1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

THỦ ĐÔ HÀ NỘI TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI

Chủ đề trong '1982 - Hội cún Hà Nội' bởi bittersweet82, 05/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    THĂNG TRẦM THĂNG LONG HÀ NỘI
    Ngót nghìn nZm đã qua, kể từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên thành kinh đô ThZng Long (tức Hà Nội ngày nay). Bao thế hệ người xưa đã đóng góp công sức dựng xây, tô điểm kinh đô xưa, mà tại sao trên đất Hà Nội bây giờ còn lại quá ít ỏi di tích lịch sử, vZn hóa của ThZng Long - Đông Đô?

    Đôi rồng chầu thềm điện Kính Thiên - Thành cổ ThZng Long

    Sự tích Lý Công Uẩn dời đô nZm 1010 thì mọi người đã biết. Nay nhờ sách, nhờ người am hiểu, cung cấp tài liệu lại được biết thêm: Thành ThZng Long đời Lý đã được xây dựng như một công trình kiến trúc hoành tráng nhất trong các triều đại.
    Đặc biệt, việc kiến trúc khu Hoàng thành đã được tiến hành theo một quy hoạch lớn, vừa đa dạng vừa tráng lệ chưa từng có, thể hiện phong cách riêng của triều đại này. Nơi đây được xây dựng hàng loạt cung điện lộng lẫy: chỗ vua Lý Thái Tổ làm việc thì có điện Kiều Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Vũ. Chỗ vua nghỉ ngơi thì có điện Long An, điện Long Thụy. Nơi phi tần ở thì có cung Thúy Hoa, cung Long Thụy... Trước chính điện có sân rồng rộng lớn, bốn bề sân rồng có hành lang, nhà giải vũ và nhiều lầu gác.
    Sang các đời vua sau đều có sửa chữa hoặc xây dựng lại cung điện và đặt tên mới. Đời Lý Thái Tông, ở cạnh sân rồng còn dựng lầu Chính Dương, trên để loại đồng hồ cổ, có người thường trực báo giờ giấc.
    Chẳng những độc đáo về tạo dáng mà các cung điện trong Hoàng thành thuở ấy còn độc đáo về vật liệu xây dựng: gạch, ngói thường chạm trổ các hình hoa vZn, rồng phượng và khi xây chỉ việc lắp khít vào nhau không cần mạch vôi nữa. Đặc biệt hay dùng loại ngói ống bằng sứ men trắng, men xanh, men vàng, đầu ống bịt hình rồng, phượng, hoa sen, tạo thành đường diềm mái tuyệt đẹp. Những vật liệu được chế tác tinh xảo, mỹ lệ này đã góp phần làm lộng lẫy thêm những lầu son, gác tía của Hoàng thành.
    Trong sách VZn hiến thông khảo của Mã Đoan Luân, sử gia Trung Quốc cuối thế kỷ 12 có đoạn miêu tả cảnh ThZng Long thời Lý nói rằng: Vua Lý ở trong một tòa cung điện nguy nga cao bốn tầng, sơn mầu đỏ, các cột chạm vẽ rồng phượng thần tiên cực kỳ tráng lệ. Cuốn Việt sử lược (đời Trần) cũng viết: "Các cung điện thời Lý nói chung đều được xây cất đẹp đẽ, chạm trổ trang sức khéo léo. Ngoài các cung điện, khu Hoàng thành còn xây dựng nhiều lầu các, đài tạ vàng son lộng lẫy. Đài Chúng Tiên dựng nZm 1161 tầng trên lợp ngói bằng vàng, tầng dưới lợp ngói bằng bạc. Hồ ao, vườn ngự cũng được đào đắp khá nhiều: hồ Kim Minh, Vạn Tuế (nZm 1049) có đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và có cầu Vũ Phượng từ bờ đi vào. Hồ ứng Minh, hồ Thụy Thanh (nZm 1051), hồ Phượng Liên (nZm 1098)... đều là những hồ đẹp, trên bờ có dựng nhiều lầu các, đình tạ. Trong Hoàng thành còn lập nhiều ngự uyển trồng các loại hoa thơm cỏ lạ và nuôi các thứ muông thú quý hiếm, như vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh, vườn Xuân Quang (nZm 1048), vườn Thượng Lâm (nZm 1085). Đặc biệt, vào giữa thế kỷ 14 có lập một vườn ngự uyển lớn, trong vườn đào một hồ rộng lớn gọi là hồ Lạc Thanh. Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ cây khác, thêm vào đấy nào cỏ lạ, nào hoa thơm, nào muông kỳ, nào chim quý, bốn mặt lại khơi ngòi cho nước sông thông vào..." (Việt sử thông giám cương mục). Hoàng thành còn được kiến tạo nhiều núi đất, trong đó có những ngọn đã trở thành danh thắng như núi Nùng, núi Tam Sơn, núi Ngũ Nhạc... Núi Nùng là nơi trên đó xây dựng điện Kính Thiên, cũng là quả núi đã trở thành biểu tượng cho non nước kinh thành (Núi Nùng, sông Nhĩ chốn này làm ghi - Chính khí ca).
    Nhà Lý là một triều đại sùng Phật, xây dựng khá nhiều chùa, tháp, đền, miếu ở ThZng Long. Ngay nZm đầu định đô, Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa lớn như Hưng Thiên, Vạn Tuế. NZm 1114 xây chùa Thiên Phật rộng lớn đủ bày 1.000 pho tượng (khánh thành nZm 1118). Trong số đền chùa nổi tiếng có: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo...
    Ngoài Hoàng thành có một bức tường gạch bao quanh, có bốn cửa thông ra ngoài khu kinh thành: bắc là cửa Diệu Đức, nam là cửa Đại Hưng, đông là cửa Tường Phù, tây là cửa Quảng Phúc.
    Ra khỏi Hoàng thành là khu vực kinh thành có quy mô khá rộng. Bên ngoài đắp một dải tường thành bằng đất bao bọc chung quanh, gọi là Đại La Thành hoặc La Thành. ở mé đông tường thành cũng đồng thời là đê sông Hồng.
    Nay có thể lần theo dấu vết La Thành: phía bắc là đê sông Hồng từ quanh Hồ Tây đến Kẻ Bưởi. Phía đông vẫn là đê này từ Yên Phụ xuống tận Đồng Nhân. Phía nam, đường thành chạy tiếp từ Đồng Nhân qua Thịnh Hào, Yên Lãng, Thủ Lệ song song với sông Tô Lịch. Phía tây, đường thành nối tiếp từ vùng Bưởi về Cầu Giấy... cũng có thể đã mở rộng tới gần sông Nhuệ bao gồm cả vùng Mai Dịch, Cổ Nhuế hiện nay.
    Kinh thành ThZng Long thuở ấy có bao nhiêu cửa thông ra ngoài hiện chưa biết đích xác, chỉ biết trong số đó có cửa Tây Dương (sau này là ô Cầu Giấy), cửa Triều Đông mé trên dốc Hòe Nhai, cửa Yên Hoa (ô Yên Phụ), cửa Vạn Xuân (sau này là ô Ông Mạc (Đống Mác), cửa Chợ Dừa sau này là ô Chợ Dừa...
    Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng thành gấp bội. Các ly cung của nhà vua cùng các phủ đệ, cung viện, dinh thự của các ông hoàng bà chúa, các đại thần được xây dựng nhiều và vô cùng lộng lẫy nhưng đáng tiếc là không được sử sách ghi chép đầy đủ.
    Trong vô số cung, điện, đền, miếu, chùa, tháp... thời Lý phải kể đến tháp Báo Thiên nổi tiếng được xây dựng nZm 1057 bên bờ hồ Lục Thủy (Hồ Gươm ngày nay). Tháp cao vài chục trượng gồm 12 tầng, xây bằng đá và gạch, mấy tầng trên cùng đúc bằng đồng. Trong tháp trang trí nhiều tượng người và vật bằng đá rất kỳ xảo. Tháp cao lại xây trên gò đất cao nên thuyền từ xứ Nam lên kinh đô tới bến Yên Duyên (của đất huyện Thanh Trì ngày nay, cách trung tâm Hà Nội hơn 10 km) đã nhìn thấy đỉnh tháp cao vút mây trời.
    Còn có thể chép ra đây nhiều trang về các công trình xây dựng và công phu tô điểm kinh đô ThZng Long dưới vương triều Lý xứng đáng là một đô thành mở nền của kỷ nguyên vZn hiến Đại Việt.
    Nhưng đến thời tàn nhà Lý trong khoảng vài thập niên đầu của thế kỷ 13, nội chiến xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến rồi xung đột nổ ra ngay tại đế đô làm cho các cung điện trong khu Hoàng thành bị thiêu hủy gần hết.
    Sử cũ còn chép: NZm 1214, cung thất nhiều nơi bị đốt, vua và hoàng hậu phải trú ở nhà tranh gần cầu Thái Hòa. Tới nZm 1216, "thảo điện" (tức cung điện bằng tranh tre nứa lá) phải dựng ở vùng tây Phù Liệt (tức làng Sét, Thanh Trì).
    Từ đầu nZm 1225, nhà Trần lên ngôi vua, bắt tay sửa sang và xây dựng mới khu vực Hoàng thành. NZm 1230 xây dựng nơi thiết triều gồm một số cung điện, lầu, gác. Còn khu kinh thành đời Trần thì không có gì khác so với kinh thành thời Lý.
    ThZng Long cuối thời Trần chưa xây dựng được bao nhiêu thì lại tiếp tục bị giặc giã cướp phá, thiêu đốt, kinh thành đổ nát tan hoang.
    Hồ Quý Ly lên nắm chính quyền không những không sửa chữa kinh thành mà lại còn phá nốt những cung điện còn sót lại ở ThZng Long để lấy nguyên vật liệu đem vào Thanh Hóa xây dựng kinh đô mới.
    Sau đó 10 nZm, giặc Minh xâm lược nước ta, ThZng Long bị chúng chiếm đóng trong hai mươi nZm liền. Chúng bòn rút nốt những gì còn lại trong Hoàng thành, rồi phá phách tới những công trình xây dựng bên ngoài Hoàng thành. Chúng hủy hoại nhiều chùa, tháp, đền, miếu; lấy nhiều cổ vật bằng đồng quý như đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền... đem đúc vũ khí.
    Tới đây, hầu hết những công trình kiến trúc ở ThZng Long từ thế kỷ 11, 12 đều bị phá trơ trụi.
    NZm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đổi tên ThZng Long thành Đông Đô, cuối nZm 1430 lại gọi là Đông Kinh.
    Sau đó, ThZng Long là đất đế đô của các triều vua kế tiếp trong suốt 400 nZm thời Lê được xây dựng lại ngày càng rộng lớn, đẹp đẽ và sầm uất với hàng trZm cung điện.
    NZm 1512, vua Lê Tương Dực sai Vũ Như Tô, một nghệ nhân xây dựng nổi tiếng, đứng ra chỉ đạo xây dựng các cung điện và Cửu Trùng đài cực kỳ nguy nga tráng lệ.
    Nhưng đang xây nửa chừng thì các công trình này phải dỡ bỏ vì nổi loạn.
    Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Sau mấy chục nZm đến đời Mạc Mậu Hợp mới có cuộc xây dựng lại các cung điện kéo dài trong một nZm. Cả hai lớp thành trong và ngoài đều được sửa lại, ấn định vị trí và diện mạo của Hoàng thành ThZng Long từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17.
