1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

THỦ ĐÔ HÀ NỘI TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI

Chủ đề trong '1982 - Hội cún Hà Nội' bởi bittersweet82, 05/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    HÀ NỘI ĐÃ CÓ BAO NHIÊU TÊN GỌI?
    ThZng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, ThZng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau:
    I. Tên chính quy:
    Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

    Phố cổ ven đô

    1. Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào nZm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi ThZng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào nZm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
    2. Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy, chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    3. Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử cấm thành (tức bức thành mầu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. NZm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết nZm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I. H.1993, tr.241).
    4. ThZng Long: (Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính vZn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 nZm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành ThZng Long" (Toàn thư, Tập I, H.1993, tr.241).
    5. Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 nZm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức ThZng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, ThZng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H.1998, tr.700).
    6. Đông Quan: Đây là tên gọi ThZng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được ví là "cửa quan phía đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, nZm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 nZm Mậu Tý (1408) Giản Định đế1 bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr.224).
    7. Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 nZm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành ThZng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành ThZng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr.293).
    8. Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787-1802). Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi ThZng Long là Bắc thành" (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H.1979, tr.12).
    9. ThZng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "NZm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra ThZng Long, cử Nguyễn VZn Thành làm Tổng trấn miền bắc và đổi kinh thành ThZng Long làm trấn thành miền bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên ThZng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên ThZng Long đã có từ lâu đời quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên ThZng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng", lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên) - Lịch sử thủ đô Hà Nội, H.1960, tr.81).
    Việc thay đổi nói trên xảy ra nZm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở ThZng Long, mà hoàng thành ThZng Long lại lớn rộng quá.
    10. Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "NZm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành ThZng Long cũ hợp với mấy phủ huyện chung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành ThZng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu chủ biên - Lịch sử thủ đô Hà Nội. H.1960, tr.82).
    II. Tên không chính quy:
    Là những tên trong vZn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành ThZng Long - Hà Nội:
    1. Trường An (Tràng An): Vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô ThZng Long.
    Thí dụ:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
    Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô ThZng Long.
    2. Phượng Thành (Phụng Thành): Vào đầu thế kỷ 16, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng.
    Phượng Thành xuân sắc phú
    (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của ThZng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong vZn học Việt Nam để chỉ thành ThZng Long
    3. Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ 3, 4, 5 và 6) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước ta thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ vZn để chỉ ThZng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đZng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 -1877), ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
    Long Biên tài hướng
    Phượng thành hồi
    Triệu đối do hy, vĩnh biệt thôi!
    Dịch nghĩa:
    Nhớ ngươi vừa tự thành
    Long Biên về tới Phượng Thành
    Trẫm còn đang hy vọng
    triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
    Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. NZm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
    4. Long Thành: Là tên viết tắt của kinh thành ThZng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên ThZng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
    5. Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn VZn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...
    6. Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ ThZng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô ThZng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh); Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến). Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ǎn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô ThZng Long.
    Loại tên "không chính quy" của ThZng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong vZn học, ca dao... khó kể hết được.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  2. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    LAI LỊCH TIẾNG KINH KỲ

    Không giống tiếng nói của các địa phương khác - thường được phát triển lên từ tiếng nói của một làng, một xã, một vùng hoặc một phường thợ - tiếng Hà Nội không đơn thuần là tiếng nói gốc gác của cư dân bản địa và cũng không phải tiếng nói của riêng một địa phương nào mang tới. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, tiếng Hà Nội - có bộ mặt như ngày nay - là kết quả sự lựa chọn tự nhiên ngôn ngữ của cộng đồng dân cư Hà Nội bao gồm cư dân bản địa và những người thợ thủ công, nhà buôn, kẻ sĩ, nghệ nhân, binh lính... từ khắp các miền đất nước đến sinh cơ lập nghiệp ở đây qua nhiều đời, nhất là từ mấy tỉnh lân cận thuộc đồng bằng Bắc Bộ như Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam... Nói cách khác, tiếng Hà Nội đã được chung đúc nên trên cái nền của phương ngữ Bắc mà cách đây vài ba thế kỷ được gọi là tiếng "Đàng ngoài". Giống như mọi tài sản khác, cái gì từ mọi vùng khác nhau của đất nước quy tụ về Hà Nội cũng được "Hà Nội hóa" - nghĩa là được thâu nạp và chắt lọc những gì tinh túy nhất - để rồi trở lại lan tỏa đi cả nước, mang theo mầu sắc, hương vị và phong cách riêng của Hà Nội, thường hay hơn, đẹp hơn. Tiếng Hà Nội mang đậm đặc trưng đó, nó là sự hội tụ, kết tinh và tổng hòa của những gì chung nhất, tinh hoa nhất của nhiều phương ngữ bồi đắp hun đúc nên. Đó cũng là tiếng nói, giọng nói phổ thông, dễ nghe, dễ hiểu hơn cả đối với các vùng, được những người buôn bán theo các đường bộ, đường thủy và những quan chức, trí thức, học trò, v.v. mang tỏa đi khắp nơi.
    Cũng như bất kỳ thành phố cổ nào trên thế giới, quá trình đô thị hóa của Hà Nội khởi đầu từ một cái chợ, phát triển lên từ hàng loạt chợ cùng những đường phố. Danh từ "kẻ chợ" vốn dĩ là danh từ chung - có nghĩa là "người ở (phố) chợ" - dần dần chuyển thành danh từ riêng để chỉ khu vực 36 phố phường cũ quây quần chung quanh chợ Cầu Đông. Rồi từ thế kỷ 17-18 "kẻ chợ" lại biến thành danh từ chung mang ý nghĩa mới, tương đương với những từ "kinh kỳ", "kinh đô", "thủ đô"; tiếng "kẻ chợ" chính là tiếng kinh kỳ, tiền thân của tiếng Hà Nội ngày nay.
    Sau khi hình thành, tiếng Hà Nội đã được nhân dân cả nước yêu mến ngưỡng mộ, không những nhân dân miền xuôi mà cả đồng bào miền núi vùng cao cũng thiết tha, ngưỡng vọng về "tiếng xuôi kẻ chợ". Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Kim Thản, trong truyện dân gian cổ truyền "út Lót - Hồ Liêu" đồng bào Mường đã biểu lộ tình cảm, niềm ước ao của mình đối với "tiếng xuôi kẻ chợ" như sau:
    "(Bà Tu ó nói):
    Lấy gan chim khướu mớm cho con để nó chóng biết nói. Lấy gan gà lôi mớm cho con để nó chóng biết reo. Lấy gan chào mào mớm cho con để nó chóng biết nói tiếng xuôi kẻ chợ".
