1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thử bàn xem tiềm lực quân sự của nước nào mạnh nhất trong ASEAN?

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi nguyenk36, 02/04/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    PHẦN THỨ BA
    XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
    Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày nay gồm Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, cảnh sát biển, và công an nhân dân do ********************** lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đồng thời góp phần cùng toàn dân xây dựng đất nước.

    1. Các thành phần lực lượng vũ trang.
    Quân đội nhân dân Việt Nam
    Quân đội nhân dân Việt Nam, nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là một quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, có mục tiêu chiến đấu nhất quán ?ovì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân?.
    Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944. Đó là ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân-đội quân chủ lực đầu tiên-theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, dựa vào sức mạnh của nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nam, sự đoàn kết giúp đỡ của nhân dân và quân đội các nước anh em, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển từ nhỏ đến lớn, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn và trưởng thành vượt bậc. Sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược bắt nguồn từ sự giác ngộ chính trị-tư tưởng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tình đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cán bộ và chiến sĩ, mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong sử dụng những vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam, chiến trường Việt Nam.
    Trong thời kỳ hoà bình xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, công tác, sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ?oQuân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng?.
    Ngày nay, đất nước đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Quân đội nhân dân Việt Nam đang phát huy vai trò nòng cốt trong củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cùng các thành phần khác của lực lượng vũ trang góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân chống mọi mưu đồ, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ cuộc sống và thành quả lao động của nhân dân, xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
    1.1.1. Về tổ chức, Quân đội nhân dân Việt Nam gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương; có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.
    Lực lượng thường trực gồm toàn bộ quân nhân tại ngũ, công chức và công nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội. Trong thời bình, lực lượng thường trực được duy trì ở mức cần thiết tối thiểu, đủ đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên làm nhiệm vụ huấn luyện, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật và vật chất dự trữ. Lực lượng thường trực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng dự bị để bảo đảm nguồn bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần.
    Lực lượng dự bị gồm toàn bộ quân nhân dự bị đã được lựa chọn, sắp xếp để đáp ứng yêu cầu động viên theo kế hoạch động viên. Trong thời bình, lực lượng dự bị được đăng ký, quản lý, tổ chức thành các đơn vị dự bị, được huấn luyện theo chương trình quy định và thực hiện các nhiệm vụ khác tại địa phương. Lực lượng dự bị có đủ các thành phần tương ứng với các thành phần của lực lượng thường trực, gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ các quân chủng, binh chủng của bộ đội chủ lực, địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ tại ngũ, và một số công dân được quy định trong ngạch dự bị.
    Từ khi bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Nhà nước Việt Nam đã quyết định giảm 2/3 quân số thường trực; điều chỉnh chiến lược để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Việc giảm số quân thường trực và điều chỉnh chiến lược được thực hiện đồng thời với việc nâng cao chất lượng mọi mặt, để quân đội đủ sức đối phó với mọi tình huống xung đột vũ trang, chiến tranh đe doạ độc lập, chủ quyền, thống nhất, sự toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc quyền thống lĩnh của ************* Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành quân đội và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quốc phòng. Bộ Quốc phòng có các cơ quan: Bộ Tổng tham mưu; Tổng cục Chính trị; Tổng cục Hậu cần; Tổng cục Kỹ thuật; Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng; Tổng cục II và các tổ chức trực thuộc khác.
    1.1.2. Các thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam
    1.1.2.1. Bộ đội chủ lực
    Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các quân chủng, quân đoàn, binh chủng và bộ đội chuyên môn có khả năng cơ động cao, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong mọi tình huống, mọi lúc, mọi nơi. Ngoài các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có một hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.
    -Lục quân
    Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà gồm các quân khu, quân đoàn binh chủng hợp thành, các binh chủng: pháo binh, công binh, thông tin, hoá học, tăng-thiết giáp, đặc công và các đơn vị trực thuộc Bộ. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược gồm các binh đoàn chủ lực trực thuộc quân khu và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện trong quân khu.
    Lục quân Việt Nam, dưới sự chỉ huy chung của Bộ Tổng tham mưu, đóng vai trò quan trọng trong Quân dội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ, là lực lượng được xây dựng từ ngày đầu thành lập quân đội và đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức và chất lượng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
    Lục quân Việt Nam được trang bị theo hướng hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến trong các điều kiện, địa hình, thời tiết, khí hậu trên đất nước của mình phù hợp với cách đánh mới ngày càng được hoàn thiện. Trải qua thử thách trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Lục quân Việt Nam đã từng bước trưởng thành, luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tạo nên truyền thống vẻ vang. Tất cả các quân đoàn, hầu hết các binh chủng và nhiều đơn vị của Lục quân đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân Việt Nam hiện nay là quân đoàn. Số lượng quân đoàn tuỳ thuộc yêu cầu từng thời kỳ chiến đấu cũng như sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các đơn vị nhỏ hơn có sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội.
    -Hải quân
    Hải quân nhân dân Việt Nam, tiền thân là Cục Phòng thủ bờ biển, thành lập ngày 07 tháng 5 năm 1955, sau đó thành Cục Hải quân (thành lập ngày 24 tháng 02 năm 1959), và chính thức trở thành một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 03 tháng 01 năm 1964 với việc thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân.
    Quân chủng Hải quân có nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và vùng trời trên biển của Việt Nam. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ cũng như trong kháng chiến giải phóng miền Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tham gia các hoạt động chiến đấu trên biển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đặc biệt đã hoàn thành nhiệm vụ thu hồi phần lớn các đảo và quần đảo-phần lãnh thổ của Tổ quốc trên biển-từ tay chế độ Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1989, Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Hải quân nhân dân Việt Nam có các thành phần chiến đấu và bảo đảm với những phương tiện tàu thuyền, vũ khí, trang bị ngày càng hiện đại, đủ sức hoạt động chiến đấu trên các vùng biển của Việt Nam.
    Hải quân nhân dân Việt Nam được tổ chức thành các Vùng Hải quân.
    Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam luôn giữ một vai trò quan trọng trong bảo vệ biển, đảo, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc cũng như các lợi ích kinh tế biển, và là lực lượng nòng cốt hiệp đồng với các lực lượng khác như công an, hải quan, biên phòng, cảnh sát biển để quản lý chặt chẽ vùng biển và các hoạt động kinh tế trên biển của đất nước theo đúng luật pháp của Việt Nam và của quốc tế.