    So với Hoàng thành của nhà Lê đầu thế kỷ 15, Hoàng thành do Mạc Mậu Hợp tu sửa có bị thu hẹp chút ít ở hai phía Đông và phía Tây nên một số cung điện bị bỏ ra ngoài khu vực Hoàng thành, lâu dần trở nên hoang phế. Tuy vậy, Hoàng thành thời Lê - Mạc vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý - Trần rất nhiều, vẫn còn giữ được vẻ nguy nga tráng lệ đến vài thế kỷ sau.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  2. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    Cuối thế kỷ 17, Xa-mu-en Ba-rôn, một nhà buôn người Anh mẹ Việt, miêu tả Hoàng thành thời Lê - Mạc: "Khi đứng trước ba lớp thành và cung điện cổ, người ta lấy làm ngạc nhiên. Những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy xây vững chắc. Cung điện có những cửa lớn và đẹp lát bằng cẩm thạch. Cung điện cổ đó chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại, cũng đã biết lâu đài đó trước kia rất đẹp đẽ, huy hoàng".
    Giáo sĩ người Italy là Ma-ri-ni miêu tả: "Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ nhưng ở đây có rất nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu thảm rất tốt và đủ các mầu sắc để tô điểm, thật không đâu sánh kịp. Cung điện, nơi vua ở là một lâu đài xây dựng trên một rừng cột rất chắc chắn. Kèo cột trong cung điện làm rất kỹ và rất đẹp, không nhà nào bằng".
    Khoảng từ nZm 1527 đến 1597, Mạc Mậu Hợp huy động quân dân bốn trấn (Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương) mỗi ngày mấy vạn người đắp thêm ba lần lũy đất ở ngoài thành Đại La, cao và rộng hơn thành cũ rất nhiều.
    NZm 1749 thời Lê - Trịnh lại có cuộc sửa đắp lớn thành Đại La (lúc này còn được gọi là Đại Độ) có tám cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, có người canh gác. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, các vua Lê chúa Trịnh đã xây dựng nhiều đền chùa và hành cung trong đó có đền Ngọc Sơn, lều Ngũ Long bên hồ Hoàn Kiếm, đền Trấn Vũ, chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc ở khu vực hồ Tây, viện Nghinh Xuân và Trường Thi ở Quảng Bá...
    Nhiều người phương Tây từng ca ngợi ThZng Long trước thế kỷ 19 là một trong những công trình đô thị được xây dựng đẹp nhất châu á như ông J.B. Se-nhô.
    Cuối thế kỷ 18, cuộc tranh chấp quyền hành giữa vua Lê và chúa Trịnh đã dẫn tới cuộc tương tàn dữ dội trên đất ThZng Long. Ngày mồng 8 tháng chạp nZm Bính Ngọ (đầu nZm 1787), Lê Chiêu Thống sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa, cháy hơn 10 ngày chưa tắt!
    Thế là lâu đài cung điện xây dựng trong 200 nZm bỗng chốc thành bãi đất cháy đen (Hoàng Lê nhất thống chí).
    Dưới chính quyền Tây Sơn (1788 - 1802), ThZng Long có được sửa sang ít nhiều, song về cZn bản, kinh thành vẫn không có gì khác trước.
    NZm 1802, triều đại Tây Sơn bị tiêu vong, cả nước thuộc quyền thống trị của triều Nguyễn dời vào đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Từ đây, kinh thành ThZng Long chỉ còn là trấn thành và sau đó là tỉnh thành.
    NZm 1803, Gia Long cho triệt phá Hoàng thành cũ. Trên nền đất ấy, xây một thành mới theo kiểu Vô-bZng (Vauban), một kiểu thành của Pháp thế kỷ 17, thu hẹp rất nhiều so với Hoàng thành thời trước, mỗi bề chỉ khoảng 1 km. Chân thành bằng đá xanh và đá ong, tường xây bằng gạch hộp, cao hơn 10 trượng, dày 4 trượng. Thành có nZm cửa, đông, tây, nam, bắc và đông nam, trên mỗi cửa đều cho xây lầu canh gọi là "thú lâu". Ngoài thành có đào hào, trước bờ hào ở ngoài cửa thành lại dựng một bức tường chắn gọi là "dương mã thành". Trong thành, ở chính giữa vẫn là điện Kính Thiên dựng trên núi Nùng, cột to bằng người ôm không xuể, thềm điện có chính bậc, ở hai bên đặt hai con rồng đá. Gần điện xây hành cung để mỗi khi vua nhà Nguyễn từ Phú Xuân (Huế) ra ThZng Long thì tới ở tại đấy.
    Khu phía đông là dinh thự các quan lại. Khu phía tây là các kho thóc, kho tiền. Phía bắc là Tĩnh Bắc lâu, vừa là cơ quan đặc biệt chuyên theo dõi tình hình Bắc Hà, vừa là một nhà ngục khét tiếng tàn độc.
    NZm 1812 dựng cột cờ hình sáu cạnh cao 60 mét xây bằng gạch gốm ở phía nam thành.
    NZm 1831, vua Minh Mệnh sáp nhập huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân, phủ Thường Tín vào ThZng Long và lập ra tỉnh Hà Nội.
    NZm 1848, vua Tự Đức sai phá dỡ cung điện trong thành, lấy các đồ chạm trổ mỹ thuật bằng gỗ, đá, đem về Huế làm cho nhân dân ở dọc đường phải phục dịch vô cùng khốn khổ.
    Thế là một số công trình ít ỏi, mới xây dựng từ đời Gia Long đến đây đã lại bị phá hết. Thực dân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ nhất (1873) gặp sự chống trả của khâm sai Nguyễn Tri Phương và các dũng sĩ tại cửa ô Đông Hà (ô Quan Chưởng). Chúng nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882) thì tổng đốc Hoàng Diệu cùng quân sĩ bắn trả quyết liệt và nhân dân đốt từng dãy phố, cầm vũ khí thô sơ và khua chiêng gõ trống ầm ầm tạo thành thế trận rộng lớn sẵn sàng diệt giặc.
    Nhưng do triều đình nhà Nguyễn mang nặng tư tưởng đầu hàng, đã bán rẻ mảnh đất thiêng liêng này cho giặc nên Hà Thành đã thất thủ.
    Từ tháng 10-1888, Hà Nội chính thức trở thành một thành phố thuộc địa của đế quốc Pháp do triều đình Huế ký hiệp ước hiến dâng. Từ đó, cố đô ThZng Long được xây dựng từ thời Lý (thế kỷ 11) bị thực dân Pháp thẳng tay tàn phá. Ngay cái thành mà nhà Nguyễn làm theo kiểu Vô-bZng của Pháp cũng bị phá trụi, chỉ còn để lại một cổng thành Cửa Bắc in hằn vết đại bác của chúng. Các cung điện dinh thự trong thành đều bị chúng phá hết, chỉ còn một tháp cột cờ. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ 20, thực dân Pháp xây dựng thành phố Hà Nội, biến nơi đây thành một trung tâm cai trị của chúng ở Bắc Kỳ.
    Nhiều làng xóm như: Giáo Phường, Đức Viên, Đồng Nhân, Vân Hồ đã bị chúng triệt phá để xây dựng các đường phố. Đoạn sông Tô Lịch chảy qua nội thành cùng với nhiều hồ ao đã bị lấp đi để xây nhà, mở đường, chủ yếu là cho các "khu phố Tây".
    Trong quá trình xây dựng, thực dân Pháp phá hoại không thương tiếc nhiều di tích lịch sử, vZn hóa của Hà Nội. Khi xây dựng Nhà thờ lớn, chúng đã phá bỏ tháp Báo Thiên nổi tiếng vốn có từ thời Lý. Khi xây dựng nhà Bưu điện, phủ Thống sứ, chúng đã phá bỏ chùa Báo Ân là một công trình kiến trúc rất công phu.
    Ngót nghìn nZm qua từ triều Lý Thái Tổ đến trước Cách mạng Tháng Tám nZm 1945, ThZng Long - Đông Đô - Hà Nội đã trải bao cuộc thZng trầm, bao lần xây, phá. Nghĩ càng tiếc cho công lao xây dựng của các thế hệ xưa, càng yêu quý trân trọng những di tích lịch sử, vZn hóa còn lại hiếm hoi đến bây giờ trên mảnh đất thủ đô nghìn nZm vZn hiến.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  3. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    ĐI TÌM DẤU VẾT ĐÔNG - TÂY TRONG LÒNG HÀ NỘI
    Giáo sư Momoki Shiro đi tìm những dấu tích ChZm
    Giáo sư Momoki Shiro thuộc Đại học Osaka (Nhật Bản), con người luôn tỏ ra nghi ngờ ChZmpa liệu có phải chỉ là một thể chế biển hay không, mới đây đã rất ngỡ ngàng khi được biết đến những dấu tích ChZm ở Hà Nội và tự tổ chức một chuyến thZm thú tất cả những di tích đó. Giáo sư đã đi theo đường viền các sông hồ, đầm cổ ở Hà Nội. Theo ông, nối lại tất cả các di tích đó, chúng ta sẽ có được một vòng cung ngoại vi Hà Nội và xa hơn nữa có thể kể đến chùa Thầy với những con garuda ChZm và các motif vòng vú kiểu ChZm trên ngai thờ và bệ gỗ bát giác ở đây. Chuyến du lãm này rất có thể khởi đầu cho một công trình nghiên cứu dài hơi của người Nhật Bản muốn lật lại những chứng tích lịch sử về sự pha trộn vZn hóa kỳ diệu giữa người ChZm và Đại Việt ngay trong kinh đô ThZng Long.
    Lần theo con đường của Giáo sư Momoki Shiro, người ta sẽ gặp những dấu ấn ChZm đã thành truyền thuyết. Những cái tên nghe rất Việt Nam như chùa Bà Già, vùng Bala Bông Đỏ, vùng Chèm, Yên Sở, Tân Sở (tất cả các địa danh có chữ Sở)... đều đang được xem xét đến nguồn gốc ChZm của chúng và rất có thể đó là các tên ChZm được đọc chệch đi. ở một mặt nào đó, người ta có thể chưa đồng ý với nhau, nhưng chắc chắn rằng, đó là những nơi người ChZm đã từng sinh sống, những vùng đất, những ngôi chùa lập ra khi người ChZm đến ở. Thời Lý - Trần - Lê đều có các hoàng tử Chiêm Thành mang theo 300 đến 400 người đến ThZng Long xin nhập tịch. Họ cũng có thể là các vị vua, các nhà sư, các thường dân vì những lý do khác nhau trong cuộc biến thiên lịch sử thời Trung Cổ mà mang theo vZn hóa của họ đến ThZng Long, sống cuộc đời như các thần dân Đại Việt khác. Công chúa ChZm, bà Phan Thị Ngọc Lộ đã mang nghề dệt lụa lĩnh đến Trích Sài (Hồ Tây) và lập nên một nghề thủ công truyền thống cho ThZng Long, nay vẫn còn thờ Bà trong chùa Thiên Nhiên. Công sức của người ChZm đổ ra nơi đây đã được ghi nhớ, có nơi lập ra thành thần. Đền Vĩnh Tuy thờ Vua ChZm. Trụ trì chùa Bà Già, một nhà sư ChZm thời Trần, thường được Trần Nhật Duật cưỡi voi đến đàm đạo. Con cháu người ChZm nay vẫn còn ở Phú Gia mang hai họ Ông và Bố, và rất gần đây họ vừa tiến hành giỗ tổ.
    Trong công cuộc xây thành của nước Đại Việt, chắc chắn có sự tham gia trực tiếp vào việc tạo tác và xây dựng của các nghệ sĩ ChZm. Hiếm hoi còn lại ở kinh thành ThZng Long thời Lý là một cái trụ rồng, nay giữ trong Bảo tàng Mỹ thuật. So sánh cái trụ rồng ThZng Long với tượng Vũ nữ Trà Kiệu (ChZm) ta thấy sự gần gũi, giống nhau sâu sắc của điêu khắc, của ngôn ngữ khối mềm mại, uốn lượn, ấm áp, chỉn chu mặc dù hoàn toàn khác nhau về hình tượng và chủ đề. Chắc chắn các nghệ sĩ ChZm đã thực thi theo các motif của người Việt và trong sự thực thi đó bản nZng nghệ thuật của họ vẫn âm thầm bộc lộ như một tinh thần ChZm ẩn khuất.
    Những mái ngói ống của người Hoa