    Tiếng Hà Nội sở dĩ được sự ngưỡng mộ chung, gần như tự nhiên như vậy bởi vì, trước hết đó là tiếng nói phát triển sớm so với tiếng nói của mọi miền trong nước. Theo quy luật chung, nơi nào có trình độ phát triển cao hơn về các mặt chính trị, kinh tế - vZn hóa, xã hội... thì ngôn ngữ của nơi đó cũng phát triển nhanh hơn. Nhìn vào lịch sử, ta thấy rõ điều này: lưu vực sông Hồng từ 4.000 nZm nay vốn là cội nguồn, cái nôi của dân tộc, nơi phát tích và quyết định tiến trình của dân tộc về nhiều mặt. Đặc biệt là từ sau thế kỷ 3 trước Công nguyên, vùng đất Hà Nội ngày nay đã nổi bật lên như là đầu não của khu vực trung tâm ấy qua các mốc lịch sử: nước Âu Lạc ra đời với kinh đô Cổ Loa, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đóng đô ở Mê Linh, các tướng tài của Lý Bí là Triệu Quang Phục, Phạm Tu người quê Thanh Trì; Lý Phục Man lập phòng tuyến ở cửa sông Tô Lịch; Phùng Hưng rồi Ngô Quyền đều khởi binh từ Đường Lâm; Ngô Quyền chọn tại Cổ Loa làm nơi định đô. Đến nZm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư trở về thành Đại La (Hà Nội ngày nay)... Thành ThZng Long từng diễn ra những sự kiện vZn hóa lớn lao: xây VZn Miếu, mở khoa thi đầu tiên dựng Quốc Tử Giám, lập Giảng Võ đường và Quốc học viện; Lê VZn Hưu soạn Đại Việt sử ký, Lê Thánh Tông lập hội Tao Đàn,v.v. cho nên tiếng Hà Nội xứng đáng là tiếng nói tiêu biểu của "hồn núi sông ngàn nZm" vậy (Nguyễn Đình Thi).
    Trong những thế kỷ tiếp theo, đặc biệt là những thế kỷ 15-18 Hà Nội càng là nơi phát triển mạnh mẽ, nơi tập trung buôn bán phát đạt sầm uất, nơi đô thị nhộn nhịp đông vui ("Phồn hoa thứ nhất Long Thành"), là một trong hai cảng lớn nhất đất nước "Nhất kinh kỳ, nhì Phố Hiến". Nhờ đó, tiếng Hà Nội cũng nảy nở, sản sinh thêm nhiều từ ngữ mới, dồi dào hơn, cách diễn đạt mạch lạc, khúc chiết hơn. Cho đến cuối thế kỷ 20 tiếng Hà Nội đã tự hoàn thiện về nhiều mặt, đẹp hơn, phong phú hơn, trong sáng hơn. Trong bài "Bàn về tiếng Hà Nội" (VZn nghệ số 845, ngày 12-1-1980) nhà vZn lão thành Tô Hoài đã dẫn ý kiến của nhiều nhà vZn quê ở miền trong từng sống lâu ở Hà Nội (như Bùi Hiển, Bùi Đức ái, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng...) cùng có chung nhận xét là: "Từ ngữ miền bắc - trước nhất là từ ngữ Hà Nội - thật phong phú, uyển chuyển, giàu có".
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  3. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    HỒ HOÀN KIẾM VÀ THÀNH THĂNG LONG XƯA
    Hồ Hoàn Kiếm hiện nằm ở Trung tâm thủ đô Hà Nội, có Đền Ngọc Sơn -Tháp Rùa - Đài Nghiên - Tháp Bút. Có truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm cho Rùa thần, cùng với những cảnh quan và di tích quanh hồ, thì hồ quả là một viên ngọc lung linh của đất nước.

    Lúc vua Lý Thái Tổ về ThZng Long, chắc cảnh quan còn hoang sơ, nơi nơi ngổn ngang bề bộn, lúc này vẫn chưa hình thành Hồ Gươm. Bởi cZn cứ vào tấm bản đồ được vẽ nZm 1490, từ thời Hồng Đức mang tên "Trung Đô đồ". Cách thời vua Lý định đô đúng 480 nZm, vẫn thấy bốn phía Kinh thành mênh mang sông nước.
    Nhìn trên bản đồ, so sánh với vị trí ngày nay thì thấy: phía đông có sông Hồng, nước đỏ phù sa. Phía bắc có sông Tô Lịch nối với sông Hồng ở đoạn Chợ Gạo, chảy vòng qua Hàng Lược, Quán Thánh, đến Thụy Khuê - đầu làng Hồ Khẩu, lại nối với Hồ Tây bằng hai cửa lớn, đến đoạn chợ Bưởi, Nghĩa Đô, lại nối với sông Thiên Phù. Sông Thiên Phù thời nay hãy còn rất rộng, chảy từ sông Hồng, ở đoạn Phú Gia, Nhật Tân, theo hướng bắc - nam, đến chợ Bưởi thì nối dòng với sông Tô Lịch cùng xuôi xuống phía nam, hòa với nước sông Nhuệ.
    Vùng VZn Miếu và Bẩy Mẫu lúc ấy là một hồ nước rất rộng. Nhìn trên bản đồ, thấy nước một mảng dài uốn lượn tới mấy km, làm cho khu vực VZn Miếu bị nước bao quanh như một hòn đảo, mà trên bản đồ ghi là Đại Hồ, và còn nhiều hồ, ao, ngòi, lạch khác.