    - Phòng không-Không quân
    Phòng không-Không quân là quân chủng đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân, có chức năng cơ bản là đánh trả các cuộc tiến công đường không của đối phương để bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân, tham gia tác chiến trong các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc độc lập thực hiện nhiệm vụ. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.
    Lực lượng phòng không-không quân trưởng thành từ những đơn vị nhỏ. Đầu tiên mới chỉ có một trung đoàn phòng không được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1953 nhưng đã góp phần quan trọng trong thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, giải phóng một nửa đất nước. Trong cuộc chiến tranh giải phóng, lực lượng phòng không-không quân đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
    Ngày nay, Quân chủng Phòng không-Không quân đã có các sư đoàn phòng không và sư đoàn không quân, từng bước được trang bị các loại máy bay, tên lửa, pháo phòng không, và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác, đang vừa huấn luyện, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ và quản lý vùng trời của Tổ quốc, đồng thời làm các nhiệm vụ khác mà Nhà nước và quân đội giao cho. Do những thành tích trong chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ khác, cả lực lượng không quân và phòng không đều được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày thành lập Quân chủng Phòng không-Không quân là ngày hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân 22 tháng 10 năm 1963.
    - Bộ đội biên phòng
    Bộ đội biên phòng là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng cơ bản là làm nòng cốt chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
    Bộ đội biên phòng được thành lập ngày 03 tháng 3 năm 1959.
    Nhiệm vụ thường xuyên của Bộ đội biên phòng là: Chủ trì phối hợp với các ngành, các lực lượng đứng trên địa bàn trong quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới; duy trì thực hiện các hiệp định, quy chế biên giới và pháp luật về biên giới. Phát hiện và đấu tranh với các hoạt động vi phạm và chống phá của các loại tội phạm, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự ở khu vực biên giới. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại biên phòng, quan hệ với các cơ quan hữu quan các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề về quan hệ biên giới nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, góp phần tạo môi trường ổn định, phục vụ đắc lực cho chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế.
    Các đơn vị Bộ đội biên phòng ở từng địa phương cũng là thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện.
    Bộ đội biên phòng được xây dựng ngày càng vững mạnh, giỏi về nghiệp vụ biên phòng, dân vận, nắm vững pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật và các thông lệ quốc tế, và được trang bị các phương tiện nghiệp vụ biên phòng cùng vũ khí chiến đấu ngày càng hiện đại để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
    Do thành tích chiến đấu và công tác, năm 1979, Bộ đội biên phòng được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    1.1.2.2. Bộ đội địa phương
    Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến tại chỗ, chủ yếu trên địa bàn địa phương và cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân tại địa phương dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) và Ban Chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Bộ đội địa phương được chính thức thành lập ngày 07 tháng 4 năm 1949 theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    Bộ đội địa phương gắn bó chặt chẽ với khu vực phòng thủ, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ chung của cả nước, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm từng khu vực trong chiến tranh nhân dân địa phương kết hợp với chiến tranh nhân dân của cả nước.
    Biên chế và thế bố trí của bộ đội địa phương tuỳ thuộc quy mô và tầm quan trọng của các tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Tùy theo qui mô tổ chức, điều kiện địa hình, hoàn cảnh kinh tế-xã hội của từng địa phương, các đơn vị bộ đội địa phương được trang bị vũ khí với số lượng, kiểu loại phù hợp với yêu cầu tác chiến. Bộ đội địa phương cũng có các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật, các đơn vị phòng không, pháo binh, trinh sát, đặc công và các đơn vị bảo đảm khác.
    Ngày nay, việc tổ chức học tập, huấn luyện cho các đơn vị bộ đội địa phương được tiến hành thường xuyên nhằm nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng phối hợp, hiệp đồng với lực lượng dân quân tự vệ trong chiến đấu, bảo vệ nhân dân và chính quyền địa phương. Lực lượng bộ đội địa phương còn kết hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân tự vệ giữ gìn trật tự an ninh trong địa bàn, giúp huấn luyện dân quân tự vệ và góp phần hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện lực lượng dự bị động viên.
    link http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=15
  2. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    PHẦN THỨ BA
    XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
    Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày nay gồm Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, cảnh sát biển, và công an nhân dân do ********************** lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đồng thời góp phần cùng toàn dân xây dựng đất nước.

    1. Các thành phần lực lượng vũ trang.
    Quân đội nhân dân Việt Nam
    Quân đội nhân dân Việt Nam, nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là một quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, có mục tiêu chiến đấu nhất quán ?ovì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân?.
    Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944. Đó là ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân-đội quân chủ lực đầu tiên-theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, dựa vào sức mạnh của nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nam, sự đoàn kết giúp đỡ của nhân dân và quân đội các nước anh em, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển từ nhỏ đến lớn, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn và trưởng thành vượt bậc. Sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược bắt nguồn từ sự giác ngộ chính trị-tư tưởng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tình đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cán bộ và chiến sĩ, mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong sử dụng những vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam, chiến trường Việt Nam.
    Trong thời kỳ hoà bình xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, công tác, sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ?oQuân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng?.
    Ngày nay, đất nước đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Quân đội nhân dân Việt Nam đang phát huy vai trò nòng cốt trong củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cùng các thành phần khác của lực lượng vũ trang góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân chống mọi mưu đồ, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ cuộc sống và thành quả lao động của nhân dân, xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
    1.1.1. Về tổ chức, Quân đội nhân dân Việt Nam gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương; có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.
    Lực lượng thường trực gồm toàn bộ quân nhân tại ngũ, công chức và công nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội. Trong thời bình, lực lượng thường trực được duy trì ở mức cần thiết tối thiểu, đủ đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên làm nhiệm vụ huấn luyện, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật và vật chất dự trữ. Lực lượng thường trực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng dự bị để bảo đảm nguồn bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần.
    Lực lượng dự bị gồm toàn bộ quân nhân dự bị đã được lựa chọn, sắp xếp để đáp ứng yêu cầu động viên theo kế hoạch động viên. Trong thời bình, lực lượng dự bị được đăng ký, quản lý, tổ chức thành các đơn vị dự bị, được huấn luyện theo chương trình quy định và thực hiện các nhiệm vụ khác tại địa phương. Lực lượng dự bị có đủ các thành phần tương ứng với các thành phần của lực lượng thường trực, gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ các quân chủng, binh chủng của bộ đội chủ lực, địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ tại ngũ, và một số công dân được quy định trong ngạch dự bị.