    Chùa Hưng Ký - một ngôi chùa xây theo kiểu Trung Quốc

    Người Hà Nội qua chùa Hưng Ký thường có ấn tượng bởi vẻ đẹp sặc sỡ, lộng lẫy nhiều mầu, cùng các đường nét chạm khắc tinh xảo của ngôi chùa ngói ống hai tầng mái do một nhà tư sản gốc Hoa, cùng tên xây dựng theo kiểu Trung Quốc này.
    Cuốn theo những biến cố lịch sử khác nhau, người Hoa sinh sống ở ThZng Long bắt đầu từ thế kỷ 17 và dù tương đối biệt lập, nhưng chung trên mảnh đất ThZng Long, trong ngần ấy thế kỷ, người Hoa đã để lại những dấu ấn đậm nét trong mỹ thuật, nghề thủ công, các món Zn và thú ẩm thực ở Hà Nội, thậm chí cả một số từ Hán Việt thông dụng gốc Quảng Đông. Sự chung sống giữa hai nền vZn hóa đã diễn ra sự tiếp thu tự nguyện về cả hai phía để cuối cùng hòa tan vào cuộc sống nơi đây và không ngừng chảy cho tới tận hôm nay.
    Những công trình kiến trúc ngói ống đem lại một ấn tượng kỳ lạ giữa các loại ngói âm dương, cá, ngói vuông, nhấp nhô "rất hội họa" nơi phố cổ Hà Nội. Dấu vết của các ngôi chùa của người Hoa như nổi bật lên với các mảnh sứ ốp tường ngũ sắc, với các tượng sứ nhiều mầu ghép lại trên các diềm nóc, diềm mái và các lỗ thông gió. Chùa Hưng Ký có các con giống ở Tam Quan, chùa Bà Đá (phố Nhà Thờ) cao rộng còn lại các long đình, lộc bình và các đồ tế khí gốc Hoa. Hội quán Quảng Đông ở phố Hàng Buồm mang dáng dấp các đền miếu Trung Quốc, vốn là nơi thờ cúng, hội họp của Hoa kiều... Ta cũng có thể tìm thấy một dấu tích kiến trúc Trung Quốc khác ở Tam Quan chùa Kim Liên, một công trình kiến trúc đặc sắc thời Tây Sơn trên nền cung Từ Hoa cũ, như một bông sen vàng nở trên mặt nước. Phỏng theo kiến trúc các "Bài Lầu" ở Trung Quốc, tam quan chùa Kim Liên trông như một cái cổng chào, hoàn toàn không có không gian ở trong. Hiện tượng này duy nhất một lần gặp ở Việt Nam.
    Tại Hàng Giày còn có một quán chè Tàu, chủ quán cũng tự xưng là gốc Hoa, tính đến bà kể đã nZm, sáu đời và quán chè Tàu của bà cũng là duy nhất ở Hà Nội. Khẩu vị người Hà Nội có lẽ không hợp lắm với những đồ Zn quá ngọt. Quán chè của bà cũng có những khách quen, còn phần nhiều khách dừng lại bởi quá đỗi ngạc nhiên trước những cái tên đọc như những câu bùa chú: "Chí mà phù", "Phổ mà nhần", "Lục tào xá"... Một khách Zn chè người miền trung gật gù bảo: "Người Việt đã thích cái gì thì Việt hóa ngay cả cái tên gọi. Chè của cái nhà chị này con mang tên Tàu khó nhớ thì vẫn chỉ là cái của lạ mà thôi".
    Những motif trang trí trên kiến trúc Pháp

    Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - một kiến trúc kiểu Pháp với trang trí á Đông

    Sự giao lưu vZn hóa Việt - Hoa, dù hòa hợp hay khước từ, diễn ra âm thầm bao nhiêu thì cuộc gặp gỡ Đông - Tây mạnh mẽ, ồ ạt bấy nhiêu. Mạnh hơn cả là trên bề mặt kiến trúc, đã làm nảy sinh các biểu hiện sao chép, hay gán ghép. Nhưng nói như nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, cuộc hôn nhân cưỡng bức Đông - Tây trong thế kỷ này về sau đó đã là cuộc hội nhập. Với các khu phố Tây được hình thành, Hà Nội dần dần đã ngả một phần trọng tâm sang phía bên kia hồ Hoàn Kiếm. Phố cổ Hà Nội đổi thay nhanh chóng xuất hiện loại nhà quay đầu hồi ra đường như các nhà thị dân Âu châu, với những mái ngói kiểu ta, kiểu Âu hay Nhật Bản, Trung Quốc. Một loạt các công trình được xây dựng đã khiến người ta nghĩ rằng phải chZng người Pháp muốn "bê" một phần Paris sang đây?
    Nhưng vẻ đẹp á Đông của Hà Nội trong các khu phố cổ vẫn len lỏi ẩn hiện và tìm cách phục sinh mạnh mẽ ngay chính trên các tòa nhà Pháp. Các motif trang trí á Đông hình chữ Thọ, chữ Phúc, hình vòng tròn âm dương, hình mặt trời vẫn xuất hiện trên các giàn cửa sắt, các lỗ thông gió của nhà Tây. Bên ngoài vẫn là một hàng rào sắt chạy hình chữ Triện. Trên tinh thần đó, các con sơn đỡ ở cửa Bảo tàng Lịch sử và nhiều chi tiết kiến trúc phương Đông đã xâm nhập vào các công trình kiểu mẫu của Pháp, kể cả các công trình có tính chất tôn giáo. Nhà thờ Cửa Bắc là một sự pha trộn kỳ lạ giữa nhiều phong cách Âu châu với những mái ngói nhỏ á Đông. Thực chất phong trào tìm về những cái hay cái đẹp của kiến trúc phương Đông trong giới kiến trúc sư đầu những nZm 30 của thế kỷ này đã thực hiện một phần công cuộc Việt hóa những kiểu mẫu từ Âu châu phù hợp với môi trường, nếp sống và thẩm mỹ của người Hà Nội.
    Hà Nội vẫn cứ là Hà Nội
    Sẽ có người bất ngờ khi nhìn thấy ngôi thánh đường Hồi giáo cổ ở số 12 Hàng Lược. Đó là một công trình kiến trúc lộng lẫy và bí ẩn ở Hà Nội, có lẽ rất ít người biết đến, với những ngọn tháp nhấp nhô hình củ hành, với những nét kiến trúc hình hoa lan gây ấn tượng mạnh về sự trùng điệp của một quần thể kiến trúc, dù chỉ đứng ngoài đường chiêm ngưỡng. Vẻ đẹp của Hà Nội luôn là một bí ẩn và chúng ta còn tiếp tục ngạc nhiên dù đã đọc kỹ các con số thống kê di tích.
    Gần 1000 nZm, ThZng Long - Hà Nội đã chứng kiến sự đến, sự đi của biết bao nhiêu người nước ngoài, dấu ấn của họ có khi chỉ như một đám mây bay qua bầu trời thành phố và mất hút trong dọc dài lịch sử, nhưng cũng có khi họ đã gắn bó với mảnh đất này như một quê hương thứ hai. Hà Nội đã tìm cách học hỏi họ bởi sự cởi mở và sức sống của các công trình, các dấu tích còn sót lại không chỉ bởi cấu trúc của chính chúng mà bởi chúng đã vượt qua thử thách hàng trZm nZm lịch sử và đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ để hôm nay còn khẳng định được sự tồn tại hợp lý của mình...
    Việc bóc tách ra từng lớp dấu ấn Đông - Tây trên một thực thể sống là Hà Nội sẽ luôn là một công việc siêu hình, bởi trong sự giao lưu rất khó có thể tách ra đâu là ảnh hưởng ở mức độ tinh thần, đâu là ở mức độ phong cách và đâu là những thực thể, những mảnh vỡ... Hà Nội vẫn cứ là Hà Nội, thế thôi, và hệt như sông Hồng sẽ mang theo tất cả những phù sa của các cuộc giao lưu chảy vào biển lớn của thế kỷ 21.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  4. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    CÒN, MẤT NHỮNG PHỐ NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI
    Người Hà Nội vẫn thường tự hào về "36 phố phường" nổi tiếng sầm uất một thời. Đó cũng là một đặc trưng trong lịch sử hình thành và phát triển của kinh đô ThZng Long - thủ đô Hà Nội ngàn nZm vZn hiến. Có thể nói vùng đất thiêng ThZng Long đã sinh ra 36 phố phường và chính nó đã làm nên nơi "bốn phương tụ họp, đô thành bậc của đế vương muôn đời" như bài "Chiếu dời đô" của Lý Thái Tổ đã viết.

