1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thuốc ... mọi thắc mắc xin post tại đây

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi secretcom, 27/04/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Ngộ độc cấp Colchicine sau khi dùng thêm kháng sinh Claithromycin (Theo The Annal pf Pharmacotherapy 12/2004)
    Colchicine được dùng rộng rãi để chữa thống phong hay gout, bệnh viêm khớp do vi tinh thể (micro-crystalline arthritis) bệnh sốt Địa trung hải trong gia đình (FMF: familial Me***erranean fever) và bệnh Behcet. Ở liều điều trị, thuốc dung nạp tốt, trừ vài xáo trộn dạ dày ruột. Dùng liều quá cao colchicin (>0.5 mg/Kg) sẽ dẫn đến ngộ độc trầm trọng, và khi vô tình dùng quá liều hay do muốn tự vẫn sẽ gây tử vong khoảng 30%. Hiện nay chưa biết được thuốc giải độc colchicine. Thuốc chống chỉ định cho bệnh nhân suy yếu trầm trọng chức năng gan và thận. Dấu hiệu ngộ độc đầu tiên là tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa và đau thắt ở bụng. Toàn bộ tính chất lâm sàng và sinh học gồm thiếu máu toàn diện (pancytopenia), ngộ độc thần kinh cơ, rối loạn chức năng gan, thận và ngay cả tụy tạng, rối loạn chuyển hóa. Người ta đã thấy chứng rụng tóc thuận nghịch khi bị ngộ độc colchicine.
    Sau đây là trường một bệnh nhân ở Pháp, bị sốt FMF, được điều trị kinh niên bằng colchicine liều 1.5 mg/ngày, bị ngộ độc cấp sau khi dùng thêm clarithromycin.
    Báo cáo ngộ độc:
    Một cụ già 76 tuổi vào nằm bệnh viện vì sốt, nôn mửa trở lại, tiêu chảy và đau thắt ở ruột. Ông cụ bị chứng FMF do đột biến đồng hợp tử gene M694V (homozygote mutation), với những lần tấn công nhẹ như đau thắt bụng tái đi tái lại, sốt, viêm khớp và viêm đỏ giống như erisipen ở cẳng chân. Trong 6 năm qua, điều trị bằng colchicine 1.5 mg/n làm giảm đáng kể các triệu chứng.
    Bệnh sử trước đây gồm có cao huyết áp động mạch vô căn, nhồi máu cơ tim năm 1985, suy thận vừa phải ( creatinin= 1.7 mg/dl, creatinin clearance tính được = 38 ml/phút theo công thức ****roft-Gault, có protein trong nước tiểu 0.1 g/24 giờ. có vết hồng cầu trong nước tiểu, cắt bỏ ống dẫn mật năm 1986, và nghẽn ruột được chữa bằng cắt ruột già phía trái năm 1995. Trong nhiều năm, điều trị vẫn duy trì các thứ thuốc acebutolol, ramipiril, spironolactone, molsidomine, acetylsalicylate ở liều thấp và colchicine.
    Ông cụ bị viêm bào mòn dạ dày do helicobacter pylori và được điều trị 7 ngày bằng kết hợp clarithromycin 1g/n, amoxicillin 2g/n và omeprazole 40 mg/n. Đến ngày thứ 4, bệnh nhân bị đau thắt ruột, tiêu chảy ra máu, nôn mửa. Ngày thứ 8 tại bệnh viện (1 ngày sau khi chấm dứt điều trị helicobacter) bệnh nhân sốt (38.50 C) và mất nước trầm trọng ở dịch ngoại bào (da xếp nếp, màng nhầy khô, đi tiểu ít). Xét nghiệm máu thấy thiếu máu toàn diện ( Hb=6,8 g/dl, tiểu cầu 88 000/mm3, bạch cầu 2.4 x103 mm3 PMN 1.3 x 103, C-reactive protein cao 83 mg/L ( bình thường <5) ứ mật vừa phải, prothrombin time ổn định 80%, tăng lipase 200U/L (bình thường < 60), protein niệu 0.78 g/24 giờ) và thấy hồng cầu trong nước tiểu ở độ phóng đại nhỏ, Na= 129 mEq/L, dự trữ alkalin thấp (12 mEq/L), K= 3.5 mEq/L, Cl= 101 mEq/L. Creatinin và BUn tăng lên 2.3 mg/dl và 49 mg/dl ( bình thường 7-21) theo thứ tự. Thử nghiệm huyết thanh không nhiễm siêu vi gan B và C, HIV, legionella và brucella. Cấy máu và nước tiểu âm tính. Nồng độ huyết tương của colchicine chưa được xác định.