    Từ khi bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Nhà nước Việt Nam đã quyết định giảm 2/3 quân số thường trực; điều chỉnh chiến lược để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Việc giảm số quân thường trực và điều chỉnh chiến lược được thực hiện đồng thời với việc nâng cao chất lượng mọi mặt, để quân đội đủ sức đối phó với mọi tình huống xung đột vũ trang, chiến tranh đe doạ độc lập, chủ quyền, thống nhất, sự toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc quyền thống lĩnh của ************* Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành quân đội và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quốc phòng. Bộ Quốc phòng có các cơ quan: Bộ Tổng tham mưu; Tổng cục Chính trị; Tổng cục Hậu cần; Tổng cục Kỹ thuật; Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng; Tổng cục II và các tổ chức trực thuộc khác.
    1.1.2. Các thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam
    1.1.2.1. Bộ đội chủ lực
    Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các quân chủng, quân đoàn, binh chủng và bộ đội chuyên môn có khả năng cơ động cao, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong mọi tình huống, mọi lúc, mọi nơi. Ngoài các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có một hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.
    -Lục quân
    Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà gồm các quân khu, quân đoàn binh chủng hợp thành, các binh chủng: pháo binh, công binh, thông tin, hoá học, tăng-thiết giáp, đặc công và các đơn vị trực thuộc Bộ. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược gồm các binh đoàn chủ lực trực thuộc quân khu và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện trong quân khu.
    Lục quân Việt Nam, dưới sự chỉ huy chung của Bộ Tổng tham mưu, đóng vai trò quan trọng trong Quân dội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ, là lực lượng được xây dựng từ ngày đầu thành lập quân đội và đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức và chất lượng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
    Lục quân Việt Nam được trang bị theo hướng hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến trong các điều kiện, địa hình, thời tiết, khí hậu trên đất nước của mình phù hợp với cách đánh mới ngày càng được hoàn thiện. Trải qua thử thách trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Lục quân Việt Nam đã từng bước trưởng thành, luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tạo nên truyền thống vẻ vang. Tất cả các quân đoàn, hầu hết các binh chủng và nhiều đơn vị của Lục quân đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân Việt Nam hiện nay là quân đoàn. Số lượng quân đoàn tuỳ thuộc yêu cầu từng thời kỳ chiến đấu cũng như sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các đơn vị nhỏ hơn có sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội.
    -Hải quân
    Hải quân nhân dân Việt Nam, tiền thân là Cục Phòng thủ bờ biển, thành lập ngày 07 tháng 5 năm 1955, sau đó thành Cục Hải quân (thành lập ngày 24 tháng 02 năm 1959), và chính thức trở thành một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 03 tháng 01 năm 1964 với việc thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân.
    Quân chủng Hải quân có nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và vùng trời trên biển của Việt Nam. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ cũng như trong kháng chiến giải phóng miền Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tham gia các hoạt động chiến đấu trên biển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đặc biệt đã hoàn thành nhiệm vụ thu hồi phần lớn các đảo và quần đảo-phần lãnh thổ của Tổ quốc trên biển-từ tay chế độ Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1989, Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Hải quân nhân dân Việt Nam có các thành phần chiến đấu và bảo đảm với những phương tiện tàu thuyền, vũ khí, trang bị ngày càng hiện đại, đủ sức hoạt động chiến đấu trên các vùng biển của Việt Nam.
    Hải quân nhân dân Việt Nam được tổ chức thành các Vùng Hải quân.
    Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam luôn giữ một vai trò quan trọng trong bảo vệ biển, đảo, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc cũng như các lợi ích kinh tế biển, và là lực lượng nòng cốt hiệp đồng với các lực lượng khác như công an, hải quan, biên phòng, cảnh sát biển để quản lý chặt chẽ vùng biển và các hoạt động kinh tế trên biển của đất nước theo đúng luật pháp của Việt Nam và của quốc tế.
    - Phòng không-Không quân
    Phòng không-Không quân là quân chủng đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân, có chức năng cơ bản là đánh trả các cuộc tiến công đường không của đối phương để bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân, tham gia tác chiến trong các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc độc lập thực hiện nhiệm vụ. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.
    Lực lượng phòng không-không quân trưởng thành từ những đơn vị nhỏ. Đầu tiên mới chỉ có một trung đoàn phòng không được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1953 nhưng đã góp phần quan trọng trong thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, giải phóng một nửa đất nước. Trong cuộc chiến tranh giải phóng, lực lượng phòng không-không quân đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
    Ngày nay, Quân chủng Phòng không-Không quân đã có các sư đoàn phòng không và sư đoàn không quân, từng bước được trang bị các loại máy bay, tên lửa, pháo phòng không, và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác, đang vừa huấn luyện, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ và quản lý vùng trời của Tổ quốc, đồng thời làm các nhiệm vụ khác mà Nhà nước và quân đội giao cho. Do những thành tích trong chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ khác, cả lực lượng không quân và phòng không đều được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày thành lập Quân chủng Phòng không-Không quân là ngày hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân 22 tháng 10 năm 1963.
    - Bộ đội biên phòng
    Bộ đội biên phòng là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng cơ bản là làm nòng cốt chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
    Bộ đội biên phòng được thành lập ngày 03 tháng 3 năm 1959.
    Nhiệm vụ thường xuyên của Bộ đội biên phòng là: Chủ trì phối hợp với các ngành, các lực lượng đứng trên địa bàn trong quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới; duy trì thực hiện các hiệp định, quy chế biên giới và pháp luật về biên giới. Phát hiện và đấu tranh với các hoạt động vi phạm và chống phá của các loại tội phạm, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự ở khu vực biên giới. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại biên phòng, quan hệ với các cơ quan hữu quan các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề về quan hệ biên giới nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, góp phần tạo môi trường ổn định, phục vụ đắc lực cho chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế.
    Các đơn vị Bộ đội biên phòng ở từng địa phương cũng là thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện.
    Bộ đội biên phòng được xây dựng ngày càng vững mạnh, giỏi về nghiệp vụ biên phòng, dân vận, nắm vững pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật và các thông lệ quốc tế, và được trang bị các phương tiện nghiệp vụ biên phòng cùng vũ khí chiến đấu ngày càng hiện đại để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
    Do thành tích chiến đấu và công tác, năm 1979, Bộ đội biên phòng được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    1.1.2.2. Bộ đội địa phương
    Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến tại chỗ, chủ yếu trên địa bàn địa phương và cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân tại địa phương dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) và Ban Chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Bộ đội địa phương được chính thức thành lập ngày 07 tháng 4 năm 1949 theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    Bộ đội địa phương gắn bó chặt chẽ với khu vực phòng thủ, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ chung của cả nước, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm từng khu vực trong chiến tranh nhân dân địa phương kết hợp với chiến tranh nhân dân của cả nước.