    Sử cũ ghi lại rằng, ThZng Long thời Lê có 36 phố và cùng với các phường, những phố đã dần dẫn xuất hiện với ý nghĩa ban đầu là một nơi bán hàng, rồi nhiều nơi bán hàng như vậy hợp lại thành dãy hai bên đường đi, để rồi cũng được gọi chung là phố:
    Rủ nhau đi khắp Long Thành
    Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
    Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
    Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay...
    Từ xa xưa, người "tứ trấn" đã mang về đây những nét vZn hiến của vùng quê mình để hòa nhập và nhào luyện trên một mảnh đất vốn có nền vZn minh từ rất sớm, tạo lập ra diện mạo của một kinh đô ThZng Long với mỗi phường, mỗi phố đều mang dấu ấn của một nghề cổ truyền. Thợ tiện làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây) lên ThZng Long ở tập trung tại phường Đông Hà lập ra phố Hàng Tiện, nay là đoạn đầu phía đông của phố Hàng Gai, thông ra phố Tô Tịch và ngõ Hàng Hành. Do tâm lý "vọng quê" nên những người thợ tiện này lập ngay tại nơi hành nghề một ngôi đền thờ Thành hoàng làng gốc của họ mang tên "Nhị Khê vọng từ" (đền thờ vọng về Nhị Khê) ở số nhà 11 ngõ Hàng Hành. Những mặt hàng: mâm gỗ, chấn song con tiện, cây đèn, ống hương... của họ không còn đắc dụng trong thời nay nữa, nên dĩ nhiên là những người thuộc lớp cuối cùng của thế hệ "muôn nZm cũ" ấy cũng đành ngậm ngùi với nghề cũ mà thôi. Còn nhớ khoảng vài chục nZm trước đây, các cậu bé Hà Nội vẫn thích mang khúc gỗ ổi sưu tầm tận Quảng Bá đến ngõ Hàng Hành để tiện chúng thành những con quay xinh xắn. Nay thì thứ đồ chơi dân dã ấy đã bị đẩy lùi bởi vô số trò chơi điện tử ở phố Lương VZn Can kế bên, nên một vài cửa hiệu tiện gỗ còn sót lại cũng nhanh chóng lụi tàn. Còn phố Hàng Đào, một dãy phố tiêu biểu cho sự sầm uất hiện nay của thủ đô trước là nơi quy tụ của các thợ nhuộm Đan Loan (Hải Dương) với mầu đặc trưng là mầu đỏ, mầu cách sen mà dấu tích còn lại là ngôi đình Hoa Lộc tại số nhà 90A của phố này thờ Tổ nghề nhuộm. Rồi nữa, dân làng Chắm ở Trúc Lâm (Hưng Yên) mang nghề đóng giầy dép lên kinh đô, lập ra phố Hàng Giày và ngõ Hài Tượng (nghãi là thợ dày dép), để lại cho Hà Nội ngày nay ngôi đình thờ ba ông Tổ nghề họ Phạm ở số 10 ngõ Hài Tượng. Người làng Giới Tế (Bắc Ninh) đem đến nghề làm mành trúc, tạo ra phố Hàng Mành. Cach đây ít lâu, phố này vẫn còn đôi ba nhà sản xuất loại hàng này. Song một dạo, món bún chả xem ra đã lấn át nghề phố cũ, để rổi ngày một ngày hai vắng bóng dần hình ảnh những mành đủ cỡ xếp chật gian hàng. May mắn là những nZm gần đây, do những điều kiện thuận lợi về kinh tế - xã hội mà một số phố nghề cũng dần được hồi sinh trở lại. Phố Hàng Bạc đã nhiều thêm các cửa hàng vàng bạc mới mở, phố Hàng Thiếc đã nghe rộn rã hơn âm thành chan chát của các bác thợ gò và phố Hàng Mã cũng rực rỡ hơn bởi những chiếc đèn ông sao, đèn kéo quân, sư tử, mặt nạ... vào các tiết rằm và ngày lễ, tết.
    Cũng như thế, bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ở mốt số ít các làng nghề truyền thống, mà tiêu biểu là gốm Bát Tràng, thì phần lớn các làng nghề khác đang ở trong tình trạng mai một dần như mất hẳn hoặc kém phát triển. Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận định: "Không thể phủ nhận bề dày truyền thống của làng nghề Việt Nam, trong đó có các làng nghề của Hà Nội. Song, ngày nay nhiều nghề truyền thống đang dần mất đi, nhiều đền thờ Tổ nghề bị hủy hoại, những phong tục tập quán và lễ hội riêng của làng bị lãng quên. Nếu như chúng ta không có kế hoạch gìn giữ và phát huy thì thế hệ mai sau sẽ không còn thấy được dấu ấn của những nghề đã từng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ". Một nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã tâm sự: "Giá gia công quá rẻ mạt đã buộc người thợ thủ công phải bớt xén nguyên liệu và làm hàng dối, các kỹ xảo tinh vi và phong cách độc đáo trong sản phẩm không được sử dụng cứ mai một dần đi. Đồng thời, vị trí xã hội thấ đã làm cho lớp thanh niên mới - con cháu của các nghệ nhân không muốn theo nghề gia truyền nữa". Trong khi đó, nhiều Công ty nước ngoài hiện nay đang thực sự quan tâm khai thác một số mặt hàng thủ công truyền thống của ta. Ngoài các sản phẩm xuất khẩu quen thuộc, họ còn tìm đến tận làng nghề để tìm kiếm những sản phẩm độc đáo của các nghệ nhân và đem nhiều mẫu hàng đến cơ quan sản xuất trực tiếp mặt hàng. Mặt khác, mấy nZm gần đây, nhu cầu và thị hiếu của người dân sau một thời gian dao động giữa nhiều chiều hướng, giờ dang tìm về với những sản hẩm truyền thống. Ông Vũ Hy Thiều - Phó vụ trưởng Hội đồng liên minh các hợp tác xã cho biết: "Bộ VZn hóa không thể cấp vốn cho hoạt động của tất cả các làng nghề truyền thống, bởi nguồn vốn đó quá lớn. Song cũng không thể bỏ mặc các làng nghề tự làm và phát triển tự do theo thị trường. Cho tới thời điểm này, chúng ta có hiệp hội các làng nghề truyền thống và cũng đã có triển lãm Hội nghề truyền thống từ nZm 1995".
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  5. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    PHỐ CỔ HÀ NỘI - XƯA VÀ NAY
    Giờ đây, giữa lúc rất nhiều công trình của thành phố đang khẩn trương hoàn thành, chào mừng 990 nZm lịch sử của thủ đô, tôi tới phố Hàng Chuối, gặp Nhà giáo Nhân dân Hoàng Thiếu Sơn, người đã nhiều nZm nghiên cứu và giảng dạy về ThZng Long ở trường đại học Sư phạm Hà Nội. Trong cZn phòng xinh xắn, câu chuyện giữa chúng tôi thật lôi cuốn. Khi tôi hỏi về những công trình lớn xây trên đất Kinh Kỳ cách đây trên dưới trZm nZm, ông chậm rãi trả lời:

