1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thử dịch những mẩu chuyện nhỏ các bạn ơi!!! Mục lục trang 1

Chủ đề trong 'Anh (English Club)' bởi linly, 14/03/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. apricot

    apricot Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Cheering Me On

    I close my eyes as tight as they can go.
    The lights go off, and my imagination switches. Pictures flash through my mind like an old film from the fifties.
    I remember driving home by myself for the first time. Now, I look into the future and imagine that Iam walking across the stage to receive my college diploma. The years pass, and I heat my finacee say "I do." I look further and listen to the gentle gurgles coming from my baby's nursery. A smile discreetly appears as memories pasts and thoughts of the future travel through my soul.
    I journey to memories old my high school graduation, and a tear suddenly trickles down my cheek. I look into the bleachers packed with families and friends. I see my parents wrapped in pride, and I look to their side for Katie and Kevin's approval. But Katie, my older sister, is not there.
    My eyes abruptly open as I am snapped back into reality. I remember being called out of Spanish class in tenth grade and taken to the hospital to see Katie, who had cancer, for the final time. It was an excruciating task, but I found the good in Katie's tragic death.
    Katie's room is exactly the way she left it on a Friday night in September, 1993, when she was carried to the ambulance on a stretcher. Her James Dean poster hangs on one wall; her elementary school and collection of porcelain masks hangs on the others. Her bed is neatly made and lined with stuffed animals--- typical of a girl who would visit her sloppier friends and, without prompting, start vacuuming their rooms.
    Katie died just a few weeks into her freshman year at the University of Miami. At eighteen she 5'55'' tall and had straight shoulder length blonde hair, big blue eyes, and pale clear skin. She senior year in high school, Katie was the varsity cheerleader captain and valedictorian.
    More importantly, though, she was my best friend. After all, when she was six years old, she had declared herself old enough to take care of her little sister and brand new baby brother, because she thought our mother was not sharing us enough with her. This caring attitude continued throughout her life. Katie would always braid my hair, go shopping with me, and let me go out with her and her friends when I was lonely and bored. Katie woukd always tutor Kevin, who has a learning disability, when he needed help with his homework. She would continually drill him on his studies until he got it right. Afterwards, she would take him to go get ice cream as a reward. Clearly, Katie was not just our older sister. She was also out teacher, friend, and second mother.
    Katie always surrounded herself with friends. She was constantly opening her ears, heart, and arms to someone in need. The phone was constantly ringing and her room was always crowded with people in it. Now, my house is silent.
    I realize that getting caught in a pool of depression only leads to drowning. I live by looking for the positive in the worst situations. I now have a relationship with my parents and brother that means everything to me. I know what is important in life, and it is not always partying and getting A's. But most of all, I know that I can handle anything. Life is not easy, but I overcame one of its toughest obstacles.
    I believe, the hardest part of death is the experiences it steals. Katie will not be clapping for me when I finally get my college diploma or giving me advice on my wedding day. My children will only hear stories of the girlhood of their aunt, both stories of reality and an imagined future.
    I close my eyes as tight as they can go.
    A diploma is placed in my hand. "I do" choes from a distance. Katie says she loves me and hugs me tight on a September afternoon in 1993. Just before I cross my high school au***orium stage, I look out at the spectators in the bleachers, and I see mother and father and Kevin.
    Katie is sitting right beside them, cheering me on.
    ****************
    Tôi nhắm nghiền mắt lại.
    Ánh sáng biến mất và trí tưởng tượng thức dậy. Những hình ảnh chợt hiện lên trong tâm trí tôi như một bộ phimm cổ từ những năm 50.
    Tôi nhớ lại lần đầu tiên tự mình lái xe về nhà. Giờ đây, tôi hướng về tương lai và tưởng tượng rằng mình đang bước trên sân khấu để nhận tấm bằng Đại học. The years pass, and I heat my finacee say "I do." I look further and listen to the gentle gurgles coming from my baby's nursery. Một nụ cười ẩn dấu khi kí ức của quá khứ và những suy nghĩ về tương lai hiện lên trong tôi.
    Tôi nhớ về kỉ niệm ngày tốt nghiệp phổ thông, nước mắt bỗng dưng lăn trên má. Tôi nhìn xuống chỗ ngồi khán đài có gia đình và bạn bè của mình. Tôi nhìn thấy cha mẹ trong niềm hãnh diện và tìm bên cạnh chị Katie và Kevin. Nhưng Katie_ chị của tôi không còn ở đó.
    Tôi đột ngột mở mắt khi bị kéo trở lại hiện thực. Tôi nhớ khi được gọi ra khỏi lớp học tiếng Tây Ban Nha hồi lớp 10 và đưa tới bệnh viện để gặp chị Katie lần cuối, chị tôi bị ung thư. Đó là việc hết sức đau đớn nhưng I found the good in Katie's tragic death.
    Phòng của chị y như lúc chị rời đi vào cái đe^m thứ 6 của tháng 9 năm 1993 ấy, khi chị được đưa trên cáng vào cấp cứu. Cái ảnh James Dean của chị treo trên tường. Track ribbons hồi học phổ thông và bộ sưu tập mặt nạ bằng sứ treo ở những chỗ khác. Giường ngủ with stuffed animals gọn gàng ngăn nắp_điển hình của người con gái tới nhà đứa bạn luôm thuộm mà bắt tay vào dọn dẹp ngay hộ chứ không nhắc nhở.
    Chị Katie mất chỉ sau vài tuần khi chị trở thành sinh viên Đại học năm thứ nhất ở Miami. Ở tuổi 18, chị cao 5'55'' và có mái tóc ngang đến vai, đôi mắt to màu xanh, với làn da trắng trẻo hơi xanh.
    Năm học phổ thông, chị là trưởng lớp vui vẻ vf thay mặt cho học sinh đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp.
    Quan trọng hơn, dù cho thế nào thì chị vẫn luôn là người bạn yêu quí nhất của tôi. Khi có 6 tuổi, chị đã tuyên bố mình đủ lớn để trông lo cho em gái là tôi và đứa em trai mới sinh, vì chị nghĩ mẹ was not sharing us enough with her. Cả cuộc đợi chị quan tâm tới mọi ngưới. Chị luôn thắt bím nơ cho tôi, cho đi mua sắm và đẫn tôi đi chơi cùng bạn của chị khi tôi cảm thấy lẻ loi buồn chán. Chị luôn kèm Kevin_ cái đứa em không học nổi ấy làm bài tập. Chị liên tục ôn tập bài vở cho tới khi nó làm đúng. Sau đó thì dẫn nó đi ăn kem như phần thưởng. Rõ ràng chị Katie không chỉ là người chị gái. Chị còn là một cô giáo, một người bạn, người mẹ thứ hai của chúng tôi.
    Chị luôn có những người bạn xung quanh. Chị luôn lắng nghe mở rộng trái tim, vòng tay với mọi người trong lúc hoạn nạn. Điện thoại không ngừng reo và phòng chị luôn có đông người. Giờ đây, ngôi nhà của tôi thật yên ắng.
    Tôi nhận ra rằng khi cứ chìm trong sự phiền muộn chỉ đưa người ta đến chỗ chết đuối. Tôi tìm ra những điều lạc quan trong những hoàn cảnh đau khổ nhất để sống. Tình thương của tôi với cha mẹ, em trai có ý nghĩa trên tất cả mọi thứ. Tôi nhận thức điều gì là quan trọng trong cuộc sống and it is not always partying and getting A's. Nhưng trên hết, tôi biết tôi có thể có tất cả. Cuộc sống không dễ dàng nhưng tôi đã vượt qua một trong những thử thách khắc nghiệt nhất. I believe, the hardest part of death is the experiences it steals. Chị Katie không còn để vui cùng tôi khi mà cuối cùng tôi đã nhận đuợc tấm bằng Đại học hay cho tôi những lời khuyên trong ngày cưới. Các con tôi sẽ chỉ được nghe những câu chuyện về thời con gái của bác chúng, chuyện có thực hay một tương lai được tưởng tượng ra.
    Mắt tôi nhắm nghiền.
    Tấm bằng Đại học đang ở trong tay tôi. Tiếng nói " Tôi làm đấy" vọng lại từ xa. Chị Katie nói rất thương tôi và ôm chắt tôi vào cái buổi chiều tháng 9 năm 1993 ấy. Trước khi lên sân khấu của trường, tôi hướng về những người tham dự dưới khán đài, tôi thấy bố, mẹ, em Kevin.
    Chị Katie ngồi bên cạnh gia đình, đang mỉm cười khích lệ tôi.
    a sleepless night