    Biên chế và thế bố trí của bộ đội địa phương tuỳ thuộc quy mô và tầm quan trọng của các tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Tùy theo qui mô tổ chức, điều kiện địa hình, hoàn cảnh kinh tế-xã hội của từng địa phương, các đơn vị bộ đội địa phương được trang bị vũ khí với số lượng, kiểu loại phù hợp với yêu cầu tác chiến. Bộ đội địa phương cũng có các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật, các đơn vị phòng không, pháo binh, trinh sát, đặc công và các đơn vị bảo đảm khác.
    Ngày nay, việc tổ chức học tập, huấn luyện cho các đơn vị bộ đội địa phương được tiến hành thường xuyên nhằm nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng phối hợp, hiệp đồng với lực lượng dân quân tự vệ trong chiến đấu, bảo vệ nhân dân và chính quyền địa phương. Lực lượng bộ đội địa phương còn kết hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân tự vệ giữ gìn trật tự an ninh trong địa bàn, giúp huấn luyện dân quân tự vệ và góp phần hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện lực lượng dự bị động viên.
    link http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=15
  3. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Phần ba tiếp theo
    1.2. Dân quân tự vệ
    Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của **********************, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
    Dân quân tự vệ được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị-xã hội (gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ.
    Dân quân tự vệ có lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi, được tổ chức thành các trung đội, đại đội hoặc tiểu đoàn, được trang bị vũ khí thích hợp. Trong thời bình, dân quân tự vệ có chức năng vừa lao động sản xuất, vừa đóng vai trò xung kích trong bảo vệ sản xuất, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, địch họa và các sự cố nghiêm trọng khác, đồng thời phối hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn trật tự xã hội, an ninh chính trị tại địa phương. Trong thời chiến, dân quân tự vệ là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân; làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc tại địa phương.
    Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, nhiều đơn vị dân quân tự vệ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Ngày 28 tháng 3 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng dân quân tự vệ.
    1.3 Cảnh sát biển
    Lực lượng cảnh sát biển được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1998, là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Nhà nước Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mọi hoạt động của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam do Bộ Quốc phòng trực tiếp tổ chức, quản lý và điều hành.
    1.4 Công an nhân dân
    Công an nhân dân Việt Nam, gồm lực lượng an ninh nhân dân và lực lượng cảnh sát nhân dân, có hai chức năng chủ yếu: quản lý nhà nước về lĩnh vực an ninh, trật tự và trực tiếp đấu tranh, chủ động điều tra, phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự. Công an nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1945.
    2. Phương hướng và các biện pháp chủ yếu
    Việt Nam chủ trương duy trì lực lượng vũ trang đủ mạnh, quân số hợp lý, huấn luyện đạt chất lượng cao, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu bảo vệ đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Thực thi các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang trong thời bình, Việt Nam đã tiến hành giảm mạnh số lượng quân thường trực, xây dựng bộ đội địa phương và lực lượng dự bị động viên phù hợp với yêu cầu của tình hình thực tế trong thời bình, đồng thời có khả năng đáp ứng yêu cầu đối phó với các tình huống khẩn cấp ở địa phương. Việc hoàn thiện tổ chức biên chế được tiến hành đồng thời với công tác giáo dục, huấn luyện và nâng cao chất lượng mọi mặt của các thành phần lực lượng vũ trang. Công tác huấn luyện được coi là trọng điểm, và được tiến hành phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ, sát với thực tiễn đất nước và phù hợp với vũ khí trang bị và nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Việt Nam coi trọng việc nâng cao trình độ hiểu biết của quân đội về khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại, nắm vững nghệ thuật tác chiến của từng quân chủng, binh chủng, từng thứ quân cũng như nghệ thuật tác chiến, hiệp đồng binh, quân chủng.
    - Xây dựng về chính trị-tinh thần
    Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, việc xây dựng chính trị-tinh thần là cơ sở để xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt. Bởi vì xét cho cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, yếu tố tinh thần của người cầm vũ khí bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định thắng, bại trên chiến trường.
    Việt Nam chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị cho quân đội theo tinh thần ?oTrung với Đảng, hiếu với dân?; ?oPhát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết đánh giặc giữ nước của cha ông, luôn củng cố trận địa tư tưởng, tạo môi trường văn hoá lành mạnh, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững vàng về chính trị, gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích quốc gia, góp phần giữ gìn hoà bình khu vực và thế giới là sự thể hiện sức mạnh chiến đáu trên mặt chính trị-tư tưởng. Việt Nam chống lại mọi mưu toan của các thế lực thù địch nhằm ?ophi chính trị hoá? lực lượng vũ trang nhân dân.
    - Huấn luyện
    Trong thời bình, đi đôi với xây dựng về mặt chính trị-tinh thần, huấn luyện quân sự là công việc tất yếu để tăng cường sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Quân đội nhân dân Việt Nam coi trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng binh, quân chủng, phát huy tính năng, hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị hiện có bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời coi trọng việc nâng cao kiến thức về công nghệ quân sự hiện đại; đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện cho phù hợp với qui mô tổ chức, trang bị và điều kiện thực tế của từng thứ quân, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
    - Xây dựng đội ngũ sĩ quan và cán bộ chuyên môn kỹ thuật
    Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và xây dựng Quân đội nhân dân, xây dựng đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật nói riêng, là một trọng điểm, cũng là một bộ phận của ?ochiến lược con người?. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của đội ngũ cán bộ khi Người nói: ?oCán bộ là cái gốc của mọi công việc?.