    Hồ Hoàn Kiếm lúc ấy chưa hình thành, nó là một nhánh cụt của sông Hồng, khởi nguồn từ chỗ Bệnh viện Hữu nghị, chảy ngang đoạn cuối đường Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, lên đến tận mạn Cầu Gỗ, Hàng Đào. Mặt nước có hình loe thắt không bằng nhau. Nhìn trên bản đồ mà ước đoán thì đoạn rộng nhất, to gấp nhiều lần sông Tô Lịch thời ấy, mà sông Tô Lịch ngày xưa thì thuyền ngược xuôi tấp nập, vẫn còn lưu lại trong câu ca dao:
    Sông Tô nước chảy trong ngần Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa Thon thon hai mũi chèo hoa Lướt đi lướt lại như là **** bay
    Còn thành ThZng Long, lúc này đã được xây dựng rất hoàn chỉnh. Thành có hai lớp: vòng Hoàng thành và Cấm thành. Nhìn trên bản đồ, vòng Hoàng thành uốn lượn như một lá cờ bay. Thành có ba cửa: cửa Đông Môn ước đoán quãng phố Cửa Đông. Nam Môn ở quãng gần phố Cao Bá Quát, và cửa Bảo Khánh ở quãng khu triển lãm Giảng Võ - Ngọc Khánh. Bởi nhìn trên bản đồ, vùng VZn Miếu lùi sâu hơn so với cửa Bảo Khánh, theo một đường thẳng từ đông sang tây.
    Vòng Hoàng thành bắt đầu từ góc ngã ba sông Tô Lịch và Thiên Phù, chỗ đầu chợ Bưởi sang Cầu Giấy, vòng theo đường La Thành xuống Giảng Võ, ngoặt về phía đông theo đường Giảng Võ đến Kim Mã, uốn nhẹ sang chỗ vườn hoa Lê Trực, rồi theo đường Trần Phú, đến chỗ phố Hà Trung, ngược lên hướng bắc, song song với phố Phùng Hưng, đến chỗ vườn hoa Hàng Đậu, rồi rẽ về phía tây, vòng theo sông Tô Lịch (phố Quán Thánh) Hoàng Hoa Thám, đến chợ Bưởi là hết một vòng Hoàng thành.
    Khu vực Cấm thành xưa rất rộng, được xây theo hình chữ nhật. Giới hạn tường phía tây vuông góc với làng Hồ Khẩu. Phía bắc chạy dọc đường Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng. ở quãng này, vào khoảng nZm 1520, thời vua Lê Tương Dực, đã có một lần thay đỏi. Đại Việt sử ký Toàn thư tập bốn có viết: "Lúc ấy Vua thích xây hồ dựng điện, đắp thành to rộng mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trần Vũ, chùa Thiên Hoa ở cửa phường Kim Cổ, từ phía Đông tới phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống...".
    Tiếp đến đoạn Cấm thành phía đông, chạy song song sát với Hoàng thành, từ quãng Hàng Đậu, dọc phố Phùng Hưng, rồi rẽ vuông góc về phía nam, chạy dọc bên trong đường Trần Phú, chỗ Cột Cờ, Bảo tàng Quân đội, qua phố Đội Cấn, đến Liễu Giai thì vuông góc với làng Hồ Khẩu. Trong Cấm thành có điện Kính Thiên, điện Vạn Thọ, Thái Miếu, Đông Cung, v.v. Nhìn trên bản đồ mà ước đoán, thì trung tâm Cấm thành là chỗ Quảng trường LZng Bác bây giờ...
    Vua Lê Lợi lên ngôi 1428, mất nZm 1433. Sáu mươi ba nZm sau mới có bản đồ Hồng Đức (1490) mà nhìn trên bản đồ lúc này, Hồ Gươm vẫn chưa hình thành. Ngay cả các tấm bản đồ sau này như: "Trung đô sơn xuyên hình thắng chi đồ" vẽ nZm Cảnh Hưng 31 (1770), "Trung đô ThZng Long thành nhất phủ nhị huyện đồ" (thế kỷ thứ 17), "Trung đô nhất phủ nhị huyện chi hình và ThZng Long thành nhất phủ nhị huyện". Có lời tựa nZm Gia Long thứ chín (1810) đến tấm bản đồ "ThZng Long thành Phụng thiên nhất phủ nhị huyện" thì vẫn thấy sông Hồng nối nhánh vào Hồ Gươm.
    Không biết sau đó hồ được hình thành từ thời gian nào, đến tấm bản đồ tỉnh thành Hà Nội vẽ nZm Minh Mạng thứ 12 (1831) thì Hồ Gươm đã gần như ngày nay, Hồ hiện diện trên tấm bản đồ được ghi là "Tả Vọng".
    Như vậy là cZn cứ vào những tấm bản đồ thời Lê, thời Nguyễn, có thể suy đoán: vào khoảng nZm 1428, vua Lê Thái Tổ lên ngôi, nhà vua cùng đoàn thuyền ngự đi từ sông Hồng, rẽ vào nhánh, mà đoạn gần cuối là hồ Hoàn Kiếm bây giờ, lúc ấy các phường nghề, làng xóm, phố xá đã trở nên đông vui nhộn nhịp. Và chính nơi này, nhà vua đã trả gươm cho Rùa thần, rồi trải qua hàng mấy trZm nZm "gió mưa biến đổi", và quá trình đô thị hóa, hồ được lấp dần, còn lại như ngày nay.
    Huyền thoại Hồ Gươm là một bằng chứng cho lòng yêu hòa bình thiết tha của người Việt Nam, của ThZng Long - Hà Nội. Đất nước bao giờ cũng muốn hòa bình để dựng xây, nhưng nếu có xâm lược, thì gươm của Thần linh nước Nam, lại được trao cho một dân tộc anh hùng bất khuất để bảo vệ vẹn toàn đất nước mà các vua Hùng đã có công tạo dựng từ 4.000 nZm trước.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  4. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    ĐỀN NGỌC SƠN - HÀ NỘI
    Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống dung hợp các luồng vZn hóa từ bên ngoài; dù đó là vZn hóa phương Tây hay phương Đông, là vZn hóa Trung Hoa hay vZn hóa ấn Độ... Đạo Cao Đài ra đời tại Nam Bộ đầu thế kỷ 20 này là một minh chứng điển hình về tính dung hòa vZn hóa của người Việt Nam.

    Trên đất kinh kỳ ThZng Long - Đông Đô - Hà Nội, nghìn nZm vZn hiến thì sự dung hợp về tôn giáo được thể hiện khá rõ nét tại đền Ngọc Sơn. Cùng với Hồ Gươm và Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn đã tạo nên một quần thể hoàn chỉnh, đẹp đẽ. Quần thể này đã trở thành một trong những biểu tượng đặc trưng nhất cho Hà Nội ngày nay.