    apricot
  2. longatum

    longatum Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/10/2001
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Bạn Apricot hăng hái quá Tớ lười với dốt văn lắm nên không ngồi chau chuốt dịch được... cho phép tớ đóng vai biên tập nhá tớ cũng không dám sửa nhiều đâu, chỉ mấy chỗ mà bạn Apricot không hiểu thôi nhá.
    The years pass, and I heat my finacee say "I do." (cái này là typo rồi. Nguyên văn chắc phải là: The years pass and I hear my fiancé say "I do." Cái này dịch cũng khoai vì nó không ra phong tục VN lắm. Fiancé ở đây dịch là "Chồng chưa cưới"??? Còn nói "I do" tức là lúc ở trong nhà thờ làm lễ, cha cố hỏi là con A chịu cưới thằng B không, thằng B chịu cưới con A không "I do" là câu trả lời tương đường với "Con muốn/Con chịu" nhưng mà nhét vào context tiếng Việt thì cụt quá, bác nào cao thủ thì dịch cái) I look further and listen to the gentle gurgles coming from my baby's nursery.(câu này tắc nhất là từ gurgle, tớ cũng chịu không biết dịch sao. Gurgle nghĩa kiểu như là tiếng róc rách của nước chẩy vậy, tớ chưa đến baby's nursery bao giờ nên không biết cái tiếng ấy nó ra làm sao)
    I found the good in Katie's tragic death.( từ cái chết đau thương của Katie, tôi tìm thấy được những điều ý nghĩa)
    Giường ngủ with stuffed animals (stuffed animals là thú nhồi bông)
    Chị Katie mất chỉ sau vài tuần khi chị trở thành sinh viên Đại học năm thứ nhất ở Miami. Ở tuổi 18, chị cao 5'55'' và có mái tóc (tóc vàng thì phải, tóc vàng thì mới đẹp) ngang đến vai, đôi mắt to màu xanh, với làn da trắng trẻo hơi xanh.
    Năm học phổ thông, chị là trưởng lớp vui vẻ vf thay mặt cho học sinh đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp. (hì hì, cái này đúng là khó dịch. Captain of varsity cheerleader nghĩa là đội trưởng đội cổ vũ thể thao. Ở Mẽo Varsity trong trung học là để ám chỉ thể thao, lên đại học cũng thế. Mỗi trường đều có một đội cổ vũ gọi là cheerleader. Valedictorian nghĩa chính là sinh viên xuất sắc nhất khoá. Ở lễ tốt nghiệp trung học, thường thì các trường đều cho valedictorian của khoá lên đọc diễn văn kết thúc năm học.)
    Chị luôn kèm Kevin_ cái đứa em không học nổi ấy làm bài tập. (learning disability là một dạng như bệnh lý ấy. Có nhiều người không có khả năng học tập được như người bình thường, những người này được gọi là có learning disability, dịch sao tớ lại cũng chịu. Tớ có đọc qua một thuật ngữ tiếng Việt để chỉ cái này rồi nhưng lại là dùng một cục tiếng Hán chắp vào - kiểu mà các bác dịch giả ở nhà hay làm - nên tớ ghét lắm và không nhớ.)
    and it is not always partying and getting A's (cuộc sống không chỉ là những buổi nhậu nhẹt - party tiếng Việt có nghĩa là liên hoan đấy, nhưng mà từ liên hoang không đủ để chỉ cái độ bia bọt của college party tại Mỹ đâu - và những chuỗi điểm A - Ở Mỹ điểm được tính theo A, B, C, D, F. Một cái stereotype về chuyện vào đại học của sinh viên Mỹ hiện nay là: vào đại học chỉ để 1: nhậu (party) và 2: lấy điểm A: getting A's)
    I believe, the hardest part of death is the experiences it steals.(tôi tin rằng, những gì khắc nghiệt nhất của cái chết nằm trong những gì mà nó lấy đi. -- hehe, version của tớ, nghe chuối quá nhưng dịch nôm ra nó kiểu kiểu thế.)
    ----------------------------------------------------------------------------
    Final words: tớ nhận ra sự thực phũ phàng là đời tớ chắc chẳng bao giờ làm được thằng dịch giả cho ra hồn. Cái khó nhất trong dịch chính là ở cái khác biệt văn hoá. Apricot dịch rất tốt và những gì mà bạn tắc chủ yếu là vì bạn không biết nhiều về văn hoá và đời sống thường ngày tại Mỹ thôi. 1 năm trước đây, có lẽ mình cũng như bạn, không thể biết được mấy cái đấy đâu.
    mà cái bài này lấy đâu ra thế. Nghe như là college application essay ý.

    One impulse from a vernal wood
    May teach you more of man
    Of moral evil and of good
    Than all the sages can
  3. longatum

    longatum Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/10/2001
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Bạn Apricot hăng hái quá Tớ lười với dốt văn lắm nên không ngồi chau chuốt dịch được... cho phép tớ đóng vai biên tập nhá tớ cũng không dám sửa nhiều đâu, chỉ mấy chỗ mà bạn Apricot không hiểu thôi nhá.
    The years pass, and I heat my finacee say "I do." (cái này là typo rồi. Nguyên văn chắc phải là: The years pass and I hear my fiancé say "I do." Cái này dịch cũng khoai vì nó không ra phong tục VN lắm. Fiancé ở đây dịch là "Chồng chưa cưới"??? Còn nói "I do" tức là lúc ở trong nhà thờ làm lễ, cha cố hỏi là con A chịu cưới thằng B không, thằng B chịu cưới con A không "I do" là câu trả lời tương đường với "Con muốn/Con chịu" nhưng mà nhét vào context tiếng Việt thì cụt quá, bác nào cao thủ thì dịch cái) I look further and listen to the gentle gurgles coming from my baby's nursery.(câu này tắc nhất là từ gurgle, tớ cũng chịu không biết dịch sao. Gurgle nghĩa kiểu như là tiếng róc rách của nước chẩy vậy, tớ chưa đến baby's nursery bao giờ nên không biết cái tiếng ấy nó ra làm sao)
    I found the good in Katie's tragic death.( từ cái chết đau thương của Katie, tôi tìm thấy được những điều ý nghĩa)
    Giường ngủ with stuffed animals (stuffed animals là thú nhồi bông)
    Chị Katie mất chỉ sau vài tuần khi chị trở thành sinh viên Đại học năm thứ nhất ở Miami. Ở tuổi 18, chị cao 5'55'' và có mái tóc (tóc vàng thì phải, tóc vàng thì mới đẹp) ngang đến vai, đôi mắt to màu xanh, với làn da trắng trẻo hơi xanh.
    Năm học phổ thông, chị là trưởng lớp vui vẻ vf thay mặt cho học sinh đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp. (hì hì, cái này đúng là khó dịch. Captain of varsity cheerleader nghĩa là đội trưởng đội cổ vũ thể thao. Ở Mẽo Varsity trong trung học là để ám chỉ thể thao, lên đại học cũng thế. Mỗi trường đều có một đội cổ vũ gọi là cheerleader. Valedictorian nghĩa chính là sinh viên xuất sắc nhất khoá. Ở lễ tốt nghiệp trung học, thường thì các trường đều cho valedictorian của khoá lên đọc diễn văn kết thúc năm học.)
    Chị luôn kèm Kevin_ cái đứa em không học nổi ấy làm bài tập. (learning disability là một dạng như bệnh lý ấy. Có nhiều người không có khả năng học tập được như người bình thường, những người này được gọi là có learning disability, dịch sao tớ lại cũng chịu. Tớ có đọc qua một thuật ngữ tiếng Việt để chỉ cái này rồi nhưng lại là dùng một cục tiếng Hán chắp vào - kiểu mà các bác dịch giả ở nhà hay làm - nên tớ ghét lắm và không nhớ.)
    and it is not always partying and getting A's (cuộc sống không chỉ là những buổi nhậu nhẹt - party tiếng Việt có nghĩa là liên hoan đấy, nhưng mà từ liên hoang không đủ để chỉ cái độ bia bọt của college party tại Mỹ đâu - và những chuỗi điểm A - Ở Mỹ điểm được tính theo A, B, C, D, F. Một cái stereotype về chuyện vào đại học của sinh viên Mỹ hiện nay là: vào đại học chỉ để 1: nhậu (party) và 2: lấy điểm A: getting A's)
    I believe, the hardest part of death is the experiences it steals.(tôi tin rằng, những gì khắc nghiệt nhất của cái chết nằm trong những gì mà nó lấy đi. -- hehe, version của tớ, nghe chuối quá nhưng dịch nôm ra nó kiểu kiểu thế.)
    ----------------------------------------------------------------------------
    Final words: tớ nhận ra sự thực phũ phàng là đời tớ chắc chẳng bao giờ làm được thằng dịch giả cho ra hồn. Cái khó nhất trong dịch chính là ở cái khác biệt văn hoá. Apricot dịch rất tốt và những gì mà bạn tắc chủ yếu là vì bạn không biết nhiều về văn hoá và đời sống thường ngày tại Mỹ thôi. 1 năm trước đây, có lẽ mình cũng như bạn, không thể biết được mấy cái đấy đâu.
    mà cái bài này lấy đâu ra thế. Nghe như là college application essay ý.