    Phố cổ

    - Nhà thờ Lớn Hà Nội xây nZm 1883, chợ Đồng Xuân xây nZm 1890, Nhà hát Lớn xây nZm 1911, Phủ Thống sứ (Nhà khách Chính phủ bây giờ) xây nZm 1916, trường đại học Đông Dương (Trường đại học Tổng hợp bây giờ) xây nZm 1926, trụ sở Hãng dầu Shell (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường bây giờ) xây nZm 1930. Đó là những công trình xây theo kiến trúc Pháp, đều nằm ở các khu phố cũ. Còn khu phố cổ Hà Nội được hình thành vào nZm 1883, cùng với nZm xây Nhà thờ Lớn, tới nay đã 117 nZm.
    Tôi phục ông tuổi đã ngoài 80 mà "bộ nhớ" còn quá tốt.
    Để giúp tôi hình dung được gương mặt và sự phồn vinh của Kẻ Chợ xưa, ông lấy tập tư liệu ghi chép trên giá sách, đọc cho tôi nghe những nhận xét của các giáo sĩ châu Âu thời đó.
    Ban-đi-nốt-ti viết: "Kẻ Chợ không có thành lũy, không có pháo đài. Ngoài cung điện nhà vua lợp ngói và làm bằng những khối gỗ lớn cầu kỳ, nhà dân đều bằng tre, lợp rạ, không có cửa sổ". Ma-ri-ni Rô-manh viết: "Đường phố không lát gạch. Có khoảng 72 lối phố, thoáng đãng không kém gì các lối phố của các thành phố trung bình ở Italy. Các lối phố đều đầy thợ thủ công và nhà buôn. Để tránh lộn xộn, nhầm lẫn, đỡ mất thì giờ cho khách tìm kiếm thứ hàng cần mua, ở ngõ vào mỗi phố đều có tấm biển ghi rõ loại hàng bán ở đó. Các thứ hàng tốt, quý trong nước và nước ngoài đều được đưa về đây với số lượng dồi dào. Các thương điếm nước ngoài như Hà Lan, Anh... đặt ở ThZng Long để mua các mặt hàng như tơ sống, quế, sa nhân, xạ hương, chè... bán lưu huỳnh, thuốc súng, chì, bạc, vải, súng đạn, hổ phách...". Sa-muy-en Ba-rông viết: "Về diện tích, Kẻ Chợ có thể sánh ngang với nhiều thành phố châu á, nhưng về số dân thì đông hơn so với phần lớn các thành phố đó" và "Con sông cạnh xưởng đóng tàu, được gọi là sông Cái, mang lại khá nhiều thuận lợi cho kinh thành. Vô số tàu thuyền theo dòng sông ra vào Kẻ Chợ, chở đầy ắp hàng hóa, thực phẩm".
    - Như vậy, tên gọi "ThZng Long 36 phố phường" bắt nguồn từ đâu, thưa ông? Tôi hỏi.
    - NZm 1427, đất Kinh Kỳ có hai huyện Quảng Đức và Thọ Xương. Mỗi huyện có 18 phường, hai huyện là 36 phường. Như vậy, phường của ThZng Long là đơn vị hành chính, cũng có nghĩa về mặt nghề nghiệp "buôn có bạn, bán có phường". Sự phồn vinh của ThZng Long 36 phố phường - tức khu phố cổ hiện nay kể từ thế kỷ 15 nằm từ phía đông Hoàng Thành tới bờ sông Nhị. Có một bài thơ xếp đủ tên 36 phố phường, bắt đầu bằng "Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay...
    Ông nói tiếp:
    - Những phố mang tên các mặt hàng khác cứ thế phát triển ngày một nhiều, phản ánh nền kinh tế cổ xưa. Rồi lần lượt xuất hiện các chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, Châu Long, Hàng Bè, Hàng Da, Hòe Nhai... buôn bán tấp nập bên dòng sông Tô.
    Ông nhắc tôi những sản phẩm nổi tiếng của ThZng Long: nem Vẽ, chuối Sù, cốm Vòng, đậu Mơ, bánh cuốn Thanh Trì, cờ Mộ Trạch, nhiễu Giấy, lĩnh Bưởi, vải Sài, giấy Yên Thái, lụa Nghi Tàm, đồ gốm Bát Tràng, nữ trang Hàng Bạc, tượng đồng Ngũ Xã... Rồi từ các nơi đổ tới Hàng Đào có thợ nhuộm Mộ Trạch (Hải Dương), tới Hàng Quạt có thợ Ân Thi (Hưng Yên), tới Lò Rèn, Nguyễn Khuyến có thợ Xuân Phương (Từ Liêm), tới Hàng Bạc có thợ Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm (Thái Bình), Định Công (Thanh Trì).
    Từ cuộc tiếp xúc bổ ích đó, buổi chiều tôi đạp xe lên khu phố cổ nằm trong quận Hoàn Kiếm. Theo quy hoạch, khu này có tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 phố, các phố Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật ở phía đông, phố Phùng Hưng ở phía tây, phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ, Hàng Thùng ở phía nam, phố Hàng Đậu ở phía bắc dẫn tới Hà Khẩu trên bến dưới thuyền, một thời sầm uất. Xe tôi lZn bánh trên những lòng đường hẹp - phố ngắn, ngõ nhỏ, rất ít cây xanh, nhà xây ken nhau, hình thành những nhà ống chụm đuôi ở giữa ô phố. Nhìn kỹ mới thấy nhà ống là nét đặc trưng của khu phố cổ, đều thấp, hẹp, mặt tiền chỉ vài mét được xây bằng đủ các chất liệu của nhiều thời đại. ở các phố Lãn Ông, Hàng Buồm, có mái nhà lợp bằng ngói âm dương viên chồng, viên vợ lợp lên nhau theo thứ tự sấp, ngửa tạo thành lòng máng chảy từ nóc xuống, hoặc có mái nhà lợp ngói ta hình mũi hài trơn. Nhớ thời niên thiếu, qua phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Nón, vải, nón treo lủng lẳng, quấn cả vào mặt, đụng vào đầu người đi trên hè.
    Không chỉ là một trung tâm kinh tế sầm uất, khu phố cổ này xưa kia, vào ban đêm, còn là nơi dập dìu tài tử, giai nhân. Ngựa xe như nước, áo quần như nêm". Nhiều hiệu cao lâu của người Hoa đông khách vì món đặc sản: Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh, Nhật Tân (Hàng Buồm), Asia, Tự Hưng Lâu, Quảng Sinh Long (Hàng Bông). Nhiều rạp hát có nhiều đào, kép nổi tiếng một thời Quảng Lạc, Hiệp Thành, Chuông Vàng (Tố Như), Kim Phụng, Kim Lan. Hàng Bạc, ngõ Sâm Công (Tạ Hiện) tấp nập người đi xem hát. Còn nhớ các bà tiểu thương các chợ, sau Tết, thường đi "bói tuồng" vào rạp giữa chừng để xem là cảnh vui hay buồn, suy ra vận làm Zn may rủi. Tan hát, các hàng quà đêm của người Hoa đông khách vì những món rất Tàu: bánh bao, bánh trôi Tàu, xôi nóng, chí mà phù, lục tàu xá... Lại cả mấy rạp chiếu bóng vơ không biết bao nhiêu tiền vì những phim hợp ý cánh học sinh.
    Khu phố cổ còn là mảnh đất vZn hóa lâu đời. Những tờ báo hằng ngày Trung Bắc Tân VZn, Đông Pháp, Hà Thành Ngọ Báo, Tin Mới... những tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu thuyết thứ nZm cả báo Tin tức của Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi các Nhà xuất bản Tân Dân, Âu Tây tư tưởng... đều đóng trụ sở ở đây. Người Hà Nội vẫn còn nhớ Hội Trí Tri, Hội Truyền bá quốc ngữ (Hàng Quạt), Hội Khai Trí Tiên Đức (Hàng Trống), nhà số 48 Hàng Ngang, nơi Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập, phố hoa đào Cống Chéo Hàng Lược, phố câu đối Tết Hàng Bồ...
    Tôi tới phố Mã Mây, đứng trước cZn nhà thấp, hẹp, sâu, bên trong có gác, mặt tiền hai bên là những tấm cửa bức bàn, phía trên có một hàng con tiện bằng gỗ quét sơn ta mầu gụ, trong nhà các kèo cột đều chạm trổ hoa vZn cổ. Ngoài cửa, trên tường treo tấm biển đồng khắc ba thứ tiếng Việt - Pháp - Anh: "Ngôi nhà 87 Mã Mây đã được cải tạo trong khuôn khổ hợp tác giữa Tu-lu-dơ (Pháp) -Hà Nội (Việt Nam) và được khánh thành ngày 27-10-1999".
    Tôi lại đạp xe tới số 38 Hàng Đào đang được tốp thợ của Công ty tư vấn kiến trúc đô thị Hà Nội cải tạo từ ngày 16-2. Hỏi chuyện anh đội trưởng trẻ, tôi được biết đây là cửa hàng bách hóa đã dọn đi, nhà xây gần trZm nZm nay, dài 55 m, ngang 5,5 m nhưng đuôi thót còn 1,1 m trên gác phía trong còn để lại tấm bia đá gắn trên tường. CZn nhà sẽ được tôn tạo theo nguyên mẫu kiểu cổ, cũng là công trình hợp tác giữa Tu-lu-dơ và Hà Nội.
    Tiện dịp, tôi xin phép vào thZm mấy hộ ở cùng phố. Giữa thời kinh tế thị trường, nhà nào cũng bung ra buôn bán, làm dịch vụ. Tuy nhà ngoài bán hàng nhưng có nhà bên trong bày bàn thờ, treo hoành phi, câu đối cùng các đồ thờ cổ, quý giá. Có nhà bầy sập gụ, tủ chè cánh cong khảm trai, sa-lông Tàu giữ phong cách cổ truyền, nếp sinh hoạt tao nhã của người Việt Nam.
    Sau mấy ngày đi lại và hỏi chuyện bà con, tôi rút ra mấy nhận xét. Trước hết, từ lâu các phường nghề đã mai một, mặt hàng thủ công truyền thống không còn. Dân phố, trừ những người đi làm ở cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp, đều chuyển sang buôn bán, làm dịch vụ. Vỉa hè cạnh nhà xếp đầy hàng. Lòng đường đan xen các loại xe chở hàng. Còn dân cư đông đúc, ở quá chật, có lẽ bình quân chỉ được 1 m2 mỗi người, nhà cửa tồi tàn, xuống cấp nặng. Một điều không thể ngờ là nhà không có hố xí chiếm tới 50% và 20% số nhà không có bếp. Trong ngõ tối, ánh sáng tự nhiên không len vào được, phải dùng ánh sáng điện, có bóng điện thắp suốt ngày đêm. Thiếu cả nước sinh hoạt. Nhà ở vẫn thế nhưng dân số ngày càng phát triển, có nhà trước chỉ là một hộ, nay tZng lên vài hộ, rồi trên chục hộ, có cửa hàng do mặt tiền hẹp, anh em trong nhà phải chia nhau để bán hàng. Đến thời đổi mới, bảy, tám nZm gần đây, nhiều ông chủ giàu sụ đến mua nhiều ngôi nhà cổ, đập đi, xây khách sạn, nhà hàng, công ty kinh doanh cao ngất, lấp loáng những ô kính đen, kính trắng, ban đêm biển hiệu chạy điện vụt sáng, vụt tắt, phá vỡ cảnh quan khu phố cổ. Kể cả những chủ nhân vì sự bức xúc của cuộc sống, không chịu nổi cảnh Zn ở chật chội, ẩm thấp, chung chạ, phải tự phá nhà, xây lên nhiều tầng, tuy không được phép của cơ quan chức nZng, nếu phạt thì nộp ngay.
    Tôi đến Ban quản lý phố cổ Hà Nội ở Hàng Buồm, kể lại những nhận xét trên với bà Tô Thị Toàn, kiến trúc sư, Phó trưởng ban. Bà nói:
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  6. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    - Ngày 4-6-1999, ủy ban Nhân dân thành phố đã ra quyết định ban hành "Điều lệ tạm thời về quản lý xây dựng, bảo tồn và tôn tạo khu phố cổ Hà Nội". Điều lệ nói kỹ, có nhiều nét mới, hy vọng giải đáp được những khúc mắc của nhân dân phố cổ.
    - Bà có thể cho biết tóm tắt những nét chính được không?
    - Thành phố bảo tồn trung tâm thương mại Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Đồng Xuân theo phong cách kiến trúc đặc hữu của khu phố cổ. Mạng lưới đường vẫn giữ nguyên. Thành phố bảo tồn, tôn tạo các công trình hoặc cụm công trình di tích lịch sử, vZn hóa, kiến trúc có giá trị, đã xếp hạng, trong đó có nhà thờ, nhà ở cổ, nhà ở có vườn. Cải tạo điều kiện sinh sống của nhân dân trong khu vực: hiện đại hóa hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị (các hệ thống thoát nước thải, thu gom rác thải, cấp nước, cấp điện, chiếu sáng, thông tin liên lạc).
    - Nhà dân được phép cải tạo hoặc xây mới có được theo các thiết kế thoải mái không? Tôi hỏi.
    - Phải theo quy định: nhà giáp mặt phố (lớp ngoài) không vượt quá ba tầng, lợp mái ngói ta, chiều cao tối đa đến đỉnh mái không quá 12 m, dùng vật liệu và họa tiết trang trí truyền thống. Nhà ở phía trong không vượt quá bốn tầng, chiều cao tối đa đến đỉnh mái không quá 16 m.
    Bà nhấn mạnh:
    - Thành phố sẽ giảm dần dân cư trong khu phố cổ, tZng diện tích cây xanh hè phố, sân vườn, sân chơi.
    - Từ nay đến ngày kỷ niệm 990 nZm ThZng Long - Hà Nội, Ban quản lý phố cổ còn làm những gì nữa?
    - Sau hai ngôi nhà 87 Mã Mây, 38 Hàng Đào đã tôn tạo, tạm dùng làm nơi tham quan cho khách du lịch, chúng tôi tiếp tục tôn tạo một số nhà cổ khác theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Tuyến đường Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Đồng Xuân sẽ là tuyến đường dành riêng cho người đi bộ. Đang nghiên cứu tổ chức phố ẩm thực. Phố Tống Duy Tân sẽ là phố ẩm thực bán những món Zn đặc sản của các miền đất nước.
    Nghe bà nói, tôi hiểu từng bước chuyển động của khu phố cổ, lại nhớ tết Con Rồng vừa rồi, hai vợ chồng đứa cháu ở Pháp về, đêm nào cũng mò đi Zn quà đêm cho hết nhớ, không quên vác máy camera đi quay các chợ hoa, phố cổ để đem sang Pa-ri cho bố mẹ xem. Các cháu nói:
    - Bác ơi, ba mẹ cháu nhớ Hà Nội lắm, cứ dặn chúng cháu đến xem phố cổ có còn không hay hóa thành phố hiện đại rồi. Giá mà có thể giữ mãi gương mặt phố cổ của người xưa!
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  7. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    MỘT VÀI CẢM NHẬN NÉT ĐẸP HÀ NỘI XƯA
    "Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội, Hà Nội của ta, Thủ đô yêu dấu...". Đó là những thổn thức, xung động sâu lắng trong tâm tư tình cảm của những con người đất Việt, vốn dòng dõi con Rồng cháu Tiên. Những tình cảm đó ngày thường ẩn sâu nơi cõi lòng, trái tim, vào những ngày lễ hội lại dâng lên mãnh liệt như núi lửa phun trào.

