1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương

Chủ đề trong 'Phú Thọ' bởi vnkanzler, 18/06/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương

    Hồi cuối tháng 3 khi lên đền Mẫu Âu Cơ-Đền Hùng, tớ thấy có một bia đá ghi là Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh được 100 người con trai, hoang mang quá, vì từ trước đến giờ cứ nghĩ là ÂuCơ và Lạc Long Quân sinh được 50 nam, 50 nữ... và cứ cho là mình đúng đi, nhưng chả nhẽ cả khu di tích lịch sử lại dám treo một cái biển sai ???... Thế là phải về nghiên cứu lại, kq là: có hai truyền thuyết về sự tích Âu Cơ và Lạc Long Quân, một của dân tộc Mường cổ (tức là 50 nam, 50 nữ), một của dt Việt (100 nam), và truyền thuyết 100 người con trai nam đã được lựa chọn. Trong khi tìm kiếm tớ đọc được mấy bài này có ý tưởng rất táo bạo, có thể làm cho vài bạn đau đầu... Post lên đây cho mọi người nghiên cứu.

    Nguồn Khoahoc:
    tác giả: Nguyên Nguyên

    Thu doc lai truyen thuyet Hugn Vuong (1)
    Quốc Tổ mang hai giòng máu
    Bài này thử quan sát lại truyền thuyết ?~Con rồng cháu tiên?T dưới một góc độ tương đối mới, dựa vào những sự kiện, hiểu biết nửa cũ nửa mới. Đặc biệt, những sự kiện xưa cũ vẫn thường dễ quên, bỏ sót hoặc lướt qua trong quá khứ.

    Truyền thuyết con rồng cháu tiên của dân Việt, hay sự tích mối tình duyên giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân là một câu chuyện đã trở thành cổ sử, được truyền tụng trên dưới 600 năm. Bởi vấn đề quá rộng và hết sức phức tạp, chúng tôi đã cố gắng tách rời ra nhau thành từng đề tài một, nhỏ và giới hạn. Bài này, viết tiếp theo ngay bài ''''18 đời vua Hùng: Một ý niệm về liên tục'''', sẽ viết một cách khái quát về truyền thuyết vua Hùng, vị quốc tổ mang hai giòng máu Việt và Thái, và sẽ tránh đi vào chi tiết các vấn đề liên hệ tương cận, như nước Xích Quỷ, nước Văn Lang, cũng như bờ cõi ranh giới của các ?~nước?T này. Và lại chia thành 2 bài (phần):

    Bài 1: Dữ kiện của truyền thuyết: Đối chiếu với ?~truyện cổ?T của người Mường
    Bài 2: Bối cảnh của truyền thuyết: Nước Sở của thời Xuân Thu Chiến Quốc.

    1. NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG DỄ QUÊN

    Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:

    ''''Cứ theo tục truyền thì Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
    Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.
    Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
    Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''''''''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.''''''''

    Sau đó vẫn theo ''''truyền thuyết'''' Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công Nguyên (TCN).

    Truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân, rồi 18 đời Hùng Vương, tự nhiên trở thành một thứ ''''quốc sử'''' chính thống cũng bởi truyền thuyết đã được đề cập đến trong hai bộ sử có tầm vóc, có thể nói lớn nhất, của nước Nam. Thứ nhất là bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, và thứ hai, bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ.

    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, rồi Hùng Vương vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và Đại Việt Sử Lược [3] với tác giả khuyết danh, ra đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan nhà Thanh tìm được ở một thư khố bên Tàu.

    Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,..., thật ra được Ngô Sĩ Liên nhập vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như: ''''Việt Điện U Linh Tập'''', và ''''Lĩnh Nam Chích Quái'''', xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt ''''Lĩnh Nam Chích Quái'''', do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (770-221 TCN).

    Những ai đã đọc qua một hai chương sách đầu của bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đều để ý Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối ''''chương'''' về thời Hồng Bàng [2], bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: ''''Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế''''. Còn Sơn Tinh Thủy Tinh thì ông cho: ''''rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi''''.

    Ngô Sĩ Liên đã đoán rất đúng: Khi ''''cóp'''' các truyền tích từ ''''Việt Điện U Linh'''' hoặc ''''Lĩnh Nam Chích Quái'''' vào cổ sử, ông đã gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho mãi đến ngày nay. Mặc dù đã căn dặn kỹ: ''''tin sách chẳng bằng không có sách'''' (tận tín thư bất như vô thư) [2].

    Trước khi đi vào việc quan sát trở lại nội dung và ý nghĩa của các chi tiết câu chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân, chúng ta hãy nhìn lại một vài điểm quan trọng, sơ khởi, vẫn thường dễ bị quên lãng, hoặc thiếu sót trong quá khứ.

    (i) Vua chúa thời huyền sử và biểu tượng
    Khi nghiên cứu về cổ sử, các sử gia cũng như nhà khảo cứu từ Đông sang Tây vẫn thường xuyên dựa trên những chuyện cổ tích và truyền thuyết trong dạng trinh nguyên (thí dụ: xem [5]). Trinh nguyên, được nhấn mạnh ở đây để phân biệt với những bản được thêu dệt, thêm mắm thêm muối. Thí dụ: dạng thêm mắm của chuyện Lạc Long Quân có thể như thế này: ''''Sau khi chia tay, Lạc Long Quân mới dặn đám con đi theo mẹ, tức Âu Cơ, khi có chuyện gì cứ lên núi hú lên 9 tiếng, Lạc Long Quân sẽ bay về cứu cấp.'''' Hoặc đưa ra đầy đủ danh sách của 18 vị Hùng Vương, nhưng luôn luôn quên rằng các tên vua Hùng viết toàn bằng chữ Hán, thí dụ: Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương, ..., y như thể nước Văn Lang là một trong mấy trăm nước chư hầu nhà Châu ở miền phía Bắc sông Dương Tử vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu. Và tự đưa truyền thuyết vào một ngõ cụt của mâu thuẫn: Hùng Vương, bởi xưng vương hiệu bằng tiếng Hoa, chắc nói với dân Lạc bản địa toàn bằng tiếng Hoa, trước các sắc tộc Hoa Nam, và trước khi người Hán mang tiếng Hoa đến xứ đó, cả ngàn năm.

    Thêm vào đó, rất ít khi chúng ta nhìn vào những nhân vật ở thời huyền sử như một biểu tượng của thời đại, chứ không phải?người thật. Xin viện dẫn thí dụ cụ thể bằng cách sơ lược các huyền sử người Hoa.

    Người Tàu ban đầu tự xưng nước họ là Trung thổ, Trung nguyên, rồi Trung quốc. Nước ở chính giữa mặt đất. Khi nền văn minh của họ đã tiến lên chế độ phong kiến đế quốc, bất cứ cái gì ở ngoài biên cương họ cũng đều cho man di mọi rợ hết. Phía Bắc có Bắc địch, Đông thì Đông Di, Nam gọi Nam man, và Tây có Tây Nhung. Họ cho họ mạng Thổ (theo thuyết Ngũ Hành), bởi ở miền Trung thổ, màu vàng theo sát với màu đất loess (có người dịch: hoàng thổ), tạo nên bởi cát phù sa do gió và bão táp tải đến. Họ sống bên bờ sông có nước màu vàng (của đất loess) - nên gọi sông đó luôn là sông vàng, tức Hoàng Hà. Một trong 3 ông vua đầu tiên của họ mang tên Hoàng Đế, với nghĩa: vua của đất vàng. Từ đó, Tần Thủy Hoàng Đế, mới ''''chôm'''' luôn để đặt cho tước hiệu của ông, mang nghĩa ông Hoàng Đế nguyên thủy của nhà Tần, tức Ch''''in. Người Tây phương phiên âm Tần, đọc Ch''''in, thành ra Chine, rồi China, để chỉ nước Tàu.

    Truyền thuyết dựng nước của Tàu thường được kể như sau.

    Trước hết là Bàn Cổ. Bàn Cổ từ trong trứng nhảy ra đầu đội trời chân đạp đất, đến 18 ngàn năm, rồi chết. Thân thể và tứ chi, lông tóc, mắt mũi của Bàn Cổ biến thành muôn vật trong vũ trụ, với trung tâm là nước...Tàu.
    Sau Bàn Cổ ít lâu đến thời Tam Hoàng và Ngũ Đế. Có nhiều giả thiết khác nhau về tên của 3 vị Hoàng với 5 vị Đế đó. Tam Hoàng thường kể đến nhất gồm có:
    Hoàng Đế, Phục Hi, và Thần Nông. Còn những vị Ngũ Đế quen thuộc nhất bao gồm: bà Nữ Oa (đội đá vá trời), vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun). Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn. Thuấn truyền ngôi cho Yũ (Vũ). Yũ thiết lập nên nhà Hạ, triều đại đầu tiên của Trung Hoa. Nhà Hạ truyền đến 18 đời thì bị mất về tay Thành Thang, dựng nên nhà Thương (Shang), cũng còn gọi Ân (Yin). Theo thứ tự từ đầu, chỉ có Nghiêu và Thuấn là có vẻ bán huyền thoại [6], tức có thể là ?~người?T có thật. Cũng có thể không phải người. Còn mấy vị Tam Hoàng, Ngũ Đế thì hoàn toàn mang đầy tính huyền thoại, dùng làm biểu tượng cho thời đại, cho nền văn minh, có vẻ đúng hơn. Nhà Hạ có thật hay không, cũng không chắc. Nhưng nhà Thương đã được chứng minh là có thật, bằng các tài liệu khai quật của ngành khảo cổ. Tuy nhiên các niên đại cho đến nay vẫn chưa có thống nhất. Bởi sử sách chỉ được viết rầm rộ sau khi nhà Hán của Liu Bang nhất thống được nước Tàu vào năm 206 TCN. Đại khái, nhà Thương bắt đầu khoảng năm 1700 TCN và kết thúc vào khoảng 1100 TCN. Tây Châu: 1100-771 TCN và Đông Châu: 770-221 TCN. Và nhà Tần ở vào giữa Đông Châu và Hán: 221-207 TCN.

    Tam Hoàng với Ngũ Đế hoàn toàn mang tính huyền thoại. Nhìn một cách khoa học và khách quan hơn, các vị này phải được xem như biểu tượng cho thời đại, cho nền văn minh. Biểu tượng cho một khối dân tộc, hoặc nền văn minh và trình độ làm lụng sinh sống của dân tộc đó, ở vào thời đó. Thí dụ, Phục Hi đặt ra bát quái, Kinh Dịch. Một chuyện hoang đường, nhưng có thể cho biết vào thời đó người Hoa bắt đầu biết sắp xếp đời sống tâm linh, và tư tưởng của họ cho ra hệ thống, cho có bài bản. Thần Nông là ông vua dạy dân chúng về nghề nông và trồng dược thảo, chữa bệnh. Thần Nông cũng là người khám phá ra trà. Biểu tượng thời đại Hoa chủng tiến lên canh nông như một phương tiện kinh tế chính. ''''Hoàng Đế'''' rất có thể được dùng để chỉ một ý niệm về quyền lực của xã hội vừa mới được hình thành. Hoàng đế cũng có thể chỉ thủ lĩnh của bộ lạc nguyên thủy tại đất màu vàng. Hay tù trưởng liên minh của một số bộ lạc. Tên đầu tiên của nước Tàu có thể là đất Hoàng. Và dân Hoa là dân ở đất màu Vàng (Hoàng).


    Cũng ở dạng biểu tượng, rất có thể bà Nữ Oa thuở ban đầu đứng đầu danh sách. Nhất là danh sách về Tam Hoàng. Bởi bà tượng trưng cho xã hội theo Mẫu hệ. Nhưng về sau, khi xã hội đã biến sang Phụ hệ rồi, người Hoa xê dịch vị trí nguyên thủy của bà xuống dưới, rồi qua lại lung tung. Khác với xã hội Nhật, Thái Dương thần nữ vẫn giữ vững vị trí tổ Mẫu dân Nhật, bất chấp thay đổi từ Mẫu hệ sang Phụ hệ. Nhiều xã hội còn theo mẫu hệ ngày nay vẫn còn dùng một vị nữ thần làm thánh tổ cho xã hội hoặc cho một ngành canh nông kinh tế nào đó. Như bà Thần Lúa của dân Mạ ở Việt Nam theo trích dẫn từ [7], như sau:

    ''''Uur Yaang Koe, bà Thần Luá xuất hiện dưới dạng hình của chim Sum Tôk vàng tươi và chim Sum Tii đỏ rực... Chúng đậu trên cây đa Jrii và trên dây leo Klac. Chúng ỉa *** xuống, *** hoá thành lúa...
    ... Rồi khi trồng hột lúa, con người gặt về trăm hột. Bà Thần Lúa sống nơi đất có mặt trời ấm áp sưởi cho hột lúa, nơi có mưa trời làm mát thân lúa, nơi có mưa lớn tràn suối tràn hồ...'''' (Dân ca Mạ) [7].

    (ii) Mâu thuẫn dễ quên trong truyền tích Hùng Vương
    Thời Thần Nông trước thời nhà Thương, nhà Châu cũng cả mấy ngàn năm. Ngay đến thời nhà Thương, Hoa chủng nguyên thủy chỉ tập trung ở một hai tỉnh ở bên sông Hoàng Hà, như Thiểm Tây, phía Nam của Hà Bắc và Sơn Tây, và phía Bắc của Hà Nam, ngày nay. Đất khác của người khác: Ngay ở thời Xuân Thu (thế kỷ 8-5 trước Công Nguyên), chỉ nội ở miền Hoa Bắc có đến trên dưới 1000 ''''nước'''' lớn nhỏ khác nhau [6]. Không hề có chuyện tuần thú đi qua nước này nước kia như ở các đời sau. Tức Đế Minh, nếu chỉ cháu 3 đời của Thần Nông, chưa thể có được một lãnh thổ lớn hơn 1 tỉnh hiện nay của nước Tàu(???). Không cách gì ông ta đi tuần thú được tới phương Nam của sông Dương Tử. Ở phương Nam đó, người ta hãy còn nói nhiều thứ tiếng Yueh (Việt) [17] khác với tiếng Tàu. Như vậy Đế Minh chỉ có thể đi ?~tuần thú?T tuốt xuống phía Nam của rặng Ngũ Lĩnh, nếu và chỉ nếu ông ta là người đồng chủng với các bộ lạc ở khu vực đó. Không thể nào ông ta một người thuộc Hoa chủng có thể xuyên rừng băng núi đi vào lãnh thổ các chủng Yueh (Việt) như vậy được. Bởi, như sẽ trình bày trong bài tới, chủng Yueh [17] rất man rợ (dưới mắt chủ quan ta đây của Hoa chủng), và ngôn ngữ hãy còn bất đồng. Chủng Yueh ngay vào thời Xuân Thu Chiến Quốc hãy còn chiếm địa bàn phía Nam sông Yương Tử và một số vùng ngay ở phiá Bắc lan tới sông Hoàng Hà. Tiêu biểu nhất, là nước Sở, tức phần lớn Hồ Bắc và Hồ Nam, và khu vực Động Đình Hồ - được thành lập vào khoảng năm 1100 TCN.

    Hai sự kiện chưá nhiều mâu thuẫn vẫn thường bị bỏ sót:

    · Thứ nhất: Tên hiệu của tổ tiên gần và ngay cả của Hùng Vương đều viết theo chữ Hán ròng.

    Đặc biệt, Kinh Dương Vương hoàn toàn một thứ tên hiệu thuần Hán, rất có khả năng mang nghĩa vua của đất Kinh và Dương. Hai châu Kinh và Dương chính là hai châu chính của nước Sở (sẽ đi vào chi tiết trong bài 2). Các vương hiệu của Hùng Vương, theo ?~truyền thuyết?T cũng hoàn toàn viết bằng chữ Hán: Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương,? trước khi người Hán đến xứ đó trên dưới 2800 năm.

    Bởi ?~Hùng Vương?T là một tên hiệu chữ Hán, chỉ có một trong hai chuyện đã xảy ra:
  2. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    MỘT: Hùng Vương là người gốc Tàu, hay lai ?~Tàu?T, không biết tiếng của dân bản địa. Do Lạc Long Quân dẫn đến áp đặt làm ?~vua?T cai trị dân địa phương. Như vậy Hùng Vương chỉ có thể một quan thái thú đầu tiên chứ không thể nào là quốc tổ được. Không có huyết thống và DNA giống như loại của dân địa phương(???). Truyền thuyết theo như ?~Việt Nam Sử Lược?T, khác với kiểu Mường, như sẽ trình bày phía dưới, đặc biệt nhấn mạnh 100 con của Âu (Cơ) và Lạc (Long Quân) toàn là con trai. Như vậy không có cách gì Hùng Vương đã trở thành thủy tổ của dòng giống Lạc Hồng hết. Chỉ có thể vua Hùng các đời sau, nếu vua thứ 1 và các vua kế tiếp đều lấy dân bản địa làm vợ [8].