    Sự hỗn dung của Đạo giáo, Đạo Phật, Đạo Nho (hay còn gọi: Tam giáo đồng nguyên), không chỉ ở hiện trạng bây giờ, mà nó còn được thể hiện trong lịch sử xây dựng đền Ngọc Sơn. Vào thời Trần và đầu thời Lê, đền được xây dựng để thờ các Tiên nữ dạo chơi trên hồ. Thời kỳ Vua Lê - Chúa Trịnh, đời Vĩnh Hựu (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang cho xây cung Khánh Thụy trên đảo Ngọc. Đời chúa Trịnh Doanh lại cho đắp một gò núi phía đông Hồ Gươm, gần đảo Ngọc gọi là núi Độc Tôn. NZm 1788, trước khi chạy đi cầu cứu quân xâm lược nhà Thanh, Lê Chiêu Thống đã cho lính đốt cháy phủ Chúa Trịnh và cung Khánh Thụy. Sang đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa được xây dựng trên nền cũ của cung Khánh Thụy. Việc thờ Phật chỉ kéo dài được một thời gian thì chùa được đổi thành đền. Đền chủ yếu thờ VZn Xương Đế Quân - ngôi sao chủ việc vZn chương, khoa cử (theo tín ngưỡng Đạo giáo đương thời), và thờ Trần Hưng Đạo. NZm 1864, danh nhân vZn hóa Nguyễn VZn Siêu đứng ra chủ trì việc sửa sang toàn cảnh khu đền với diện mạo như ngày nay.
    Sự dung hòa: Đạo, Phật, Nho, không chỉ thể hiện ở việc thờ cúng mà nó còn biểu lộ đậm nét trong kiến trúc, xây dựng cho đến hệ thống các câu đối, hoành phi, vật bài trí ở đền Ngọc Sơn.
    Trước hết là sự thể hiện tinh thần Nho giáo một cách sâu sắc ở Tháp Bút và Đài Nghiên. Khi tu sửa lại khu vực đền, Nguyễn VZn Siêu đã cho xây dựng một tháp đá trên gò núi Độc Tôn, trên đỉnh tháp là hình ngọn bút lông, trên thân tháp tạc ba chữ: Tả Thanh Thiên (viết lên trời xanh). Cạnh đó, Đài Nghiên được đặt trên cửa cuốn. Đài Nghiên được tạc bằng đá hình nửa quả đào có ba con ếch đội. Tháp Bút, Đài Nghiên biểu trưng cho quan điểm trọng vZn chương, anh tài của Nho giáo. Đồng thời, nó cũng thể hiện tư tưởng của tầng lớp nho sĩ lúc bấy giờ, mà trước hết là Nguyễn VZn Siêu. Qua cửa cuốn là cầu Thê Húc dẫn đến Đắc Nguyệt Lầu (lầu được trZng). Cả cầu Thê Húc lẫn Đắc Nguyệt Lầu mang đậm mầu sắc Đạo giáo. Hai bên (Tả - Hữu), có hai bức phù điêu hình Long Mã đang cõng Bát quái và Rùa Thần đang cõng một thanh kiếm. Trên các phù điêu có các câu: Long Mã Hà đồ (Long Mã cõng Hà đồ); Thần Quy lạc thư (Rùa Thần cõng Lạc Thư). Giữa Hà đồ và Bát quái còn có mối liên hệ trực tiếp, chứ giữa Lạc Thư và Kiếm Thần có quan hệ gì đây?
    Từ Hà đồ, Lạc Thư đến Đắc Nguyệt Lầu, cầu Thê Húc (nơi đậu lại của ánh mặt trời ban mai), là sự thể hiện tư tưởng Triết học âm - Dương phương đông và tinh thần Đạo giáo Thần Tiên. Tuy nhiên ngay ở Đắc Nguyệt Lầu lại có sự thể hiện tư tưởng Phật giáo. Hai câu đối ở cửa (châu lâu), một vế mang tư tưởng Đạo giáo: Trần Cảnh tiên châu hữu lộ thông (Cảnh Tiên ở cõi trần cũng có đường thông tới), vế kia thì lại mang tinh thần nhà Phật: Linh hồ Nhược Thủy tùy duyên độ (Hồ linh thiêng, nước Nhược Thủy theo duyên thì độ).
    Khu vực chính của đền Ngọc Sơn có ba phần: phía trước là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng); giữa là điện thờ chính, sau cùng là Hậu Cung. Điện thờ chính là nơi thờ VZn Xương Đế Quân cùng chư vị Thần Tiên, ở đây mầu sắc Đạo giáo rõ rệt. Phần Hậu Cung là nơi thờ trần Hưng Đạo. Tuy nhiên, tượng Đức Thánh Trần với bàn thờ ở giữa, còn một bên là bàn thờ Phật với tượng Quan Âm Bồ Tát và Thiện Tài Đồng Tử, bên kia là bàn thờ Thần linh, sơn Thần, Thổ địa. Bức tường trước Hậu Cung thì lại có sự dung hòa giữa Đạo giáo và Nho giáo, giữa hai chữ Trung - Nghĩa là hình Bát quái.
    Những sinh hoạt tín ngưỡng tại đền Ngọc Sơn cũng thể hiện sự hỗn dung Tam giáo một cách sâu sắc. Dù trước điện thờ VZn Xương Đế Quân, bàn thờ Phật, hay bàn thờ Đức Thánh Trần thì câu khấn đầu tiên sẽ là: "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát" hoặc "Nam mô A di đà Phật". Tiếp đó là tụng kinh Phật, hoặc lời khấn mong Đức Thành Trần phù hộ độ trì hay lời ước nguyện của bản thân. Những cụ già mặc áo nâu sồng tụng kinh, khấn vái; những người đến tham quan cũng hương hoa nguyện cầu; Những người đến lễ lạt thành tâm... Tất cả đều được người dân xử sự một cách tự nhiên, hòa thuận mà không phân biệt đâu là Phật, là Đạo, là Nho. Tôn giáo nào, thần thánh nào đem đến niềm tin tốt đẹp vào cuộc sống thì đều được người Việt Nam thờ phụng. Đó chính là tâm linh của người Việt Nam khi dung hòa các tín ngưỡng, tôn giáo.