    Mục tiêu cơ bản, lâu dài của việc đào tạo, giáo dục đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân là: Làm cho họ trở thành nòng cốt trong việc xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có đủ sức mạnh bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
    Đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong, năng lực và trình độ học vấn. Hệ thống nhà trường, học viện của Nhà nước, đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định. Với 17 cơ sở đào tạo đại học và 14 cơ sở đào tạo sau đại học, hệ thống học viện nhà trường quân đội đào tạo hàng năm hàng trăm sĩ quan các chuyên ngành khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, quân y, chính trị có trình độ học vấn và trên đại học. Trong đào tạo sĩ quan, cán bộ chuyên muôn kỹ thuật có sự liên kết giữa các nhà trường của lực lượng vũ trang với các cơ sở đào tạo của các cán bộ, ngành khác để tạo nguồn nhân tài dồi dào; kết hợp đào tạo chuyên ngành theo yêu cầu của lực lượng vũ trang với chuẩn bị nghề nghiệp dân sinh cho đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tạo điều kiện cho họ tích lũy vốn kiến thức cần thiết về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, kỹ thuật, công nghệ, quản lý? để khi không còn phục vụ tại ngũ, họ dễ dàng hòa nhập vào đời sống dân sự của cộng đồng. Chính sách đúng đắn về đào tạo có tác dụng động viên khuyến khích, thu hút nhiều thanh niên ưu tú vào các trường đào tạo sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tạo nguồn bổ sung nhân tài về lâu dài.
    - Vũ khí, trang bị kỹ thuật
    Chủ trương chung để bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang là giữ gìn, bảo quản tốt, cải tiến có chọn lọc những vũ khí, trang bị hiện có, kết hợp với sản xuất, mua sắm hợp lý một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cần thiết để đáp ứng yêu cầu tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân. Vấn đề vũ khí, trang bị kỹ thuật được xem xét và giải quyết trên quan điểm coi yếu tố quyết định cuối cùng bao giờ cũng là con người. Sáng tạo cách đánh thông minh, sử dụng vũ khí thích hợp sẵn có đạt hiệu quả chiến đấu cao vốn là nét đặc trưng của quá trình lịch sử vận dụng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
    Các chương trình nghiên cứu-phát triển và ứng dụng công nghệ quân sự cùng các cơ sở công nghiệp quốc phòng của Việt Nam ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu sửa chữa, cải tiến, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang.
    Công nghiệp quốc phòng Việt Nam là bộ phận cấu thành của nền công nghiệp quốc dân, đang được phát triển theo hướng tự lực là chính, đồng thời hợp tác với công nghiệp quốc phòng các nước bè bạn để tiếp thu công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao trình độ phát triển của công nghiệp quốc phòng Việt Nam.
    - Xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam
    Các cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã để lại nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học được xây dựng thành lý luận quân sự độc đáo của Việt Nam. Đó là cả một hệ thống tri thức đã được đúc kết thành quy luật tìm ra sức mạnh giữ nước. Một trong nhưng cơ sở tạo nên nguồn sức mạnh đó là tinh thần cố kết dân tộc của Việt Nam. Tinh thần đó được biểu hiện đầy đủ ở lòng yêu nước, ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường ?ođem sức ta mà giải phóng cho ta?. Khoa học quân sự Việt Nam luôn nhấn mạnh bài học to lớn và sâu sắc đó. Nhờ vậy, những khả năng của toàn dân, của cả dân tộc đã được khai thác và phát huy đến mức tối đa trong hàng nghìn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.
    Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, khoa học quân sự Việt Nam được bổ sung lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời bình. Khoa học quân sự Việt Nam được xây dựng từ cơ sở thực tiễn và lý luận quân sự Việt Nam, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của khoa học quân sự thế giới và áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến những nhân tố mới do tác động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trong lĩnh vực quân sự.
    Đi đôi với sự phát triển khoa học quân sự, ngành kỹ thuật quân sự cũng đang phát huy truyền thống ?ochủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường? trong nghiên cứu-phát triển và ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong huấn luyện và đào tạo cán bộ kỹ thuật để đáp ứng yâu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao.
    Hệ thống chỉ huy đã đáp ứng yêu cầu chỉ huy quân đội và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Ngày nay, những thành tựu khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt về các phương tiện thông tin-liên lạc phục vụ chỉ huy, kiểm soát, tình báo và tiến hành ?ochiến tranh thông tin?. Những thách thức lớn của dạng chiến tranh này đòi hỏi hệ thống chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam phải được hiện đại hoá để có thể đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai. Cải tiến, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin-liên lạc có vai trò quan trọng trong xây dựng sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và của sức mạnh quốc phòng toàn dân.
    link : http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=15
  4. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Phần ba tiếp theo
    1.2. Dân quân tự vệ
    Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của **********************, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
    Dân quân tự vệ được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị-xã hội (gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ.
    Dân quân tự vệ có lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi, được tổ chức thành các trung đội, đại đội hoặc tiểu đoàn, được trang bị vũ khí thích hợp. Trong thời bình, dân quân tự vệ có chức năng vừa lao động sản xuất, vừa đóng vai trò xung kích trong bảo vệ sản xuất, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, địch họa và các sự cố nghiêm trọng khác, đồng thời phối hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn trật tự xã hội, an ninh chính trị tại địa phương. Trong thời chiến, dân quân tự vệ là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân; làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc tại địa phương.
    Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, nhiều đơn vị dân quân tự vệ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Ngày 28 tháng 3 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng dân quân tự vệ.
    1.3 Cảnh sát biển
    Lực lượng cảnh sát biển được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1998, là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Nhà nước Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mọi hoạt động của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam do Bộ Quốc phòng trực tiếp tổ chức, quản lý và điều hành.
    1.4 Công an nhân dân
    Công an nhân dân Việt Nam, gồm lực lượng an ninh nhân dân và lực lượng cảnh sát nhân dân, có hai chức năng chủ yếu: quản lý nhà nước về lĩnh vực an ninh, trật tự và trực tiếp đấu tranh, chủ động điều tra, phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự. Công an nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1945.
    2. Phương hướng và các biện pháp chủ yếu
    Việt Nam chủ trương duy trì lực lượng vũ trang đủ mạnh, quân số hợp lý, huấn luyện đạt chất lượng cao, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu bảo vệ đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Thực thi các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang trong thời bình, Việt Nam đã tiến hành giảm mạnh số lượng quân thường trực, xây dựng bộ đội địa phương và lực lượng dự bị động viên phù hợp với yêu cầu của tình hình thực tế trong thời bình, đồng thời có khả năng đáp ứng yêu cầu đối phó với các tình huống khẩn cấp ở địa phương. Việc hoàn thiện tổ chức biên chế được tiến hành đồng thời với công tác giáo dục, huấn luyện và nâng cao chất lượng mọi mặt của các thành phần lực lượng vũ trang. Công tác huấn luyện được coi là trọng điểm, và được tiến hành phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ, sát với thực tiễn đất nước và phù hợp với vũ khí trang bị và nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Việt Nam coi trọng việc nâng cao trình độ hiểu biết của quân đội về khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại, nắm vững nghệ thuật tác chiến của từng quân chủng, binh chủng, từng thứ quân cũng như nghệ thuật tác chiến, hiệp đồng binh, quân chủng.
