1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thử đọc bài ''Thủy Quân Nhà Nguyễn''

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi lehuynam, 31/12/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lehuynam

    lehuynam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/08/2005
    Bài viết:
    171
    Đã được thích:
    0
    Thử đọc bài ''Thủy Quân Nhà Nguyễn''

    Thủy Quân Nhà Nguyễn

    Một số khía cạnh đặc biệt về Thủy Quân Nhà Nguyễn

    Vũ Hữu San

    Nhà Nguyễn với những thành tích vô song ?" Qua hơn một nửa thế kỷ, có nhiều nhìn nhận không khách quan về nhà Nguyễn. Điều này thật là vô lý. Các triều đại phong kiến không phải tất cả đều xấu xa. Vua Chúa Quan Chức nhà Nguyễn chẳng những đã không tầm thường mà lại còn hoàn thành được rất nhiều kỳ công, mang lại cho dân tộc và đất nước Việt Nam những tài sản về vật chất và tinh thần thật lớn lao. Với diện tích lãnh thổ mà nhà Nguyễn bành trướng gấp đôi, thực phẩm nuôi dân Việt Nam đã tăng lên bội phần. Đặc biệt về hải phận, nước ta vượt quá 3 lần lớn hơn trước kia.

    Sau đây, chúng tôi chỉ xin dựa trên một khiá cạnh nhỏ bé về sinh hoạt hàng hải, điểm qua một số thành tích về thủy quân nhà Nguyễn.

    Nghiệp Đế Xuất phát Từ Lý do Phòng thủ Hải biên ?" Khi Trịnh Kiểm âm mưu chiếm gọn binh quyền, giết người anh của Ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng tìm cách thoát hiểm và trả thù họ Trịnh. Tính toán mãi chưa biết nên làm gì, bèn sai người thỉnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì được khuyên một câu: ?oHoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân? (một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa với lý do: ?oĐất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệt, lại là mặt Nam đễ bị tập kích, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng bất cứ lúc nào?.
    Kiểm buộc lòng phải thuận theo vì biết chỉ có họ Nguyễn là giỏi thủy chiến, đủ sức phòng thủ hải biên an toàn cho phía Nam. Trịnh Kiểm dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa, toàn quyền xử lý mọi việc. Hoàng đem người nhà và nhóm quân bản bộ xuống chiến thuyền vào Nam năm Mậu Ngọ (1558) khi 34 tuổi. Cùng đi với Ông, còn có số người nghĩa dũng Tống Sơn Thanh Hóa. Mấy ngàn người này, hầu hết có ít nhiều hiểu biết về thủy quân, đã mở đầu ra một sự nghiệp rất dài 400 năm (cho đến 1954).

    Năm 1572, sau khi đem quân đánh Thanh Nghệ, tiến về Thuận Hóa, Mạc Kính Điển dùng 60 chiến thuyền do hải đạo vào tiến chiếm làng Hồ Xá và Lãng Uyển, vượt qua sông Cửa Việt. Nguyễn Hoàng lập mưu mỹ nhân kế. Tướng địch là Lập Đạo trúng kế cầu hòa, bị bắn chết. Nguyễn Hoàng đánh tan đạo quân này.Sau khi việc trấn thủ vùng Thuận Quảng đã yên ổn, năm 1593 Nguyễn Hoàng lại đưa Hạm đội ra giúp vua Lê dẹp nhà Mạc và gian đảng gần 8 năm. Năm Canh Tý (1600) được lệnh vua Lê từ Thăng Long đem thủy quân đi dẹp các tướng nổi loạn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê ở vùng sông ngòi Nam Định, Nguyễn Hoàng cùng quân bản bộ kéo qua Cửa Đại An, bất thần giương buồm thẳng ra Biển Đông vào ngay Thuận Hóa. Sau chuyến hải hành quyết tâm ra đi này, Hoàng lo việc lập nghiệp tại duyên hải phương Nam, không nghĩ việc quay về lại đất Bắc lần nữa.