    Đền Ngọc Sơn vẫn đứng đó, Tháp Bút vẫn đang viết lên trời xanh, tất cả không chỉ là một quần thể đẹp đẽ giữa lòng Hà Nội, đó còn là thế giới tâm linh, khẩu khí của con người Việt Nam xưa và nay.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  5. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    MỘT VÀI CÁCH ĂN THỜI TRƯỚC CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
    Hà Nội là nơi thanh lịch, con người ở đây phải thanh lịch từ cách sống tới ẩm thực.
    Hà Nội gạo trắng nước trong,
    Zn ngon mặc đẹp thỏa lòng lứa đôi.

    Hàng quà rong

    Trong Zn uống, người Hà Nội không quá xem trọng các món Zn đắt tiền mà xem trọng cách Zn uống, nhất là trọng cỗ bàn, tiệc tùng, cách Zn uống này đôi lúc khiến cho nhiều người ở miền quê khi được mời dự các đám giỗ, đám tiệc ở Hà Nội phải lúng túng bỡ ngỡ.
    Trong mâm cỗ cưới hay khao vọng tại các gia đình sang trọng, ngoài những món sơn hào hải vị còn có một bát kiểu bằng sứ Tàu, trên miệng bát bưng kín bằng giấy hồng điều loại tốt, giữa có dán một hoa chữ thọ bằng giấy trang kim, nếu không phải là người Hà Nội quảng giao, ngồi vào mâm cỗ sẽ không hiểu là món gì lại có sự trang trí kiểu cách như vậy. Người không biết chỉ ngồi nhìn không dám hỏi, khi miếng giấy hồng điều dán hoa lật ra, đây chỉ là một cái bát không, thực khách nếu ngạc nhiên cứ chờ sẽ hiểu: đây là cái bát dùng để đựng xương.
    Khi tiệc gần tan, đồ tráng miệng, một đĩa đào nguyên trái được bưng lên, ít nhất là nZm trái cho mỗi mâm cỗ bốn người, bên đĩa đựng trái đào còn thấy một đĩa cơm nếp trắng phau, nóng hổi khói bốc nghi ngút. Thực khách không quen lại phải chờ để hiểu, không lẽ đào Zn với cơm nếp! Thì ra không phải: đào thường có lông như lông mZng, cứ để vậy Zn, rát lưỡi mất ngon, lấy dao cạo đi thì dao đâu đủ dùng cho số đông tân khách, phải cầu kỳ lấy trái đào lZn vào cơm nếp nóng, nhờ sức nóng và chất dính của cơm nếp, lông trái đào dính hết vào cơm nếp, như vậy Zn mới mát miệng và mới tận hưởng được hương vị của đào.
    Hoặc thay vì cơm nếp với đào sẽ là một thứ tráng miệng cầu kỳ khác, thí dụ như mâm bánh ngọt để lẫn với một vài thứ trái cây, kèm theo một chén nước mắm loại ngon, bên cạnh có bốn, nZm cái tZm bông, tZm bằng tre dài chừng 10 phân đầu to đuôi nhọn, phía đầu có quấn chỉ ngũ sắc, chỗ chỉ ngũ sắc này còn được dán thêm một hình con phượng ngậm một bao thư mầu đỏ, mệnh danh "Phượng hàm thư". Chiếc tZm này sau bữa Zn khách có thể mang về làm kỷ niệm.
    Trước mọi thứ dọn ra như vậy, người khách miền quê khỏi sao bỡ ngỡ, bánh ngọt hay trái cây Zn chấm nước mắm chZng? Không! Đây là muốn để khách được tận hưởng vị ngon của món Zn tráng miệng: nếu khách thích Zn bánh ngọt trước trái cây, thì lúc Zn trái cây, lấy tZm bông nhúng vào nước mắm, mút đầu tZm để chất mặn làm biến hết chất ngọt, như vậy Zn trái cây mới được thưởng thức hết chất ngon, nhất là chất ngọt của trái cây. Trái lại nếu khách Zn trái cây thì cũng làm như vậy để không cảm thấy bánh ngọt quá.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  6. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG NGÔI CHÙA MANG TÊN CÁC BÀ Ở HÀ NỘI
    1. Chùa Bà Ngô ở số nhà 128 phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa. Tên chữ Hán là Ngọc Hồ tự. Tương truyền chính ở chùa mình, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã gặp tiên, cùng tiên ngâm vịnh. Gọi là chùa Bà Ngô vì có tích kể rằng chùa do một bà họ Ngô xây dựng nên, nhưng cũng có tích kể là người xây chùa là một bà có chồng là người nước Ngô (tức Trung Quốc). Chưa rõ tích nào đúng.

    Chùa Quán Sứ

    2. Chùa Bà Nành ở số nhà 154 phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa. Tương truyền vốn là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành. Bà là người phúc hậu, hay giúp người nghèo. Khi về già bà đã bỏ tất cả tiền nong tích góp ra xây ngay trên đất nhà bà một ngôi chùa và bà xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng làm bàn bán hàng. Nay tượng và bàn đá đó vẫn còn. Dân gọi đó là chùa Bà Nành. Tên chữ là Tiên Phúc tự.
    3. Chùa Bà Đá ở số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm. Lịch sử chùa được kể như sau: Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) ở làng Báo Thiên (tức khu vực Nhà thờ Lớn Hà Nội ngày nay) có người đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá, bèn dựng một ngôi chùa nhỏ để thờ ngay tại nơi đào được tượng. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì. Vì vậy chùa có tên là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang tự. Pho tượng đá đã bị mất trong vụ cháy chùa thời Pháp thuộc.
    4. Chùa Bà Già ở làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Chùa có một lai lịch khá cổ. Nguyên Phú Gia, tên nôm là làng Gạ, là nơi các vua đời Trần định cư một bộ phận người ChZm được đưa từ phía nam ra. Những người này đã dựng một ngôi chùa mà sử Toàn thư đã phiên âm là Đa-da-li. Thái úy Trần Nhật Duật (1254 - 1330) thường tới đây đàm đạo về Phật giáo với vị sư người ChZm trụ trì chùa này. Có thể cái tên Bà Già là từ Đa-da-li mà ra. Nay trong chùa còn bức hoành phi cổ khắc ba chữ Bà Già tự.