    Kim Liên cổ tự

    Hà Nội nay, ThZng Long, Đông Đô xưa-nơi tụ hội của nguyên khí đất trời giao cảm hòa điệu, được Rồng vàng báo ứng cho vua Lý Thái Tổ khai đô "Kiểu đất Long xà chọn được nơi", được Rùa Thần hộ mệnh, xứng đáng là trái tim của nước Việt, Tràng An của trời Nam.
    Kể từ khi Lý Công Uẩn phụng mệnh trời, thuận lòng người dời đô đến đây, nước Nam ta đã được tọa lạc trên nền độc lập vững chắc, nền vZn hiến lâu đời. Từ kinh đô ThZng Long, hào khí thái bình tỏa khắp bốn phương, hòa trộn vào những con sông nặng tình Sơn Thủy đổ về khắp non sông; nguyên khí của dân tộc quyện hòa, thấm đượm vào những áng mây ngọn gió đi tới những vùng núi rừng xanh biếc, hấp thu vào nguồn sống khắp muôn nơi, tạo sinh khí tinh thần vZn hóa cho những dân tộc anh em trong đại gia đình Lạc Việt.
    Từ kinh đô Rồng bay Rùa ngự này, dân tộc ta đã đàng hoàng bố cáo, khẳng định vị thế, chủ quyền dân tộc, giang sơn gấm vóc. Với tinh thần "Sông núi nước Nam vua Nam ở-Rành rành định phận ở sách Trời...". Cũng từ đây, vZn hóa dựng xây Tổ quốc được khởi lên, rất nồng nàn tính nhân bản, giàu tư tưởng đạo đức truyền thống phương Đông. "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân... Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo". Với tinh thần đó, ThZng Long kinh kỳ là nơi tụ hội của hầu hết các hiền nhân, danh sĩ, bậc kỳ tài của người dân Việt. Mặc dù "Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu", song "... Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngấm ngầm giúp đỡ" cho nên "Hào kiệt đời nào cũng có". Đó là Lý Thường Kiệt, Lý Thái Tổ, Chu VZn An, Nguyên Phi ỷ Lan, Tô Hiến Thành, Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý, Trần Thái Tông, Nhân Tông, Quốc Tuấn, Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi nhà Trần, Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng nhà Hồ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Lương Thế Vinh, Nguyễn Hiền, Nguyễn Thận nhà Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Nguyễn Siêu... về sau này.
    Đáng tiếc thay, những công trình vZn hóa biểu tượng cho kinh kỳ phồn hoa thanh lịch "Phồn hoa thứ nhất Long thành, phố GiZng Mắc Cửu đường quanh bàn cờ, Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ, Bút hoa in chóp bài thơ lưu truyền", cho đến nay chẳng còn đáng kể. Tuy nhiên, theo những tài liệu còn lưu giữ thì những công trình đó biểu hiện sự kính trọng trời cha đất mẹ (điện Kính Thiên), biểu hiện sự phụng mệnh trời, mở ra thời đại mới thái hòa và vững bền mãi mãi "điện Càn Nguyên, Vạn Thọ, Diên Hiền, Bát Giác, Phụng Thiên, Diên Hồng...). Trải qua biết bao cuộc chiến tranh tương tàn, sự không lượng thứ của thời gian và sự vô tình của con người, những cung điện trên bị phá hủy gần hết.
    Ngày nay, chỉ còn tồn tại thành Hà Nội cũ nát và trường Đại học đầu tiên của Việt Nam: VZn miếu Quốc Tử Giám, nơi tụ hội của các danh sĩ, nơi đào tạo ra các bậc hiền tài, nơi biểu hiện sự ngưỡng mộ tư tưởng Đạo Khổng Nho phục vụ nhân sinh xã hội với Tam Cương Ngũ Thường-Đạo của người quân tử. Với tư tưởng Hiền Tài "là nguyên khí của Nhà nước...", "là tinh hoa VZn hóa của dân tộc, biểu hiện phúc đức của tổ tiên..."; đã biết bao hiền nhân, bậc kỳ tài được ra hoa kết trái tỏa sáng khắp non sông: Bia Tiến sĩ, Trạng nguyên tọa lạc trên lưng Rùa vàng vẫn lưu danh muôn thuở làm xao xuyến lòng người. ThZng Long, đất vZn hiến ngàn nZm, nơi tụ hội hòa nhập của bao nền Đại vZn hóa: Trung Hoa (Đạo giáo, Nho giáo), ấn Độ (Phật giáo, Yoga...) và sau này nữa là Thiên chúa giáo, Tin lành... Những nền vZn hóa đó lan tỏa vào con người làm tZng những nét đẹp rạng rỡ, kiêu kỳ nhưng rất tươi tắn của con người Tràng An. Chúng lúc ẩn lúc hiện trên khuôn mặt, phong thái nhưng rất hòa quyện đã tạo ra bản sắc riêng cho vZn hóa kinh kỳ, luôn luôn được thể hiện rõ trong giới VZn sĩ Bắc Hà: "Thứ nhất Kinh kỳ...", và cũng thấm sâu vào trong cuộc sống đời thường nơi đô hội, đến mức mà "Không thơm cũng thể hoa nhài, Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".
    Mặc cho vật đổi sao dời theo sự xoay vần của con Tạo, cuộc sống của người dân ThZng Long vẫn đậm đà bản sắc triết lý thực hiện quân bình, tìm chữ hòa hợp thời thế theo dòng vZn hóa phương Đông. Người dân hầu hết đều có tín ngưỡng tinh thần, hoặc là đệ tử nhà Phật, theo Đạo giáo, Đạo nho hay là con chiên của Đấng Sáng thế. Với tư duy và lối xử thế "An bần lạc đạo", "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", người ta trọng vZn hóa, tín nghĩa, đạo đức và tinh thần. "Cuộc sống đích thực của con người là vZn hóa tinh thần"; người ta hành động tìm chữ Hòa hợp trong mối quan hệ "Thiên Địa Nhân đồng nhất". Chính vì vậy, cuộc sống thái bình tràn ngập khắp kinh đô và thôn quê làng xã, với những bậc hiền nhân quân tử, thuận thời thì hòa chí vẫy vùng như cá gặp nước, như rồng gặp mây, phò vua giúp nước, tận tâm với nhân dân.
    Khi cái thời thỏa chí anh hùng qua đi, người quân tử lui về vui thú điền viên, mở trường dạy học, đọc sách thánh hiền; hay đi ở ẩn, làm cái anh đạo sĩ, ẩn sĩ để tìm cái ý nghĩa đích thực của cuộc sống đời người, truyền lại tinh hoa cho con cháu hay tìm cách hòa nhập với thiên nhiên bồng bềnh thơ mộng. Danh sĩ Chu VZn An lui về dạy học, truyền lại cho hậu thế bao bậc kỳ tài. Nhà vua Hiền Đức Trần Thái Tôn, Trần Nhân Tôn, sau khi hoàn thành trọng trách với nước với dân, lên núi quy Phật hòa nhập với Phật tích, mở ra trường phái Thiền Trúc Lâm. "Tiên ông" Nguyễn Trãi lui về vui thú với Côn Sơn. Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về với phong thái của "Bạch Vân Cư sĩ" thanh tao nhẹ nhàng. Còn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác thì tìm chữ Nhàn sau mỗi ngày chữa bệnh cứu người, giúp đời. "Bậc thánh nhân quân tử xử thế với thời cuộc như vậy, làm những tấm gương Nhật Nguyệt, Sao Khuê soi sáng cho đời sống nhân dân. Vì vậy họ đã cảm hóa, cảm động được quần chúng trong cuộc sống hằng ngày. Dẫu rằng đời sống vật chất của người dân 36 phố phường nói riêng, nhân dân đất Việt nói chung vẫn thiếu thốn, vất vả nhưng với tình thần vZn hóa thanh cao, trong sáng và hướng thiện, không khí cuộc đời vẫn rất thanh bình yên ả. Cái chất dân gian của đất kinh kỳ thật nhẹ nhàng mà uyển chuyển tình tứ, chúng hòa quyện vào bóng nước Hồ Tây mát rượi hay dòng sông Hồng mang nặng chất phù sa, vào công việc hàng ngày nét mặt nụ cười của người dân bản xứ.
    Cho đến hôm nay, mặc dù cái vẻ thanh tao nhẹ nhàng đã bị cuộc sống vật chất xô bồ chen lấn, che lấp và có phần bị ô nhiễm; nhưng cái chất "Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" lúc ẩn lúc hiện vẫn đi suốt, thấm vào máu thịt của người Hà thành, vẫn là những cốt cách, phong thái giàu chất nhân vZn. Hy vọng rằng cái không khí "Nhà Nam nhà Bắc đều no mặt, Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình" của Vua hiền Lê Thánh Tông sẽ tràn ngập khắp muôn nơi, từ Thủ đô thanh lịch lan tỏa tới những vùng núi cao biển cả của đất nước con Rồng cháu Tiên này.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  8. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    VĂN HOÁ THĂNG LONG TRONG HÀ NỘI NGHÌN NĂM VĂN HIẾN
    VZn hóa ThZng Long - Hà Nội là thành quả của những con người sống ở Hà Nội, nhưng không đối lập hay đứng trên mà trái lại, luôn bồi đắp, hòa chung vào vZn hóa chung của cộng đồng dân tộc. Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, chuyên gia nghiên cứu vZn học cổ, thì hiện nay, người Hà Nội đang thực sự bắt đầu một cuộc chuyển giao vZn hóa, đưa nền vZn hóa 1000 nZm của mình trao cho những người Hà Nội của thiên niên kỷ sau. Và để cuộc chuyển giao diễn ra suôn sẻ, không gì hơn là người Hà Nội chiêm nghiệm, thấy được chỗ yếu, chỗ mạnh cố hữu của mình, từ đó có cách ứng xử tích cực với sản phẩm vZn hóa do mình tạo ra.