    Khởi nghiệp bằng đoàn Thủy quân nhỏ bé ?" Nói chung, hầu hết các triều đại Việt Nam thường thường khởi nghiệp bằng những chiến công diệt ngoại xâm hay thống nhất đất nước. Anh hùng nước ta đã quy tụ được những tấm lòng yêu nước thuộc mọi ngành nghề sinh hoạt, đến từ khắp nơi trong nước, hợp quần cùng nhau đứng lên giết giặc, dành độc lập cho quê hương.

    Đặc biệt sự nghiệp họ Nguyễn lại có một chỗ đứng hoàn toàn riêng rẽ. Thoạt tiên, đoàn quân của họ rất nhỏ bé chỉ mong được thoát hiểm, gồm các đồng hương vùng Thanh Hóa, tương đối đồng nhất về khả năng và kinh nghiệm chuyên biệt về thủy chiến. Nếu được kể là từ khi Nguyễn Hoàng có quyết tâm khởi đầu cơ nghiệp cho đến khi họ Nguyễn đủ thế lực xưng Chúa, thành phần nòng cốt của họ đã chiến đấu sinh hoạt cạnh nhau trong vòng nhiều chục năm trời. Nhóm quân lính đó đặt cứ điểm trên Hạm đội, thường qua lại khắp các vùng biển Quảng Nam, Thuận Hoá, Nghệ An, Thanh Hóa và ra vào các sông ngòi miền châu thổ hai sông Hồng và Thái Bình, Bắc Đại Việt.

    Truyền thống thủy chiến được con cháu họ Nguyễn chuyên cần phát triển và nuôi dưỡng suốt một chiều dài lịch sử gần 350 năm, kéo theo con đường Nam Tiến của họ từ Thanh Hóa đến tận Phú Quốc Hà Tiên. Truyền thống này theo một vài sử gia chính là động lực lớn nhất đưa Nhà Nguyễn đến sự thành công trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất giang sơn và duy trì được vương quyền sau nhiều cơn sóng gió.


    Hành lang Biển Đông ?" Đi từ một nhóm binh lính dân đinh năm, bảy ngàn người; bám chặt vào duyên hải Miền Trung, chúa Nguyễn đã không bị nghiền nát bởi hàng chục vạn binh sĩ của chúa Trịnh tấn công liên tục mọi mặt gần một thế kỷ. Trái lại, Nguyễn Hoàng và những người lãnh đạo tiếp theo đã đưa Việt Nam tiến những bước thật dài chưa từng có trong lịch sử.

    Biển Đông biến thành hành lang hữu hiệu đưa đoàn thuyền Nam tiến. Thủy quân thường đi trước, làm nơi nương tựa cho quân dân lập nghiệp trên bờ phối hợp cùng di chuyển. Làng mạc định cư cứ thế chuyển dần về Nam, chinh phục toàn bộ miền Trung và Nam Bộ. Các Chúa Nguyễn đã đưa đất nước vươn mình đến tận vịnh Thái Lan và tỏa ảnh hưởng văn hoá trên toàn bán đảo Hoa Ấn.

    Đàng Trong đần dần trở thành một vương quốc hùng mạnh, tự trị với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (Bắc Hà). Các nhà truyền giáo ngoại quốc trong giai đoạn này đã hết sức ngạc nhiên và khâm phục trước lực lượng quân sự hùng mạnh, sức sống mãnh liệt của nhân dân cũng như trước mức độ văn hóa và đạo đức rất cao của đất nước Việt Nam Xứ Đàng Trong.

    Hải Chiến với Hải tặc Nhật Bản. ?" Cuối thế kỷ 16, khi hoành hành cướp phá bờ biển Trung Quốc, Hải tặc Nhật Bản cũng tràn qua cả nước ta. Chúng kéo nhau đến Cửa Việt vào năm 1585. Hoàng Tử Nguyễn Phước Nguyên, con thứ sáu của Chúa Nguyễn Hoàng đã điều binh đánh chìm hai chiếc tầu Ngọa khấu (giặc lùn Kenki). Đây là sử liệu đầu tiên đề cập đến mối liên hệ giữa Nhật Bản và ĐàngTrong. Năm 1599, một chiếc tàu Henki khác khi hải hành bị mắc cạn tại Cửa biển Thuận An cũng bị một tướng của Chúa Nguyễn Hoàng chận bắt được. Đầy đủ trang cụ bị tịch thu, cả thủy thủ đoàn tàu cướp biển bị bắt. (xem Japan early trade coin and the commercial trade beetwen Vietnam and Japan in the 17th century,Thuần Lục, May 1999).