    One impulse from a vernal wood
    May teach you more of man
    Of moral evil and of good
    Than all the sages can
  4. Nguoi_Thao_Luan_new

    Nguoi_Thao_Luan_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/03/2002
    Bài viết:
    101
    Đã được thích:
    0
    Longatum phân biệt chủng tộc í quên giới tính nhá, chả chịu giải đáp thắc mắc cho tớ gì cả

    Tiếp truyện nữa nhé. Đây là truyện "La derniere classe" trong tập "Les contes du Lundi" của Alphonse Daudet. Tớ vẫn trung thành với... bản dịch tiếng Anh với tinh thần học tiếng Anh.
    The Last Lesson
    Alphonse Daudet

    I started for school very late that morning and was in great dread of a scolding, especially because M. Hamel had said that he would question us on participles, and I did not know the first word about them. For a moment I thought of running away and spending the day out of doors. It was so warm, so bright! The birds were chirping at the edge of the woods; and in the open field back of the sawmill the Prussian soldiers were drilling. It was all much more tempting than the rule for participles, but I had the strength to resist, and hurried off to school.
    When I passed the town hall there was a crowd in front of the bulletin-board. For the last two years all our bad news had come from there?"the lost battles, the draft, the orders of the commanding officer?"and I thought to myself, without stopping:
    ?oWhat can be the matter now??
    Then, as I hurried by as fast as I could go, the blacksmith, Wachter, who was there, with his apprentice, reading the bulletin, called after me:
    ?oDon?Tt go so fast, bub; you?Tll get to your school in plenty of time!?
    I thought he was making fun of me, and reached M. Hamel?Ts little garden all out of breath. Usually, when school began, there was a great bustle, which could be heard out in the street, the opening and closing of desks, lessons repeated in unison, very loud, with our hands over our ears to understand better, and the teacher?Ts great ruler rapping on the table. But now it was all so still! I had counted on the commotion to get to my desk without being seen; but, of course, that day everything had to be as quiet as Sunday morning. Through the window I saw my classmates, already in their places, and M. Hamel walking up and down with his terrible iron ruler under his arm. I had to open the door and go in before everybody. You can imagine how I blushed and how frightened I was.
    But nothing happened. M. Hamel saw me and said very kindly:
    ?oGo to your place quickly, little Franz. We were beginning without you.?
    I jumped over the bench and sat down at my desk. Not till then, when I had got a little over my fright, did I see that our teacher had on his beautiful green coat, his frilled shirt, and the little black silk cap, all embroidered, that he never wore except on inspection and prize days. Besides, the whole school seemed so strange and solemn. But the thing that surprised me most was to see, on the back benches that were always empty, the village people sitting quietly like ourselves; old Hauser, with his three-cornered hat, the former mayor, the former postmaster, and several others besides. Everybody looked sad; and Hauser had brought an old primer, thumbed at the edges, and he held it open on his knees with his great spectacles lying across the pages.
    While I was wondering about it all, M. Hamel mounted his chair, and, in the same grave and gentle tone which he had used to me, said:
    ?oMy children, this is the last lesson I shall give you. The order has come from Berlin to teach only German in the schools of Alsace and Lorraine. The new master comes to-morrow. This is your last French lesson. I want you to be very attentive.?
    What a thunderclap these words were to me! Oh, the wretches; that was what they had put up at the town-hall!
    My last French lesson! Why, I hardly knew how to write! I should never learn any more! I must stop there, then! Oh, how sorry I was for not learning my lessons, for seeking birds?T eggs, or going sliding on the Saar! My books, that had seemed such a nuisance a while ago, so heavy to carry, my grammar, and my history of the saints, were old friends now that I couldn?Tt give up. And M. Hamel, too; the idea that he was going away, that I should never see him again, made me forget all about his ruler and how cranky he was.
    ----------------------------------------------------------------------------
    Bài học cuối cùng
    Sáng nay tôi đi học muộn và rất sợ một trận quở mắng. Thầy Hamel nói rằng sẽ kiểm tra chúng tôi về phân từ mà tôi thì chưa biết một chữ nào cả. Tôi định trốn học và chơi cả ngày ở ngoài trời. Hôm nay trời ấm và quang đãng. Chim hót líu lo bên bìa rừng, và quân Phổ đang tập luyện trong cánh đồng sau xưởng cưa. Những thứ này thực sự hấp dẫn hơn quy tắc về phân từ, nhưng tôi vẫn có đủ sức mạnh để kháng cự và chạy vội đến trường.
    Khi tôi đi nang qua toà thị chính, một đám đông đang tụ tập trước bảng thông báo. Suốt hai năm qua chúng tôi đã đón nhận toàn tin xấu tại đây : những cuộc chiến bại, những cuộc tuyển lính, những lệnh của sỹ quan chỉ huy. Tôi tự nhủ, vẫn không dừng lại :
    "Còn gì có thể xảy ra bây giờ được nữa ?"
    Khi tôi chạy nhanh hết sức lực, bác thợ rèn Wachter đang đứng đó đọc bảng tin cùng với người thợ học việc, gọi với theo tôi:
    "Này nhóc, chạy nhanh làm gì, kiểu gì thì cháu cũng đến trường sớm thôi".
    Tôi nghĩ bác ấy giễu tôi, và chạy bở hơi tai đến tận chiếc vườn nhỏ của thày Hamel. Bình thường thì từ phố có thể nghe thấy tiếng huyên náo ở đây mỗi khi vào học, tiếng đóng mở bàn, tiếng học sinh đồng thanh đọc bài trong khi tay bịt tai để hiểu bài hơn, và tiếng thày giáo gõ thước trên bàn. Nhưng nay sao yên tĩnh quá ! Tôi đã định đến chỗ ngồi trốn không để thày giáo thấy, nhưng hôm nay mọi thứ đều yên ắng như sáng chủ nhật vậy. Qua cửa sổ tôi thấy bạn bè đã vào chỗ ngồi, và thầy Hamel đi lên đi xuống, tay cầm chiếc thước sắt đáng sợ. Tôi phải mở cửa và đi vào trước mặt mọi người. Bạn có thể tưởng tượng tôi ngượng chín mặt và sợ hãi như thế nào.
    Nhưng không có gì xảy ra cả. Thày Hamel thấy tôi và ân cần bảo tôi:
    " Vào chỗ nhanh lên Franz. Cả lớp đã bắt đầu mà không có em rồi ".
    Tôi trèo qua ghế và ngồi vào bàn. Đến khi đó, khi đã bớt sợ, tôi mới nhận thấy thày giáo đang mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp, đội chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy không bao giờ mặc trừ những ngày thanh tra và những ngày trao giải thưởng. Ngoài ra trường hôm nay trông thật lạ và trang trọng. Nhưng điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là, trên những chiếc ghế đen trước đây luôn luôn trống vắng, nhiều dân làng đang ngồi và cũng yên lặng như chúng tôi; ông già Hauser với chiếc mũ ba góc, ông thị trưởng cũ, bác đưa thư cũ, và vài người khác. Mọi người trông có vẻ buồn bã, ông Hauser mang theo một quyển sách vỡ lòng cũ kỹ, mép đã nhàu nát, ông mở rộng sách trên đầu gối và đặt đôi kính ngang trang sách.
    Khi tôi phân vân chưa rõ mọi chuyện thì thày Hamel ngồi lên ghế, và vẫn với giọng nghiêm nghị, hiền lành như mọi ngày, thầy nói :
    "Các em thân mến, đây là bài học cuối cùng mà thầy dạy các em. Lệnh mới đến từ Berlin chỉ cho phép dạy tiếng Đức trong các trường ở Alsace và Lorraine. Thày giáo mới sẽ đến đây ngày mai. Đây là bài học tiếng Pháp cuối cùng của các em. Thầy mong các em sẽ chăm chú."
    Những lời này như làm tôi thấy như bị sét đánh ! Những người tội nghiệp, đó chính là những gì người ta đã yết thị tại toà thị chính !
    Bài học tiếng Pháp cuối cùng của tôi ! Tại sao, khi hầu như tôi không biết viết ! Tôi sẽ không bao giờ được học thêm gì nữa. Thế là phải dừng lại ở đây thôi sao ! Ôi, thật ân hận vì những lần không học bài đi tìm trứng chim hoặc đi trượt trên Saar ! Đống sách của tôi, mà vừa một lát trước đây tôi còn thấy thật phiền nhiễu, thật khó để mang vác, rồi ngữ pháp, rồi câu chuyện về các thánh, nay trở thành những người bạn cũ mà tôi không thể từ bỏ được. Cả thầy Hamel nữa, cái ý nghĩ rằng thầy sắp đi xa, rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp thầy nữa, làm tôi quên hết tất cả về chiếc thước và tính cáu kỉnh của thầy.
    (to be continued...)
  5. Nguoi_Thao_Luan_new

    Nguoi_Thao_Luan_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/03/2002
    Bài viết:
    101
    Đã được thích:
    0
    Longatum phân biệt chủng tộc í quên giới tính nhá, chả chịu giải đáp thắc mắc cho tớ gì cả

    Tiếp truyện nữa nhé. Đây là truyện "La derniere classe" trong tập "Les contes du Lundi" của Alphonse Daudet. Tớ vẫn trung thành với... bản dịch tiếng Anh với tinh thần học tiếng Anh.
    The Last Lesson
    Alphonse Daudet