    Tháp Bút

    Hỏi: Xin Giáo sư cho biết cảm nghĩ của mình về nZm 2010 đang đến gần và về ThZng Long - Hà Nội nghìn nZm vZn hiến?
    Trả lời: Những nZm cuối của thế kỷ 20 này đang thực sự diễn ra một cuộc bàn giao trọng đại giữa thế kỷ 20 và thế kỷ 21 về nhiều phương diện. Thế thì, nhìn rộng ra 1000 nZm ThZng Long - Hà Nội, cũng có thể nói, con người Hà Nội đang phải thực sự bắt đầu một cuộc chuyển giao vZn hóa, đưa nền vZn hóa 1000 nZm của mình trao vào tay con người Hà Nội của thiên niên kỷ sau. Nếu để cho việc chuyển giao diễn ra một cách tự phát thì chắc chắn công việc sẽ không suôn sẻ như ta mong muốn, bởi đã nói chuyển giao tức là có thZng hoa và có đào thải. ThZng hoa những gì và đào thải những gì? Muốn tìm câu trả lời thích đáng tưởng không gì hơn là để cho nhân vật chính - người Hà Nội - chủ động nhìn sâu vào chính mình, chiêm nghiệm đúng chỗ yếu chỗ mạnh cố hữu của mình, khắc phục mặt yếu và phát huy mặt mạnh, từ đấy mà có cách ứng xử tích cực với sản phẩm vZn hóa do mình tạo ra - và cũng gắn với mình như một đại lượng sống, một sức mạnh tinh thần, tiếp biến và tỏa rạng từ đời nọ qua đời kia - một cách chủ động.
    Chẳng hạn, ta thường nói Hà Nội vẫn là nơi bảo lưu được nhiều di tích lịch sử và vZn hóa hơn mọi nơi nào trong nước. Đúng thế. Nhưng cũng phải tự hỏi: vì sao ta không giữ được một đền đài, chùa miếu nào đích thực có niên đại từ thời Lý - Trần? Ngay cả đền miếu dưới thời Lê cho đến hết thế kỷ 18 cũng hầu như sạch không? Đấy là một điều nhức nhối, một chỗ trống của lịch sử.
    Trong con người Hà Nội của quá khứ và hiện tại, bên cạnh những tiềm nZng đi lên, thì ra vẫn ẩn giấu một nguy cơ tụt hậu: một chút "Zn xổi ở thì", một chút nông nổi, thiển cận, khiến họ đang tâm phung phí đi không ít giá trị vZn hóa không bao giờ có lại của chính mình. Mà đã nói đến ThZng Long - Hà Nội với tư cách là Thủ đô thì sự phung phí các giá trị vZn hóa kia lại phải nhìn trước hết ở trách nhiệm của người chấp chính. Vậy, hẳn sẽ không phải là thừa nếu ta lấy kinh nghiệm đau xót đó nhắc nhủ các thế hệ đang chuẩn bị hành trang đi vào thế kỷ 21, để họ "học lấy làm lòng" trên con đường tiến thủ của họ.
    Hỏi: Liệu có thể nói nền vZn hóa 1000 nZm của ThZng Long - Hà Nội không chỉ là sản phẩm của con người Hà Nội mà còn là sản phẩm của cả nước được không?
    Trả lời: Xét chủ thể của một nền vZn hóa nào là xét lớp người trực tiếp sản sinh ra nền vZn hóa ấy. Rõ ràng lớp người sống tập trung ở Thủ đô - con người Hà Nội - đã tạo nên vZn hóa ThZng Long - Hà Nội. Tất nhiên không nên nhìn "con người Hà Nội" bằng con mắt tĩnh mà phải hiểu nó như một khái niệm động. Đó phải là sự hợp lưu của con người ở nhiều vùng miền, là tinh hoa của nhiều vùng miền góp lại mà có. Từ xa xưa, nhà Lý quê ở Kinh Bắc, đã đưa vZn hóa Phật giáo về góp mặt với ThZng Long. Nhà Trần quê ở Tức Mặc đã góp nhân tài của đất Thiên Trường cho ThZng Long. Rồi Nguyễn Trãi người Nhị Khê, Lê Thánh Tông gốc Thanh Hóa, Lê Quý Đôn quê Thái Bình, Hồ Xuân Hương gốc Nghệ An, Nguyễn Du người Hà Tĩnh... nhiều nữa, tất cả đều bổ sung vào đội ngũ những con người ThZng Long -Hà Nội chân chính, và đều góp phần làm nên thành tựu đa dạng của vZn hóa ThZng Long - Hà Nội trong vZn hóa Việt Nam. Không có và không thể có một sự khu biệt về bản chất giữa vZn hóa ThZng Long -Hà Nội và vZn hóa của mọi vùng miền khác, nhưng về sắc thái, đặc điểm thì rõ ràng là có, và sở dĩ không thể phân cắt phần đóng góp của những con người này để trả về nơi xuất thân của họ, là vì chính môi trường vZn hóa ThZng Long - Hà Nội đã có một ưu thế riêng, vừa cải biến nhanh chóng cốt cách những con người nhập cư đó, biến họ thành người Hà Nội, vừa chưng cất, tinh lọc mọi sản phẩm mà họ sáng tạo, để sớm trở thành những giá trị mới mẻ, khác xa vZn hóa gốc rễ nơi họ ra đời. Lê Quý Đôn, như lời Ngô Thì Sĩ nói, phải thông qua môi trường học vấn ở Kinh đô mới trở thành một ông Bảng nhãn uyên bác mà nếu chỉ ở Thái Bình thôi thì quyết không bao giờ có được. Cho nên, nói ThZng Long - Hà Nội nghìn nZm vZn hiến cũng là nói đến một môi trường lý tưởng, ở đó có những truyền thống được kết tinh, tiếp nối và rèn đúc nên cái bản sắc độc đáo của người ThZng Long.
    Tóm lại, trước lúc Phú Xuân và Sài Gòn trở thành những trung tâm vZn hóa, ThZng Long đã là trung tâm vZn hóa duy nhất, đóng vai trò "nơi tụ hội bốn phương đất nước". Nhờ thế, nó vừa ánh xạ được vẻ đẹp của vZn hóa các vùng miền trong nước, vừa có những điểm trội mà các vùng, miền không thể có. Là thành quả sáng tạo của những con người sống trực tiếp trên mảnh đất ThZng Long - Hà Nội, nhưng vZn hóa ThZng Long tuyệt không đối lập hay đứng trên mà trái lại, luôn luôn bồi đắp, hòa tan vào vZn hóa chung của cộng đồng dân tộc.
    Hỏi: Giáo sư dự định hưởng ứng cuộc vận động sáng tác vZn học nghệ thuật kỷ niệm 1000 nZm ThZng Long - Hà Nội như thế nào ?
    Trả lời: NZm 1994, tôi cùng 13 đồng sự đã công bố cuốn sách Gương mặt vZn học ThZng Long với tham vọng bao quát gương mặt vZn học ThZng Long - Hà Nội, nghĩa là không chỉ dừng lại ở những nhà vZn thời trung đại mà phải giới thiêu cả những nhà vZn thời cận đại và thời hiện đại, bởi vì họ đều nằm trên một dòng chảy xuyên suốt của vZn học ThZng Long. Tiếc rằng chúng tôi chỉ mới dừng lại ở 33 gương mặt của thời kỳ thứ nhất. Dự kiến từ nay đến nZm 2010, chúng tôi sẽ có thể triển khai xong hai tập nữa, một tập giai đoạn 1900 - 1945, đồng thời sẽ bổ sung tập đầu để có được một bộ sách ba tập hoàn chỉnh. Đó là cách hưởng ứng cuộc vận động sáng tác của Hội vZn nghệ Hà Nội theo "tay nghề" của chúng tôi. Tất nhiên dự định là một việc, mà có hoàn thành được hay không lại là một việc khác, vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thì giờ, khả nZng tập hợp đội ngũ, và kinh phí để làm. Nói trước mà không làm được vẫn thường là kinh nghiệm cay đắng của những người theo đuổi cái nghiệp nghiên bút ở thời buổi kinh tế thị trường này.
    - Xin cảm ơn Giáo sư!
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  9. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    NHÀ THÁI HỌC - CÔNG TRÌNH TÔN VINH VĂN HOÁ DÂN TỘC
    Nhà Thái Học nằm trong quần thể di tích VZn Miếu - Quốc Tử Giám, được vua Lý Nhân Tông cho xây dựng vào nZm 1076 nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Qua một quá trình lịch sử lâu dài, Nhà Thái Học bị tàn phá nặng nề rồi mất dần dấu tích, chỉ còn lại một khu đất trống. Dự án xây dựng, khôi phục lại Nhà Thái Học được khởi công vào tháng 7-1999, khánh thành vào dịp kỷ niệm 990 nZm ThZng Long - Hà Nội.