    Về việc ?~gốc Tàu hay lai Tàu?T, rồi đây chúng ta sẽ thấy rõ, Hùng Vương không có mang một giọt máu Tàu nào hết. Chỉ thuần chủng Yueh trong khối ?~Bai Yue?T (tức Bách Việt). Đặc biệt, khối chủng Bách Việt có hai chi lớn: Chi Âu Việt (tức Thái) và Lạc Việt (tức Việt Nam).

    HAI: Nếu Hùng Vương là người có giòng máu Lạc như họ của cha (Lạc Long Quân), và có DNA giống y như dân bản địa, Hùng Vương không bao giờ xưng hiệu là Hùng Vương cả. Bởi như vậy dân trong xứ sẽ không hiểu đó là gì. Nhất là nếu kể năm 2879 TCN năm bắt đầu. Ngay lúc đó ở bên Tàu chế độ phong kiến hãy chưa hình thành. Hoàn toàn không có chuyện ?~vương tước?T cùng các nước chư hầu. Chính vào lúc đó ở bên Tàu, lãnh thổ chỉ chừng 1-2 tỉnh bây giờ, người ta chưa hề biết đến những chức tước như ?~vương hầu bá tử nam?T.
    · Thứ hai: Truyện tích theo bản Việt, dựa theo và xuất xứ từ bản Mường, chú ý đến đám theo Lạc Long Quân. Còn truyện Mường, chính là bản gốc, chỉ chú ý đến bà Âu Cơ và đám con theo bà lên miền rừng núi.
    Cả hai bản đều nói lên sự chia tay giữa chồng Lạc Long Quân và vợ Âu Cơ, rất giống nhiều vụ ly dị thời thế kỷ 21. Mỗi bên có quyền giữ phân nửa con. Không bản nào nói rõ những gì xảy ra cho đám kia. Mẹ ai và Cha ai nấy giữ, nấy thờ.

    Đây chính là điểm sơ suất trầm trọng nhất của giới khảo cứu Việt, kể cả Ngô Sĩ Liên, người đầu tiên đã ?~cóp?T truyền tích người Mường vào sử Việt, mà không để ý đến sự chia tay đó. Chỉ trừ Bình Nguyên Lộc [4], không một quyển sách nào từ xưa đến nay có trích dẫn bản Mường về truyện cổ Âu Cơ, đầu tiên đã được dẫn trong quyển sách nghiên cứu về xã hội và phong tục Mường của Jeanne Cuisinier [9] xuất bản thời tiền chiến. Bản Mường cũng đã đề cập đến vụ chia tay đầy nước mắt đó.

    Sơ suất thứ nhất về danh xưng Hùng Vương, đã từng được bàn cãi từ thời tiền chiến [4]. Nhất là khi có xu hướng cho rằng lãnh tụ của xứ Văn lang đã được gọi Lạc Vương. Danh xưng ?~Lạc Vương?T này cũng lại một danh xưng chỉ xuất hiện sau khi người Hán đến chiếm đóng và đô hộ Giao Chỉ quận. Cũng là một thứ từ Hán ròng, được đặt bởi người Tàu. Bắt nguồn từ những khám phá đầu tiên của người Hán đối với tổ chức xã hội Việt ở thời thượng cổ. Cũng có nghĩa vào lúc phát hiện được hình thái tổ chức xã hội của Giao Chỉ thời chưa bị xâm chiếm, chưa chắc đã chính xác, người Tàu không hề gọi đó là nước Văn Lang với lãnh tụ là Hùng Vương. Thật vậy, theo trích dẫn [4], tên Văn Lang và Hùng Vương hoàn toàn vắng bóng trong tất cả thư tịch của Tàu thời xưa. Danh xưng ?~Lạc Vương?T khởi xuất trước tiên từ một đoạn ngắn thường được các sách trích dẫn, từ các bộ sách cổ như Thủy Kinh Chú, Quảng Châu Ký, Giao Châu Ngoại Vực Ký (xem [4] hoặc [10]): ?~Khi xưa, vào thời mà xứ Giao Chỉ chưa chia thành quận huyện, đất đó có ruộng Lạc, nước lên xuống ở ruộng tùy thủy triều. Dân làm ruộng đó mà ăn. Vì vậy gọi đó là dân Lạc. Lập ra Lạc Vương, Lạc hầu, Lạc tướng để coi các quận huyện. Có nhiều Lạc tướng mang ấn đồng giải lụa xanh?T.

    Nhiều tác giả từ đó thêu dệt thêm: Lạc hầu chỉ quan văn, và Lạc tướng chỉ quan võ. Chử văn Tần [11] có lẽ cũng cảm thấy có cái gì lấn cấn, nên cho rằng các tác giả thời sau đã nhìn tổ chức xã hội cổ xưa với quan điểm của chế độ phong kiến: phân biệt quan văn và quan võ. Tức dùng các thứ ngôn ngữ hoặc phân loại của đời sau gán ghép cho đời trước [13]. Theo thiển ý và xin được nhấn mạnh, điểm lổng chổng và to tát nhất chính ở danh xưng ?~Hùng Vương?T, hoặc ngay cả ?~Lạc Vương?T, đều là những từ Hán ròng. Không có chất gì nôm-na theo kiểu tiếng bản địa trong đó hết. Nó được đặt nên có thể vài trăm năm sau khi người Hán đã áp đặt nền đô hộ lên dân xứ đó.

    Sơ suất thứ hai về một kết cục tràn đầy nước mắt giữa nàng Âu và chàng Lạc, bị bỏ sót hằng thế kỷ, có lẽ gây ra bởi thiếu thốn hiểu biết về văn hoá người Mường, và không để ý đến truyện cổ Ngu Cơ được dẫn trong quyển sách về Mường của Jeanne Cuisinier [9]. Gần đây sơ suất này đã được Cung Đình Thanh, trong một quyển biên khảo mới nhất [12] thiên nặng về chủ thuyết cho rằng văn minh Á Châu xuất phát từ miệt dưới chứ không phải ở Hoa Bắc, để ý đến và ?~hiệu đính?T với trích dẫn các tài liệu ?~ngoại vi?T và không có nơi truyền tích nguyên trinh của đồng bào Mường. Theo hiệu đính đó, hai nhóm con theo cha và theo mẹ, trước khi chia tay đã nhất trí ?~bầu?T người con trưởng lên ngôi vua, lấy hiệu Hùng Vương, và cai trị cả hai miền rừng núi và đồng bằng ven biển.

    Chử văn Tần [11] và Cung Đình Thanh [12] đã để ý đến cả hai điểm lổng chổng nhất của truyền thuyết. Nhưng rất tiếc, lại lướt nhanh qua. Có lẽ do ở một tiền đề cứng nhắc: thuyết Âu Cơ có đã lâu đời, và Âu Cơ là một người có thật.

    Sau đây chúng ta hãy xem qua truyền thuyết nguyên trinh của người Mường mà chính Ngô Sĩ Liên đã chép từ quyển ?~Lĩnh Nam Chích Quái?T. Quyển này lại ghi chép và biến đổi, truyện cổ tích người Mường từng được truyền miệng qua nhiều năm trong chốn dân gian.

    2. MỘT TRUYỆN CỔ HAI TRUYỀN THUYẾT

    Theo quyển sách đồ sộ nhất về người Mường của Jeanne Cuisinier [9], người Mường có rất nhiều truyện cổ tích và truyền thuyết. Hai truyền tích lớn người Việt đã vay mượn thẳng từ nguồn Mường chính là chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh và bà Âu Cơ, mà người Mường phát âm theo kiểu Quảng Đông: Ngu Kơ.

    Truyền tích bà Ngu Kơ của Mường được kể như sau [9]:

    Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa xứ Mường tên là Ngu Kơ, mang tiền kiếp một con nai có đốm ngôi sao (cerf étoilé), cưới một ông hoàng tử con byua Yịt tên Lương Wong, gốc vốn loài cá. Ít lâu sau, Ngu Kơ sinh được 50 con gái và 50 con trai. Nhưng rồi cơm không lành canh chẳng ngọt. Từ ở chỗ con cái không đủ đồ ăn thức uống, Ngu Cơ và Lương Wong ưa cãi vã với nhau. Cuối cùng, Ngu Kơ và Lương Wong đành phải chia tay, đôi ngả đôi ta. Ngu Kơ dẫn 50 người con lên miền rừng núi, và Lương Wong dẫn 50 người con kia xuôi về miền sông biển. Ngu Kơ và đám con tạo nên những dòng vua chúa mặc áo màu đen, và Lương Wong, các gia đình vua mặc áo màu vàng.

    Dân Mường thờ kính bà Ngu Kơ như mẫu tổ và thường làm cờ có hình con nai đốm sao, như một vật tổ để tưởng nhớ đến bà.

    So sánh truyền thuyết Ngu Kơ của Mường với Âu Cơ của Việt, ta có thể thấy:

    Cả hai truyền thuyết đều kết cục bằng một sự chia tay. Một đám 50 người con theo papa Lạc xuôi về miền sông biển đồng bằng. Năm mươi người con kia đi theo Mẹ Ngu Cơ (hay Âu Cơ) đi lên miền rừng núi. Nhưng cần để ý ngay, bản Việt chỉ ròng con trai, không có con gái. Bản Mường có 50 trai, 50 gái.

    (i) Ngu Kơ và Âu Cơ
    ?~Ngu Kơ?T là lối phát âm của người Mường, và cũng của tiếng Quảng Đông, cho ?~Âu Cơ?T theo tiếng Việt [14]. Vòng đai ở biên giới Hoa-Việt kéo từ Vân Nam qua Quí Châu, đến Quảng Đông, vào thuở cổ thời chính là địa bàn của chủng Việt, chi Thái. Hai nước oai hùng nhất ở vùng này chính là Tây Âu và Nam Chiếu. Hoàn toàn do người Thái làm chủ.

    Qua một vài bài khác, chúng ta sẽ thấy người Mường chính là hậu duệ của người Tây Âu. Và dân Tây Âu rất có khả năng được bổ sung trong vòng thiên niên kỷ trước Công Nguyên bởi dân Thục và dân Sở (xem bản đồ). Cả Thục (tức Tứ Xuyên bây giờ), lẫn Sở (Hồ Bắc & Hồ Nam) khi xưa do chủng Yueh (Việt) làm chủ. Trong đó có chi Âu (= Thái) và chi Lạc (= Việt), và một số các nhóm người dân tộc khác. Đặc biệt dân Âu làm chủ lực, tức thành phần nòng cốt đa số. Nhưng vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, cả Thục lẫn Sở đều bị nước Tần, thuộc chủng Hoa (Tàu), thôn tính. Khi mất nước dân Thục và Sở đều phải chạy riết về phía Nam, rồi bổ sung vào dân bản địa có sẵn tại Nam Chiếu và Tây Âu (xem [18] & [19] cùng những tra cứu từ internet [20]).

    Nam Chiếu, trước đó mang tên Điền Việt, rồi Đại Lý (với ngón Nhất Dương Chỉ trong truyện Kim Dung), và hiện nay chính là tỉnh Vân Nam. Nam Chiếu đã từng chống trả bước Nam tiến của người Hán, mãi cho đến khoảng thế kỷ 13, thì bị quân Mông Cổ (nhà Nguyên) thôn tính. Nhà Nguyên sau đó đưa di dân từ miệt Bắc xuống định cư ở Nam Chiếu (thí dụ: xem [6]). Chính ở vào thời điểm này, người Nam Chiếu và các sắc tộc ở miền biên giới, dưới sức ép của việc tìm lãnh thổ riêng để sinh sống, đã tràn sang An Nam và khu vực Lào và Thái Lan ngày nay, tạo dựng nên nước Xiêm và nước Lào. Nhiều khối người dân tộc ở Bắc phần hiện nay cũng từ phía Bắc tràn qua vào thời đó. Đọc lịch sử nước Thái Lan, ngay cả trên internet, chúng ta sẽ thấy người Thái Lan nhìn nhận dân họ gốc ở miền Hoa Nam, đặc biệt Nam Chiếu. Và vương quốc Thái đầu tiên mang tên Sukhothai được thành lập vào năm 1238 sau Công Nguyên [21].

    Tây Âu cũng giống như nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến quốc, đã là một vùng đất của chủng Thái, có một quá khứ hết sức oai hùng. Đó là cuộc chiến chống Tần bằng lối du kích kéo dài suốt 3 năm [16]. Đây là một chủng Việt rất kiên cường, mà sử Việt rất thường hay nhầm lẫn là dân Việt Nam, mãi cho đến thời hiện tại (thí dụ [11]).

    Nói chung, nếu nhìn vào bản đồ ta có thể thấy địa bàn chủng Thái (tức Âu) nằm ở miền Trung nước Tàu, trong khoảng Hồ Bắc (phía Bắc sông Dương Tử và Hồ Động Đình), và kéo xuống đến biên giới Hoa-Việt ngày nay. Chủng Việt (tức Lạc) lại chiếm dãi đất ven biển ở phía Đông nước Tàu. Chạy từ khu vực tỉnh Sơn Đông xuống đến tận Phúc Kiến (tức nước Mân Việt hồi xưa).

    Nổi tiếng nhất trong chi Âu là các nước: Sở, Tây Âu và Nam Chiếu. Sở ban đầu là một nước bao gồm toàn các thứ rợ (đặc biệt chủng Yueh). Nhưng chỉ vài trăm năm sau, trở nên Hoa hoá, hùng cường và thật ? văn minh. Sở Trang Vương chính là một trong 5 vị Bá hạng nhất vào cuối thời Xuân Thu.

    Lừng danh nhất trong chi Lạc chính là nước Ngô, nước Việt (Câu Tiễn) và nhóm du mục nay đây mai đó, gọi Bách Bộc hay Bộc Việt, ngày xưa xuất phát từ miền Sơn Đông, địa bàn của rợ Đông Yi hay Lai Yi (xem [4] và [22]). Nước Việt dưới thời Câu Tiễn cũng là một nước oai hùng nằm ở địa bàn Chiết Giang - Thượng Hải ngày nay. Việt thôn tính Ngô dưới thời Ngô Phù Sai. Nhưng về sau, vào năm 333 TCN, bị Sở hợp sức với Tề tiêu diệt.

    Trở lại với Ngu Kơ và Âu Cơ. Người Lưỡng Quảng và người Mường có khuynh hướng đổi âm qua lại giữa /Âu/ và /Ngu/. Âu Cơ, người Mường biết là Ngu Kơ, theo tiếng của họ. ?~Âu Cơ?T cũng là một tên của người phái nữ gốc Sở. ''Âu Cơ'' đọc theo quan thoại là /Yu ji/ hay có khi /Ou ji/. Và theo Quảng Đông chính là /Ngu Kơ/. Độc giả các truyện Tàu chắc còn nhớ Tây Sở Bá Vương Hạng Yũ (Xiang Yu) vào đêm cuối cùng khi đại bại bởi Lưu Bang, đã được một người ái cơ họ Ngu (có phát âm như /Yu/ theo kiểu quan thoại) múa kiếm để giải sầu. Người Hoa có thể gọi người ái cơ đó của Hạng Yũ là ''Ngu Cơ'' Tz 姬 [15], nếu đọc theo lối phát âm Quảng Đông (và...Mường). Y hệt như ''Ngu Cơ'' dùng để gọi bà ''Âu Cơ'' - 姬 .

    Tóm lại, /Ngu Cơ/ đọc theo quan thoại là /Yu ji/. / Âu Cơ/ cũng vậy. Có thể là /Yu ji/ và cũng có thể /Ou ji/. Ngu Cơ chính là Âu Cơ. Người Việt gọi Âu Cơ, Quảng Đông và Mường phát âm như Ngu Cơ.