    I started for school very late that morning and was in great dread of a scolding, especially because M. Hamel had said that he would question us on participles, and I did not know the first word about them. For a moment I thought of running away and spending the day out of doors. It was so warm, so bright! The birds were chirping at the edge of the woods; and in the open field back of the sawmill the Prussian soldiers were drilling. It was all much more tempting than the rule for participles, but I had the strength to resist, and hurried off to school.
    When I passed the town hall there was a crowd in front of the bulletin-board. For the last two years all our bad news had come from there?"the lost battles, the draft, the orders of the commanding officer?"and I thought to myself, without stopping:
    ?oWhat can be the matter now??
    Then, as I hurried by as fast as I could go, the blacksmith, Wachter, who was there, with his apprentice, reading the bulletin, called after me:
    ?oDon?Tt go so fast, bub; you?Tll get to your school in plenty of time!?
    I thought he was making fun of me, and reached M. Hamel?Ts little garden all out of breath. Usually, when school began, there was a great bustle, which could be heard out in the street, the opening and closing of desks, lessons repeated in unison, very loud, with our hands over our ears to understand better, and the teacher?Ts great ruler rapping on the table. But now it was all so still! I had counted on the commotion to get to my desk without being seen; but, of course, that day everything had to be as quiet as Sunday morning. Through the window I saw my classmates, already in their places, and M. Hamel walking up and down with his terrible iron ruler under his arm. I had to open the door and go in before everybody. You can imagine how I blushed and how frightened I was.
    But nothing happened. M. Hamel saw me and said very kindly:
    ?oGo to your place quickly, little Franz. We were beginning without you.?
    I jumped over the bench and sat down at my desk. Not till then, when I had got a little over my fright, did I see that our teacher had on his beautiful green coat, his frilled shirt, and the little black silk cap, all embroidered, that he never wore except on inspection and prize days. Besides, the whole school seemed so strange and solemn. But the thing that surprised me most was to see, on the back benches that were always empty, the village people sitting quietly like ourselves; old Hauser, with his three-cornered hat, the former mayor, the former postmaster, and several others besides. Everybody looked sad; and Hauser had brought an old primer, thumbed at the edges, and he held it open on his knees with his great spectacles lying across the pages.
    While I was wondering about it all, M. Hamel mounted his chair, and, in the same grave and gentle tone which he had used to me, said:
    ?oMy children, this is the last lesson I shall give you. The order has come from Berlin to teach only German in the schools of Alsace and Lorraine. The new master comes to-morrow. This is your last French lesson. I want you to be very attentive.?
    What a thunderclap these words were to me! Oh, the wretches; that was what they had put up at the town-hall!
    My last French lesson! Why, I hardly knew how to write! I should never learn any more! I must stop there, then! Oh, how sorry I was for not learning my lessons, for seeking birds?T eggs, or going sliding on the Saar! My books, that had seemed such a nuisance a while ago, so heavy to carry, my grammar, and my history of the saints, were old friends now that I couldn?Tt give up. And M. Hamel, too; the idea that he was going away, that I should never see him again, made me forget all about his ruler and how cranky he was.
    ----------------------------------------------------------------------------
    Bài học cuối cùng
    Sáng nay tôi đi học muộn và rất sợ một trận quở mắng. Thầy Hamel nói rằng sẽ kiểm tra chúng tôi về phân từ mà tôi thì chưa biết một chữ nào cả. Tôi định trốn học và chơi cả ngày ở ngoài trời. Hôm nay trời ấm và quang đãng. Chim hót líu lo bên bìa rừng, và quân Phổ đang tập luyện trong cánh đồng sau xưởng cưa. Những thứ này thực sự hấp dẫn hơn quy tắc về phân từ, nhưng tôi vẫn có đủ sức mạnh để kháng cự và chạy vội đến trường.
    Khi tôi đi nang qua toà thị chính, một đám đông đang tụ tập trước bảng thông báo. Suốt hai năm qua chúng tôi đã đón nhận toàn tin xấu tại đây : những cuộc chiến bại, những cuộc tuyển lính, những lệnh của sỹ quan chỉ huy. Tôi tự nhủ, vẫn không dừng lại :
    "Còn gì có thể xảy ra bây giờ được nữa ?"
    Khi tôi chạy nhanh hết sức lực, bác thợ rèn Wachter đang đứng đó đọc bảng tin cùng với người thợ học việc, gọi với theo tôi:
    "Này nhóc, chạy nhanh làm gì, kiểu gì thì cháu cũng đến trường sớm thôi".
    Tôi nghĩ bác ấy giễu tôi, và chạy bở hơi tai đến tận chiếc vườn nhỏ của thày Hamel. Bình thường thì từ phố có thể nghe thấy tiếng huyên náo ở đây mỗi khi vào học, tiếng đóng mở bàn, tiếng học sinh đồng thanh đọc bài trong khi tay bịt tai để hiểu bài hơn, và tiếng thày giáo gõ thước trên bàn. Nhưng nay sao yên tĩnh quá ! Tôi đã định đến chỗ ngồi trốn không để thày giáo thấy, nhưng hôm nay mọi thứ đều yên ắng như sáng chủ nhật vậy. Qua cửa sổ tôi thấy bạn bè đã vào chỗ ngồi, và thầy Hamel đi lên đi xuống, tay cầm chiếc thước sắt đáng sợ. Tôi phải mở cửa và đi vào trước mặt mọi người. Bạn có thể tưởng tượng tôi ngượng chín mặt và sợ hãi như thế nào.
    Nhưng không có gì xảy ra cả. Thày Hamel thấy tôi và ân cần bảo tôi:
    " Vào chỗ nhanh lên Franz. Cả lớp đã bắt đầu mà không có em rồi ".
    Tôi trèo qua ghế và ngồi vào bàn. Đến khi đó, khi đã bớt sợ, tôi mới nhận thấy thày giáo đang mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp, đội chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy không bao giờ mặc trừ những ngày thanh tra và những ngày trao giải thưởng. Ngoài ra trường hôm nay trông thật lạ và trang trọng. Nhưng điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là, trên những chiếc ghế đen trước đây luôn luôn trống vắng, nhiều dân làng đang ngồi và cũng yên lặng như chúng tôi; ông già Hauser với chiếc mũ ba góc, ông thị trưởng cũ, bác đưa thư cũ, và vài người khác. Mọi người trông có vẻ buồn bã, ông Hauser mang theo một quyển sách vỡ lòng cũ kỹ, mép đã nhàu nát, ông mở rộng sách trên đầu gối và đặt đôi kính ngang trang sách.
    Khi tôi phân vân chưa rõ mọi chuyện thì thày Hamel ngồi lên ghế, và vẫn với giọng nghiêm nghị, hiền lành như mọi ngày, thầy nói :
    "Các em thân mến, đây là bài học cuối cùng mà thầy dạy các em. Lệnh mới đến từ Berlin chỉ cho phép dạy tiếng Đức trong các trường ở Alsace và Lorraine. Thày giáo mới sẽ đến đây ngày mai. Đây là bài học tiếng Pháp cuối cùng của các em. Thầy mong các em sẽ chăm chú."
    Những lời này như làm tôi thấy như bị sét đánh ! Những người tội nghiệp, đó chính là những gì người ta đã yết thị tại toà thị chính !
    Bài học tiếng Pháp cuối cùng của tôi ! Tại sao, khi hầu như tôi không biết viết ! Tôi sẽ không bao giờ được học thêm gì nữa. Thế là phải dừng lại ở đây thôi sao ! Ôi, thật ân hận vì những lần không học bài đi tìm trứng chim hoặc đi trượt trên Saar ! Đống sách của tôi, mà vừa một lát trước đây tôi còn thấy thật phiền nhiễu, thật khó để mang vác, rồi ngữ pháp, rồi câu chuyện về các thánh, nay trở thành những người bạn cũ mà tôi không thể từ bỏ được. Cả thầy Hamel nữa, cái ý nghĩ rằng thầy sắp đi xa, rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp thầy nữa, làm tôi quên hết tất cả về chiếc thước và tính cáu kỉnh của thầy.
    (to be continued...)
  6. linly

    linly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2001
    Bài viết:
    349
    Đã được thích:
    0
    Bạn username ơi, tớ nghĩ đi nghĩ lại rồi hỏi một đống bạn tớ nhưng rồi tớ cũng chẳng biết dịch ra sao cả . tớ nôm na cái ý tớ hiểu bằng tiếng Anh, ấy thử xem dịch thế nào nhớ (tớ nghĩ ấy có thể sẽ thành dịch giả nổi tiếng đấy )
    - She had always had an edge on her = be a little bit better than...
    - As she mused the pitiful vision ... : she lived like her mother did...
    - out of a maze of distress: overcoming distress
    What do you think?
  7. linly

    linly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2001
    Bài viết:
    349
    Đã được thích:
    0
    Bạn username ơi, tớ nghĩ đi nghĩ lại rồi hỏi một đống bạn tớ nhưng rồi tớ cũng chẳng biết dịch ra sao cả . tớ nôm na cái ý tớ hiểu bằng tiếng Anh, ấy thử xem dịch thế nào nhớ (tớ nghĩ ấy có thể sẽ thành dịch giả nổi tiếng đấy )
    - She had always had an edge on her = be a little bit better than...
    - As she mused the pitiful vision ... : she lived like her mother did...
    - out of a maze of distress: overcoming distress
    What do you think?
  8. Nguoi_Thao_Luan_new