    Hai năm sau, 1601, Chúa Nguyễn Hoàng gửỉ bức thư ngoại giao chính thức đầu tiên của nước ta đến Tướng Quân Shogun Tokugawa. Hai xứ Việt Nhật bắt đầu lập giao thương đường biển. Thương điếm vùng Hội An được thành lập với nhiều thương nhân ngoại quốc và đặc biệt đông nhất là người Nhật Bản, bắt đầu phát triển mạnh mẽ.

    Trận Hải Chiến đầu tiên trong Việt Sử ?" Đọc Việt Sử ta thấy từ xa xưa, Tổ tiên chúng ta từng sử dụng thủy quân nhiều lần. Tuy vậy nếu tò mò xem xét thì rõ ràng chưa bao giờ thực sự có hải chiến xảy ra. Các trận Chương Dương, Hàm Tử ... kể cả hai lần đại thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền và Trần Hưng Đạo đều là giang chiến, diễn ra trong sông.

    Vào năm 1585 ngoài cửa biển Lục Thủy Dương, thủy quân Trần Khánh Dư đã ghi công thắng trận duyên chiến đầu tiên. Cả trận Cửa Việt năm 1585 nói trên cũng thuộc loại này. Phải đợi đến cuối thời Chúa Nguyễn Phước Lan, ta mới thấy một anh hùng hải chiến thực sự. Đó là Thế tử Nguyễn Phước Tần, sau này trở thành Chúa Hiền. Sử chép rằng đội chiến thuyền cảm tử của Ông đã rượt đuổi và đánh tan hạm đội chiến thuyền Hòa Lan (1648) ngoài khơi vùng biển từ Cù Lao Chàm đến Cù Lao Hàn. Hòa Lan lúc đó đang là đế quốc có lực lượng hải quân hùng mạnh nhất thế giới.

    Ưu thế Thủy Chiến và Binh Thư [/yellow] ?" Có lẽ họ đã nói đúng nhưng hơi ... quá đáng chăng? Các giáo sĩ Alexandre De Rhodes và Tisannier trong ký sự, khen quân lực của chúa Nguyễn hùng hậu hơn cả Pháp và Bồ Đào Nha. Trong Chiến tranh Trịnh Nguyễn lần thứ nhất kéo dài đến 45 năm, nói chung họ Trịnh thường khởi thế công. Họ Nguyễn chuyên phòng thủ. Trong tất cả các đợt tấn công, họ Trịnh chủ yếu dùng quân bộ, còn họ Nguyễn lưu tâm điều động thủy quân với nhiều sự mềm dẻo trong việc điều quân hầu bảo toàn lãnh thổ của họ. Thoạt đầu khi đất đai còn nhỏ hẹp, Quân lực Đàng Trong ít ỏi và yếu kém hơn Đàng Ngoài, nhà Nguyễn phải nghiên cứu binh pháp để làm sao được tồn tại.

    Mối quan tâm về chiến thuật điều quân và đặc biệt về thủy chiến của nhà Nguyễn đã được chính vị Đại quan Khai Quốc Công Thần Đào Duy Từ suy luận và viết ra với rất nhiều chi tiết. Trong cuốn sách Hổ Tướng Khu Cơ của Ông (1572 1634), chương Thủy chiến rất là quan trọng. Ngay đến tập Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo mà ta thấy truyền tụng ngày nay cũng đã có nhà quân sự ghi thêm lẫn lộn nhiều đoạn của Hổ Tướng Khu Cơ. Ông Nguyễn Ngọc Tỉnh, khi phiên dịch cuốn sách Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo (Paris, 1988, trang 267) đã ghi chú rằng: Sách Hổ Tướng Khu Cơ: Phép lấy nước uống trong biển .

    Ngày trước, nghệ thuật thủy chiến như được viết chi tiết trong các cuốn sách Binh thư thật là hiếm có.