    Nhưng, xin để ý:

    - Âu Cơ theo bản Việt là người gốc Động Đình Hồ, cũng thuộc Sở (chủng Thái).
    - Ngu Cơ theo bản Mường, là công chúa Mường (chủng Mường, cũng là chủng Thái)

    (ii) Bước nhảy vọt về thời gian và không gian

    Có một điểm rất quan trọng trong truyền thuyết, theo bản Việt, đã cần đến một số ý niệm của văn minh Tây Phương, mới có thể hiểu rõ được. Các ý niệm này thật ra chỉ được phổ biến rộng rãi vào thế kỷ 20.

    Đó là các ý niệm ?~quantum?T và ?~fast forward?T.

    ?~Quantum?T là một ý niệm của khoa vật lý học, do Max Planck đề ra vào đầu thế kỷ thứ 20. Đại khái, Max Planck cho biết có một số đặc tính vật lý chỉ có thể giải thích được bằng số lượng riêng theo từng đơn vị trọn. Thí dụ, so sánh giữa các bậc thang, xây bằng bê tông để leo lên núi, và cách lên núi bằng con đường dốc lài lài. Khi lên núi bằng cách bước lên những bậc thềm xi măng, mỗi một mức sẽ gia tăng một độ cao nhất định. Không có cái vụ nửa mức thang, một phần sáu bước thang, v.v. Chỉ có: 1, 2, 3, ? N, bước thang mà thôi. Riêng biệt từng đơn vị trọn. Đối với người đi lên núi theo đường dốc lài lài, có khi bước này dài hơn bước kia, ngắn hơn bước nọ. Sự gia tăng bất chừng, khi lớn khi bé. Gia tăng độ cao biến chuyển từ 0 cho đến bước dài nhất người có thể bước được. Bước dài nhất lại khác nhau tùy người. Người chân dài bước dài hơn, người chân ngắn bước ngắn hơn. Tức không biết chắc chắn được mỗi bước đi lên núi sẽ thu ngắn quãng đường đến đâu. Nhưng lên núi theo bậc thang lại xác định được theo từng bước một. Đó là ?~quantum?T. Mỗi một quantum bằng với một bậc thang.

    ?~Fast forward?T là một ý niệm dễ hơn. Bởi ra đời sau khi các máy cassette nghe nhạc, hoặc đầu máy video. ?~Fast forward?T chính là bấm vào nút cho băng quay nhanh về trước. Để nghe các bản nhạc phiá sau của băng nhạc, hay xem những đoạn sau của phim. Ngày nay, ý niệm này đã đi vào ngôn ngữ Tây phương. Thí dụ đọc một bài viết trên báo thuật lại chuyên xưa, tự nhiên ta thấy người viết ghi: ?~Fast forward?T. Rồi tiếp theo ngay bằng những gì xảy ra 10-20 năm sau.

    Cả hai ý niệm ?~Quantum jump?T, tức nhảy lùi, hay nhảy vọt tới bằng những lượng xác định và đo được, và ?~Fast forward?T tức quay nhanh thời gian, đều hiện rất rõ trong truyền thuyết ?~con rồng cháu tiên?T.
  3. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...
    QUANTUM JUMP:

    · Biên giới xứ Xích Quỷ của chủng Yueh ở thời Kinh Dương Vương: rất rộng. Giáp nước Thục, Động Đình Hồ, biển Nam Hải, nước Chiêm.
    · Biên giới nước Văn Lang thời Hùng Vương: tự nhiên bị thu lại rất nhỏ - chỉ trong vòng Bắc Việt mà thôi. Nhỏ hẹp hơn bằng rất nhiều ?~quanta?T - rất đột xuất. Ai cũng có thể dễ dàng suy đoán ra lãnh thổ nhỏ hẹp này, nếu căn cứ vào đoạn sử về việc Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc và sát nhập vào Nam Việt sẵn có, bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng. Nước Âu Lạc trước đó lại chính là xứ của người Lạc đã bị Thục Phán với dân quân từ Tây Âu đến xâm chiếm [19].

    Việc biên cương của dân ?~Việt?T tự nhiên nhảy xuống một cái rụp, đã cho thấy:
    - Vào đầu truyện, ở thời Đế Minh cháu 3 đời của Thần Nông, không có những địa danh như Thục, Động Đình Hồ, biển Nam Hải, nước Chiêm,?, hoặc nhân danh như ?~Kinh Dương Vương?T, Lạc Long quân,? Toàn những tên dùng tiếng Hoa ròng. Bởi vào thời huyền sử, ngót 3 ngàn năm trước Công Nguyên, cái chủng Hoa hãy còn là những bộ lạc nhỏ ở bên sông Hoàng Hà, chưa thể có một kiến thức hoặc ý niệm gì hết về các địa danh nói trên, tại các vùng đất thuộc chủng khác.
    - Nếu nhìn dưới một góc độ khác, chủng của Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, kéo luôn đến đám con của bà Âu và ông Lạc,? đều không phải chủng Tàu. Họ phải thuộc một số chủng khác có địa bàn kéo suốt phía Nam sông Yương Tử, nên mới có thể đi tuần thú hoặc thay đổi biên cương lãnh thổ của từng nhóm con cháu như vậy.
    - Việc suy giảm lãnh thổ hay địa bàn sinh sống của dân Bách Việt hoặc hai chi chủng Âu và Lạc, xuống rất nhiều ?~quanta?T, chỉ có thể giải thích bằng một cuộc bỏ chạy hay di tản của đám dân đó. Hoặc vì ?~mất nước?T, hoặc chạy đến một địa bàn mới nhỏ hẹp hơn.

    FAST FORWARD

    Fast forward mới thật ly kỳ, và đã trốn tránh được bao nhiêu quan sát dưới kính hiển vi, kéo dài hằng thế kỷ.

    · Đế Minh: cháu 3 đời Thần Nông => một ?~nhân vật?T huyền sử. Xuất hiện ít lắm 2800 năm TCN. Vào thời này: nước Tàu chỉ bằng 1-2 tỉnh bây giờ ở khu vực bên sông Hoàng Hà, tỉnh Thiểm Tây & Sơn Tây. Hoa chủng chưa làm chủ đến vùng đất Kinh (tức nước Sở), ở phía Nam. Rất có thể tổ chức hãy còn trong dạng bộ lạc hay liên minh bộ lạc.
    · Đế Minh đi tuần thú phương Nam, đến Ngũ Lĩnh, gặp nàng tiên. Rồi lấy nàng tiên đó sinh ra hai con: Đế Nghi + Lộc Tục. Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, làm vua nước Xích Quỷ, vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN).
    · Kinh Dương Vương ?~thành hôn?T với con gái vua xứ Động Đình Hồ => sinh ra Sùng Lãm lấy hiệu Lạc Long Quân.

    Rõ ràng tác giả chính của ?~truyền thuyết?T đã bấm nút Fast forward (quay băng nhanh) ngay từ lúc cho ?~Đế Minh?T đi tuần thú phương Nam. Với những địa danh và nhân danh chỉ xuất hiện vào thời Xuân Thu, trên 2000 năm sau khi Đế Minh vừa mới chào đời.

    Nói một cách nôm na:
    · Vào thời Đế Minh ra đời, không ai biết Động Đình Hồ hoặc Ngũ Lĩnh ở đâu. Chưa có nước Sở, chưa có đất Kinh và đất Dương. Không ai có khái niệm thế nào là ?~Vương?T. Chỉ có thể có Hoàng Đế, một trong Tam Hoàng.
    · Đến lúc Đế Minh bắt được chuyến bay của China Airlines, chuyến 2879TCN, người ta thấy xuất hiện những nơi danh lam thắng cảnh, những địa danh nhân danh, ít lắm 2000 năm sau khi Đế Minh ra đời, mới có.
    · Fast forward một lần nữa. Đến lúc Âu Cơ chia tay với Lạc Long Quân. Lạc đi về miền đồng bằng gần biển, chọn người con trưởng lên ngôi vua, xưng là Hùng Vương. Để ý họ Hùng là một họ của vua nước Sở. Trước sau có đến hai mươi mấy đời mới dứt. Toàn họ Hùng, tiếng Sở gọi là Mị (xin xem bài số 2). Tính trung bình 30 năm một thế hệ, ta thử làm một bài toán:
    - từ Đế Minh đến Lộc Tục tức Kinh Dương Vương: 30 năm
    - từ Kinh Dương Vương đến Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân: 30 năm
    - từ Lạc Long Quân đến 100 đưá con với Âu Cơ: 30 năm
    - từ lúc sinh ra 100 con đến khi chúng trưởng thành: 30 năm

    Như vậy từ khi Kinh Dương Vương lên làm vua nước Xích Quỷ đến lúc Hùng Vương số 1 xưng vua ở xứ ?~Văn Lang?T có thể kéo dài khoảng 90-100 năm.

    Năm Kinh Dương Vương lên ngôi vua: 2879 TCN
    Năm Hùng Vương bắt đầu cai trị xứ ở phương Nam: 2879 ?" 100 = 2779 TCN.

    Vào năm 2779 TCN, ở toàn cõi lục địa bây giờ gọi Trung Quốc, trừ triều đại nhà Hạ thuộc huyền sử, những chỗ khác chưa biết đến chế độ thế tập. Đặc biệt đất Kinh Cức tức Kinh man chưa được nhà Châu biết đến. Và cũng chưa có nước Sở với những ông vua mang họ Mị tức Hùng.

    Việc khai sinh Hùng Vương, trước sau chỉ 6 đời sau Thần Nông chính là kết quả của việc bấm nút Fast Forward của tác giả. Quay nhanh từ khoảng năm 2779 TCN đến khoảng 1122 TCN, khi nước Sở thành lập. Bởi chỉ từ thuở đó (1122 TCN) người dân Sở mới bắt đầu biết đến ý niệm: vua mang họ Hùng và tước Vương: Hùng Vương [23].

    Thật ra truyền tích ngay từ lúc Đế Minh bắt đầu đi tuần thú phương Nam đã bị Fast Forward, quay nhanh, đến tận thời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu (770-221 TCN).
    Theo thiển ý một hệ luận hết sức quan trọng đã bắt nguồn từ chỗ không để ý đến vấn đề Quantum Jump và Fast Forward trong truyền tích Âu Cơ. Đó là các sử gia từ đời này sang đời nọ đều quên đối chiếu cổ sử với biến động lịch sử chung quanh. Bởi ở chỗ truyền tích đã bị FAST FORWARD không có báo động, người khảo cứu khi chăm chú vào những huyền thoại di cư xảy ra vào thời Đế Minh, Lạc Long Quân, rồi Hùng Wang thường lầm tưởng mấy ông tổ này đi đến xứ của người nước Nam trong khoảng 2880-2780 TCN mà thôi.

    Họ hoàn toàn không biết câu chuyện đã được Fast Forward đến đời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu. Tức thời có chiến tranh loạn lạc gây ra bao nỗi kinh hoàng, chết chóc. Cũng là thời có di cư di tản hằng khối. Toàn là Nam tiến bằng đường bộ lẫn đường thủy.

    Chỉ trừ một vài nhà khảo cứu thời tiền chiến như Aurousseau, Madrolle,?, còn như tất cả các sử gia hay những nhà nghiên cứu, viết lách, đều dễ bị rơi vào cái hố đã được đào sẵn. Ở chỗ truyền tích có Fast Forward mà không có báo động.

    Aurousseau cho rằng chính đám thần dân nước Việt của Câu Tiễn, sau khi bị Sở thôn tính (333 TCN), đã di tản bằng đường bộ về hướng nước Nam. Rồi hội nhập với dân bản địa dựng nên nước Nam [4] [10].

    Madrolle bài bác thuyết của Aurousseau và cho rằng chỉ có dân Mân Việt (tức Triều Châu & Phúc Kiến ngày nay) mới là thành phần chủ lực. U Việt xa xôi quá [4] [10].

    Một lí do khác đã gây nên sơ suất đáng tiếc này, nay đã trở thành một thông lệ lớn, bắt nguồn từ chỗ nhiều vị bắt đầu tra cứu từ ở cổ sử Tàu. Nhưng vô tình, không để ý sử Tàu, từ cổ chí kim, luôn luôn bị sức ép chính trị của một quốc gia lớn có quá nhiều chủng tộc khác biệt. Và được viết trên quan điểm ''trung ương'' của một nước Tàu nhất thống của chủng Hán. Tất nhiên sẽ không chú ý đến mọi sắc tộc đã bị đàn áp hay thua trận, mất nước. Hoặc đã được đồng hoá. Và sẽ ít khi đề cập đến các vụ di tản khổng lồ của dân các nước đã bị...nuốt, ngay từ thời Thượng cổ cho đến loạn lạc thời sau nhà Đường (Ngũ Đại, v.v.).

    Thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN), tiếp theo là nhà Tần rồi Hán Sở tranh hùng, v.v. là một thời khủng khiếp nhất, kéo dài khoảng gần 800 năm. Chiến tranh liên miên. Ở nhiều trận chiến, khi bị đại bại quân sĩ bị chém đầu như rạ. Ngoài ra còn nạn đói kém vì thiên tai mất mùa, và do ảnh hưởng chiến tranh. Các chủng tộc hồi đó khác biệt về ngôn ngữ hãy còn ít, nhất là có nhiều chi chủng rất gần nhau trong đám Bách Yiệt. Lại đặc biệt không có đòi hỏi hộ chiếu hay thị thực khi đi qua vùng này hay vùng khác. Như vậy chuyện di tản hằng khối người phải xem như một chuyện hiển nhiên quan trọng nhất trong việc khảo cứu về nguồn gốc dân tộc. Thế nhưng đây cũng là chuyện hay bị bỏ sót.
    Bình Nguyên Lộc [4] quan sát rất tỉ mỉ về cổ sử Tàu và bảo vệ luận thuyết của ông, cho rằng Mã Lai I đến Bắc Việt cách đây 5000 năm, rồi được bổ xung bằng Mã Lai II, cách đây 2500 năm. Tác giả Mã Lai duyệt hết sách vở, Đông Tây đủ thứ, nhưng đã không dành đến 1 dòng để cho biết thời điểm Mã Lai II, chính là cực điểm thời Xuân Thu ở bên Tàu, cách đây khoảng 2500 năm.
    Chử văn Tần [11] thu thập các bài viết trong nhiều năm của ông, và cho xuất bản thành quyển sách dày về ''Văn minh Đông Sơn''. Trong đó ông có đưa một nhận xét rằng kiểu dáng của nhiều đồ khai quật cho thấy có sự xuất hiện của một nhóm người mới vào khoảng thế kỷ thứ 6-7 trước Công Nguyên. Nhưng hoàn toàn không đề cập đến những biến động chiến tranh loạn lạc ở bên Tàu vào thời đó (thế kỷ 8-2 trước Công Nguyên).

    Cung Đình Thanh [12] tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam, bằng những tài liệu khoa học mới, cho biết rất có thể văn minh Hoa Hạ được xuất phát từ khu Hoà Bình hoặc khu Sundaland, thuộc vùng Mã Lai - Inđô, nay đã chìm dưới biển. Nhiều tài liệu dẫn cho biết những cuộc di dân rầm rộ cách đây trên 5000 năm, được đối chiếu với mực nước biển lên xuống. Ngược lại ở phần nhận xét về di dân, tác giả chỉ qui cho loạn lạc ở đời nhà Tần là nguyên nhân của các cuộc di dân Nam tiến. Khá trễ, và lại bỏ quên thời khủng bố của Đông Chu liệt quốc.
    Nếu đối chiếu với lịch sử lập quốc Thái Lan chẳng hạn, ngay bằng cách truy cập trên mạng, ta sẽ thấy vấn đề có vẻ giản đơn hơn. Sử nước Thái cho biết rõ họ có gốc gác miền Hoa Nam nước Tàu. Đặc biệt nước Nam Chiếu, tức Đại Lý (của Đoàn Dự trong truyện Kim Dung), hay Điền Việt thời xa xưa. Chủng Thái có được quốc gia đàng hoàng rất trễ, vào thế kỷ 13. Sau khi quân Mông Cổ đánh chiếm và đưa di dân từ phía Bắc xuống để trị bọn này. Trước khi nước Thái Lan và Lào được thành lập - chủng Thái cũng bơ vơ như nhiều sắc tộc khác (như Hmong), ở miền Hoa Nam, và thường hay quấy phá nước An-Nam và miền cực Nam nước Tàu. Đặc biệt sử Thái ghi rõ: vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên, có một đám di cư thuộc chủng Thái tràn vào đất Thái Lan hiện nay, xuất phát từ miền Hoa Nam. Thời đó đúng vào lúc cực điểm của chiến tranh Xuân Thu. Chiến tranh giữa nhà Châu hay Tần với nước Ba và nước Thục, hay đám rợ Tây Nhung.
  4. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...