    Nguoi_Thao_Luan_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/03/2002
    Bài viết:
    101
    Đã được thích:
    0
    The Last Lesson (tiếp theo và hết)
    Poor man! It was in honor of this last lesson that he had put on his fine Sunday clothes, and now I understood why the old men of the village were sitting there in the back of the room. It was because they were sorry, too, that they had not gone to school more. It was their way of thanking our master for his forty years of faithful service and of showing their respect for the country that was theirs no more.
    While I was thinking of all this, I heard my name called. It was my turn to recite. What would I not have given to be able to say that dreadful rule for the participle all through, very loud and clear, and without one mistake? But I got mixed up on the first words and stood there, holding on to my desk, my heart beating, and not daring to look up. I heard M. Hamel say to me:
    ?oI won?Tt scold you, little Franz; you must feel bad enough. See how it is! Every day we have said to ourselves: ?~Bah! I?Tve plenty of time. I?Tll learn it to-morrow.?T And now you see where we?Tve come out. Ah, that?Ts the great trouble with Alsace; she puts off learning till tomorrow. Now those fellows out there will have the right to say to you: ?~How is it; you pretend to be Frenchmen, and yet you can neither speak nor write your own language??T But you are not the worst, poor little Franz. We?Tve all a great deal to reproach ourselves with.
    ?oYour parents were not anxious enough to have you learn. They preferred to put you to work on a farm or at the mills, so as to have a little more money. And I? I?Tve been to blame also. Have I not often sent you to water my flowers instead of learning your lessons? And when I wanted to go fishing, did I not just give you a holiday??
    Then, from one thing to another, M. Hamel went on to talk of the French language, saying that it was the most beautiful language in the world?"the clearest, the most logical; that we must guard it among us and never forget it, because when a people are enslaved, as long as they hold fast to their language it is as if they had the key to their prison. Then he opened a grammar and read us our lesson. I was amazed to see how well I understood it. All he said seemed so easy, so easy! I think, too, that I had never listened so carefully, and that he had never explained everything with so much patience. It seemed almost as if the poor man wanted to give us all he knew before going away, and to put it all into our heads at one stroke.
    After the grammar, we had a lesson in writing. That day M. Hamel had new copies for us, written in a beautiful round hand: France, Alsace, France, Alsace. They looked like little flags floating everywhere in the school-room, hung from the rod at the top of our desks. You ought to have seen how every one set to work, and how quiet it was! The only sound was the scratching of the pens over the paper. Once some beetles flew in; but nobody paid any attention to them, not even the littlest ones, who worked right on tracing their fish-hooks, as if that was French, too. On the roof the pigeons cooed very low, and I thought to myself:
    ?oWill they make them sing in German, even the pigeons??
    Whenever I looked up from my writing I saw M. Hamel sitting motionless in his chair and gazing first at one thing, then at another, as if he wanted to fix in his mind just how everything looked in that little school-room. Fancy! For forty years he had been there in the same place, with his garden outside the window and his class in front of him, just like that. Only the desks and benches had been worn smooth; the walnut-trees in the garden were taller, and the hopvine that he had planted himself twined about the windows to the roof. How it must have broken his heart to leave it all, poor man; to hear his sister moving about in the room above, packing their trunks! For they must leave the country next day.
    But he had the courage to hear every lesson to the very last. After the writing, we had a lesson in history, and then the babies chanted their ba, be bi, bo, bu. Down there at the back of the room old Hauser had put on his spectacles and, holding his primer in both hands, spelled the letters with them. You could see that he, too, was crying; his voice trembled with emotion, and it was so funny to hear him that we all wanted to laugh and cry. Ah, how well I remember it, that last lesson!
    All at once the church-clock struck twelve. Then the Angelus. At the same moment the trumpets of the Prussians, returning from drill, sounded under our windows. M. Hamel stood up, very pale, in his chair. I never saw him look so tall.
    ?oMy friends,? said he, ?oI?"I?"? But something choked him. He could not go on.
    Then he turned to the blackboard, took a piece of chalk, and, bearing on with all his might, he wrote as large as he could:
    ?oVive La France!?
    Then he stopped and leaned his head against the wall, and, without a word, he made a gesture to us with his hand:
    ?oSchool is dismissed?"you may go.?
    -----------------------------------------------------------------------
    Thật tội nghiệp thày ! Thầy đã diện bộ quần áo đẹp chủ nhật để dạy buổi học cuối cùng này, và tôi đã hiểu tại sao những người già trong làng lại đến đây ngồi, ở cuối căn phòng. Bởi vì họ cũng thấy buồn không được đến ngôi trường này nữa. Đó là cách họ cảm ơn vị thầy giáo đã phục vụ tận tuỵ suốt bốn mươi năm qua, và để tỏ lòng tôn kính với đất nước nay đã không còn là của họ.
    Khi đang suy nghĩ về những điều này, tôi thấy mình bị gọi tên. Đến lượt tôi phải đọc thuộc lòng. Làm sao tôi có thể đọc đến hết cái quy tắc đáng sợ về phân từ ấy, rõ ràng, dõng dạc mà không phạm lỗi ? Tôi rối trí ngay từ những từ đầu tiên và đứng đó, tay nắm chặt bàn, tim đập thình thịch, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Hamel nói:
    "Thầy sẽ không mắng em đâu, Franz. Em bị phạt thế đủ rồi. Ngày nào chúng ta cũng tự nhủ : mình còn nhiều thời gian lắm, mai hãy học. Và em thấy cái gì đã đến rồi đấy. Đó là bất hạnh của vùng Alsace, vốn luôn hoãn việc học hành lại ngày mai. Và người ta có quyền nói: Gớm các ông giả vờ làm người Pháp nhưng lại chẳng biết đọc cũng không biết viết ngôn ngữ của các ông. Nhưng dù sao, Franz tội nghiệp, không phải em là người có lỗi nhất. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều đáng trách."
    "Cha mẹ các em đã không quá lo lắng về chuyện học hành của các em. Họ thích các em làm việc ở nông trại hoặc nhà máy, như vậy có thể thêm được chút tiền. Còn thầy ư ? Thầy cũng đáng trách. Có phải thầy đã thường xuyên bắt các em tưới hoa thay vì dạy học không ? Khi thầy muốn đi câu cá, có phải thầy đã không ngại ngần cho các em nghỉ học không ?"
    Rồi từ chuyện này sang chuyện khác, thầy Hamel tiếp tục nói chuyện về tiếng Pháp, rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất, rõ ràng nhất, logic nhất trên thế giới, rằng chúng tôi phải giữ gìn và không được quên nó, vì khi một dân tộc bị nô dịch, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói là họ còn giữ được chiếc chìa khoá thoát khỏi ngục tù. Rồi thầy mở sách ngữ pháp và giảng bài. Tôi thấy rất ngạc nhiên vì mình hoàn toàn hiểu bài. Những gì thầy giảng thật dễ hiểu làm sao! Tôi nhận thấy mình chưa bao giờ nghe giảng chăm chú như vậy, và cũng chưa bao giờ thầy giảng nhiệt tình như thế. Có vẻ như người thầy tội nghiệp muốn truyền cho chúng tôi tất cả những gì thầy biết trước khi ra đi, và muốn đặt hết vào đầu chúng tôi chỉ trong chốc lát.
    Sau bài học ngữ pháp, chúng tôi học viết. Hôm ấy thầy Hamel đã chuẩn bị cho chúng tôi những bản mẫu mới, trên đó có những chữ tròn trịa: France, Alsace, France, Alsace. Chúng trông như những lá cờ nhỏ phấp phới trong lớp học, treo trên những thanh trên bàn học của chúng tôi. Phải thấy là mọi người đều làm việc chăm chú ! Và yên lặng là sao ! Chỉ nghe thấy tiếng bút viết cọt kẹt trên giấy. Có lúc có mấy con bọ bay vào, nhưng không ai để ý đến chúng, kể cả những cậu nhỏ nhất đang chăm chú vạch những nét ngoằn ngoèo như thể đó là tiếng Pháp vậy.
    Trên mái nhà bọn bồ câu khẽ cúc cu, và tôi tự nhủ :
    "Liệu họ có bắt cả những con bồ câu phải gáy bằng tiếng Đức không ?"
    Khi nào tôi ngẩng đầu lên khỏi trang vở cũng thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, đăm chiêu nhìn những thứ xung quạh, như thể thầy muốn khắc sâu vào đầu hình ảnh mọi vật trong cái phòng học bé nhỏ này. Thử nghĩ xem, suốt bốn mươi năm qua thầy đã ở chỗ này, với chiếc vườn ngoài cửa sổ và lớp học trước mặt, y như bây giờ. Chỉ có bàn ghế bị mòn đi cùng năm tháng, những cây óc chó trong vườn đã cao hơn, cây hoa bia mà thầy tự tay trồng đã chăng hoa quanh cửa sổ lên đến tận ngói. Hẳn thầy đau lòng biết bao khi bỏ lại tất cả những thứ này, khi nghe tiếng em gái thầy đi lại ở căn phòng phía trên gói ghém hành lý ! Vì họ phải đi khỏi đây mãi mãi vào ngày mai.
    Dù vậy thầy vẫn có đủ can đảm để giảng tới tận bài cuối cùng. Sau giờ học viết chúng tôi học Lịch sử, và sau đó những em nhỏ hát ba, be bi, bo, bu. Dưới kia, cuối lớp học, ông già Hauser đã đeo kính vào, hai tay cầm cuốn sách vỡ lòng, cũng đang đánh vần cùng với chúng. Ông ấy cũng đang khóc, giọng run run vì xúc động. Nghe giọng ông ấy buồn cười quá mà chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Tôi sẽ nhớ mãi bài học cuối cùng này !
    Bỗng nhiên đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, Then the Angelus. (Angelus là cái gì thế nhỉ). Cùng lúc tiếng kèn trumpet của quân Phổ trở về sau cuộc tập luyện vọng lên dưới cửa sổ. Thầy Hamel đứng dậy, nhợt nhạt. Tôi chưa bao giờ thấy thầy cao như thế.
    "Các bạn của tôi" thày nói, "tôi... tôi..." nhưng một thứ gì đó đã làm thày nghẹn lại, không nói tiếp được nữa. Thầy quay lại bảng, lấy một mẩu phấn, tì bằng hết sức lực và viết thật to :
    "Vive la France"
    Rồi thầy đứng đó, đầu tựa vào tường, tay ra hiệu cho chúng tôi, không nói một lời :
    "Hết giờ rồi, mọi người về thôi".
    HẾT
    Chú thích: Năm 1870, nước Pháp dưới triều Napoléon III thua trận trong cuộc chiến tranh với Phổ và mất 2 vùng Alsace và Lorraine. Câu chuyện này xảy ra ở Alsace năm 1873.
    Tớ đã tra ra Angelus là lời người ta cầu nguyện vào sang, giữa trưa và tối, chả hiểu cái đó gọi là gì trong tiếng Việt ??
    Được sửa chữa bởi - nguoi thao luan vào 01/04/2002 07:09
  9. Nguoi_Thao_Luan_new