    [yellow]Cải tiến Hải hành. ?" Như ta đã biết, hải hành cần những hải đồ và đồng hồ chính xác. Chúa Nguyễn Phước Chú cho đặt các đồng hồ Tây phương nơi các công sở và đồn tàu dọc biển, sau đó Ông Nguyễn Văn Tú rồi tiếp theo những người khác nữa lại chế tạo được đồng hồ. Từ đó, sự điều động thủy quân theo thời gian được chính xác hơn xưa.

    Chúa Nguyễn nhờ cánh tay dài Thủy Quân đã nối dài đất nước tới tận Hoàng Sa và Trường Sa. Sách sử Việt Nam đã ghi chép về quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ XVII với chi tiết địa lý rõ ràng trong sách ?oThiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư? (1630 1653) của Đỗ Bá.

    Sau cuốn sách này, ta có ?oPhủ biên Tạp lục? một tác phẩm của Lê Quý Đôn mà trong đó ông tường thuật những công tác thi hành chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Các đội Hoàng Sa trách nhiệm những đảo Cát Vàng và đội Bắc Hải trách nhiệm Trường Sa, Phú Quốc; tuân hành theo lệnh Chúa Nguyễn.

    Ít nhất đã khởi sự vào cuối thế kỷ XVII, sau những chuyến đi biển hàng năm thường dài tới 6, 7 tháng, các đội Hoàng Sa đã báo cáo lại mọi diễn biến trên hải trình làm kinh nghiệm cho những chuyến công tác sau này. Từ đời chúa Nguyễn phúc Nguyên (1613 1615) hay có thể trước đó nữa, các đội Hoàng Sa đã được thành lập để thu lượm hải vật. Học giả Lê quý Đôn (1726 1784) từng tham khảo sổ biên của Cai đội Thuyên đức Hầu (một chức quyền Hải Quân cao cấp ngày trước) thấy năm 1702 đội Hoàng Sa lấy được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5,100 cân thiếc, năm 1705 được 126 thỏi bạc... Vì không có tài liệu ghi nhận bất cứ một tai nạn đắm tàu nào, ta thấy rằng khả năng hải hành lúc đó đã khá và việc nghiên cứu đường biển trong thời các Chúa Nguyễn cũng khá đầy đủ.

    Bước Đường Bôn tẩu Trên Biển. ?" Khi đọc Sử, chúng ta thường ca tụng Vua Quang Trung trọng dụng chữ Nôm, Tuy vậy, có một câu chuyện chữ Nôm về Nhà Nguyễn rất thích thú và cảm động sau đây.

    Qua 9 đời Chúa, sau thời hưng thịnh họ Nguyễn đến lúc suy vong. Nguyễn Ánh may mắn sống sót, trốn chạy bằng đường thủy, mưu cầu phục quốc. Nay thuyền Ông tấp vào bớ sông vắng, mai tàu Ông trôi dạt ra hòn đảo ngoài khơi. Trong khi bị truy sát, sinh mạng như chỉ mành treo chuông, chẳng có loại ngôn ngũ nào hay hơn khi Nguyễn Ánh muốn bộc lộ lòng mình bằng những tiếng nôm na của mẹ cha ông bà của mình. Điều này khác xa với các văn bản của Sử Quán. Các Quan thường dùng chữ Hán và văn chương biền ngẫu, sau này còn tô vẽ thêm cho nhà Vua một thứ sơn lót chân mạng đế vương.

    Linh Mục Cadier là người đã đi tìm đọc thấy 14 bức thư chữ Nôm của Nguyễn Ánh gửi các giáo sĩ. Trong số đó có cả tờ lệnh ban cho Sĩ quan Pháp thuộc Hải quân của Ông.

    Chúng ta vô cùng thương cảm cho một Ông Hoàng đã mất hết uy quyền, cải trang thường dân, lênh đênh góc biển chân trời, hải đảo xa vắng, thốt lời chua chát, than thở cho số phận đắng cay, ray rứt vì chưa làm tròn bổn phận với Tổ tiên. Bằng văn Nôm, Ông tự biểu lộ là một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ đứa con mình xa cách nửa vòng trái đất...