    3. THỬ GIẢI MÃ MỘT TRUYỀN THUYẾT

    Đọc đi đọc lại hai truyền thuyết, một Mường một Việt, ta có thể chú ý đến những điểm nổi bật như sau:

    (i) Bản Mường của chính người Mường ?~sáng tác?T

    Bản Mường có những nét đặc trưng cho thấy do chính người Mường ?~sáng tác?T.

    Trước hết, vấn đề Mẫu hệ. Người Mường thờ phượng và xem Âu Cơ như tổ mẫu của họ. Tức cho đến lúc truyền thuyết được tạo dựng xã hội Mường hãy còn một xã hội theo mẫu hệ. Âu Cơ và 50 người con theo bà tạo nên những gia đình vọng tộc lãnh đạo các xã hội Mường. Điểm này cho thấy họ vẫn nhìn nhận xã hội Mường vào thời tạo dựng truyền thuyết bao gồm nhiều bộ lạc tuy cùng chung chủng tộc nhưng có khác nhau chút ít. Ăn khớp với mô tả của Cuisinier về xã hội Mường ở từng khu vực khác nhau.
    Để ý, giới lãnh đạo tộc Mường, theo Âu Cơ, mặc áo màu đen, giới lãnh đạo Việt, theo Lạc Long Quân, mặc áo màu vàng. Không ăn khớp với thuyết Ngũ Hành của người Tàu. Nếu cho đám Lạc mang mạng Thủy (loài cá, loài rồng), họ phải có áo màu đen, chứ không phải vàng. Đám Lạc đi về miền biển hướng Đông, cũng có thể mang mạng Mộc, màu xanh, chỉ hướng Đông. Nhưng truyền thuyết Mường lại cho họ mặc áo màu vàng. Tương tự đám con theo Âu Cơ lên rừng núi, nói theo người Hoa, sẽ mang hành Mộc (rừng có nhiều cây) hoặc hành Thổ (núi toàn đất lô nhô), nằm ở phía trong. Mộc có màu xanh, Thổ màu vàng. Nhưng truyền thuyết Mường cho họ màu Đen. Tức cả hai màu áo cho biết người Mường không bị tiêm nhiễm bởi cái thuyết Ngũ Hành, rất phổ thông với văn hoá Hoa từ xưa đến nay. Truyền thuyết của Mường chắc chắn không có bàn tay người Hoa sáng tác hay hiệu đính.
    Quan trọng hơn nữa, do ở điểm ?~gia đình các vua chúa mặc áo đen?T, truyền tích đã cho biết xã hội Mường từ thuở đó vẫn không tiến lên xã hội vua chúa phong kiến, hình thái quốc gia nhà nước như xã hội Lạc Việt, theo như bản truyền thuyết của Việt chủng. Bởi ?~gia đình vua chúa?T mang nghĩa những người con theo Âu Cơ mỗi người làm thủ lĩnh một bộ lạc riêng nhưng liên hệ với nhau.
    Quan trọng hơn hết, Âu Cơ mang trong người huyết thống và DNA của người Mường 100%. Người Mường thuộc chi chủng Thái xuất phát từ miền cực Nam nước Tàu, và có lẽ tới xứ dân Lạc rất sớm, khoảng vài trăm năm trước Công Nguyên. Tên Âu Cơ y hệt như tên người ái cơ gốc dân Sở của Hạng Yũ, và cũng y hệt như tên cái xứ có chủng Thái làm thành phần chủ lực: Tây Âu [24].

    (ii) Lạc Long Quân và giòng máu Việt

    Truyền thuyết Việt khi dựa vào truyền thuyết Mường, đã đổi Lương Wong sang họ Lạc nhằm chỉ chủng tộc ông Long Quân này chính là chủng Việt (Việt Nam).

    Bởi truyền thuyết Việt có đề cập đến Kinh Dương Vương, truyền thuyết đã không để chỗ hở khi kèm một người thuộc chủng Việt vào nước Sở. Thật vậy khi nước Sở mới được thành lập, nước này chỉ bao gồm phần chính là châu Kinh, tức đất Kinh Cức hay Kinh Man hoặc Kinh Việt. Trong một bài tới, chúng ta sẽ thấy thành phần chủ lực ở đất Kinh Việt chính là người Yueh (Việt) thuộc chủng Thái. Vài trăm năm sau, nhất là dưới thời Sở Trang Vương, nước Sở trở nên hùng cường, văn minh hơn. Nhưng đồng thời cũng bị đồng hoá với Hoa chủng. Khi đó, Sở bành trướng thêm lãnh thổ. Lan xuống vùng Hồ Nam chung quanh Động Đình Hồ. Rồi tiến chiếm đất đai ở hướng Đông, của vùng đất nước Ngô và Việt xưa. Đặt tên miền đất phía Đông đó là châu Dương hay Dương Việt. Khác với châu Kinh, rất có khả năng, châu Dương chứa phần lớn người dân thuộc chủng Lạc, chứ không phải chủng Âu.

    Như vậy nếu hiểu theo biểu tượng, Kinh Dương Vương bao gồm hai chủng lớn ở đất Kinh và đất Dương. Đất Kinh có chủng Âu, tức Thái. Đất Dương, chủng Lạc, tức Lạc Việt hay Việt Nam sau này.

    Tác giả truyền thuyết muốn cho ?~chắc ăn?T đã gán cho ông Long Quân cái họ LẠC, để cho mọi người không thể nào lầm được. Lạc Long Quân là một người Việt chủng Lạc 100%.

    Như vậy, Hùng Vương con trai cả của Âu Cơ và Lạc Long Quân, nếu là người thiệt, chắc chắn là một người mang hai giòng máu: Thái và Việt. Tức chủng Âu và chủng Lạc.

    (iii) Ý nghĩa khác của truyền thuyết

    Như đã bàn đến phía trên, theo bản Việt, Âu Cơ sinh ra 100 người con toàn là trai. Như vậy Hùng Vương số 1 không thể nào trở thành quốc tổ được. Chỉ có bua Hùng các đời sau nếu họ tiếp tục lấy vợ người bản địa.

    Trên bình diện này, bản Mường có vẻ hay ho hơn. Có nam có nữ. Đầy đủ cơ sở để các byua Hùng, ngay từ số 1, trở thành quốc tổ của chủng lạc hồng. Mặc dù chúng ta vẫn biết chuyện anh em bà con gần lấy nhau không phù hợp với khoa học và luân lý Khổng Mạnh, nhưng ở vào thời nhiễu nhương chưa được hoàn toàn văn minh đó, từ Ai Cập đến Trung quốc của thời Xuân Thu Chiến quốc, anh em họ hàng vẫn thường lấy nhau. Đọc Đông Châu Liệt quốc chúng ta vẫn thấy vua nước Sở ngủ với cháu gái, và vua nước Tề giao hoan với em gái ruột. Điểm lấn cấn này lập tức sẽ được ?~hoá giải?T ngay nếu chúng ta xem Âu Cơ, Lạc Long Quân, và ngay cả Hùng Vương chỉ là những biểu tượng, chứ không phải người thật. Bởi thực tế vẫn có những dấu hiệu cho biết họ chỉ là biểu tượng.

    Thứ nhất là Thần Nông. Ngày nay ở Hồ Bắc có nhiều tượng thờ Thần Nông với đầu mang sừng tlâu. Thần Nông do đó là biểu tượng, qua hình người đầu trâu, chỉ thời đại dân chúng bắt đầu biết canh nông.

    Thứ hai: Kinh Dương Vương, ngầm chỉ dân chúng hai đất Kinh và Dương, thuộc địa bàn nước Sở.

    Thứ ba: Theo kiểu Mường, Âu Cơ chính là con nai có đốm sao. Người Mường thờ con nai, như thờ Âu Cơ. Con nai ưa sống ở miền núi rừng. Âu Cơ biểu tượng cho nhóm dân tộc có địa bàn miền rừng núi. Chính là chủng Âu, tức Thái, tức Mường.

    Thứ tư: Theo kiểu Mường và Việt, Lạc Long Quân mang giống cá hoặc rồng. Cá và rồng đều sống dưới nước. Lạc Long Quân chính là biểu tượng dân sống vùng đất gần sông gần biển. Ăn khớp với địa bàn chủng Yueh Việt, tức Lạc, kéo dài từ vùng Sơn Đông xuống tận đến Nam Phúc Kiến, và ở vùng Giao Chỉ - Bắc Việt, bình nguyên sông Hồng.
    Thứ năm: Hùng Vương rất có khả năng chỉ nhóm người đầu tiên ?~di tản?T đến sinh sống tại bình nguyên sông Hồng, bổ sung với dân bản địa, bao gồm 2 chủng chính: Âu (Thái) và Lạc (Việt).
    (iv) Một phân ly không tránh khỏi
    Nhìn lại bản Việt, chúng ta thấy truyền thuyết chịu ảnh hưởng của Hán tộc, sau nhiều thế kỷ dưới ách đô hộ Bắc phương.
    Thứ nhất, bản Việt cho thấy dân Lạc chuyển sang phụ hệ trước dân Mường. Có con trưởng trở thành vua Hùng và truyền lại 18 đời theo lối thế tập. Ảnh hưởng chủng Hoa (???).
    Bản Việt lại mang tính trọng Nam khinh nữ cho đám con bà Âu Cơ toàn con trai. Điểm này dẫn ngay đến hố mâu thuẫn cho biết Hùng Vương số 1 không thể nào thành quốc tổ dân bản địa ở đó được trừ phi ông và các con cháu đời sau lấy vợ từ dân bản địa.

    Bản Việt cũng không được hay ho, hoặc được lô-gích, bằng bản Mường, ở chỗ không thèm để ý những gì sẽ xảy ra cho Âu Cơ và 50 người con trai kia sau khi phân ly. Những gì sẽ xảy ra cho chính Lạc Long Quân. Cụ Lạc về hưu, hưởng thú điền viên, ngày ngày đi bắt tôm hay chăng?

    Bản Mường ghi rõ: Đám theo Âu Cơ trờ thành một đại gia đình các vua chúa mặc áo màu đen. Mang ý nghĩa, đứa nào cũng trở thành quan lang, hay lãnh tụ từng bộ lạc riêng hết. Đám theo Lạc Long Quân cũng vậy. Tuy xuôi miền đồng bằng gần sông gần biển, họ cũng trở thành đại gia đình các tù trưởng bộ lạc mặc áo vàng.

    Ý nghĩa truyền thuyết cũng cho thấy đám theo Âu Cơ lâu năm chày tháng da sẽ trở màu đen, và đám theo papa Lạc da sẽ giữ vững màu vàng.

    Nhưng cả hai bản đều kết thúc bằng một sự phân ly. Rất ăn khớp với lịch sử.

    Tình duyên giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân có thể biểu tượng cho việc Thục Phán, người gốc nước Thục chủngÂu ( Thái), đem quân dân từ nước Tây Âu sang chiếm lĩnh xứ sở của dân Lạc. Tạo thành nước Âu Lạc. Thục Phán lên ngôi vua và xưng là An Dương Vương. Mở đầu một thí nghiệm thử thách hợp chủng Âu và Lạc.

    An Dương Vương phải chăng mang nghĩa Vua đã trị An được dân xứ Dương. Xứ Dương tức Dương Việt hay châu Dương bao gồm thành phần chủ lực là dân Lạc ở vùng phía Đông của nước Sở xa xưa. Đó là năm 258 TCN [25].

    Về sau, Triệu Đà sát nhập xứ Âu Lạc với Nam Việt, tức một phần lớn của nước Tây Âu cũ. Rồi đến năm 111 TCN, tướng Hán Lộ Bác Đức đem quân chiếm hết miền Hoa Nam, kể cả nước Nam Việt.

    Sau đó ít lâu, nhà Hán tách rời phía Bắc Nam Việt ra khỏi xứ của người Lạc.

    Phiá Bắc bao gồm dân chủng Âu (tức Thái) gọi tên Quảng Châu.
    Phía Nam đặt tên Giao Châu với phần lớn là dân Lạc.

    Chia ly giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân chính là sự tách rời nhau giữa hai chủng Âu và Lạc, qua phân chia Nam Việt thành Quảng Châu và Giao Châu.

    Riêng ở Giao Châu người chủng Âu, tức binh lính và di dân đã theo Thục Phán, có lẽ cảm thấy bơ vơ nên di tản về miền rừng núi và lâu năm trở thành người Mường. Âu cũng lại chia tay với Lạc ngay trong đất hợp chủng Giao Châu.
  5. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...

    Tháng 3, 2005
    N.N.