    Nguoi_Thao_Luan_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/03/2002
    Bài viết:
    101
    Đã được thích:
    0
    The Last Lesson (tiếp theo và hết)
    Poor man! It was in honor of this last lesson that he had put on his fine Sunday clothes, and now I understood why the old men of the village were sitting there in the back of the room. It was because they were sorry, too, that they had not gone to school more. It was their way of thanking our master for his forty years of faithful service and of showing their respect for the country that was theirs no more.
    While I was thinking of all this, I heard my name called. It was my turn to recite. What would I not have given to be able to say that dreadful rule for the participle all through, very loud and clear, and without one mistake? But I got mixed up on the first words and stood there, holding on to my desk, my heart beating, and not daring to look up. I heard M. Hamel say to me:
    ?oI won?Tt scold you, little Franz; you must feel bad enough. See how it is! Every day we have said to ourselves: ?~Bah! I?Tve plenty of time. I?Tll learn it to-morrow.?T And now you see where we?Tve come out. Ah, that?Ts the great trouble with Alsace; she puts off learning till tomorrow. Now those fellows out there will have the right to say to you: ?~How is it; you pretend to be Frenchmen, and yet you can neither speak nor write your own language??T But you are not the worst, poor little Franz. We?Tve all a great deal to reproach ourselves with.
    ?oYour parents were not anxious enough to have you learn. They preferred to put you to work on a farm or at the mills, so as to have a little more money. And I? I?Tve been to blame also. Have I not often sent you to water my flowers instead of learning your lessons? And when I wanted to go fishing, did I not just give you a holiday??
    Then, from one thing to another, M. Hamel went on to talk of the French language, saying that it was the most beautiful language in the world?"the clearest, the most logical; that we must guard it among us and never forget it, because when a people are enslaved, as long as they hold fast to their language it is as if they had the key to their prison. Then he opened a grammar and read us our lesson. I was amazed to see how well I understood it. All he said seemed so easy, so easy! I think, too, that I had never listened so carefully, and that he had never explained everything with so much patience. It seemed almost as if the poor man wanted to give us all he knew before going away, and to put it all into our heads at one stroke.
    After the grammar, we had a lesson in writing. That day M. Hamel had new copies for us, written in a beautiful round hand: France, Alsace, France, Alsace. They looked like little flags floating everywhere in the school-room, hung from the rod at the top of our desks. You ought to have seen how every one set to work, and how quiet it was! The only sound was the scratching of the pens over the paper. Once some beetles flew in; but nobody paid any attention to them, not even the littlest ones, who worked right on tracing their fish-hooks, as if that was French, too. On the roof the pigeons cooed very low, and I thought to myself:
    ?oWill they make them sing in German, even the pigeons??
    Whenever I looked up from my writing I saw M. Hamel sitting motionless in his chair and gazing first at one thing, then at another, as if he wanted to fix in his mind just how everything looked in that little school-room. Fancy! For forty years he had been there in the same place, with his garden outside the window and his class in front of him, just like that. Only the desks and benches had been worn smooth; the walnut-trees in the garden were taller, and the hopvine that he had planted himself twined about the windows to the roof. How it must have broken his heart to leave it all, poor man; to hear his sister moving about in the room above, packing their trunks! For they must leave the country next day.
    But he had the courage to hear every lesson to the very last. After the writing, we had a lesson in history, and then the babies chanted their ba, be bi, bo, bu. Down there at the back of the room old Hauser had put on his spectacles and, holding his primer in both hands, spelled the letters with them. You could see that he, too, was crying; his voice trembled with emotion, and it was so funny to hear him that we all wanted to laugh and cry. Ah, how well I remember it, that last lesson!
    All at once the church-clock struck twelve. Then the Angelus. At the same moment the trumpets of the Prussians, returning from drill, sounded under our windows. M. Hamel stood up, very pale, in his chair. I never saw him look so tall.
    ?oMy friends,? said he, ?oI?"I?"? But something choked him. He could not go on.
    Then he turned to the blackboard, took a piece of chalk, and, bearing on with all his might, he wrote as large as he could:
    ?oVive La France!?
    Then he stopped and leaned his head against the wall, and, without a word, he made a gesture to us with his hand:
    ?oSchool is dismissed?"you may go.?
    -----------------------------------------------------------------------
    Thật tội nghiệp thày ! Thầy đã diện bộ quần áo đẹp chủ nhật để dạy buổi học cuối cùng này, và tôi đã hiểu tại sao những người già trong làng lại đến đây ngồi, ở cuối căn phòng. Bởi vì họ cũng thấy buồn không được đến ngôi trường này nữa. Đó là cách họ cảm ơn vị thầy giáo đã phục vụ tận tuỵ suốt bốn mươi năm qua, và để tỏ lòng tôn kính với đất nước nay đã không còn là của họ.
    Khi đang suy nghĩ về những điều này, tôi thấy mình bị gọi tên. Đến lượt tôi phải đọc thuộc lòng. Làm sao tôi có thể đọc đến hết cái quy tắc đáng sợ về phân từ ấy, rõ ràng, dõng dạc mà không phạm lỗi ? Tôi rối trí ngay từ những từ đầu tiên và đứng đó, tay nắm chặt bàn, tim đập thình thịch, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Hamel nói:
    "Thầy sẽ không mắng em đâu, Franz. Em bị phạt thế đủ rồi. Ngày nào chúng ta cũng tự nhủ : mình còn nhiều thời gian lắm, mai hãy học. Và em thấy cái gì đã đến rồi đấy. Đó là bất hạnh của vùng Alsace, vốn luôn hoãn việc học hành lại ngày mai. Và người ta có quyền nói: Gớm các ông giả vờ làm người Pháp nhưng lại chẳng biết đọc cũng không biết viết ngôn ngữ của các ông. Nhưng dù sao, Franz tội nghiệp, không phải em là người có lỗi nhất. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều đáng trách."
    "Cha mẹ các em đã không quá lo lắng về chuyện học hành của các em. Họ thích các em làm việc ở nông trại hoặc nhà máy, như vậy có thể thêm được chút tiền. Còn thầy ư ? Thầy cũng đáng trách. Có phải thầy đã thường xuyên bắt các em tưới hoa thay vì dạy học không ? Khi thầy muốn đi câu cá, có phải thầy đã không ngại ngần cho các em nghỉ học không ?"
    Rồi từ chuyện này sang chuyện khác, thầy Hamel tiếp tục nói chuyện về tiếng Pháp, rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất, rõ ràng nhất, logic nhất trên thế giới, rằng chúng tôi phải giữ gìn và không được quên nó, vì khi một dân tộc bị nô dịch, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói là họ còn giữ được chiếc chìa khoá thoát khỏi ngục tù. Rồi thầy mở sách ngữ pháp và giảng bài. Tôi thấy rất ngạc nhiên vì mình hoàn toàn hiểu bài. Những gì thầy giảng thật dễ hiểu làm sao! Tôi nhận thấy mình chưa bao giờ nghe giảng chăm chú như vậy, và cũng chưa bao giờ thầy giảng nhiệt tình như thế. Có vẻ như người thầy tội nghiệp muốn truyền cho chúng tôi tất cả những gì thầy biết trước khi ra đi, và muốn đặt hết vào đầu chúng tôi chỉ trong chốc lát.
    Sau bài học ngữ pháp, chúng tôi học viết. Hôm ấy thầy Hamel đã chuẩn bị cho chúng tôi những bản mẫu mới, trên đó có những chữ tròn trịa: France, Alsace, France, Alsace. Chúng trông như những lá cờ nhỏ phấp phới trong lớp học, treo trên những thanh trên bàn học của chúng tôi. Phải thấy là mọi người đều làm việc chăm chú ! Và yên lặng là sao ! Chỉ nghe thấy tiếng bút viết cọt kẹt trên giấy. Có lúc có mấy con bọ bay vào, nhưng không ai để ý đến chúng, kể cả những cậu nhỏ nhất đang chăm chú vạch những nét ngoằn ngoèo như thể đó là tiếng Pháp vậy.
    Trên mái nhà bọn bồ câu khẽ cúc cu, và tôi tự nhủ :
    "Liệu họ có bắt cả những con bồ câu phải gáy bằng tiếng Đức không ?"
    Khi nào tôi ngẩng đầu lên khỏi trang vở cũng thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, đăm chiêu nhìn những thứ xung quạh, như thể thầy muốn khắc sâu vào đầu hình ảnh mọi vật trong cái phòng học bé nhỏ này. Thử nghĩ xem, suốt bốn mươi năm qua thầy đã ở chỗ này, với chiếc vườn ngoài cửa sổ và lớp học trước mặt, y như bây giờ. Chỉ có bàn ghế bị mòn đi cùng năm tháng, những cây óc chó trong vườn đã cao hơn, cây hoa bia mà thầy tự tay trồng đã chăng hoa quanh cửa sổ lên đến tận ngói. Hẳn thầy đau lòng biết bao khi bỏ lại tất cả những thứ này, khi nghe tiếng em gái thầy đi lại ở căn phòng phía trên gói ghém hành lý ! Vì họ phải đi khỏi đây mãi mãi vào ngày mai.
    Dù vậy thầy vẫn có đủ can đảm để giảng tới tận bài cuối cùng. Sau giờ học viết chúng tôi học Lịch sử, và sau đó những em nhỏ hát ba, be bi, bo, bu. Dưới kia, cuối lớp học, ông già Hauser đã đeo kính vào, hai tay cầm cuốn sách vỡ lòng, cũng đang đánh vần cùng với chúng. Ông ấy cũng đang khóc, giọng run run vì xúc động. Nghe giọng ông ấy buồn cười quá mà chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Tôi sẽ nhớ mãi bài học cuối cùng này !
    Bỗng nhiên đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, Then the Angelus. (Angelus là cái gì thế nhỉ). Cùng lúc tiếng kèn trumpet của quân Phổ trở về sau cuộc tập luyện vọng lên dưới cửa sổ. Thầy Hamel đứng dậy, nhợt nhạt. Tôi chưa bao giờ thấy thầy cao như thế.
    "Các bạn của tôi" thày nói, "tôi... tôi..." nhưng một thứ gì đó đã làm thày nghẹn lại, không nói tiếp được nữa. Thầy quay lại bảng, lấy một mẩu phấn, tì bằng hết sức lực và viết thật to :
    "Vive la France"
    Rồi thầy đứng đó, đầu tựa vào tường, tay ra hiệu cho chúng tôi, không nói một lời :
    "Hết giờ rồi, mọi người về thôi".
    HẾT
    Chú thích: Năm 1870, nước Pháp dưới triều Napoléon III thua trận trong cuộc chiến tranh với Phổ và mất 2 vùng Alsace và Lorraine. Câu chuyện này xảy ra ở Alsace năm 1873.
    Tớ đã tra ra Angelus là lời người ta cầu nguyện vào sang, giữa trưa và tối, chả hiểu cái đó gọi là gì trong tiếng Việt ??
    Được sửa chữa bởi - nguoi thao luan vào 01/04/2002 07:09
  10. apricot