    Có lẽ nhà Vua đã viết nhiều tài liệu tương tự hay tác phẩm nôm na như vậy, nhưng nay đã bị thất lạc. Khi cần khích động lòng quân sĩ và đồng bào Việt Nam của mình, Ông cũng viết tiếng Việt Nam. Đạo Dụ bằng quốc văn trong cuộc duyệt binh ngày 26 tháng 3 năm 1800, trước khi binh đoàn khởi hành hay xuống tàu đi cứu Võ Tánh, là một bằng chứng vậy!

    Giao thương Khắp Nẻo. ?" Nối tiếp sự nghiệp các Chúa, Nguyễn Ánh mở mang việc thương mại với các nước láng giềng và thuyền buôn Tây phương. Sau khi chiếm lại được Gia Định lần chót từ tay Tây Sơn, Nội viện Trần Vũ Khách đưa tàu đi Giang Lư Ba (Batavia), Cai đội Ô li vi, Đội trưởng Ba la di đi Goa, Mã la Kha (Ba la kha Malacca). Tài liệu Tây phương cho biết L. Barizy còn trương hiệu kỳ của chúa Nguyễn buôn bán với thương nhân Đan mạch, Hanop và Stevenson. Đứng trung lập trong chiến tranh Anh Pháp, họ làm đại lý cho Ánh ở Tranquebar (Ấn Độ). Các thương cảng miền Nam bắt đầu hồi sinh.

    Trước nội chiến, Tourane nườm nượp những ghe trọng tải từ 40 150 tấn đến chở cau, đường. Mỗi chuyến riêng mỗi thứ mang đi hàng 40 ngàn tấn. Nhưng vào khoảng năm 1790, khi Âu châu e ngại với Tây Sơn, đường cát tuy có rất nhiều ở Quảng Nam nhưng không trở thành món hàng xuất cảng. Kết quả của sự thiếu giao thương là hiệu năng vũ khí của Tây Sơn suy kém hẳn đi. Trong Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường viết: Những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia Định nhồi bằng thuốc đạn Tây Phương.

    Thủy chiến là Sở trường của ta ?" Trở lại với thủy chiến, ta thấy Liệt Truyện q.10, 6b chép rằng; Nguyễn Ánh và các tướng của Ông thường lý luận và tin tưởng rằng: ?oThủy chiến là sở trường của ta?. Thủy binh bao giờ cũng tiến nhanh và là mũi nhọn phóng sâu vào đất địch trước bộ binh. Tư thế chủ động và tính cách độc lập của thủy quân còn được Sử gia Tạ Chí Đại Trường xác nhận là quân ngoài biển không những luôn luôn đi tiên phong mà nhiều khi còn phải làm thế nương tựa cho quân bộ chiến có khả năng tiến lên nữa.

    Nhận biết thủy quân là quan trọng, giá tiền thưởng khi bắt lính đào ngũ có sự cách biệt rõ rệt: quân nào bắt được lính bộ thì thưởng 30 quan, còn được thủy binh thì được hưởng tới 40 quan (thực lục quyển 4, 12a.

    Nhà Nguyễn kiến trúc nhiều chiến hạm tân tiến. Các Tây dương dạng thuyền như Thoại Phụng của Barizy điều khiển, Loan phi của Chaigneau, Bằng Phi của DeForcan, Phượng Phi của Vannier đều có kỹ thuật rất cao, với thủy thủ đoàn và quân đổ bộ đông tới 300 người.

    Đánh tan Hạm đội thuyền Tề ngôi Trung Hoa. ?" Khi Vua Quang Trung qua đời, lực lượng quân sự phía mặt biển suy yếu thấy rõ. Tây Sơn phải tìm cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề Ngôi người Trung Hoa được bổ túc vào sự thiếu sót đó. Các thuyền Tề Ngôi vừa giữ nhiệm vụ tiếp tế cho nội địa vừa chính là một bộ phận của thủy quân Tây Sơn để quân bình sự yếu kém vậy.