    Ghi Chú

    [1] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
    [2] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1479). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Thanh Việt và Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam được trình bày đầy đủ trên mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
    [3] Khuyết Danh (1377-1388) Đại Việt Sử Lược. Người dịch: Nguyễn Gia Tường. Người hiệu đính: Nguyễn Khắc Thuần. Nxb Thành Phố HCM (1993). Có bản được lên mạng tại perso.wanadoo.fr/charite
    [4] Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu (USA) tái bản.
    [5] Stephen Oppenheimer (2001) Eden in the East ?" The Drowned Continent of Southeast Asia. 2nd Impression. Phoenix
    [6] Nguyễn Hiến Lê (2002) Sử Trung Quốc. Nxb Văn Hoá
    [7] Phan Lạc Tuyên (2000) Nghiên Cứu & Điền Dã. Nhà Xuất Bản Trẻ.
    [8] Bên Tàu, thời nhà Châu anh em bà con, nhất là trong hoàng tộc, vẫn thường lấy nhau. Y hệt như bên Ai Cập vào thuở cổ thời. Muốn kiểm chứng, xin đọc lại Đông Châu Liệt Quốc, một truyện hư cấu phần lớn, nhưng dựa sát vào các sách cổ sử Trung Hoa như: Xuân Thu, Kinh Thi, Sử Ký, Tả Truyện,?
    [9] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mương ?" Géographie humaine et sociologie. Institut d?TEthnologie. Paris
    [10] Keith Weller Taylor (1983) The Birth of Vietnam. University of California Press.
    [11] Chử Văn Tần (2003) Văn Hoá Đông Sơn - Văn Minh Việt Cổ. Nxb Khoa Học Xã Hội.
    [12] Arthur Cotterell (1995) China ?" A History. Pimlico (Random House)
    [13] Thí dụ về lối dùng phân loại đời sau để gán cho đời trước: Dùng cụm từ ?~Cố vấn an ninh quốc gia?T để gán cho Quản Trọng, quân sư của vua nước Tề. Gọi bà Trưng Nhị bằng chức ?~Tổng Tham Mưu Trưởng?T của quân đội bà Trưng Trắc,?
    [14] Xin xem: Nguyên Nguyên (2005) ?~Phải chăng người Việt cổ đã biết tiếng Anh? I = Ai = Tôi?T. Báo mạng: Talawas.org
    [15] /Ji/ {姬 } quan thoại = ''Cơ'' trong tiếng Việt. ?~Cơ?T có thể được phát âm như ''Kỹ'', thí dụ người Ca Kỹ O 姬 . Nhưng tiếng Hoa (quan thoại) chỉ có một lối viết, một lối đọc: 姬 /Ji/ . Chuyện người hùng Hạng Yũ (Vũ) có thể tìm thấy trên nhiều mạng khi tìm ''Xiang Yu''.
    [16] Hoài Nam Wương Liu An (cháu của Liu Bang) thuật rõ trận chiến theo lối du kích của dân Tây Âu trong quyển ''Hoài Nam Tử'', ''xuất bản'' trong khoảng thế kỷ 2 trước Công Nguyên (xem [4] & [10]. Trong cuộc chiến đó, quân Tần giết được vua Tây Âu là Trạch (Dịch) Hu Tống. Dân Tây Âu (tức Âu ''Việt'') rút vào rừng kháng chiến và giết lại được tướng Tần là Uất Đồ Thư. Một nhầm lẫn khác: nước Tây Âu Lạc. Thật ra không có nước nào mang tên nước Tây Âu Lạc cả. Chỉ có nước Tây Âu và nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc nằm về phía Tây của Nam Hải. (xem [4] & [10]). Đặc biệt Bình Nguyên Lộc đã dành cả một chương để bàn về vấn đề này cùng những dụng ý khá mập mờ của những học giả Pháp, khi họ xuống cấp Trạch Hu Tống, vua nước Tây Âu, thành tù trưởng. Thảo luận về Tây Âu của tác giả ?~thuyết Mã Lai?T, có thể xem rất giống với kết luận của các nhà nghiên cứu Âu Mỹ ngày nay (thí dụ: xem [10] & [19])
    [17] ''Việt'' là một trong những từ bị biến âm bởi quốc ngữ. Đại đa số những sắc tộc chung quanh đều phát âm ''Việt'' bắt đầu bằng âm /Y/. Mường gọi /Yịt/. Nam bộ phát âm /Byiệt/. Nhật gọi /Beto/ rất gần với kiểu Nam bộ /Byiệt/. Dân Quảng Đông gọi /Yuet/ hay /Yueh/. Hồ Nam (Sở) đọc /Yuệ/. Quan Thoại phát âm như /yuế/. Người Hẹ (tức Hakka) gọi /Yuet/. Chỉ có người Triều Châu (Mân Việt xưa) đọc /Wật/.
    [18] Henri Roux (1954) Quelques Minorités Ethniques du Nord-Indochine. France-Asie. Janvier-Février 92-93. Tome X. Đặc biệt, theo tài liệu này, người Thái đen và Thái trắng tại Bắc phần chính là hậu duệ người nước Thục (tức Tứ Xuyên ngày nay).
    [19] Xem website của British Council về gốc gác của binh lính Thục Phán: dân Tây Âu, Viet%5FNam/Directories/Vi_ACYAIw-7879_ADs-t_Nam_Cultural_profile/-3194.html
    [20] Website sau đây cho đầy đủ danh sách các triều vua chúa bên Tàu: hostkingdom.net/china.html#Ch?Tu. Một vài pinyin cho việc tra cứu: Sở = Chu (hay Ch?Tu); Châu = Zhou; Tề = Qi (hay Chi); Tần = Qin; Tấn = Jin; Thần Nông = Shen Nong; Hồ Nam = Hunan; Hồ Bắc = Hubei; Thiểm Tây = Shaanxi; Cam Túc = Gansu; Việt = Yue (hay Yueh); Đông Đình Hồ = Dongtinghu; Tứ Xuyên = Sichuan; Thục = Shu; Vân Nam = Yunnan; Dương Tử = Yang Tze; Hoàng Hà = Huang he; Người Miêu = Hmong; Hẹ = Hakka;?
    [21] Để ý người Thái rất lận đận về chuyện lập quốc. Nhưng cũng còn may mắn hơn nhiều sắc tộc còn bị kẹt lại Trung Hoa và VN, như người Hmong và Choang. Đặc biệt người Choang dân số khoảng 19 triệu xấp xỉ bằng dân số nước Úc. Người Thái Lan tuy không bị hội chứng 5000 năm văn hiến nhưng cũng có vẻ thích nhận vu vơ những nền văn minh cũ ở miền đất đó là do ở tiền nhân của họ. Đặc biệt văn minh trồng lúa nước (Non Nok Tha, gần Korat ?" 4000 TCN), di vật bằng đồng (Ban Chiang gần Udon ?" 3600 TCN),? Đặc biệt trong tiếng Thái, có từ ?~KOW?T mang hai nghĩa, dùng để chỉ ?~gạo?T và ?~bữa ăn?T. Có phát âm và lối dùng y như tiếng Việt: CƠM. ?~Cơm?T nghĩa chính là ?~gạo đã nấu chín?T và nghĩa khác cũng là ?~bữa ăn?T: ?~Anh ăn cơm chưa??T. ?~Ăn cơm?T ở đây có nghĩa ?~bữa ăn?T. Y như tiếng Thái.
    [22] Đường Nhạn Sinh, Bạo Thúc Diễm & Chu Chính Thư (2002) Mưu Trí thời Xuân Thu. (Ông Văn Tùng & Vũ Ngọc Quỳnh dịch). Nxb Văn Nghệ, TP HCM
    [23] Thật ra họ Hùng của vua chúa nước Sở là từ phiên dịch của người Hoa từ một tiếng nước Sở: Mị, mang nghĩa ?~con gấu?T (xin xem bài số 2). Hùng Yịch chính là một đại thần nhà Châu được vua Thành Vương ban cho đất Kinh Việt để cai trị và ngăn chận bọn rợ Việt ở đó cho khỏi quậy vào ?~Trung thổ?T. Đó là năm 1122 TCN. Đến đời Hùng Thông, con cháu mười mấy đời của Hùng Yịch thấy nước mình đã hùng cường nên tự ý vỗ ngực xưng vương: Sở Vũ Vương (740-689 TCN). Con cháu tiếp nối của Hùng Thông tiếp tục xưng vương, và vẫn giữ họ Hùng. Nhiều người vẫn thường lấy cớ tự dạng Hùng Vương của nước Nam viết khác với Hùng Vương nước Sở. Nhưng điều này chẳng có gì quan trọng, bởi những từ này đều được viết bằng tiếng? Tàu. Do người Tàu tự ý cải biên. Y hệt như tên Âu Cơ chỉ mẹ của Hùng Wang và tên người ái cơ của Hạng Vũ. Viết khác nhau, nhưng phát âm như một.
    [24] Keith Weller Taylor trong website của riêng ông có thể tìm thấy trên mạng internet, qua bài phỏng vấn của đài BBC đã đề cập đến Hai Bà Trưng có quê quán nằm trong lãnh địa người Mường: Mê linh. Giả thuyết Hai Bà Trưng mang gốc Mường rất có khả năng, nếu chúng ta đối chiếu với một hai dữ kiện lịch sử rất quan trọng. Thứ nhất, gia đình hai Bà có vẻ theo Mẫu hệ, kiểu người Mường. Thứ hai, khi Hai Bà dấy quân khởi nghĩa chống lại Tô Định, hai Bà được sự hưởng ứng của toàn dân ở vùng Nhật Nam, Cửu Chân và Hợp Phố. Đặc biệt để ý đến Hợp Phố thuộc Quảng Châu, chứ không phải Giao Châu. Quảng Châu tức Tây Âu cũ: chủng Thái, nguồn gốc người Mường. Những anh hùng dân tộc khác cũng có thể mang chủng Mường (tức Thái) gồm có: Lê Lị (tức Lê Lợi), Lê Hoàn, và Đinh Bộ Lĩnh. Bởi Lê Lị người khởi xướng triều đại nhà Lê mang gốc Mường, nên Nhượng Tống trong bản dịch đầu tiên của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, theo trích dẫn [4], đã cho rằng Ngô Sĩ Liên vì muốn bợ đỡ các vua nhà Lê nên đã đem các truyền tích rặc Mường nhét vào quyển sử ký đồ sộ của nước Nam.
    [25] Gần đây các sách Việt Nam ưa sửa đổi năm Thục Phán sang chiếm nước Nam là năm 208 TCN. Theo thiển ý, những quan tâm đến chi tiết hay các lối phát âm, phiên dịch chữ Hán đã dễ đưa việc khảo cứu đi lạc hướng.
  6. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    Truyen Thuyet Au co va du am BACH VIET trong Tieng Viet(1)
    Anh Huong chung THAI
    Trong bài này chúng ta thử khảo sát sơ lược ''dư âm'' của các tiếng thuộc khối Bách Việt xa xưa còn mang ảnh hưởng trên tiếng Việt. Bài này được viết ngay sau loạt bài về ''Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương'', đặc biệt bài về ''Hùng Vương: quốc tổ mang hai giòng máu''. Với mục đích thử xem lại truyền tích ?~Âu Lạc?T qua một số tài liệu ngôn ngữ hạn hẹp có trước mắt.

    1. TRUYỀN THUYẾT CON RỒNG CHÁU TIÊN

    Trước hết xin tóm tắt ý nghĩa của truyền thuyết Âu Cơ, được giải mã dưới góc nhìn nôm na của thế kỷ 21 (xem [1]). Trong đó chúng ta đặc biệt chú ý đến việc chia ly đầy nước mắt của vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ. Một cuộc chia ly vĩnh viễn không hẹn ngày tái ngộ.

    Truyền thuyết Âu Lạc được đặt để vào trong bộ sử đồ sộ và đầu tiên ''Đại Việt Sử Ký Toàn Thư'' của Ngô Sĩ Liên vào đời nhà Lê, xuất phát từ những chuyện thần tiên cổ tích của người Mường [1] [2].

    Việc giải mã truyền thuyết xưa cũ bắt đầu bằng ý niệm ''Fast Forward'', y như việc bấm nút cho băng video quay nhanh về phía trước. Đúng y như ý định của các tác giả truyền thuyết. Rồi truy về nguồn gốc người Mường chính thuộc chủng Thái, thuở ban đầu cư dân nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN) bên Tàu xa xưa. Dân nước Sở rất nổi tiếng với những chuyện tích u linh hoang đường. Vấn đề này từ trước đến nay thường bị bỏ sót bởi chúng ta hiểu biết rất ít về thành phần của khối Bách Việt đó. Đặc biệt các chi chủng nhỏ lớn đủ thứ ngày trước người Hoa gộp chung lại một nhóm và gọi đó chủng Yueh (Việt). Quan trọng nhất chúng ta cũng bị ảnh hưởng sử sách viết theo quan điểm lấp loát và tiện nghi của Hoa chủng cho rằng chủng Yueh chỉ hiện diện ở phía Nam sông Dương Tử, tức miền Hoa Nam. Ngày nay với phương tiện internet, chúng ta tìm tòi tra cứu rất dễ các tài liệu rất quan trọng, ngay cả đối với thứ cổ sử mù mờ xa xưa. Rất nhiều tư liệu do các nhà khảo cứu từ những đại học lớn trên thế giới đều có thể truy cập được dễ dàng qua mạng internet.

    Theo thiển ý, rất nhiều công cuộc khảo cứu về cổ sử hoặc tài liệu khai quật được thường vướng phải một vài vấn đề tuy có vẻ tầm thường, nhưng dễ gây ra lạc hướng hoặc ngộ nhận. Thông thường chúng ta vướng phải ngộ nhận do ở chỗ thiếu thốn hiểu biết về cổ sử Tàu. Hoặc nếu có hiểu biết, lại hiểu biết theo như ý muốn của người Tàu.

    Xin đưa ra vài thí dụ, như sau.

    (a) Người Hoa có vua chúa từ thời các ông Hoàng Đế, Thần Nông, rồi Nghiêu (Yao), Thuấn (Shun). Thuấn sau đó truyền ngôi cho ông Yũ (Vũ) bắt đầu triều đại thế tập đầu tiên của Tàu: nhà Hạ. Hạ kéo dài từ khoảng 3000 năm trước Công Nguyên (TCN), truyền được 18 đời vua, đến lúc bị Thành Thang lật tạo nên nhà Thương (1700-1100 TCN). Sự thật, giới sử học chưa có thể minh xác chắc chắn về việc nhà Hạ có thật hay không. Còn các vị Tam Hoàng hay Ngũ Đế (như Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, v.v.) hoàn toàn thuộc huyền sử, ở cái thời người Tàu - Hoa chủng - còn sống trong dạng bộ lạc, địa bàn quanh quẩn bên sông Hoàng Hà, khu vực Thiểm Tây, Sơn Tây. Tức chừng 1-2 tỉnh ngày nay. Ra khỏi khu vực Hoa chủng thuở ban đầu đó, người ta sẽ đi vào các vùng đất thuộc các chủng khác, người Hoa xưa ưa gọi ''rợ'', hay ''man yi''. Rất nguy hiểm, bởi có nhiều thứ nhuộm răng, xâm trán, xâm mình. Và cũng có thứ giết người để tế thần, hoặc để ăn thịt [4].

    (b) Cho tới thời Xuân Thu Chiến Quốc, phía Bắc Dương Tử bao gồm Hoa chủng và phía Nam Dương Tử chỉ toàn khối rợ Nam Man, đến cuối thời Chiến Quốc, người ta mới đặt tên Bách Việt, mang nghĩa chung: khối rất lớn các chủng Yueh. Sự thật, bốn phía của Trung thổ ngày trước đều có những chủng khác với chủng Hoa. Đặc biệt chủng Yueh cũng có mặt ở Hoa Bắc, điển hình tại nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay), khu vực nước Tề (Sơn Đông), Tấn (Sơn Tây / Hà Bắc), v.v [9]. Thế nhưng, người Hoa, ngày xưa có thói quen phân loại chủng ''rợ'' theo phương hướng: Bắc Địch, Đông Yi, Nam Man, và Tây Nhung. Do đó sử sách, đặc biệt của Việt Nam, chỉ ưa chú trọng đến đám Nam Man mà thôi. Thật ra đám Khương Nhung (tức Tây Nhung) cũng có chứa một hai chi chủng Yueh, rất có khả năng tiền thân của dân Miến Điện, và Khờ Me [3], [4]. Đám Đông Yi, tụ tập ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay, còn mang tên khác Lai Yi (tức Lạc Yi) bao gồm chủng Lạc tức Yueh, cũng có nhuộm răng xâm mình giống y như dân miệt dưới [4]. Đông Yi cũng chứa một nhóm thật Việt, và có lẽ Việt rất thuần túy, gọi Bộc Việt, thường có mặt trên nhiều chiến trường thời Đông Chu Liệt Quốc [8] [18].

    (c) Đại đa số người Việt cũng thường rất mù mờ về chi tiết của các chủng Yueh trong khối Bách Việt (Bai Yue) nói trên. Sự thật: Nói là Bách Việt, nhưng không phải Việt nào cũng giống Việt nào. Thật ra, có trên hàng trăm thứ Yueh khác nhau. Muốn kiểm chứng, chỉ cần nhớ tại nhiều nơi nước Tàu ngày nay, người ta chỉ cần di chuyển chừng 30 cây số, có thể thấy ngôn ngữ, tiếng nói khác nhau rồi. Bình Nguyên Lộc [4] có lẽ người đầu tiên đã dành một phần lớn ?~quyển sách Mã Lai?T để mô tả về các chi chủng này. Dù độ chính xác của việc khảo cứu chưa được hoàn hảo, và lối viết rất lộn xộn, nhưng theo thiển ý, những kết luận và dữ kiện trình bày không thua gì các công trình của các tác giả Tây Phương, ngay cả các vị khoa bảng tại các đại học lớn tại Mỹ hiện nay. Ngoài ra, cuộc tìm hiểu dạng bỏ túi gần đây, nhất là từ internet, đã cho biết rất nhiều dữ kiện của ''quyển Mã Lai'' [4] đã được nhiều nhà nghiên cứu sử Tây phương xử dụng, hay ít lắm đồng thuận với kết luận [5]. Nhưng xin được phép nhấn mạnh nhiều kết luận của ''quyển Mã Lai'', theo thiển ý nằm trong ''giới hạn mức trên'' của vấn đề. Trong khi loạt bài này cố gắng chú trọng đến ''giới hạn mức dưới'', tức để ý nhiều đến phân biệt các chi chủng, đặc biệt giữa Thái và Việt. Mù mờ về các chủng Yueh sẽ khiến chúng ta không thể nào hiểu được hay giải mã được những điểm gút mắt của các truyền thuyết xưa nay đã dính chặt vào cổ sử. Mặc dù bên ngoài những điểm này có vẻ rất thường tình, rất xoàng, ít được chú ý đến. Việc bỏ sót những chi tiết quan trọng về các chủng Yueh từ xưa đến nay đều có thể qui về chỗ, đó chính là điểm sử sách Hoa không thích đào sâu. Bởi nó hãy còn liên hệ đến vấn đề của các khối dân tộc ít người, những khu vực tự trị, đặc biệt ở phía Nam nước Tàu.

    (d) Nhìn vào truyền thuyết con rồng cháu tiên, ai cũng thấy chuyện kỳ lạ là 18 ông vua Hùng, ông nào ông nấy đều sống trên 150 năm. Phối hợp với cái hội chứng 4000 năm, người Việt nói chung rất thích truyền tích ''con rồng cháu tiên'' đó. Bởi nó cho biết chủng Việt ra đời không một lượt thì cũng không sau Hoa chủng bao lâu. Có cùng chung 1 vị thánh tổ mang tên Thần Nông thuộc hạng Tam Hoàng ?" Ngũ Đế. Người Tàu có lẽ rất vui khi thấy người Việt mặc dù phía ngoài không thích nhận chủng mình xuất phát từ nước Tàu, nhưng lại nhận mình con cháu Thần Nông và chép luôn 18 đời ?~vua?T nhà Hạ trong cổ sử Tàu, sang thành 18 đời Hùng Vương. Sự thật: Người Hoa cũng nhận bá vơ, thấy người sang bắt quàng làm họ. Thần Nông thật sự mang chủng Việt 100% (Xin xem bài số 2 về ?~Thuyết Hùng Vương?T). Sự thật khác: Hùng Vương thứ nhất, nếu có thật, mang trong người hai giòng máu: Thái và Việt. Không một giọt máu Tàu nào hết. Và nếu thật là người, ông là một người con bất hiếu - theo quan điểm hệ giá trị của bất kỳ chủng tộc nào, tự cổ chí kim. Bởi ông ta không quan tâm gì đến đới sống của mẹ Âu Cơ sau khi chia ly với cha Lạc Long Quân.