    apricot Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Câu chuyện này của tớ có nội dung gần giống câu chuyện trước.... hic.. Thôi, cố đọc ủng hộ tinh thần nhé

    The sister I never knew

    In the spring of ?T97 my mom told me, my brother Nathaniel, and my sister Alyssa that she had some good news. She sat us all down in the living room and said,
    ?oI?Tm going to have a baby, and her name is going to be Rachel,? everybody was in such high spirits it was like the world had stopped for those couple of minutes while we celebrated. Life was so joyful those months anticipating Rachel?Ts arrival. While we were waiting for Rachel to arrive we were living with my great aunt in a big, old house with a huge barn that had a ton of old tools, wood, and it always smelled like tobacco from a pipe that my great uncle used to smoke. The house had a big yard were I could play with my dog Zippy. Zippy was a big, fat German Shepard-Golden Retriever mix that couldn?Tt swim but was a mighty fine sinker. She also was a very obedient and protective dog that loved kids. My family had a lot of fun there, and some great memories.
    But on December 2, 1997 disaster struck, I was at my aunt?Ts house sitting on a big fluffy couch watching the sparks from the fire jump up the chimney like fireflies escaping from a jar. My dad came back from being with my mom at the hospital with a look that I will never forget. A look so downcast he looked liked he had just lost the one thing most important. He said to me ?oThere?Ts something wrong with the baby, the doctors? they couldn?Tt? couldn?Tt find a heartbeat? and I just want to let you know that this isn?Tt yours or anyone?Ts fault. Its not because you did something bad and are being punished for it.?
    I was so stunned that I didn?Tt know what to make of what was going on. I had so many questions, but didn?Tt know how to say them. Like, is the baby dead, is mom dead; I just didn?Tt know. Also I didn?Tt know if my questions would hurt anybody in the room. So I just sat there as all these thoughts were flying through my head. But as I was worrying about everything else, I realized that I wouldn?Tt be able to hold this baby and play with her.
    And how I longed to hold that baby and play with her like I did with my brother. But now that little bundle of joy is gone, that same baby who one month ago was alive
    and kicking in my mother?Ts stomach. The shock of it all came so fast, I didn?Tt really believe-no I couldn?Tt believe it was true.
    A few days later my dad and me went to the funeral home and gave a tall; well dressed man, in charge of funeral home, a the little; blue outfit. My dad asked him,
    ?oHow much would it be for a nine month old??
    ?o Nothing, we don?Tt charge for anybody under a year.? The man said. While my
    Dad and the man were talking I was looking around this huge house with vast stained glass windows and lofty ceilings with pictures of flowers on them. The place was shadowy, damp and had sort of a spooky feel to it.
    When we got in the car I asked my dad,
    ?oWhy?Td we do that??
    ?oIt?Ts for Rachel to wear?. He said. It was kind of a stupid question because I already knew the answer; I was just trying to make conversation. The car ride home was a long and quiet one. Though I tried to talk to him, I just couldn?Tt think of the right thing to say. I felt so bad for him; I just wish I could?Tve said something to make him feel better-to make me? feel better. The eerie silence was killing me; I couldn?Tt take it any more I had to say something.
    ?oSo ja see the sox game last night?? I said.
    ?oNo, I didn?Tt get the chance.? He said. I felt so stupid after that I just wanted disappear.
    Then the next thing I new it several days later and I was sitting in my church for the funeral looking at a little; white casket in the middle of the room with the beanie baby duck that my sister gave to her, and the cross drooped over it; that I gave to her. Not really listening to what the pastor was saying but one part caught my attention He said,
    ?oRachel wasn?Tt born into this world but was born into the hands of God.? While I was thinking of that I was staring at the picturesque stained glass windows and smelling the coffee from last Sunday still lingering in the building. I realized that Rachel?Ts in a better place because she?Ts home and now she?Ts free, Moreover that I didn?Tt have to worry because maybe God took her away for the reason that she might have died in a more painful way. Plus, if she had died when we knew her more and had played with her and loved her more, it would have been harder for everybody. I was thinking of this stuff, as though, to try and not think of what was going on around me. But when I did look around the service was coming to an end and my cousin was crying with my whole extended family crowded around him to try and comfort him. Then one of them came over to me and said,
    ?oWhy aren?Tt you crying?? as though I was supposed to be crying. Then she said, ?o You know the pastor said it was ok to cry.? I didn?Tt say anything; I just stared at the ground until she walked away. Her saying that just made me feel even worse, right about then is when I just wanted to run away. But there?Ts no way to run away from the pain.
    A few hours later we were driving to the cemetery with the most people I had ever seen at a funeral. When we got there everybody was standing around my grandpa George?Ts grave, Rachel was going to be at the foot of his coffin. Everybody was silent for a few minutes, but then my aunt stepped forward, put some flowers on the coffin and said,
    ?oI?Tll miss you Rachel??
    ?oWe?Tll all miss you.? said my farmor
    ?oBut I?Tm glad you don?Tt have *****ffer through all the cruel things that this world has in store.? Then my aunt stepped back and started to cry again. Nobody else had much to say so the funeral director stepped up and said a few words. Then everybody talked and they started to trickle out and go home.
    Even though some of the memories of her are in the little, blue box on the windowsill, with her foot and handprint; her little, pink cap; and some pictures. Thinking of her is still hard. Although those are good memories, the best ones are in my head. Those 9 months of feeling her kick; and hearing her little, tiny baby hiccups from inside my mom?Ts stomach were some of the best memories.
    Even two years later everyone?Ts still a little sad around Christmas. Just as every Christmas passes, so the pain of the bad memories goes too. I suppose someday I?Tll get over the hurt, but the good memories of her will never go away.
    What made dealing with Rachel?Ts death even harder is that Zippy was a trash picker and she would sneak out on trash night but we would catch her, and when she came back with a real guilty look on her face. But one night she got out and we didn?Tt notice so a car, around the same time Rachel died, hit her.
    Even though She?Ts gone and miss her I have a new baby sister to hold and play with. In the pictures I have of Rachel she looked a lot like my new sister Michaela, and probably would have acted, almost, the same. Even though Michaela takes most of my attention; I will never forget Rachel and the joy of watching her grow for those short, but wonderful, nine months inside my mother?Ts stomach. Never forgetting is the key to great memories, because if you forget there?Ts nothing to hold on to. Even though you sometimes want to forget, later on in life you will wish you hadn?Tt.
    *********************************
    Đó là mùa xuân năm 1997, mẹ thông báo cho tôi, em Nathaniel và em Alyssa tin vui. Chúng tôi cùng ngồi trong phòng khách, mẹ nói: "Mẹ sắp có em bé, em sẽ tên là Rachel nhé". Mọi người đều rất vui, thời gian như thể ngưng lại khi chúng tôi ăn mừng. Cuộc sống của những tháng ngày đón chờ sự ra đời của Rachel thật vui sướng. Trong thời gian đó, chúng tôi sống cùng người cô trong căn nhà cổ và to với một cái kho lớn chứa tấn những dụng cụ, gỗ và luôn bốc mùi thuốc lá từ cái tẩu mà chú chúng tôi thường hút. Ngôi nhà có một cái sân rộng là chỗ mà tôi có thể chơi cùng con chó Zippy của tôi. Zippy to và mũm mĩm, thuộc giống lai giữa German Shepard và Golden Retriever, nó không thể bơi mà chìm nghỉm dễ dàng. Nó rất biết nghe lời, canh nhà và yêu mến trẻ con. Gia đình tôi sống rất vui và có nhiều kỉ niệm nơi đây.
    Nhưng vào cái ngày 2 tháng 12 năm ấy, điều bất hạnh đã xảy ra, khi tôi đang ngồi trên đivăng phủ lớp lông mượt , ngắm những tia sáng từ ngọn lửa đang cháy bập bùng trong lò sưởi như những con đom đóm muốn thoát ra khỏi chiếc chai kín. Bố trở về từ bệnh viện nơi mẹ nằm với vẻ mặt mà tôi sẽ không bao giờ có thể quên được. Bố nói với tôi rằng: "Có điều không hay với em bé, những bác sỹ, ........họ không thể... không thể nghe thấy nhịp tim đập... và bố muốn nói với con hay rằng đó không phải lỗi của con hay của bất kì ai. Không phải do con làm điều gì không tốt mà bị phạt đâu".
    Tôi choáng váng không biết cái gì đã gây ra điều này. Tôi có quá nhiều thắc mắc và không biết làm sao để giải tỏa. Chẳng hạn như, is the baby dead, is mom dead; Tôi không hiểu. Tôi cũng không biết những câu hỏi của mình liệu có tổn thương tới mọi người trong phòng hay không. Tôi chỉ ngồi với những suy nghĩ rỗi bời trong đầu. Nhưng khi lo nghĩ về những điều khác, tôi vẫn hiểu rõ rằng mình không thể bế và chơi với em bé được nữa.
    Và tôi đã mong chờ thế nào để bế và chơi cùng em như đã làm với đứa em trai. Nhưng giờ đây, cái niềm hân hoan ấy đã biến mất, khi mà một tháng trước đứa em vẫn còn sống và đạp trong bụng mẹ. Cú sốc tới nhanh quá, tôi còn không tin nổi_ tôi không thể tin đó là sự thật nữa.
    Vài ngày sau, tôi cùng bố tới nhà tang lễ và gave a tall . Một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề, phụ trách nhà tang lễ, a the little; blue outfit . Bố tôi hỏi ông:
    "Con tôi chín tháng tuổi thì sao ạ?"
    "Không gì cả, dưới một năm tuổi không phải trả gì cả". Ông đáp.
    Trong khi bố đang nói chuyện với ông ta, tôi quan sát ngôi nhà rộng lớn ấy với những cửa sổ to có kính màu, trần nhà cao ngất với những bức ảnh hình hoa trên đó. Một nơi mờ ảo, ẩm ướt và có cảm giác khiến người ta sợ.
    Khi chúng tôi ngồi trên xe, tôi hỏi bố: "Tại sao mình phải làm vậy ạ?"
    ?oIt?Ts for Rachel to wear?. . Bố nói. Nó quả là câu hỏi ngớ ngẩn vì tôi hoàn toàn đã biết câu trả lời. Tôi chỉ đang cố tạo chuyện để nói thôi. Xe đi về nhà lâu và yên lặng. Dù tôi có muốn nói chuyện với bố, tôi vẫn không thể tìm được cái gì đúng đắn để nói cả. Tôi thấy bố rất buồn. Tôi chỉ mong có điều gì nói để làm cho bố cảm thấy vui lên_ cũng như cho tôi bớt buồn hơn. Sự yên tĩnh khủng khiếp ầy đang giết chết tôi. Tôi không chịu đựng thêm được nữa và phải nói một điều gì đó.
    " Bố có xem trò sox tối qua không?"
    "Không, bố không xem". Bố trả lời. Tôi thấy ngu ngốc quá và chỉ muốn mình biến mất tiêu đi.