    5. Chùa Bà Đanh cũng là một ngôi chùa dành cho người ChZm. Tây Hồ chí ghi là vua Lê Thánh Tông đã cho làm một thiền viện (vừa là chùa vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam Hồ Tây cho người ChZm hành đạo, gọi là Thiền viện Châu Lâm, gò Phượng Chủy nay là khu vực trường Chu VZn An, quận Ba Đình. Nhưng dân thì gọi là chùa Bà Đanh.
    Sau hình như người ChZm chuyển sang khu vực khác, thiền viện hoang phế nên có câu ngạn ngữ: "Vắng như chùa Bà Đanh". Tới thời Pháp thuộc, thực dân bắt dời chùa đi để xây xưởng in, rồi xây trường học. Đồ thờ ở chùa Châu Lâm được đưa sang thờ chung với chùa Phúc Châu ở chỗ nay là số nhà 199B phố Thụy Khuê, gọi gộp là chùa Phúc Lâm. Nhưng hiện nay trong chùa còn tấm bia ghi dòng chữ "Châu Lâm tự hiệu Bà Đanh tự".
    Cũng xin nói thêm là có người nghiên cứu về địa phương này cho rằng có thể đó là chùa Bà Banh với suy luận chùa vốn của người ChZm, tất có tượng các vũ nữ ở tư thế múa, tay dang, chân khuỳnh. Do vậy mà có tên Bà Banh. Xin ghi lại đây để tham khảo.
    6. Chùa Bà Móc ở phố Nguyễn Thiếp, số nhà 27. Không rõ lai lịch, chùa cũng không còn cổ vật, trừ tấm bia mang niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) do Nguyễn Cát Địch làm đốc học ở Quốc Tử Giám soạn, nói về việc tu sửa nhà. Như vậy chùa cũng đã có trước đó ít ra là bảy tám chục nZm.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  7. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    TẠI SAO HÀ NỘI CHỈ CÒN LẠI MỘT CỬA Ô QUAN CHƯỞNG?
    Hà Nội xưa, theo một số sách cũ để lại có đến 16 cửa ô được xây dựng vào đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786), vào khoảng năm 1749. Các cửa ô phần lớn đều được xây bằng gạch rất chắc chắn, nhưng đến nay, chỉ còn lại một cửa ô Thanh Hà, thường gọi là Ô Quan Chưởng. Vậy tại sao lại gọi là Ô Quan Chưởng?
    Theo sách Đường phố Hà Nội của Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá viết: "Cửa Ô Quan Chưởng có thể có từ thời Lê, vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) đã đắp thành đất bao quanh kinh đô Thăng Long, có mở một số cửa ô. Về tên gọi của cửa ô này, hiện nay có nhiều cách giải thích:
    1.Có thuyết cho rằng vào cuối đời Lê, có một viên quan Chưởng ấn về hưu, lập dinh cơ ở cạnh ô, do đó mà thành tên.
    2.Có thuyết lại cho rằng vào đời Nguyễn, có một chức quan Chưởng cơ kiểm soát ô này, phàm thuyền bè ghé các bến quanh đây đều phải trình giấy ở viên quan ấy. Vì vậy mà thành tên. 3.Có thuyết giải thích là hồi giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ nhất (1873), có một viên quan Chưởng vệ đã hy sinh ở đây. Để tưởng nhớ, nhân dân đã gọi cửa ô này là Quan Chưởng".
    Còn hỏi tại sao Hà Nội xưa có tới 16 cửa ô thì 15 cái bị phá nay không còn dấu vết. Chỉ riêng Ô Quan Chưởng còn tồn tại? Để giải đáp thắc mắc này phóng viên VOVNews đã tới gặp ông Đào Tam Trọng - một hậu duệ của gia đình có khoảng hơn 300 năm sinh sống tại Hà Nội. Ông kể:
    "Sau khi quân Pháp sang đánh chiếm nước ta, chúng đã cho phá dần các cổng ô để mở rộng thành phố. Với các cửa ô khác không rõ việc phá dỡ tiến hành như thế nào. Còn cửa Ô Quan Chưởng lúc đó thuộc tổng Đồng Xuân do một ông họ Đào làm Thiên hộ trông coi (chức Thiên hộ thời đó ngang với chức Chánh tổng). Ông họ Đào người làng Khúc Thuỷ tên là Đào Đăng Chiểu, sinh năm ất Tỵ (1845), mất ngày 25/6 năm Bình Thìn (1916), nguyên là Chánh tổng Tổng Đồng Xuân, sau này thành phố Hà Nội đổi ra làm 8 hộ, ông được cử làm Thiên hộ hộ thứ nhất. Bọn Pháp gọi ông Đào Thiên hộ đến và bảo: "Để người Pháp tiện việc xây dựng mở mang đường sá, thuận lợi giao thông dân bản xứ, nên phải phá Ô Quan Chưởng. Vậy ông về làm một tờ đơn trình bày đề nghị quan Pháp cho phá cửa ô. Đơn phải có chữ ký của các đại biểu bô lão dân làng. Hẹn 10 ngày nữa ông mang tới đây". Ông Đào Thiên hộ về bàn với dân làng rồi cùng mọi người nhất trí nhận định: "Pháp nó sang chiếm đóng đô hộ nước ta, nó muốn làm gì chẳng được, sao nó lại cần xin ý kiến của ta. vậy ta không đồng ý chắc nó không dám phá! Với lại ai mà biết nó phá cửa ô để làm đường hay làm gì!". Đúng 10 ngày sau ông Đào Thiên hộ đến gặp quan Pháp và trả lời: "Dân làng tôi không ai chịu ký vào đơn. Họ nói cửa ô là của dân cả nước, có phải là của riêng họ đâu mà họ ký. Nếu các quan Pháp muốn phá thì cứ phá, nhưng nếu xảy ra chuyện gì, dân chúng tôi không chịu trách nhiệm".