    (e) Theo Bình Nguyên Lộc [4], giới sử gia người Tàu biết rất ít về người Mường. Nhất là trong các ?~thư tịch?T cổ. Không có đề cập đến Mường. Có lẽ vì lý do đó, ta để ý, sử sách Việt cũng ít đá động đến người Mường. Nếu có, lại ưa bắt chước thói Tàu gọi họ là người Mán, trại âm từ ?~Nam Man?T y hệt như người Hoa gọi dân Bách Việt. Vô hình chung khiến người ta không để ý đến họ trong suốt chiều dài lịch sử, nhất là trong 1000 năm Bắc thuộc. Cũng ở lý do này, việc xem lại truyền thuyết thường xuyên không được đối chiếu với bản của Mường. Bản Mường của truyền thuyết ''Âu Cơ'' lần đầu tiên xuất hiện trong quyển sách của Jeanne Cusinier vào thời tiền chiến [6], chưa hề được đối chiếu so sánh với bản trong ''Lĩnh Nam Chích Quái'' mà Ngô Sĩ Liên đã chép vào bộ sử của ông. Chỉ có tác giả quyển Mã Lai [4], đã trích dẫn bản Mường, nhưng rất tiếc lại dành cho một vấn đề khác. Sự thật: người Mường, chính ra gốc Thái đa số từ hai nước Sở và Tây Âu di dân sang Bắc Việt cùng thời với, hoặc trước, chủng Lạc. Phải để ý đến họ, mới giải mã được truyền tích Âu Cơ. Hoặc ngược lại, giải mã xong truyền thuyết Âu Cơ mới biết được nước Việt Nam thời sơ khai bao gồm hai chủng chủ lực chính: Âu (Thái) và Lạc (Việt). Chủng Âu, hoặc Thái, chắc chắn đã hội nhập rất nhiều với chủng Lạc (tức Việt). Chỉ những thành phần từ chối hội nhập, cả Thái lẫn Việt, mới trở về miền rừng núi và lâu năm trở thành người Mường.

    (f) Bởi tham khảo nhiều sách Tàu viết theo quan điểm của Tàu, nhiều tác giả Việt ưa lâm vào tình trạng tránh, hay quên, so sánh hoặc liên kết sự kiện lịch sử nước Nam với những biến động kinh hoàng ở bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN), hay chiến tranh đẫm máu sau này như vào thời nhà Nguyên (Mông Cổ), với những chuyện di cư di tản hằng khối người thuộc khối Bách Việt, thường về hướng Nam. Sự thật: Nếu đọc kỹ lại sử Việt, ta thấy rõ, cứ mỗi lần có biến động hay chiến tranh bên Tàu là có di cư sang Bắc Việt, hay đánh phá ở vùng biên giới. Đặc biệt, cuộc xâm lược xứ dân Lạc của dân Âu (Tây Âu) do một người thuộc chủng Thái (tức Âu) lãnh đạo, mang tên Thục Phán, bắt nguồn từ chỗ chủng Âu (tức Thái) ở miền Hoa Nam chịu không nỗi sức ép khủng bố của quân nhà Tần nên phải tìm đường tạo dựng bản địa sinh sống mới. Rồi mười mấy thế kỷ sau, việc quấy phá biên giới chỉ yên sau khi xứ Nam Chiếu (tức Vân Nam ngày nay), cũng chủng Thái, bị bọn nhà Nguyên dứt điểm và cho dân phía Bắc đến định cư. Quá khốn đốn, dân Nam Chiếu tràn về phía Nam và tạo dựng nên Thái Lan và Lào [3].

    (g) Việc theo sát quan điểm của Tàu, cũng dễ đưa việc nghiên cứu về tiếng Việt thiếu thốn một lối nhìn toàn diện, bao gồm ảnh hưởng của các phương ngữ tiếng Tàu như: Hẹ, Hải Nam, Triều Châu ?" Phúc Kiến, Chiết Giang, Vân Nam, Quí Châu, Hồ Quảng, v.v. Ngoài ảnh hưởng hai thứ Phổ thông và Quảng Đông, như vẫn thường được chú ý từ xưa đến nay. Từ đó dẫn đến một ngộ nhận rất thông thường: tiếng Hán Việt có tự ngàn xưa, do chính tiền nhân biến đổi cách phát âm của người... Tàu. Sự thật: Như sẽ trình bày khái quát ở đây, cũng như đã trình bày chi tiết trong loạt bài về chữ Nôm và quốc ngữ [7], rất nhiều từ xưa nay vẫn thường nghĩ thuần Nôm lại có nguồn gốc Bách Việt. Ngoài ra, đối chiếu với các phương ngữ Tàu, và ngay cả tiếng Mường, Nôm, cũng đã cho thấy tiếng Việt, đặc biệt Hán phát âm theo Việt, đã biến đổi rất nhiều kể từ khi có ký âm theo kiểu a-b-c, tức chữ quốc ngữ [7].

    Xin trở lại với truyền thuyết Âu Cơ, được giải mã [1] và tóm tắt như sau:

    1. Truyền thuyết Âu Cơ bắt nguồn từ một truyền tích cổ của người Mường. Bối cảnh thật sự của câu truyện được dựng chung quanh nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu. Nước Sở vào thời dựng nước (khoảng 1123 TCN) bao gồm hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay.

    2. Truyền thuyết Âu Lạc, như đã đề cập ở phần đầu và khác với bản Mường, có một đọan Fast Forward (quay nhanh), khiến người Việt, kể cả những nhà khảo cứu, thường không để ý đến, và bỏ sót. Đó là đoạn Đế Minh bắt chuyến máy bay China Airlines 2879 TCN [19] đi tuần thú phương Nam. Thời Đế Minh, khoảng cuối thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Hoa chủng nguyên thủy không biết gì đến các địa danh như châu Kinh và Dương (cho ra tên Kinh Dương Vương), rặng Ngũ Lĩnh, Động Đình Hồ,... Bởi đó là những địa danh, nhân danh của nước Sở, chỉ được thành lập ngót 2000 năm sau khi Đế Minh ra đời (khoảng 1123 TCN). Toàn bằng chữ Tàu ròng và chỉ có vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221TCN). Đặc biệt, diễn biến câu chuyện từ khi Kinh Dương Vương xuất hiện, hoàn toàn xảy ra sau năm 1000TCN. Tức chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân chỉ là chuyện di tản hai chủng Âu và Lạc xuống đồng bằng Bắc Việt khi sức ép khủng bố của chủng Hoa nguyên thủy quá sức dữ dằn.
  7. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...
    3. Người Sở có gốc chủng Thái. Người Mường cũng vậy. Và rất nhiều bộ tộc Mường khởi xuất di tản từ Sở, vào thời loạn lạc của Đông Chu liệt quốc. (Xin xem chi tiết ở một vài bài khác). Họ chạy xuống phía Nam, hội nhập với đồng chủng tại các xứ ven biên giới Việt Hoa ngày nay như: Tây Âu (tức Âu Việt) và Điền Việt (tức Nam Chiếu). Rồi sau đó theo với truyền thuyết, và cũng theo cổ sử Tàu, đặc biệt quyển Hoài Nam Tử của Liu An, họ vẫn bị quân Tần rượt bén nút.

    4. Chuyện Âu Cơ - Lạc Long Quân chỉ là chuyện di tản hằng khối, hoặc chuyện cố gắng hợp chủng, của hai chi chủng Thái (Âu) và Việt (Lạc), đều có mặt tại địa bàn nước Sở thời xưa.

    5. Bắt đầu của truyền tích: ''Đế Minh cháu 3 đời của vua Thần Nông'' đã gây ra lộn xộn, và bao hiểu nhầm, suốt 600 năm qua. Mục đích của việc kéo Thần Nông vào truyền tích chỉ ở chỗ cho người Hoa biết dân Việt cũng phát xuất cùng thời với chủng Hoa. Thật ra, trong lối cấu tạo truyện thần thoại, không có cách nào khác hơn là việc kèm Thần Nông vào câu chuyện. Rất chính xác nữa là đằng khác, bởi như được chứng minh ở một bài khác Thần Nông cũng là sản phẩm trí tưởng tượng của chính người nước Sở, với chủng Thái chủ lực.

    6. Thần Nông nên được xem như một biểu tượng, cho biết dân đó xứ đó thời đó đã tiến lên sinh sống bằng canh nông. Thần Nông, người Tàu đã nhận bá vơ là một trong những ông tổ của họ. Sự thật, Thần Nông, nếu người, lại là người Sở chủng Yueh (chi Thái). Và mãi đến ngày nay, nhiều bộ tộc Mường hãy còn thờ Thần Nông như thánh tổ nghề nông [6]. (Xin xem các dẫn chứng ở bài: ''Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương'' HOẶC Tra cứu trên internet về nước Sở = CHU hay Thần Nông = Shen Nong).

    7. Nếu xem tên các nhân vật như biểu tượng - ta sẽ thấy thật rõ:
    - Kinh Dương Vương: chỉ dân châu Kinh và châu Dương, đều là hai châu chính của nước Sở. Đất Kinh bao gồm dân chủ lực thuộc chủng Âu (tức Thái). Đất Dương nằm về phía Đông của đất Kinh, chứa dân Việt chi Lạc. Châu Dương bao gồm vùng đất Sở chiếm về sau này ở vùng ven biển: nước U Việt (Câu Tiễn) và nước Ngô (Phù Sai).
    - Âu Cơ: tiêu biểu cho nhóm dân tộc hãy còn theo Mẫu Hệ. Nhóm người Âu (Thái) ưa sinh sống ở miền núi rừng. Rất rõ ''Âu Cơ'' mang họ ''Âu'' của chủng Âu hay người nước Tây Âu. Bản Mường cho Âu Cơ mang tiền kiếp con nai đốm sao, cũng loại thú sống miền rừng núi. Bản Việt ám chỉ Âu Cơ chính là tiên, viết theo chữ Hán chính là ''người xuất hiện trên núi'': ''người + núi'' = nhân (ren) + sơn (shan): T ( T = 人 + 山 => tiên = nhân + sơn) đã xác nhận rõ '' Âu Cơ'' là dân miền núi rừng, tức chủng Thái hay Mường.


    - Bởi cái tên Kinh Dương Vương chứa chữ ''Dương'', chỉ đất Dương, tác giả truyền thuyết mới dựng nên được một nhân vật chủng Lạc (Việt) mang tên Lạc Long Quân. Lạc Long Quân, với họ Lạc, tên lót ?~Long?T, tức rồng chỉ dân miền đồng bằng gần sông biển. Tiêu biểu chủng Lạc (Việt). Đây có thể là điểm ''tuyệt chiêu'' của các tác giả truyền thuyết, chứng tỏ tác giả đã không để một sơ sót về hồ sơ chủng tộc của Lạc Long Quân. Bởi nếu cho cha của Lạc Long Quân không mang tên Dương trong đó, như Kinh Vương chẳng hạn - vấn đề sẽ gảy vỡ ngay tại chỗ, bởi đất Kinh chỉ có chủng Thái chủ lực mà thôi. Đất Dương mớí có chủng Lạc. Muốn cho chắc chắn tác giả cho thêm vào ''Long Wang'' từ bản nguyên thủy của Mường họ LẠC, thành Lạc Long Quân, để nhấn mạnh y có máu và DNA của chủng Việt (Nam). Do ở chỗ tác giả đã bao gồm ''Dương'' trong tên ''Kinh Dương Vương'', việc cho Lạc Long Quân mang máu Lạc 100% mới được hợp lí . Về sau, để ý đến tên hiệu An Dương Vương của Thục Phán. ''An Dương'' có thể mang nghĩa ''trị an xứ Dương'', ám chỉ một người chủng Âu (tức Thái) trị AN được xứ DƯƠNG của chủng Lạc.

    8. Hôn nhân giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân là thứ hôn nhân của hai người dị chủng, một thứ ''tình không biên giới'', biểu tượng cho thí nghiệm hợp chủng giữa Âu và Lạc, qua chuyện di tản thuở ban đầu của dân chúng ở hai châu Kinh (Thái) và Dương (Việt), chạy trốn sức ép của vua quân nước Chu, nước Sở (chuyên đi dẹp các đám rợ), nước Tần, ... HOẶC qua việc Thục Phán, người chủng Âu chiếm xứ Lạc và lập nên nước Âu Lạc. Hay biểu tượng cho việc Triệu Đà sát nhập miệt dưới của xứ Âu Lạc, gồm đa số chủng Lạc, với đất Nam Việt thuở ban đầu bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng, thuộc chủng Âu, tức Thái. Hợp chủng Việt với Thái theo truyền thuyết có thể xảy ra từ lúc hai chủng còn sinh sống bên nhau ở nước Sở, qua các địa danh và nhân danh như: Hồ Động Đình, Ngũ Lĩnh, Kinh Dương Vương (châu Kinh hợp với châu Dương), Thần Nông (vị thần có đầu mang sừng tlu (trâu), hiện còn được thờ tại Hồ Bắc, tức Sở ngày xưa),?

    9. Truyền thuyết, cả Mường lẫn Việt, nói rất rõ vợ Âu Cơ và chồng Lạc Long Quân thuộc hai chủng tộc khác nhau: Âu Cơ chủng tiên hay nai có đốm sao, Lạc Long Quân, giống rồng hay cá. Ở nhau lâu dài không đặng. Nên đành phải chia tay. Nàng Âu dẫn 50 con đi về quê thật sự của mình: tức miền rừng núi. (Để ý cả ?~tiên?T lẫn ?~nai?T đều là biểu tượng của rừng núi). Trong khi chàng Lạc dẫn con xuôi về miền đồng bằng gần sông gần biển (giống rồng hay cá đều có môi trường sinh sống là nước).

    10. Cuộc chia tay giữa vợ Âu và chồng Lạc nói thật rõ: chủng nào nên trở về địa bàn sinh sống nguyên thủy của chủng ấy. Trên thực tế, chúng ta đã thấy người Hán sau khi xâm chiếm toàn cõi Hoa Nam đã tách nước Nam Việt thành 2 phần: phía Bắc gọi Quảng Châu bao gồm đa số dân Âu tức Thái. Phía Nam gọi Giao Châu với thành phần chủ lực là dân Lạc, tức Việt. Quảng Châu có rất nhiều núi rừng thích hợp với dân Âu. Giao Châu trở thành nơi tụ tập hoặc tiếp nhận dân Việt chủng Lạc, thích địa bàn gần sông gần biển.

    11. Ngay tại địa phận Giao Châu, những người gốc Âu (Thái) cũng cảm thấy việc hợp chủng có mòi thất bại, và cũng theo truyền thống kiên cường xưa cũ không chịu được thế lực đô hộ Bắc phương, nên một số lại di cư về miền rừng núi. Lâu ngày họ trở thành người Mường. Người chủng Lạc (Việt), cùng với một số chủng Âu, ở lại miền đồng bằng châu thổ, trở thành người Kinh. Đó là ý nghĩa của Âu Cơ dẫn nửa đám con lên núi, và Lạc Long Quân đưa con xuôi về miền sông biển, của cả hai truyền thuyết Việt lẫn Mường.
  8. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...
    2. TRUYỀN THUYẾT PHẢN ÁNH QUA NGÔN NGỮ

    Sau đây chúng ta thử xem lại ảnh hưởng của biến đổi tiếng Việt, đi theo với truyền thuyết Âu Cơ, giải mã ở phía trên. Nhưng xin phép nhấn mạnh đây chỉ một thứ kiểm chứng ở một vài điểm chính, giống như ?~spot check?T trong ngành kỹ sư. Ảnh hưởng tiếng Hán ròng trên tiếng Việt, khoảng 60%, được xem như một vấn đề khá xưa cũ, và sẽ không được đề cập đến [10].