    (Còn tiếp)
  2. vitchetduoi2987

    vitchetduoi2987 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/06/2006
    Bài viết:
    1.481
    Đã được thích:
    0
    Nhưng dù sao cái việc cầu cứu quân ngoại bang là cũng đáng lên án,và việc trả thù quân Tây Sơn còn đáng lên án hơn.
  3. colorwind

    colorwind Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    17/10/2006
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    20
    Công dân Vĩnh Thụy được cấp ID vào năm 1945 rồi chứ nhỉ?
  4. dragonboy1080

    dragonboy1080 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/01/2006
    Bài viết:
    5.265
    Đã được thích:
    880
    Giặc lùn là "Oa Khấu" chứ nhỉ?
    Thật tiếc là 1 đất nước có bờ biển dài + lắm sông hồ như VN mà lại tự làm mai một "nền văn hoá nước" từ thủa "Phùng Nguyên" - "Ngọc Lũ" - "Đông Sơn" xa xưa!
    Xem các hoa văn trên trống đồng thấy những con thuyền hồi đó đã khá hoành tráng - có cái đếm được 50 "thuỷ thủ" lận!
    Kể cũng lạ! Tính từ khi vua Hùng cuối cùng bị Thục Phán lật đổ (cứ cho là thế đi ) thì có lẽ nhà Nguyễn là triều đại đầu tiên mà "văn hoá nước - cởi mở - truyền thống" lên ngôi trước "văn hoá đất - khép kín - ngoại lai" nhỉ? Nhưng sau khi thống nhất thì "văn hoá đất" lại thống trị
    Trên phần lãnh thổ bây giờ là VN, các "nền văn hoá nước" như Văn Lang, Chăm Pa, Thuỷ Chân Lạp đều sụp đổ khi chạm trán với "nền văn hoá đất"
  5. doncoi_noixaxoi

    doncoi_noixaxoi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2007
    Bài viết:
    1.515
    Đã được thích:
    9
    Xem ra thì thuỷ quân nhà Nguyễn rất hùng mạnh nhưng tôi không hiểu tại sao khi Pháp đánh Đà Nẵng thì không thấy bóng dáng của thủy quân đâu.
    Lực lượng Pháp lúc ấy cở chục tàu chiến (3000 quân) nếu tàu ta yếu thì tại sao không dùng kế kiến giết voi như thuỷ quân Tây Sơn xưa đã dùng. Hoàng Đế Quang Trung chẳng ngán tụi tàu Tây phương.
  6. vitchetduoi2987

    vitchetduoi2987 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/06/2006
    Bài viết:
    1.481
    Đã được thích:
    0
    Em cũng đồng quan điểm với bác này.Em thấy trên trống đồng vẽ hình thủy quân,mỗi cái thuyền có 1 người chỉ huy cầm trống da điều khiển;đầu thuyền là lính cận chiến,giữa thuyền có cái vọng lâu vẽ người cầm tên....nói túm lại là khá có tổ chức.Như vậy lịch sử thủy quân phải bắt đầu từ thời Ngọc Lũ mới đúng chứ?Tại sao thủy quân lại được ít nhắc đến,trừ trận Bạch Đằng và quân của Trần Khánh Dư? Hay tại VN toàn lo đánh quân phương Bắc,mà bọn này hiếm khi dùng thủy quân nên các cụ ngại xây dựng Hải quân?
  7. bye2romance

    bye2romance Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2005
    Bài viết:
    613
    Đã được thích:
    0
    Không giống các nước khác , thuỷ quân các cụ nhà ta gần như được biên chế chung với lục quân. Nói nôm na là quân đội Nam Việt rất thạo thuỷ chiến bởi địa hình đặc thù.
  8. NGR

    NGR Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/06/2006
    Bài viết:
    686
    Đã được thích:
    0
    Thủy quân nhà Nguyễn năm 1858 đâu còn được như thời Gia Long nữa.Chẳng những vũ khí tàu bè lúc ấy đã lạc hậu so với quân Pháp,mà kĩ năng chiến đấu và kỉ luật kém nhiều với những đội tàu của năm 1793-1819.
  9. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Thuỷ quân nhà Nguyễn lúc đấy chắc là xài vũ khí từ thời Gia Long để lại 70 năm trước. Tinh thần thì không còn được như trước. Nhà Nguyễn thua không phải chỉ vì kém kỹ thuật mà còn kém tổ chức kém tinh thần và rất bạc nhược.
    Hình như trận Đà Nẵng nhà Nguyễn có trưng ra 2 chiến thuyền "Tĩnh Hải" và "Điềm Dương" và ngay lập tức bị đánh chìm.

Chia sẻ trang này