    Nhà Thái Học đang được tu sửa

    Sáu mươi nZm sau khi ban Chiếu dời đô từ Hoa Lư về ThZng Long, triều Lý tiếp tục thực hiện thêm một công việc vô cùng lớn lao khác mà các triều đại trước chưa làm được, đó là việc quan tâm phát triển hệ thống giáo dục nước nhà. Mục đích của việc làm này là nhằm khai trí cho nhân dân, xây dựng nên một nền vZn hóa dân tộc đồng thời tuyển chọn ra những nhân tài có khả nZng ra giúp dân giúp nước, củng cố vững chắc bộ máy lãnh đạo quốc gia phong kiến Đại Việt thời bấy giờ. Với mục đích ấy nZm 1070 dưới triều vua Lý Thánh Tông, VZn Miếu đã được xây dựng để thờ Tiên Thánh, Tứ phối, Thập triết (tức Khổng Tử và các học trò của ông, những người thầy xuất sắc nhất của Nho học), song không giống như những nơi thờ Nho đạo khác, VZn Miếu ngoài việc thờ tế còn được dùng làm nơi học tập của các hoàng thái tử, cùng con cháu các quan lại trong triều. Đến nZm Bính Thìn (1076) công cuộc phát triển nền giáo dục dưới triều Lý càng được quan tâm. Để mở rộng quy mô giảng dạy và học tập, vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng Quốc Tử Giám liền kề với VZn Miếu, sau được nâng cấp thành Thái Học Viện - trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, và lúc này đối tượng được học tập không chỉ là con cháu hoàng thân, quan lại trong triều mà còn thu nhận thêm nhiều hiền tài từ khắp mọi miền đất nước. Sự ra đời của Quốc Tử Giám - Nhà Thái Học này chính là nét độc đáo, chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của tinh thần hiếu học, tự lực, tự cường của dân tộc. Với ý nghĩa đó, từ lâu VZn Miếu - Quốc Tử Giám đã luôn được coi là di sản vZn hóa quan trọng bậc nhất của đất nước, là biểu trưng cho sự phát triển của nền giáo dục nước nhà thời phong kiến, nơi ngọn nguồn, tụ hội và khơi dậy truyền thống tôn sư trọng đạo, tinh thần tự lực tự cường và lòng ái quốc trong mỗi người dân đất Việt. Để ghi nhận ý nghĩa lớn lao của công trình vZn hóa này, ngày 28-4-1962, VZn Miếu - Quốc Tử Giám đã chính thức được Bộ VZn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử vZn hóa cấp nhà nước.
    Trải qua nhiều thế kỷ, chứng kiến và chịu sự tác động của những biến cố lịch sử cùng sự tàn phá của tự nhiên, đến nay VZn Miếu -Quốc Tử Giám đã không còn giữ được nguyên hiện trạng. Phần lớn các hạng mục, công trình kiến trúc đều đã bị phá hủy, hư hại nghiêm trọng. Vấn đề tôn tạo, tu bổ lại khu di tích VZn Miếu - Quốc Tử Giám đã được Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, cơ quan hữu trách đặc biệt quan tâm. Nhiều công trình đã được đầu tư tu bổ ngay sau khi nước nhà giành lại độc lập. Nhưng do khối lượng công việc quá nhiều, khả nZng của chúng ta lúc bấy giờ còn hạn chế nên nhiều công trình đành phải tạm chờ nghiên cứu kỹ. Trong số những công trình đó có Nhà Thái Học, một công trình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quần thể di tích VZn Miếu - Quốc Tử Giám. Qua một quá trình lịch sử lâu dài, Nhà Thái Học đã bị tàn phá nặng nề và mất dần. Đặc biệt kể từ khi vua Gia Long dời đô vào Huế, Thái Học Viện đã bị bỏ hoang, sau được thu hẹp lại để dựng điện Khải Thánh thờ cha mẹ Khổng Tử, đến nZm 1947, điện Khải Thánh lại bị thực dân Pháp phá hủy, khu Nhà Thái Học từ đó bị mất hoàn toàn. Đến nay, 53 nZm đã trôi qua, Thái Học Viện - mảnh đất thiêng tôn nghiêm, nơi đã sản sinh ra biết bao nhiêu danh nhân cho đất nước giờ chỉ còn là khu đất trống. Không thể để một công trình vZn hóa có ý nghĩa như vậy bị mất đi, nên khi tiến hành tôn tạo, khôi phục lại quần thể di tích VZn Miếu - Quốc Tử Giám, khu Nhà Thái Học là công trình được đầu tư quan tâm, nghiên cứu hàng đầu. Sở dĩ như vậy là bởi Nhà Thái Học là một công trình cổ được thiết kế, xây dựng cách đây gần một thiên niên kỷ, song đã bị phá hủy hoàn toàn, không còn lưu lại một vết tích hay bất cứ một công trình nào cùng thời để so sánh, đối chiếu. Duy chỉ có cuốn Kiến vZn tiểu lục của Lê Quý Đôn là nguồn tư liệu tham khảo. Trong cuốn sách đó Lê Quý Đôn mô tả "Nhà Thái Học gồm ba gian, có tường ngang, lợp bằng ngói đồng... Nhà giảng dạy ở phía đông và tây, mỗi dãy mười bốn gian. Phòng học của nho sinh gồm Thượng xá sinh, Trung xá sinh, Hạ xá sinh đều ba dãy, mỗi dãy hai mươi nhZm gian, mỗi gian hai người". Nhưng khó khZn đó chưa phải là duy nhất, nhiều khó khZn nữa được đặt ra, mà nổi bật là diện tích đất của Nhà Thái Học, chỉ còn một phần nhỏ so với trước, do vậy việc xây dựng, khôi phục nguyên trạng Nhà Thái Học là điều rất khó, chỉ có thể mô phỏng những nét cơ bản nhất của công trình cũ, với lối kiến trúc cổ truyền dân tộc, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo được sự hài hòa với không gian chung của VZn Miếu - Quốc Tử Giám và ghi được dấu ấn của thời đại. Công việc này quả thật rất khó khZn đối với các nhà thiết kế, xây dựng. Nhưng sau nhiều nZm nghiên cứu, ngày 13-7-1999 dự án xây dựng, khôi phục lại Nhà Thái Học cũng chính thức được khởi công theo thiết kế của Trung tâm tu bổ di tích Trung ương do Công ty Xây dựng Phục chế Công trình VZn hóa Hà Nội phối hợp với Công ty Tu bổ Di tích Trung ương thực hiện. Tổng kinh phí đầu tư cho công trình này lên tới hơn 22 tỷ đồng.
    Theo thiết kế, Nhà Thái Học sẽ được xây dựng trên diện tích đất 1.530 m2, bao gồm bốn công trình: Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ thuộc họ nhà "tứ thiết" để bảo đảm tuổi thọ của công trình. Nơi này sau khi khánh thành sẽ được dùng làm nơi trưng bày, giới thiệu về quá trình xây dựng và phát triển của Quốc Tử Giám - nôi đào tạo nhân tài quốc gia xưa.
    Đến nay, sau hơn một nZm khẩn trương thi công, công trình đã qua phần xây dựng cơ bản, các hoạt động bổ trợ, chuẩn bị cho việc hoàn thiện của công trình cũng nhanh chóng được triển khai. Nhiều cuộc thi viết thư pháp, triển lãm đại tự, câu đối được tổ chức để chọn ra những tác phẩm tiêu biểu trưng bày tại Nhà Thái Học. Dự tính công trình sẽ khánh thành vào đúng dịp kỷ niệm 46 nZm ngày giải phóng thủ đô, 990 nZm ThZng Long - Hà Nội. Ông Nguyễn Quang Lộc - Giám đốc Trung tâm hoạt động vZn hóa - khoa học VZn Miếu - Quốc Tử Giám cho biết: "Không giống những công trình khác, Nhà Thái Học là một công trình kết hợp hài hòa các nét tinh hoa của dân tộc vì thế nó vừa mang đậm nét cổ kính nhưng đồng thời cũng toát lên được những phong thái riêng mang tính hiện đại. Khi hoàn thành, Nhà Thái Học chắc chắn sẽ là niềm tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau". Cùng với suy nghĩ ấy, bác Nguyễn Huy Lan, nghệ nhân của làng mộc Tràng Sơn - Hà Tây, người trực tiếp chỉ đạo thi công công trình tâm sự: "Đây là lần đầu tiên tôi được tham gia phục chế một di tích có ý nghĩa vZn hóa, lịch sử lớn lao, quan trọng như thế này. Công việc rất khó khZn, thời gian lại gấp rút, song chúng tôi không cho phép mình có bất cứ sai sót gì. Trách nhiệm ấy đè nặng lên vai chúng tôi trong suốt cả quá trình thực hiện công trình. Vất vả là vậy song cũng như tất cả những người làm việc tại đây, tôi luôn nhận thức được rằng được góp sức lực của mình vào việc tôn vinh truyền thống vZn hóa dân tộc là niềm vinh dự, tự hào của tất cả chúng tôi". Với sự nỗ lực và quyết tâm ấy, chắc chắn công trình sẽ được hoàn thành đúng như dự định, đáp ứng được lòng mong đợi của mọi tầng lớp nhân dân thủ đô và đồng bào trên cả nước, xứng đáng là công trình trọng điểm kỷ niệm 990 nZm ThZng Long - Hà Nội.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  10. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    HÀ NỘI NGHĨA LÀ GÌ?

    Một góc Hồ Tây

    Khi Gia Long diệt được Tây Sơn, ông đã đổi phủ Phụng Thiên (vốn là đất đai kinh thành ThZng Long cũ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là đơn vị ngang với trấn, tức trực thuộc Trung ương mà đại diện là Tổng trấn ở Bắc Thành. NZm Minh Mạng thứ 12 (1831), vị vua này tiến hành đợt cải cách hành chính lớn, xoá bỏ Bắc Thành tổng trấn với 11 trấn và 1 phủ trực thuộc ở miền Bắc và lập ra 15 tỉnh trực thuộc Trung ương. Lúc đó, Hoài Đức trở thành một trong bốn phủ họp thành tỉnh Hà Nội. Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ. Hà Nội có nghĩa là phía trong sông. Vì trong thực tế, tỉnh mới này trên đại thể nằm trong 3 con sông Hông, sông Nhuệ và sông Đáy. Tổng có 4 phủ là:
    - Hoài Đức gồm 3 huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm
    - Thường Tín gồm 3 huyện Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên
    - ứng Hoà gồm 4 huyện Sơn Minh (nay là ứng Hoà), Hoài An (nay là phía nam ứng Hoà và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ), Thanh Oai
    - Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân và Kim Bảng), Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục.
    Như vậy tỉnh Hà Nội so với nay gồm thành phố Hà Nội, nửa phía đông tỉnh Hà Tây (chính là tỉnh Hà Đông thời Pháp thuộc) và toàn bộ tỉnh Hà Nam, rõ ràng nằm kẹp giữa sông Hồng, sông Đáy và sông Nhuệ.
    Cũng từ đó, thành Hà Nội cũng được coi là thành tỉnh, và con đường đi từ Hàng Bông qua Mang Cá (công trình phòng thủ hình tam giác xây trước cửa thành) đi vào Cửa Đông của toà thành được gọi là phố "Cửa Đông Cổng tỉnh" nay là phố Đường Thành.
    Có người kể rằng, chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử (Thiên Lương Huệ Vương): "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội" (Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc Hà Đông về Hà Nội). Nhưng đó là trường hợp nZm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, "tiểu ban đặt tên" mới lấy câu sách Mạnh Tử nói trên để đổi tỉnh Cầu Đơ ra tỉnh Hà Đông.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...

Chia sẻ trang này