    Ảnh hưởng các chủng thời sơ khai

    Theo thiển ý, những từ căn bản cần để ý nhất là những từ liên hệ đến đầu mình và tứ chi, những từ chỉ số đếm, chỉ đồ ăn thức uống, chỉ những gia cầm súc vật gần gũi với con người, và nhất là từ chỉ ''Người''.

    Đề tài này cũng rất rộng và cần đến một hai luận văn nghiên cứu ở đại học. Độc giả có thể tìm đọc ''quyển Mã Lai'' của Bình Nguyên Lộc [4] để thu thập một số ngữ vựng cần thiết. Nhưng cần để ý tác giả ''quyển Mã Lai'' luôn quy về nguồn gốc Mã Lai của các từ vựng, với mục đích chứng minh: Bách Việt chính ra xuất phát từ một chủng lớn, chủng Mã Lai. Bách Việt = Mã Lai. Hoặc quyển sách mỏng của Nguyễn Cung Thông [11] về một số từ cơ bản, đặc biệt các từ dùng âm /M/ để chỉ những ''thành tố'' của ''mặt'', như: mặt, mắt, mũi, mụn, má, mi, miệng, môi,...

    Do ở giới hạn trang giấy bài viết, chúng tôi chỉ xin trình bày một cách đại cương ảnh hưởng các chủng sơ khai trong tiếng Việt qua một vài từ hoặc tiết mục chọn lọc.

    Trước hết xin nhấn mạnh điểm thiếu sót trong hằng ngàn sách vở: Ở vòng đai bỉên giới phiá Bắc của nước Việt vào thời xưa, phần lớn bao gồm chủng Âu tức Thái. Người Quảng Đông ngày nay, phần lớn chính là gốc chủng Thái đã bị Hán hoá. Chủng Âu khi xưa, vào thời đại thiên niên kỷ đầu trước Công Nguyên, là một khối chủ lực đa số có địa bàn chạy dài từ đất Kinh Cức (hay Kinh Man, hoặc Kinh Việt) xuống đến rặng Ngũ Lĩnh, xứ Dạ Lang (Quí Châu bây giờ), Điền Việt (Vân Nam), và Tây Âu (Âu Việt) tức Lưỡng Quảng ngày nay. Địa bàn chủng Âu xa biển và bao gồm nhiều núi rừng.

    Chủng Lạc, tức chủng thứ hai khởi thủy dân Việt Nam, chiếm một địa bàn khác, ven theo bờ biển phía Đông nước Tàu. Kéo dài từ khu vực ở tận sông Hoàng Hà, miền tỉnh Sơn Đông - Hà Bắc ngày nay, xuống đến tận địa bàn xứ Mân Việt xưa, tức Phúc Kiến ngày nay. Thêm vào đó, có một nhóm thành phần du mục cũng thuộc chủng Yueh, thường gọi Bách Bộc hay Bộc Việt, đã có mặt trên nhiều chiến trường ở thời Đông Chu Liệt Quốc [18]. Bình Nguyên Lộc [4] trong một đoạn cuối của ''quyển Mã Lai'' đã theo dõi đám Bộc Việt này và cho rằng chính đám Bộc Việt này đã tạo nên thành phần chủ lực của cuộc Nam tiến của chủng Việt. Nhưng tác giả ''Mã Lai'' không xác định đám Bộc Việt này hiện nay ra sao, và là ai. Cũng như thời điểm dân Bộc Việt tràn vào bình nguyên sông Hồng. Chúng tôi, với một số phát hiện tình cờ, tạm cho rằng nhóm người chủ lực tạo nên phần lớn DNA và cá tính chủng Việt Nam, chính do ở đám Bộc Việt này. Phát hiện của chúng tôi, qua tài liệu ngôn ngữ, cũng cho biết thêm nhóm người kỳ bí nhất Trung Quốc hiện nay, thường được gọi Hẹ, hay Hakka hoặc Khách Gia [12] chính là hậu duệ người Bộc Việt thời xa xưa. Hy vọng sẽ trở lại đề tài này vào một zịp khác.

    Người Việt từ xưa đến nay vẫn thường lầm tộc người ở gần ta nhất bên kia biên giới Việt-Hoa cũng mang chủng Việt ở thời xa xưa. Thật ra, không phải. Họ mang chủng Âu tức Thái. Người Hoa từ thời cổ đại cho đến bây giờ vẫn gọi họ là ''Yue'' (Việt), y hệt như họ gọi ''Yue'' (Việt) cho ''Yue Nan'', tức Việt Nam. Nhưng họ đã phân biệt rõ hai thứ ''YUE'' khác nhau: Việt dùng để chỉ chủng Thái ở Lưỡng Quảng và Nam Chiếu, v.v. họ viết bằng chữ Mễ (gạo) 米 nằm trên chữ Yiệt (rìu hình lưỡi liềm): Việt Quảng Đông 粤 ?, ''Việt'' dùng để chỉ ''Việt Nam'' (Yue Nan) họ viết theo chữ Yượt (vượt), bao gồm chữ ''Tẩu'' nằm kế chữ ''qua'' để chỉ ''giáo mác'': Việt cho Việt Nam S ?,

    Bởi ở vị thế địa dư, sát ngay ở ''biên giới'' phía Bắc, chủng tộc có đông đảo nhất tại nước Việt trong vòng thiên niên kỷ đầu trước Công Nguyên (1000-0 TCN), có lẽ là chủng Thái. Chủng Lạc (Việt), mặc dù cũng đã có mặt tại vùng đất chữ S, nhưng chỉ ồ ạt đến sau, nhất là vào thời Xuân Thu Chiến quốc, cùng một lúc với di dân chủng Thái (đợt 2, 3, ...N), và các chủng Bách Việt khác ở miền Hoa Nam. Vào lúc những bộ lạc hoặc xứ sở của các chủng này bị Hoa chủng xâm lấn và tiêu diệt. Xin được phép nhắc lại, khối Bách Việt có chừng 4 chủng Yueh chính, trong đó chủng Âu và Lạc là lớn nhất.

    Xin trở lại với tài liệu ngôn ngữ. Trước hết hệ thống số đếm.

    Hệ thống số đếm cho thấy những chủng người ''có văn hoá'' đầu tiên đến Bắc Việt rất có thể là những đám thuộc ''bọn rợ Tây Nhung'', với địa bàn nằm phía Tây của Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Sử sách Tàu, theo trích dẫn [4], có chữ viết để chỉ bọn này bằng chữ Lạc viết theo bộ Chuy, và Lạc bộ Khương. Những đám rợ này còn gọi rợ Khuyển Nhung hay Khương Nhung, thường được xem tiền thân của nhóm tộc Miến Điện và Cam Bốt. Đám Yueh tộc này cũng rất dữ, và chính là đám ''rợ'' đã từng tiến chiếm kinh đô nhà Tây Châu giết được vua U Vương, khiến nhà Châu phải thiên đô về phía Đông và tạo dựng nên Đông Châu. Rất có khả năng, rợ Tây Nhung đã là chủ nhân của những vùng đất ở phía Tây của nước Tàu ngày nay. Gần khu vực nước Ba và Thục, chung quanh và ở hướng Tây của Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Cam Túc ngày nay. Người Ba hiện có hậu duệ là người Tujia (Thổ gia) cư ngụ chung quanh Hồ Nam và Hồ Bắc. Người Thục đa số thuộc chủng THÁI [14], di dân xuôi về Nam, hội nhập với dân xứ Tây Âu, và sang phía Đông hội nhập với dân ở Kinh Việt tức nước Sở. Theo cổ sử Tàu, có thể kiểm chứng qua internet, hai nước Ba (Ba state) và Thục (Shu state) đều bị nước Tần dứt điểm trước tiên, vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên.Trước các nước thuộc chủng Bách Việt ở Hoa Nam. Một đám người di cư, chung với rợ Khương, di dân về phía Nam, đến tận các khu vực Lào, Bắc Việt, Thái Lan, Miến Điện ngày nay. Đám này bao gồm, phần chính: chủng Khmer, chủng Môn, chủng Âu (tức Thái).

    Hệ thống đếm của người Việt cổ, tuy về mặt địa lý rất gần chủng Thái tại Quảng Tây Quảng Đông nhưng lại không giống đa số các số mã đếm của dân Thái và Quảng Đông, hay của Hoa chủng. Đặc biệt hệ thống đếm từ 0-10 của chủng Thái lại rất giống hệ của người Quảng Đông hoặc người Tàu nói chung.

    Xin liệt kê hệ thống số đếm của Việt, cùng với các ghi chú về xuất xứ của tên các số mã như sau, phần lớn trích dẫn từ [13]:

    0 = không := xuất từ tiếng miền Hoa Nam, /kong/, đặc biệt Phúc Kiến. Và cũng giống
    /kosong/ tiếng Mã Lai.
    1 = một := từ số đếm tiếng Khmer, muay, đọc như /mooeh/
    2 = hai := có lẽ bắt nguồn từ /er/ quan thoại. Hoặc /Hờ-ni/ tiếng Miến Điện. Có âm tương tự /Hal/ của Mường.
    Đặc biệt, theo từ điển Mã Lai, tiếng gọi ''HI'' (Thí dụ: Hi Mary, Hi Bill) của tiếng Mỹ có tương đương là /HAI/ trong tiếng Mã Lai (xem Malay Dictionary, Pelanduk). Ở tiếng Việt, theo [4] ''Hai'' chính là ''Ê'', hay ''Ơi'', ''Ới''. Hoặc ?~Hỡi?T. Tức có sự chuyển âm qua lại giữa /hai/ <=> /Ơi/ hay /Ê/. Hoặc qua lại: Hai ó Er.
    Không còn gì ngờ nữa, trong tiếng quan thoại (phổ thông), người Hoa gọi số 2 bằng /Er/ phát âm giữa /Ê/ và /Ơi/. Và từ đó /Er/ tiếng phổ thông có biến âm qua lại với /Hai/ tiếng Mã Lai, dùng để kêu gọi. Tức ER quan thoại = HAI Mã Lai. Nhưng, HAI (Mã Lai)= Hi (Mỹ)= Hello (Anh), mang nghĩa ''Ê'' hoặc ''Ơi'' trong tiếng Việt. Do đó, số ?~Hai'' =2 của tiếng Việt rất có thể đã bắt nguồn từ ''Hai'' Mã Lai, và ''Er'' quan thoại. Rất ngộ, trong tiếng Myanmar, số 2 được gọi như /Hờ-nyi/. Tách từ đa âm ''Hờ-nyi'' ra hai thứ đơn âm ta sẽ có: ''Hờ'' và ''Nyi''. /Hờ/ dễ dàng sinh ra /Hai/ và /Er/ để chỉ ''số 2''. /Hờ/ cũng sinh ra /Hỡi/ hoặc /Ê/ tiếng Việt dùng để gọi nhau. Và /Nyi/ đã biến ra tiếng Quảng Đông: Yì, Việt: ''Nhị'', hạng Nhì.
    3 = ba := Khmer => bey
    4 = bốn := Khmer => buan
    5 = năm := Khmer => bram. Chú ý: /Bram/ ngày xưa, có lẽ phát âm như /Blam/ => /Lam/
    /Lam/ => /Nam/ => ''Năm''. Biến chuyển y như ''làm lụng'' => ''nàm nụng''.
    6 = sáu := tiếng Persian (Ba Tư, tức Iran ngày nay): shesh, phát âm giống /sáu/ và sinh ra
    Six trong tiếng Anh-Pháp. Tiếng Myanmar (Miến điện) thu nhập /shesh/ thành ra /chow/ tức /cháu/ => sáu. Có thể /chow/ cũng sinh ra ?~Chín?T (9) trong nhầm lẫn. Tiếng Ấn gọi ?~6?T là /cheh/, âm cũng giống ?~9?T (chín).
    7 = bảy := tiếng Khmer gọi {8} (tám) bằng /bram-bay/ tức {5+3}. Một sự lộn xộn nào đó
    đã dùng đuôi của /bram-BAY/ thành /bảy/ và gán qua số 7 chứ không phải 8.
    8 = tám := tiếng Persian /hasht/ sinh ra ?~hachi?T tiếng Nhật. Sinh ra /aath/ tiếng Ấn. Và
    /ata/ tiếng Sinhalese của xứ Sri Lanka (Tích Lan). Có lẽ chính /aTA/ của tiếng
    Sinhalese đã biến chuyển ra ?~Tám?T.
    9 = chín := Không có tiếng nào có âm giống /chín/ trừ những âm dùng cho số 6. Như
    tiếng Ấn /cheh/ (= 6). Hoặc tiếng Myanmar: /Chow/, cũng chỉ số 6. Lộn xộn đọc 9
    từ số 6 cũng giống như đọc 8 tiếng Khmer ra 7, và 11 tiếng Khmer thành 10.
    10= mười := có lẽ lộn xộn từ số 11 tiếng Khmer: dop-muay, có phát âm /dup-mooeh/
    Tiếng Việt cổ đã vay đuôi ''mooih'' của số 11 /dup-mooih/, thuộc tiếng Khmer rồi
    gán cho số 10.

    Để ý, số đếm và số học nói chung, có xuất xứ từ Trung Đông. Đặc biệt các xứ Á rập và Ba Tư. Số đếm, tiếng Ba Tư gọi ?~Shomare?T y hệt như ?~số mã?T trong tiếng Việt hay đọc ngược ?~mã số?T, tức /ma shu/ hay /shu ma/ trong tiếng quan thoại. Đặc biệt người Trung Đông từ xưa vẫn dùng hệ thống đếm số 10.

    Số đếm của người Khmer ở cổ thời chính là hệ thống đếm theo số 5, dựa trên 5 ngón tay. Tức khi đếm đến 5, người ta đếm tiếp bằng 5+1, đọc bram(5)-mooeh(1) (tức 6), rồi 5+2, đọc bram(5)-bpêe(2) (tức 7), v.v. Y hệt như hệ số 10, khi đếm số trên mười, người ta quay trở lại với 10: 10+1 = mười một, 10+2 = mười hai,v.v. (Xin xem bài về ''thuyết Hùng Vương'' số 1).

    Nhìn lại bảng đối chiếu phía trên, chúng ta thấy đa số tên gọi các số đếm từ 0-10 có vẻ như bắt nguồn ở hệ số đếm của người Khmer. Tiền nhân có vẻ rất lúng túng khi chuyển từ hệ 5 sang hệ 10, sau khi người Hán đến chiếm nước Nam. Họ phải vay mượn từ vài nguồn khác để trám lấp các con số từ 6-10, đã không có trong hệ số 5.

    Ngày xưa, trước khi tiếng Việt được xếp vào nhóm Việt-Mường thuộc hệ Nam Á, tiếng Việt thuộc vào nhóm Môn-Khmer, tức có cấu trúc và nhiều từ vay mượn (hoặc cho vay mượn), hai chủng Môn (chủ nhân đầu tiên của Miến Điện) và Khmer (Cam-Bốt). Nên nhớ địa bàn ban đầu của người Khmer là ở Lục Chân Lạp chính là tại xứ Lào ngày nay, sát bên xứ người chủng Âu+Lạc bên sông Hồng. Người Miến Điện xưa cũng xê dịch lung tung và cũng có thời gian cư ngụ tại lãnh thổ Thái Lan ngày nay. Đến thế kỷ 13, dưới sức ép của việc tìm kiếm địa bàn sinh sống, người chủng Thái ở miền cực Nam nước Tàu mới tràn xuống phía Nam, đuổi người Khmer, Môn và Miến đi chỗ khác, và gầy dựng nên Lào và Thái Lan.

    Bây giờ xin trích dẫn quyển sách về ''âm M trong tiếng Việt'' [11], phối hợp với từ điển Mường-Việt [15], để kiểm chứng xuất xứ của các từ căn bản trên mặt con người:
  9. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...
    Chỉ những tiếng có từ mang âm gần giống.