    Nghe xong chuyện này, mấy người Pháp tức tối lắm, chúng bảo: "Các cửa ô khác, dân chúng sở tại đều làm đơn cả rồi, sao dân ở đây lại bướng bỉnh, không muốn được mở mang khai phá hay sao?" Chúng yêu cầu ông Đào phải về bàn lại với dân làng. Sau ông Đào Thiên hộ lại phải lên trả lời cho bọn chúng: "Dân làng tôi họ nói, các nơi khác người ta có làm đơn hay không là việc của người ta. Còn dân làng tôi họ không chịu ký, và tôi cũng không ép buộc được họ". Bọn Pháp cho gọi ông Đào lên mấy lần, chúng còn hăm doạ, nhưng vẫn không đạt được mục đích. Sau đó ông Đào Thiên hộ tìm mọi cớ tránh không lên gặp bọn chúng nữa. Rồi sau không biết vì nó ngại dân tổng Đồng Xuân rất cứng đầu cứng cổ hay vì còn có nhứng lý do nào khác, nên không thấy chúng nhắc nhở đả dộng đến việc phá vỡ cửa ô này nữa. Và thế là cửa Ô Quan Chưởng an toàn tồn tại cho đến ngày nay. Đây cũng là công đóng góp của dân tổng Đồng Xuân và một phần không nhỏ của ông Đào Thiên hộ."
    Vậy ông có thể cho biết do đâu lại biết được câu chuyện này không?
    Ông Đào Tam Trọng trả lời: "Bố tôi là hậu duệ của ông đào Thiên hộ, sự việc này có ghi trong gia phả gốc bằng chữ Hán của họ Đào. Tiếc rằng trong chiến tranh chống Pháp, gia đình tản cư, đồ đạc sách vở để lại ở Hà Nội bị mất cả. Sau này chúng tôi chỉ được nghe bố tôi kể lại mà thôi".
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  8. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG TRÌNH THAM QUAN HÀ NỘI


    Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, là một thủ đô lâu đời và cổ kính mang, đậm nét phương Đông với những điểm danh thắng từng làm xiêu lòng biết bao người Việt Nam và du khách nước ngoài. Chỉ cần trọn một ngày, du khách có thể tham quan được gần hết những điểm du lịch nổi tiếng nơi đây.
    Buổi sáng, du khách sẽ đi thZm quần thể khu di tích Ba Đình và điểm dừng chân đều tiên tại phố Ông ích Khiêm. Từ đây du khách sẽ vào thZm LZng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi nghỉ vĩnh hằng của người cha già dân tộc
    Sau khi vào lZng viếng Bác, du khách sẽ lần lượt tham quan Quảng trường Ba Đình, Phủ Chủ Tịch, Nhà sàn của Bác, nơi Người sống và làm việc trong suốt thời gian dài từ những nZm 1945 đến nZm 1969. Và đặc biệt là Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi du khách sẽ được tìm hiểu về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của vị cha già của dân tộc Việt Nam - Hồ Chí Minh. Sau khi rời Bảo tàng Hồ Chí Minh, du khách sẽ tới thZm Chùa Một Cột. Chùa nằm trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây hoàng thành ThZng Long thời Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình - Hà Nội, ở bên phải LZng Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
    Rời khu Ba Đình, du khách sẽ dạo bộ theo đường Hùng Vương thZm quan Đền Quán Thánh được toạ lạc bên bờ Hồ Tây, trong một khuân viên đẹp đẽ, rộng lớn, trang nghiêm gần ngay cửa Bắc Kinh Thành. Đây là di tích của một trong những (ThZng Long tứ trấn) ngày xưa. Đến thZm Đền, du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng bằng đồng đen cao 3,2m, nặng 4 tấn là bức tượng đồng đen lớn nhất còn lại tới nay.
    Tiếp theo du khách sẽ được thưởng ngoạn với hương gió Hồ Tây, một trong những hồ lớn nhất của thủ đô.Và cuối cùng là Chùa Trấn Quốc , cũng là nơi dừng chân cuối cùng của buổi sáng hôm nay. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Hà Nội được xây dựng từ thế kỷ thứ 6 với kiến trúc độc đáo trên một bán đảo nhỏ ở Hồ Tây. Có lẽ chùa được xây dựng trên một khu lâu đài cổ xưa của Hoàng cung để thưởng ngoạn vào mùa hè. Vì thế đến đây du khách sẽ tìm thấy được không khí tĩnh lặng thoáng mát sau một thời gian mệt mỏ. dựng từ thế kỷ thứ 6 với kiến trúc độc đáo.
    Buổi chiều du khách sẽ đi tham quan khu vực Quận Hoàn Kiếm, nơi có nhiều di tích lịch sử cổ kính với nhiều truyền thuyết, huyền thoại.
    Trước tiên, du khách sẽ được tham quan Hồ Hoàn Kiếm nằm ở vị trí giữa lòng Hà Nội. Hồ đã được gắn với sự tích trả gươm của vua Lê Thái Tổ. Khi tới Cầu Thê Húc, xin mời du khách vào thZm Đền Ngọc Sơn, ngôi đền được dựng trên mặt nước hồ và thờ thần VZn Xương và vị anh hùng phá quân Nguyên nZm 1864, Trần Hưng Đạo.
    Tiếp theo, du khách sẽ đi thZm Khu phố cổ Hà Nội. Mặc dù theo nZm tháng thời gian, khu phố cổ này không còn nguyên vẹn nữa, nhưng khi đi trên những con phố nhỏ và cổ kính này, ta như được trở về với quá khứ của Hà Nội.
    Và một điểm di tích không thể thiếu được khi nói đến Hà Nội là VZn Miếu và Quốc Tử Giám. Đây là điểm di tích lịch sử - vZn hoá đặc biệt quan trọng, là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam và là nơi lưu giữ 82 bia đá ghi tên 1306 người đỗ tiến sĩ từ nZm 1442 đến 1779

    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  9. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    THĂM CÁC CHÙA NỔI TIẾNG HÀ HỘI
    Thủ đô Hà Nội - Trung tâm VZn hoá, Kinh tế, Chính trị của cả nước, nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh, di tích VZn hoá lịch sử, lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước đến thZm. Ngay giữa thủ đô Hà Nội, tập trung hơn 100 chùa lớn nhỏ, nằm xen kẽ trong các phố phường tấp nập, mặc dù vậy vẫn giữ nguyên được dáng vẻ nguyên sơ của chúng. Đến với Chùa Hà Nội, du khách sẽ tìm thấy cảm giác tĩnh tâm giữa lòng Thủ đô nhộn nhịp. Với hơn 100 chùa lớn nhỏ có lẽ du khách không thể tham quan được hết trong chốc lát. Ngoài một số đền, chùa chúng tôi đã đề cập ở phần trên, ở đây chúng tôi xin giới thiệu thêm một số đền, chùa tiêu biểu của Hà Nội.