    - Xây dựng về chính trị-tinh thần
    Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, việc xây dựng chính trị-tinh thần là cơ sở để xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt. Bởi vì xét cho cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, yếu tố tinh thần của người cầm vũ khí bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định thắng, bại trên chiến trường.
    Việt Nam chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị cho quân đội theo tinh thần ?oTrung với Đảng, hiếu với dân?; ?oPhát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết đánh giặc giữ nước của cha ông, luôn củng cố trận địa tư tưởng, tạo môi trường văn hoá lành mạnh, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững vàng về chính trị, gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích quốc gia, góp phần giữ gìn hoà bình khu vực và thế giới là sự thể hiện sức mạnh chiến đáu trên mặt chính trị-tư tưởng. Việt Nam chống lại mọi mưu toan của các thế lực thù địch nhằm ?ophi chính trị hoá? lực lượng vũ trang nhân dân.
    - Huấn luyện
    Trong thời bình, đi đôi với xây dựng về mặt chính trị-tinh thần, huấn luyện quân sự là công việc tất yếu để tăng cường sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Quân đội nhân dân Việt Nam coi trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng binh, quân chủng, phát huy tính năng, hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị hiện có bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời coi trọng việc nâng cao kiến thức về công nghệ quân sự hiện đại; đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện cho phù hợp với qui mô tổ chức, trang bị và điều kiện thực tế của từng thứ quân, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
    - Xây dựng đội ngũ sĩ quan và cán bộ chuyên môn kỹ thuật
    Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và xây dựng Quân đội nhân dân, xây dựng đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật nói riêng, là một trọng điểm, cũng là một bộ phận của ?ochiến lược con người?. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của đội ngũ cán bộ khi Người nói: ?oCán bộ là cái gốc của mọi công việc?.
    Mục tiêu cơ bản, lâu dài của việc đào tạo, giáo dục đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân là: Làm cho họ trở thành nòng cốt trong việc xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có đủ sức mạnh bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
    Đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong, năng lực và trình độ học vấn. Hệ thống nhà trường, học viện của Nhà nước, đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định. Với 17 cơ sở đào tạo đại học và 14 cơ sở đào tạo sau đại học, hệ thống học viện nhà trường quân đội đào tạo hàng năm hàng trăm sĩ quan các chuyên ngành khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, quân y, chính trị có trình độ học vấn và trên đại học. Trong đào tạo sĩ quan, cán bộ chuyên muôn kỹ thuật có sự liên kết giữa các nhà trường của lực lượng vũ trang với các cơ sở đào tạo của các cán bộ, ngành khác để tạo nguồn nhân tài dồi dào; kết hợp đào tạo chuyên ngành theo yêu cầu của lực lượng vũ trang với chuẩn bị nghề nghiệp dân sinh cho đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tạo điều kiện cho họ tích lũy vốn kiến thức cần thiết về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, kỹ thuật, công nghệ, quản lý? để khi không còn phục vụ tại ngũ, họ dễ dàng hòa nhập vào đời sống dân sự của cộng đồng. Chính sách đúng đắn về đào tạo có tác dụng động viên khuyến khích, thu hút nhiều thanh niên ưu tú vào các trường đào tạo sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tạo nguồn bổ sung nhân tài về lâu dài.
    - Vũ khí, trang bị kỹ thuật
    Chủ trương chung để bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang là giữ gìn, bảo quản tốt, cải tiến có chọn lọc những vũ khí, trang bị hiện có, kết hợp với sản xuất, mua sắm hợp lý một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cần thiết để đáp ứng yêu cầu tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân. Vấn đề vũ khí, trang bị kỹ thuật được xem xét và giải quyết trên quan điểm coi yếu tố quyết định cuối cùng bao giờ cũng là con người. Sáng tạo cách đánh thông minh, sử dụng vũ khí thích hợp sẵn có đạt hiệu quả chiến đấu cao vốn là nét đặc trưng của quá trình lịch sử vận dụng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
    Các chương trình nghiên cứu-phát triển và ứng dụng công nghệ quân sự cùng các cơ sở công nghiệp quốc phòng của Việt Nam ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu sửa chữa, cải tiến, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang.
    Công nghiệp quốc phòng Việt Nam là bộ phận cấu thành của nền công nghiệp quốc dân, đang được phát triển theo hướng tự lực là chính, đồng thời hợp tác với công nghiệp quốc phòng các nước bè bạn để tiếp thu công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao trình độ phát triển của công nghiệp quốc phòng Việt Nam.
    - Xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam
    Các cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã để lại nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học được xây dựng thành lý luận quân sự độc đáo của Việt Nam. Đó là cả một hệ thống tri thức đã được đúc kết thành quy luật tìm ra sức mạnh giữ nước. Một trong nhưng cơ sở tạo nên nguồn sức mạnh đó là tinh thần cố kết dân tộc của Việt Nam. Tinh thần đó được biểu hiện đầy đủ ở lòng yêu nước, ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường ?ođem sức ta mà giải phóng cho ta?. Khoa học quân sự Việt Nam luôn nhấn mạnh bài học to lớn và sâu sắc đó. Nhờ vậy, những khả năng của toàn dân, của cả dân tộc đã được khai thác và phát huy đến mức tối đa trong hàng nghìn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.
    Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, khoa học quân sự Việt Nam được bổ sung lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời bình. Khoa học quân sự Việt Nam được xây dựng từ cơ sở thực tiễn và lý luận quân sự Việt Nam, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của khoa học quân sự thế giới và áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến những nhân tố mới do tác động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trong lĩnh vực quân sự.
    Đi đôi với sự phát triển khoa học quân sự, ngành kỹ thuật quân sự cũng đang phát huy truyền thống ?ochủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường? trong nghiên cứu-phát triển và ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong huấn luyện và đào tạo cán bộ kỹ thuật để đáp ứng yâu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao.
    Hệ thống chỉ huy đã đáp ứng yêu cầu chỉ huy quân đội và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Ngày nay, những thành tựu khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt về các phương tiện thông tin-liên lạc phục vụ chỉ huy, kiểm soát, tình báo và tiến hành ?ochiến tranh thông tin?. Những thách thức lớn của dạng chiến tranh này đòi hỏi hệ thống chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam phải được hiện đại hoá để có thể đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai. Cải tiến, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin-liên lạc có vai trò quan trọng trong xây dựng sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và của sức mạnh quốc phòng toàn dân.
    link : http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=15
  5. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Cuối cùng cũng xong
    Mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế
    Vì lợi ích củng cố hòa bình, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Nhà nước Việt Nam, chính sách quốc phòng Việt Nam chủ trương thiết lập và phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau với lực lượng vũ trang các nước khác.
