mỗi người, là mỗi Cá Nhân, Tư Nhân.
    Các bạn hãy tìm câu trả lời đi ;
    Tại sao Nhân Dân, hay nếu bạn thích ,Tư Nhân không được phép ra báo ?
  8. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi " !
    Không cần tố khổ để lảng tránh hiện thực nữa !
    Cậu hãy trực diện với câu hỏi hiện nay, lúc này ở nước ta :
    Tại sao Nhân Dân không được phép ra báo ?
  9. tbminh

    tbminh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ cho tư nhân ra báo , lập nhà xuất bản , anh Mỹ cho em ít tiền , em sẵn sàng viết bài cho các ảnh .
    Anh cu khác lại được Pháp hậu thuẩn , viết bài cho Pháp . Anh cu kia lại được tàu cho tiền , viết bài cho tàu . Thực tế cái này đã quá rõ dưới chế độ Diệm rồi . Tiếng là tự do ngôn luận báo chí , nhưng những toà soạn thân Diệm , loa của Diệm mới có quyền . Cái nước VN mình nó mệt thế . Chứ như Nhật , có thằng nào đi viết cho Tàu ? Như Hàn , có thằng nào đi viết cho Nhật , cho Bắc Hàn ? Như Thái , có thằng nào viết cho Tàu , cho VN .?
  10. tbminh

    tbminh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Tư nhân ra báo chỉ béo những chú như yuyu , lâu nay bị bịt mõm nên tha hồ về tung hoành . Cứ là cuộc kháng chiến của nhân dân ta là phi nghĩa , là vô ích ... mà anh cu yuyu giã , nhẩy
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này