    Then the next thing I new it vài ngày sau, khi mà ngồi trong nhà thờ, chú ý tới chiếc quan tài ở giữa căn phòng cùng đătf với chiếc mũ em bé hình con vịt em gái tôi đem tới. Cây thánh giá để ở trên mà tôi mang cho em. Tôi không thực sự lắng nghe những gì vị mục sư nói nhưng một phần cũng khiến tôi chú ý. Ông nói:
    "Rachel chưa được sinh ra trong thế giới này nhưng đã được sinh ra trong bàn tay của Chúa", Tôi vừa nghĩ vừa nhìn chăm chú vào những ô cửa kính nhiều màu và cảm thấy hương cà phê vẫn còn trong căn phòng tứ Chủ nhật tuần trước. Tôi nhận ra rằng Rachel đang ở một nơi tốt hơn vì em is home và giờ đây em được tự do. Ngoài ra tôi không phải lo lắng, có lẽ Chúa đã mang em đi vì biêtx đâu em sẽ phải chết trong sự đau đớn hơn. Hơn nữa nếu em chết khi mà chúng tôi sông cùng với em, chơi cùng với em và yêu em nhiều hơn thế này thì nó còn đau khổ hơn cho mọi người. Tôi suy nghĩ về điều đó dường như để cố gắng không nghĩ về những gì đang diễn ra xung quanh mình. Nhưng khi nhìn quanh, buổi lễ đang gần kết thúc, người bác của tôi đang khóc, gia đình đứng xung quanh cố an ủi bác. Rồi một trong số những người họ hàng tới bên tôi và nói:
    "Sao cháu không khóc?" như thể là tôi phai khóc. Rồi bác nói: "Cháu biết vị mục sư nói khóc cũng tốt".
    Tôi không nói điều gì, chỉ nhìn chăm chăm xuống đất cho tới khi bác đi hỏi. Lời nói của bác thậm chí khiến tôi cảm thấy buồn hơn, chỉ muốn bỏ chạy. Nhưng chẳng có cách nào để trốn khỏi nỗi đau.
    Vài giờ sau chúng tôi ra nghĩa trang cùng hầu hết mọi người ở buổi tang lễ. Khi tới đây, tất cả đứng quanh ngôi mộ của ông tôi, em Rachel sẽ được đặt ở phía dưới quan tài của ông. Mọi ngưòi im lặng trong vài phút, sau đó cô tôi bước lên phía trên đặt những bông hoa lên quan tài của em và nói:
    "Cô sẽ nhớ tới cháu, Rachel ạ"
    "Tất cả chúng ta sẽ nhớ tới cháu", said my farmor
    "Nhưng cô thấy vui vì cháu không phải chịu all the cruel things that this world has in store. (những điều tàn nhẵn của thế giỡi này). Sau đó cô tôi bước xuông và bắt đầu khóc tiếp. Không ai khác nói nhiều nên người chủ lễ bước lên và nói vài điều. Rồi mọi người xì xào và từng dòng người bắt đầu trở về nhà.
    Dù là một vài kí ức của em chỉ trong chiếc hộp nhỏ màu xanh trên bậu cửa sổ, với dấu tay, dấu chân em, chiếc mũ hồng xinh xắn và vài bức ảnh. Nghĩ về em vẫn thật khó khăn. Mặc dù những kỉ niệm đều thật tuyệt vời, những điều tốt đẹp nhất vẫn in trong tâm trí tôi. Chín tháng được sờ thấy em đạp và nghe thấy tiếng nấc nhỏ xíu của em trong bụng mẹ là kỉ niệm tuyệt diệu nhất.
    Thậm chí hai năm sau mọi người vẫn cảm thấy buồn trong lễ Giáng Sinh. Khi mỗi dịp Noel qua đi, nỗi đau của nhưng kỉ niệm buồn cũng dần qua đi. Tôi tin một ngày nào đó sẽ vượt qua nỗi đau, nhưng nhũng kỉ niệm tốt đẹp về người em sẽ không bao giờ biến mất.
    Điều gì khiến chống chọi được sự ra đi của em Rachel thậm chí còn khó khăn hơn là việc con Zippy làm người thu gom rác và nó trốn vào đống rác buổi đe^m khi chúng tôi muốn bắt nó, khi trở về với cái vẻ mặt có tội thưc sự. Nhưng cái đe^m nó chạy ra ngoài vào cái thời gian Rachel mất, chúng tôi đã không để ý tới chiếc ô tô_ đã đâm nó.
    Nó mất đi và dù vô cùng nhớ nó, tôi có em bé mới để bế và chơi cùng. Trong bức ảnh của Rachel mà tôi có, em giống em bé mới Michaela rất nhiều và có lẽ would have acted, almost, the same. Dù cho Michaela hầu như chiếm mọi sự quan tâm của tôi, tôi sẽ không bao giờ quên được Rachel và niềm vui khi được thấy em lớn lên trong chín tháng ngắn ngủi mà tuyệt diệu ấy trong bụng mẹ. Kí ức không bao giờ quên ấy chinh là chìa khoá cho mọi hồi ức tốt đẹp vì nếu bạn quên đi, sẽ không còn chỗ dựa nữa. Dù cho đôi khi bạn muốn quên đi, thì sau đó trong cuộc đời bạn sẽ ước mong mình đã không làm như vậy.
    apricot

Chia sẻ trang này