    Theo hướng đó, Quân đội nhân dân Việt Nam xúc tiến các cuộc viếng thăm trao đổi các cấp, tham gia các hoạt động, các diễn đàn nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin vì mục đích củng cố hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển của khu vực và thế giới trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
    Hàng năm, các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam tham dự nhiều cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế nằm trao đổi quan điểm, học thuật về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới.
    Nhiều đoàn thuộc các học viện, viện nghiên cứu quốc phòng các nước trên thế giới sang thăm Việt Nam đều có các buổi trao đổi cởi mở, bổ ích với các trường sĩ quan, học viện và viện nghiên cứu quốc phòng của Việt Nam. Chiến hạm của nhiều nước đã ghé thăm cảng Việt Nam.
    Một số đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam và lực lượng cảnh sát biển thường xuyên tham gia các hoạt động tuần tra chung trên biển, kiểm soát chống buôn lậu, tìm kiếm, cứu nạn-cứu hộ trên biển và hợp tác cứu trợ thiên tai với một số nước láng giềng.
    Thông qua hoạt động đối ngoại quốc phòng, các cuộc trao đổi quan điểm, học thuật, giới quân sự các nước hiểu rõ về nền quốc phòng toàn dân của Việt Nam, về tính chất tự vệ hòa bình của chính sách quốc phòng Việt Nam. Đó là một đóng góp có ý nghĩa cho hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.
    Trong xu thế chung của tình hình thế giới là hòa bình và hợp tác để phát triển, nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam là duy trì sự ổn định chính trị-xã hội bên trong và môi trường hòa bình bên ngoài để tập trung nỗ lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
    Việc công bố cuốn ?oQuốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI? nhằm góp phần xây dựng lòng tin giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Đó là một trong những cơ sở quan trọng để phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

    PHỤ LỤC 1

    KẾT QUẢ 5 NĂM QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
    Từ năm 1998-2003, theo một đề án tổng thể, quân đội đã tham gia xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh trên các địa bàn chiến lược biên giới, ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
    Sau 5 năm, quân đội đã thành lập được 16 khu kinh tế quốc phòng (KTQP).
    Tại các khu KTQP, các đơn vị đã cùng với chính quyền địa phương xây dựng nên những vành đai xanh cho Tổ quốc, phát triển kinh tế-xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng-an ninh.
    Một số liệu cụ thể:
    - Xây dựng:
    47.522m2 nhà ở
    9.683m2 trạm xá quân-dân y kết hợp
    3.327m2 phòng học
    461,3km đường giao thông
    33 công trình thủy điện vừa và nhỏ
    - Phát triển sản xuất và ổn định dân cư
    Các khu KTQP trực tiếp sản xuất:
    Binh đoàn 15, 16 ở Tây Nguyên khai hoang, trồng được trên 30ha cao su, cà phê, ca cao, tạo việc làm cho 17.000 lao động, trong đó có 5.500 người thiểu số tại chỗ.
    Từ 1992 đến hết 2003: Đỡ đầu, đón nhận 72.203 hộ dân vào làm việc tại các khu KTQP. Riêng trong năm 2003 đã giúp được 6.058 hộ thoát được đói nghèo.
    link : http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=13
  6. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Cuối cùng cũng xong
    Mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế
    Vì lợi ích củng cố hòa bình, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Nhà nước Việt Nam, chính sách quốc phòng Việt Nam chủ trương thiết lập và phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau với lực lượng vũ trang các nước khác.
    Theo hướng đó, Quân đội nhân dân Việt Nam xúc tiến các cuộc viếng thăm trao đổi các cấp, tham gia các hoạt động, các diễn đàn nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin vì mục đích củng cố hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển của khu vực và thế giới trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
    Hàng năm, các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam tham dự nhiều cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế nằm trao đổi quan điểm, học thuật về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới.
    Nhiều đoàn thuộc các học viện, viện nghiên cứu quốc phòng các nước trên thế giới sang thăm Việt Nam đều có các buổi trao đổi cởi mở, bổ ích với các trường sĩ quan, học viện và viện nghiên cứu quốc phòng của Việt Nam. Chiến hạm của nhiều nước đã ghé thăm cảng Việt Nam.
    Một số đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam và lực lượng cảnh sát biển thường xuyên tham gia các hoạt động tuần tra chung trên biển, kiểm soát chống buôn lậu, tìm kiếm, cứu nạn-cứu hộ trên biển và hợp tác cứu trợ thiên tai với một số nước láng giềng.
    Thông qua hoạt động đối ngoại quốc phòng, các cuộc trao đổi quan điểm, học thuật, giới quân sự các nước hiểu rõ về nền quốc phòng toàn dân của Việt Nam, về tính chất tự vệ hòa bình của chính sách quốc phòng Việt Nam. Đó là một đóng góp có ý nghĩa cho hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.
    Trong xu thế chung của tình hình thế giới là hòa bình và hợp tác để phát triển, nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam là duy trì sự ổn định chính trị-xã hội bên trong và môi trường hòa bình bên ngoài để tập trung nỗ lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
    Việc công bố cuốn ?oQuốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI? nhằm góp phần xây dựng lòng tin giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Đó là một trong những cơ sở quan trọng để phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

    PHỤ LỤC 1

    KẾT QUẢ 5 NĂM QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
    Từ năm 1998-2003, theo một đề án tổng thể, quân đội đã tham gia xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh trên các địa bàn chiến lược biên giới, ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
    Sau 5 năm, quân đội đã thành lập được 16 khu kinh tế quốc phòng (KTQP).
    Tại các khu KTQP, các đơn vị đã cùng với chính quyền địa phương xây dựng nên những vành đai xanh cho Tổ quốc, phát triển kinh tế-xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng-an ninh.
    Một số liệu cụ thể:
    - Xây dựng:
    47.522m2 nhà ở
    9.683m2 trạm xá quân-dân y kết hợp
    3.327m2 phòng học
    461,3km đường giao thông
    33 công trình thủy điện vừa và nhỏ
    - Phát triển sản xuất và ổn định dân cư
    Các khu KTQP trực tiếp sản xuất:
    Binh đoàn 15, 16 ở Tây Nguyên khai hoang, trồng được trên 30ha cao su, cà phê, ca cao, tạo việc làm cho 17.000 lao động, trong đó có 5.500 người thiểu số tại chỗ.