    Xin mời du khách cùng chúng tôi tới thZm quan, lễ chùa tại chùa Quán Sứ Chùa nằm giữa phố cùng tên mang biển số 73. Chùa được lập từ đầu nhà Lê làm nơi tiếp đón sứ thần các nước Lào, Chiêm Thành ... khi họ tới ThZng Long. Trải bao thay đổi, tới nZm 1934, Hội Phật Giáo Bắc Kỳ lấy chùa làm Hội Quán và sau 1942 chùa được xây lại theo quy mô kiến trúc và trang trí nội thất lạ mà ít nơi có được như ngày nay. Từ nZm 1958 Hội Phật giáo Việt Nam đã chọn nơi đây làm trụ sở.
    Ngôi chùa tiếp theo mà quý khách tham quan có tên là chùa Ngũ Xã. Đây là ngôi chùa xây từ thế kỷ 18. ở đây có một pho tượng Di Đà, mới đúc nZm 1952 và là pho tượng đồng to nhất trong các chùa ở miền Bắc Việt Nam.
    Tiếp theo du khách sẽ được tới thZm chùa Liên Phái, toạ lạc trong ngõ Liên Phái, phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Chùa có tháp Cửu Sinh đã trên 250 tuổi. Đây là ngôi tháp cổ nhất trong khu vực nội thành Hà Nội. Quy mô của chùa hiện nay không khác mấy so với lần sửa chữa giữa thế kỷ thứ 19.
    Và cuối cùng du khách sẽ tới thZm chùa Kim Liên, được xây dựng từ thời nhà Trần (1225-1413), là nơi có liên quan đến nghề trồng dâu nuôi tằm của người Hà Nội cổ xưa.
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...
  10. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG TRÌNH THAM QUAN HỆ THỐNG BẢO TÀNG
    Nếu du khách đã từng đến thZm các Bảo tàng nổi tiếng thế giới với những bộ sưu tập phong phú, đa dạng có một không hai thì cũng mong du khách bớt chút thời gian tới thZm một số Bảo tàng của Việt Nam, tuy không lớn nhưng những bảo tàng này cũng có những nét đặc trưng , sức hấp dẫn và cuốn hút riêng của nó. Nếu có dịp đến Hà Nội, mời du khách cùng tham gia chương trình tham quan hệ thống Bảo tàng Việt Nam của chúng tôi.
    Chỉ dành một ngày trong thành phố Hà Nội để đi thZm 4 bảo tàng tiểu biểu dưới đây, du khách sẽ có cả một kho kiến thức về sự phát triển của một dân tộc với nền vZn hoá đa dạng, bề dầy lịch sử dựng nước và giữ nước đáng tự hào và chắc chắn du khách sẽ tìm thấy ở đó thật nhiều điều thú vị.
    Buổi sáng, chúng ta cùng tới tham quan Bảo Tàng Dân Tộc Học và Bảo Tàng Mỹ Thuật.
    Đầu tiên, xin mời du khách đến với Bảo tàng Dân Tộc Học nằm tại Đường Hoàng Quốc Việt - Quận Cầu Giấy, là một trong những Quận mới của Hà Nội. Bảo tàng Dân Tộc Học là nơi trưng bày những nét vZn hoá đặc trưng của 54 dân tộc Việt Nam, với các trang phục, nhà cửa, nhạc cụ dân tộc. Đến đây, du khách sẽ được giới thiệu rõ hơn về lối sống, những phong tục tập quán của mọi miền đất nước Việt Nam qua những cuốn phim tư liệu, hiện vật quý hiếm mà ít nơi đâu có được.
    Tạm biệt Bảo tàng dân tộc học, du khách sẽ được đến thZm Bảo tàng Mỹ Thuật tại 66 Nguyễn Thái Học - Quận Ba Đình. Đến thZm nơi đây, Du khách sẽ thấy được quá trình phát triển của nghệ thuật Việt Nam từ kiến trúc đến điêu khắc, hội hoạ, mỹ nghệ... thông qua hơn 1 vạn tác phẩm nghệ thuật. Tại đây trưng bày nhiều hiện vật gốc, hiện vật phục chế, phiên bản, tranh ảnh đặc sắc có giá trị lớn lao từ mỹ thuật dân gian thời nguyên thuỷ đến thời hiện đại như lưỡi rìu đá có vai, tượng đá, đồ trang sức bằng đá, đồ gốm sứ, hàng tơ lụa, các phù điêu, tượng gỗ, tranh lụa, tranh sơn mài, tranh Đông Hồ, đặc biệt là bộ sưu tập mỹ thuật các dân tộc Việt Nam.
    Buổi chiều, chúng ta tới tham quan Bảo tàng Lịch Sử ở số 1 Tràng Tiền - Quận Hoàn Kiếm. ở đây trưng bầy hàng ngàn hiện vật thể hiện truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm từ thuở ban đầu khai sáng đến thời kỳ chiến tranh chống pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam với trên 67.000 hiện vật thu thập được từ những cuộc khai quật khảo cổ như những công cụ lao động và chiến đấu bằng đá đẽo, đá mài đến các loại vũ khí hiện đại... Đặc biệt bộ sưu tập hơn 600 chiếc trống đồng đủ kiểu, đủ loại là một trong những hiện vật đặc trưng nhất của Bảo Tàng.
    Bảo tàng Cách Mạng (25 Tôn Đản - Quận Hoàn Kiếm) là điểm dừng chân cuối cùng trong buổi tham quan hôm nay. Bảo tàng Cách Mạng là nơi tái hiện lịch sử đấu tranh hàng trZm nZm nay của nhân dân Việt Nam, với hơn 3000 hiện vật, phim ảnh, tư liệu được trưng bày, giới thiệu một cách khái quát nhất về lịch sử dân tộc Việt Nam từ 1858 đến nay. Và có lẽ Bảo tàng Cách Mạng là nơi duy nhất có những bộ sưu tập rất quý như cờ, sách, báo, vũ khí, các chiến lợi phẩm như súng, đạn, mìn.....
    ...Từng giọt mưa đêm nay thật buồn....Đêm qua đi và ngày đang tới hát câu chuyện tình mùa xuân. Còn vang mãi trong lòng ta bao năm tháng ngọt ngào...

Chia sẻ trang này