    Mắt => bahk-tsiu (PK), mye''si (MĐ), mata (ML), mata (P), me (N), măt (M2)
    Chú ý: âm /b/ trong /bahk/ của tiếng Phúc Kiến, có thể xem rất gần với /m/
    Mũi => ja-(l)mook (TL), j''ra-moh (KHM), mùi (M2)
    Miệng => mulut (ML), pnum (KHM), mẽnh (M2)
    Mặt => mihn (QĐ), muk (KHM), mye''hna (MĐ), muka (ML), mukha (P), măt (M2)
    Mí => roam pneek (KHM), ma-buta (N)
    Mày => ma-yu (N), mái (QT), mi (M2)
    Má => miànjiá (QT), gaam (Lào), kaem (TL), mả (M2)
    Môi => rim fee bpaht (TL), moa-ut (KHM), môi (M2)
    Mồm => mồm (M2)

    Chú thích: PK: Phúc Kiến; MĐ: Miến Điện; ML: Mã Lai; P: Phi / Tagalog; N: Nhật;
    M2: Mường; KHM: Khmer; TL: Thái Lan; QĐ: Quảng Đông; QT: Quan thoại.

    Tiếng Khmer và Miến Điện xuất hiện rất nhiều trong danh sách các từ dùng âm /M/ trên mặt. Đặc biệt mỗi từ ''M'' trong các từ chỉ đến điểm trên ''mặt'', ở tiếng Việt đều có từ ''M'' giống hệt trong tiếng Mường. Tiếng Nhật được ghi ở đây để cho thấy rất có khả năng có một nhóm chủng Yueh, thay vì di tản về hướng Nam đã vượt biển Đông sang Nhật vào thời loạn lạc của Xuân Thu Chiến Quốc.

    Xin ghi thêm một vài từ ''cơ bản'':

    Ngày (day)= tngay (Khmer), nal (Hàn), naal (Tamil)
    Bạc (silver)= Brak (Khmer), ngân (QĐ), nguhn (Thượng Lào), perak (Mã Lai)
    Đất (soil)= Đây (Khmer), Đin (Thái), Tất (Mường)
    Nâu (brown)= Nyou (Miến Điện)
    Người (human being, person)= Mwai, Ngwai, ngai (Mường), Ngôi (Thái cổ),
    Muang (Thái), M''nư (Khmer), Ngaai (Jarai), Ngìn (Hẹ). ''Muang'' tiếng Thái và
    ''Mwai'' tiếng Mường lâu ngày mang nghĩa ''xóm đông người, thôn xã'' và chuyển
    thành ''Mường'' để chỉ ngài Mường.
    Ruồi (fly)= Ko rui (Môn / Miến), Ko Ruy (Khmer), Ko Ruuêi (Mường)
    Sạch (clean)= Soạt (Khmer)
    Kẻ lạ (stranger)= Ka la (Myanmar)
    Chân (leg)= Chơn (Khmer)
    Tay (arm)= Tangơl (Chăm), Đaai (Khmer)
    Trăng (moon)= Chắng (Thái cổ), Bulăng (Mã Lai), Blang (Việt cổ), Blăang (Miến Điện),
    Duang Jan (Thái). Xin để ý: ''Yue'' và ''Nguyệt'' trong tiếng Tàu dùng để chỉ ''Mặt
    Tlăng'' và ''Tháng'' (month). Tiếng Thái có ''Duang Jan''. /Duang/ sinh ra /Tháng/ và
    /Jan/ sinh ra /Giăng/ như một số đồng bào phía Bắc ở khu vực gần người Mường
    (Thái cổ) ưa phát âm từ ?~Trăng?T..Cũng để ý ?~tháng Giêng?T có liên hệ gốc gác với
    ?~Duan Chiêng?T (January), thuộc tiếng người P?Tu Noi, cũng chủng Thái cổ [14].
    Muỗi (mosquito)= Mú (Khmer), Mok (Mã Lai)

    Ảnh hưởng tiếng Mã Lai xin được lướt qua ở đây, bởi đã được đi vào tất cả các chi tiết trong quyển classic về Mã Lai của Bình Nguyên Lộc [4]. Đại khái, ?~chủng?T Mã Lai có rất nhiều từ đã thành cơ bản, hay tương cận với từ của rất nhiều chủng từ Madagascar, Nam Ấn, xuyên qua Miến Điện, Thái Lan, lên đến miền Hoa Nam, rồi sang Nhật, xuống tận Inđô-nêxia và Mã Lai.

    Bây giờ xin để ý đến một chủng rất quan trọng, chủ lực của nước Việt ở thời kỳ sơ khởi đầu tiên, đúng y như truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân. Đó chính là chủng Thái, ngày xa xưa tự xưng là Âu.
  10. vnkanzler

    vnkanzler Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    0
    tiếp...
    Dấu vết của chủng Âu tức Thái

    Nhắc lại bên kia biên giới Hoa-Việt, vào cổ thời chính là điạ bàn của chủng Thái. Khi đó họ thường tự xưng chủng Âu hay Thái. Rất nhiều nước thuộc về chủng Thái này, từ xưa đến giờ chúng ta thường nhầm lẫn cũng giống y như người chủng Việt (Nam). Bởi người Tàu ngày trước gọi chung các chủng rợ đặc biệt ở phía Nam sông Dương Tử là khối Bách Việt. Đụng thứ gì họ cũng gọi là Yueh (Việt) hết. Hoặc đôi khi họ gọi chủng Lạc.

    Có tất cả chừng 4 chủng Lạc, nhưng hai chủng Âu và Việt chiếm đa số.

    Chủng Âu (Thái) chiếm vùng đất phía trong ngay trục thẳng đứng đối chiếu với nước Việt Nam trên bản đồ. Chủng Thái bao gồm nước Thục (khu Trùng Khánh - Tứ Xuyên), nước Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam), Dạ Lang (Quí Châu), Điền Việt (tức Nam Chiếu, Đại Lý, hiện nay: Vân Nam), Quảng Tây và Quảng Đông, ngày nay. Riêng Quảng Tây, Quảng Đông và Dạ Lang ở thời Chiến Quốc là một nước rất kiên cường mang tên Tây Âu. Nổi tiếng nhất ở thời Xuân Thu Chiến quốc chính là nước Sở. Một nước ban đầu được xem như vùng đất của rợ, nhưng về sau trở nên văn minh hùng cường suýt chút có thể lãnh đạo thống nhất nước Tàu. Đến thời cực điểm, Sở Trang Vương được xếp vào hàng ''võ lâm (oops) Ngũ Bá'' cùng với Việt Vương Câu Tiễn, Tề Hoàn Công, v.v. Hy vọng sẽ đi vào chi tiết về chủng Âu ở phía Bắc bên kia biên giới, vào một yịp khác.

    Chủng Lạc (Việt) chiếm vùng gần biển, kéo dài từ khu vực Sơn Đông tận sông Hoàng Hà đến phía nam tỉnh Phúc Kiến (tức Mân Việt thời xa xưa). Ngoài ra còn có một nhóm ''du mục'' rất kiên cường xuất xứ từ vùng sông Hoàng Hà, gọi Bách Bộc hay Bộc Việt [4] [8] [18], thường có mặt trên nhiều chiến trường thời Xuân Thu. Về sau nhóm này di dân vào định cư ''tạm'' ở vùng Đông Nam nước Sở.

    Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân chính là câu chuyện di tản hằng khối của hai chủng Âu và Lạc, chạy trốn chủng Hoa, đi sang một địa bàn sinh sống mới. Đầu tiên với dụng ý hợp nhập lại thành 1 chủng mới để chống trả với Hoa chủng. Nhưng ước mơ ban đầu nhiều phen đã đưa đến thất bại. Y hệt như tình vợ chồng giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, sau cùng cũng dẫn đến phân ly.

    Phân ly đầu tiên: Phong kiến phương Bắc sau khi thôn tính Nam Việt, tách rời chủng Thái ra khỏi chủng Việt. Chủng Thái phía Bắc trở thành Quảng Châu. Chủng Việt phía Nam đặt tên: Giao Châu.

    Phân ly thứ hai: Chủng Âu tại Giao Châu có một số người không chịu được bọn Hoa chủng thống trị, kéo nhau trở về địa bàn rừng núi xưa cũ. Ở đó họ hội nhập với các sắc dân bản địa lâu năm như người Négrito, người Melanesian (cùng gốc dân hải đảo), và trở thành ngài Mường. Nhóm chủng Lạc ở lại miền đồng bằng ven sông biển, cùng với nhóm Thái biến chuyển được, trở thành người Kinh. Đặc biệt xin nhấn mạnh, trong số người dân tộc như Mường cũng có thể có chủng Lạc gốc. Và trong số người Kinh cũng có thể vẫn có người chủng Âu (Thái cổ) chọn lựa ở lại. Y hệt như hai đám con của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Đám nào cũng mang hai giòng máu, Âu và Lạc.

    Phân ly thứ ba: Thử thách qua nhiều thế kỷ của chủng Thái từ xứ Nam chiếu, bằng cách đánh phá nước Nam, với mục đích chính xin ''đoàn tụ'' hai chủng trở lại, đã bất thành. Nhất là vào thời Tiết Độ Sứ Cao Biền đem quân bình định nước Nam Chiếu, vào cuối thế kỷ thứ 9. Để ý trên nhiều trận chiến giữa quân nước Nam và Nam Chiếu, người ''Thổ Man'', tức người Mường, ưa đứng về phía bên Nam Chiếu. Bởi họ cùng chủng với nhau. Đến khi sức ép của Bắc phương càng ngày càng nặng nề khốc liệt. Cuối cùng dân Thái ở Nam Chiếu đành theo vết chân người xưa, tràn qua chiếm vùng đất phía Nam, thành lập nên Lào và Xiêm La (Thái Lan), vào thế kỷ 13. Hai chủng Thái - Việt vĩnh viễn phân ly. Ăn khớp với cuộc chia tay giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân.

    Khi quan sát về ảnh hưởng chủng Thái, cần nhớ không phải bất kỳ người chủng Thái (Âu) nào cũng đi theo bà Âu Cơ đi về miền rừng núi, rồi trở thành người Mường. Ngược lại, rất có thể có một số đông tiếp tục hợp chủng với chủng Lạc và trở thành người Kinh. Điển hình, nước Nam đã có nhiều nhà lãnh đạo tài ba và triều đại huy hoàng gốc Mường (tức Thái cổ) như: Hai Bà Trưng, Lê Hoàn, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lị (tức Lê Lợi) [20]. Ảnh hưởng ngôn ngữ Thái (cổ) trong tiếng Việt rất sâu đậm. Ngược lại ảnh hưởng ngữ ngôn của chủng Lạc trên khối người Mường (hiện nay trên 1 triệu người) cũng rất đậm nét.

    Xin xem qua một vài nét đại cương:

    1. Tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu (dấu) => Tiếng Mường cũng 5 thanh điệu. Nhưng tiếng Việt có đến 6 thanh điệu (thêm dấu NẶNG).
    2. Tiếng Thái Lan, tiếng Mường, tiếng Quảng Đông đều KHÔNG có phân biệt âm /SH/ và âm /X/. Cả 3 thứ tiếng của cùng một chủng gốc Âu đều chỉ có 1 âm /X/. Trong khi chủng Việt (Nam) mang ảnh hưởng nhóm ''Bộc Việt'' xuất phát từ các khu vực miền Hoa Bắc nên giống quan thoại, có cả âm /SH/ và /X/. Điểm này sẽ giải thích tại sao rất nhiều nơi ở Bắc Bộ người Việt thường không phân biệt /X/ và /S/ trong cách phát âm: ''Bổ sung'' ưa phát âm như ''bổ xung''. Bởi những nơi đó chắc chắn có rất nhiều người gốc Thái cổ hay người Mường cư trú.
    3. Tiếng Thái Lan cổ xưa cũng có khuynh hướng không có /R/. Âm /R/ được ''bổ sung'' bằng những âm /J/ xưa cũ, hoặc âm /L/, nhất là khi ảnh hưởng Tây phương trờ tới. Ở Việt Nam, thể hiện qua chữ quốc ngữ. Y hệt như tiếng Quảng Đông, tiếng Mường, Việt ngữ và ... tiếng Hẹ. Thí dụ: Rượu, người Mường đọc ''Rão'', xuất từ /jiu/ quan thoại, và /jẩu/ quảng đông, /txiu/ tiếng Triều Châu (Phúc Kiến). Từ /txiu/ sinh ra /tửu/ người Bắc Bộ phát âm như /tỉu/. Nếu để ý, như đã trình bài trong loạt bài ''chữ Nôm & quốc ngữ'' [7], âm ''iu'' và ''ou'' (hay ''ao'') ưa biến chuyển qua lại với nhau trong các phương ngữ Bách Việt (tức Hoa Nam), ta có từ Thái chỉ rượu là /Lao/: R <=> L / và ''ươu'' (tức /iu/) <=> ao. Rượu (Việt) <=> Lao.(Thái) => Rão (Mường). Tương tự /L/ và /N/ cũng ưa hoán chuyển với nhau y như tiếng Quảng Đông: Tiếng Thái của động từ ''to float'' (nổi) là /Loi/, cho biết rất rõ /L/ nhảy qua /N/ như tiếng Quảng Đông, y như tiếng Việt: ''Anh nàm (làm) gì thế?''.
    4. Hệ thống đếm của tiếng Thái có số đếm rất giống số đếm tiếng Quảng Đông [21].
    Việt: Một Hai Ba Bốn Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười
    Thái: nung song sam si ha hok jet paet kau sip
    Q Đ: yat yi sam sei ung luk chat băat gau sap
    Để ý: 2 tiếng Thái là /song/. Tương đương tiếng Quảng: /song/ hay /leung/ (lưỡng).
    Trong khi đó, tiếng Mường có vẻ vẫn còn mang hai ảnh hưởng. Thứ nhất: ảnh
    hưởng hệ đếm số 9 của thời cổ đại (xem bài ''18 đời Hùng Vương). Thứ hai: ảnh
    hưởng tiếng Việt cho tên gọi các số đếm.
    5. Ảnh hưởng ngôn ngữ bà con giữa Thái / Quảng Đông / Mường, còn được thể hiện qua:
    (a) Cả 3 thứ tiếng không có âm Z. Riêng Mường vì là Thái cổ, sống chung và hợp chủng với Việt (Lạc) cho nên có chứa âm /Dz/ như kiểu người Bộc Việt (Hẹ), hoặc Hải Nam (tức Lạc Lê [4]). Con dzê => quốc ngữ viết là ''dê''.
    (b) Quảng Đông và Thái đều không có âm ''V'', như ''đi về'', mà chỉ có âm ''W'': ''Wir''. Thái: Wong Klom => vòng tròn. Wang => vọng => mong. Quảng Đông: Wân Nam => Vân Nam. Mường cũng vậy. Thời xa xưa cũng không có âm ''V'', mà chỉ có âm /W/: con Way => Việt cổ: con Woi => con Voi (quốc ngữ). Nhưng sau hằng ngàn năm chung sống và hợp chủng với Lạc cũng đã nhập vào âm ''V'': ''bà Byợ'' hay ''bà Vợ''.
    (c) Thái / Quảng Đông / Mường đều có âm ''Y'' như trong ''Yeung Gui Fei'' (QĐ), bua Yịt Yàng (Mường: vua Việt chủng màu Yàng), Ya (Thái: dược, thuốc men). Tiếng Việt bị các cố đạo lọc bỏ âm /Y/ và chỉ dùng 1 thứ âm /D/ cho hai thứ ''Y'' và ''Dz''. Phía Bắc chọn ''Dz'' và phía Nam chọn ''Y''.

    Sau đây, xin liệt kê bảng đối chiếu các từ Việt, Thái, Quảng Đông hiện tại để xem những dấu vết dư âm xưa cũ.

    Việt Thái Quảng Đông Ghi chú
    Đơn độc dod dio daan duk Thái: dod dio, có âm giống: độc đơn
    Than (coal) than than 3 thứ tiếng y hệt. Để ý âm /TH/
    tròn klom yuen klom => tròn, yuen => viên
    rễ (root) rak gan gan => căn. Âm c <=> g
    ho ai khaat khaat => khạc nhổ *
    trái sai juo juo => tả. Nhật: hidari
    măt (phải) khwa yau bin yau => hữu. Nhật: migi. A Kha: amá
    Mây mek wan Quảng Đông giống Mã Lai: aWan
    Sắc (màu) si sik Color
    xài chai tsai / yong chai = xài tiền= dùng đồ vật **
    cơm kow fan thời cổ xưa ?" gần âm ''phàn'' ***
    dược (thuốc) ya yeuk để ý âm /d/ tương ứng /y/
    la (lừa) la la Donkey
    sương mù mok mo-o Fog
    hy vọng wang hèi mong mong (Việt) => Quảng Đông

Chia sẻ trang này