    Từ 1992 đến hết 2003: Đỡ đầu, đón nhận 72.203 hộ dân vào làm việc tại các khu KTQP. Riêng trong năm 2003 đã giúp được 6.058 hộ thoát được đói nghèo.
    link : http://www.quandoinhandan.org.vn/quandoinhandan/right.php?id_new=13
  7. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    http://www.dtic.mil/doctrine/jel/jfq_pubs/1636.pdf
    Cái này là bài báo do bác Trà viết. Đọc cũng hay.
  8. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    http://www.dtic.mil/doctrine/jel/jfq_pubs/1636.pdf
    Cái này là bài báo do bác Trà viết. Đọc cũng hay.
  9. CNXH

    CNXH Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    82
    Đã được thích:
    0
    Em mới gia nhập diễn đàn thấy các bác thảo luân rôm rả quá, nhiều lúc cảm thấy lòng tự hào dân tộc lại trỗi dậy. Quả thực về thông tin kỹ thuật quân sự em xin bái phục các bác dày công tìm kiếm. Em chỉ xin được chia sẻ một số ý kiến từ góc độ vĩ mô và lịch sử.
    Tiềm lực quân sự là phạm trù lịch sử. Hôm qua ta mạnh hôm nay ta có thể yếu và ngược lại. Mạnh hay yếu phải đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
    Theo em bên cạnh yếu tố trang bị thì yếu tố quyết định vẫn là yếu tố con người. Trang bị quân sự chỉ là "phần cứng" thôi, cần phải có con người sử dụng, vận hành và sáng tạo ra nó, hay còn gọi là "phần mềm". Ngày nay người ta thường coi trọng đến sức mạnh "mềm" chính là ở yếu tố con người. Không có con người, thì phương tiện chiến tranh hiện đại đến đâu cũng chỉ là những "cục sắt" mà thôi. Ta hình dung bộ máy quân sự như một cỗ máy tính, máy tính có cấu hình mạnh mà không có phần mềm "thông minh" điều hành thì có khác gì đắp chiếu để đấy. Bây giờ ta mua mấy củ Su hào xịn về mà không có pilot đủ tài lái nó thì có khác gì làm bia tập bắn cho mấy chú khựa. Thời xưa cũng là MIG-21, nhưng ở NC thì thắng lợi, nhưng mà ở Trung Đông thì thảm bại.
    Theo em, yếu tố con người trong quân sự thể hiện ở chỗ:
    - Tinh thần và ý chí chiến đấu: về khoản này thì NC mình luôn có ưu thế. Chiến tranh của NC thường là chiến tranh vệ quốc nên tinh thần yêu nước thường được phát huy cao độ. Khả năng "xả thân vì nước" hiếm có nước nào trên thế giới bằng NC. Với tinh thần và ý chí chiến đấu kiên cường, thì ít cũng có thể địch được nhiều.
    - Đoàn kết một lòng: đây vừa là bài học vừa là truyền thống của NC. Lịch sử đánh Khựa của ta cho thấy những lúc ta yếu là những lúc lòng dân ly tán, trên dưới không chung sức chung lòng. Ví như đánh thằng Mông- Nguyên, thời đó sức mạnh quân sự mình sao bằng nó (nó chinh phục khắp Âu- Á, thiện chiến nhất bấy giờ), nhưng đoàn kết một lòng, trên dưới một dạ, quân dân như anh em, vua tôi như cha con... nên thắng nó cũng không quá khó (tới tận 3 lần liền, nếu có đánh lần 4 chắc vẫn thắng thôi..).
    - Tư duy (trí tuệ) quân sự: quân đội mạnh không chỉ nằm ở "phần cứng", mà còn ở tư duy chiến lược, chiến thuật, bày binh bố trận, tổ chức quân đội, biết mình biết người... Bởi mỗi cuộc chiến không chỉ là "đấu súng" mà còn là cuộc "đấu trí" vô cùng quyết liệt. Trong lịch sử chiến tranh với Ghẻ, Mẽo... NC luôn phải đấu với kẻ thù mạnh hơn mình nhiều lần về phương tiện, vật chất, nhưng ta vẫn thắng vì quân ta nổi tiếng có tài thao lược, thông minh, sáng tạo, nghĩ ra nhiều kiểu đánh đến Tây, Tàu cũng chẳng hiểu nổi. Sự thiện chiến hay không chính là ở tư duy, trí tuệ quân sự của tướng chỉ huy, sự thông minh, mưu trí, dũng cảm của binh lính trên chiến trường.
    Những yếu tố "phần mềm" nói trên cho phép chúng ta có thể phát huy trên 100% sức mạnh vốn có của mình. Những yếu tố đó, ít thằng trên thế giới sánh với NC . Nói vậy, em không phủ nhận mình vẫn cần có trang bị hiện đại, không chỉ để phòng thủ mà còn để "dăn đe, rằn mặt". Hơn nữa, trong thời đại KHCN hiện nay, quân đội ta cần phải được trang bị tương xứng với thời đại (tất nhiên làm từng bước sao cho hiệu quả, không quá ham hố chạy đua). Và hơn bao giờ hết phải phát huy cao độ yếu tố con người. Bên cạnh những yếu tố ta có lợi thế, cần đầu tư cho đào tạo KHCN trong quân đội, để nắm bắt công nghệ quân sự tiên tiến, ban đầu thì tiếp thu, sử dụng thành thạo cái đã, rồi sau tuỳ điều kiện có phát triển, sáng tạo ra cái mới cho ta.
    Liên quan đến chủ đề này, đánh giá cảm tính của em mấy thằng ĐNA xét về tổng lực (phần cứng + phần mềm) còn dưới ta. Ta chỉ "rằn" thằng ghẻ Bắc cực thôi.
    Vài dòng xin chia sẻ, lần sau viết tiếp.
  10. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Đúng là chỉ đánh nhau mới biết "thằng" nào mạnh hơn. Nhìn bề ngoài với các trang thiết bị quân sự chỉ là 1 phần thôi, yếu tố con người mới là chính. Thế nên mới cần nhìn nhận lại xem Pháp, Mỹ mạnh như thế còn bị VN đánh cho nhục mặt, mấy chú ASEAN thì có lẽ chỉ thấy quân Thái là khá hơn cả, VN ở ĐNÁ vẫn là số 1
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này