    Liều colchicine được giảm xuống 0.5 mg/n ở ngày thứ 13. bệnh nhân hồi phục không cần chữa trị ngoài chuyền bù nước, nhiệt độ bình thường ở ngày thứ 10. Tóc rụng thấy ở ngày 14, nhưng sự hồi phục lên kết với tiến triển sinh học. Ở ngày thứ 10, Hb=10.5, tiểu cầu 187, WBC=8.5 PMN=5.9, CRP =5 lipase 113 U/LCr= 1.42 mg/dl BUN= 13 mg/dl.
    Một tháng sau colchicine được tăng trở lại 1.5 mg/n mà không có phản ứng nghịch. Sau 1 năm điều trị, bệnh nhân không có triệu chứng FMF chỉ có protein niệu vừa phải 0.28 g/24 giờ và không có máu trong nước tiểu.
    Bàn luận:
    Colchicin loại thải qua đường chính là tiết vào mật và một phần nhỏ qua thận. Chuyển hóa colchicine phụ thuộc enzym CYP3A. Chất chuyển hóa colchcin mất gốc methyl chiếm khoảng 4-15% thuốc thải qua nước tiểu. Bệnh nhân bị bệnh gan nặng tăng thải qua thận để bù trừ. Những khám phá này nhắc nhở phải dè dặt khi kê đơn colchicine cho bệnh nhân rối loạn chức năng gan và thận. Người bệnh 76 tuổi nêu trên bị suy thận vừa phải, nhưng không thể gây ra ngộ độc cấp tính.
    Colchicin được biết rõ là chất nền (substrate) của P-glycoprotein, một protein xuyên màng tế bào được ký mã là gene MDR1 (Multi-Drug Resistance ) bơm ra ngoài tế bào nhiều hợp chất sợ nước với hóa chất khác nhau. Trong gan, P-glycoprotein nằm trong màng tiểu quản (canalicular) tế bào gan đồi diện với ruột ống dẫn mật. Thuốc, chất chuyển hóa của thuốc và các chất liên hợp, được phân phối bên trong tế bào và chuyển hóa, đến tiếp xúc với P-glycoprotein gan và được bơm vào mật. Do đó, ức chế P-glycoprotein trong gan sẽ đưa đến hậu quả giảm thải qua đường mật. Khi tiếp xúc toàn thân với colchicin ở mức độ cao một phần do giảm thải mật do ức chế P-glycoprotein. Cơ chế này giải thích phỏng chừng ngộ độc xảy ra khi colchicin dùng chung với cyclosporine, một chất ức chế CYP và P-glycoprotein.
    Tương tác thuốc với kháng sinh macrolide cũng có thể tham dự vào việc này, đặc biệt với các thuốc ức chế enzym CYP. clarithromycine là chất ức chế CYP3A4, mặc dầu hơi yếu hơn erythromycin. Mặt khác, spiramycine và azithromycine không ức chế enzym đồng phân CYP. Macrolide cũng ức chế hoạt động của P-glycoprotein. Trong thực tế, clarithromycin và josamycin là những chất ức chế mạnh và đã cho thấy tăng nồng độ cyclosporin trong tế bào trong phòng thí nghiệm. Azithromycin cũng ức chế bơm thuốc ra khỏi tế bào những thuốc nền của P-glycoprotein. Hơn nữa, rõ ràng clarithromycin tăng nhiều nguy cơ ngộ độc trong lâm sàng,chất digoxin là chất nền của P-glycoprotein không chuyển hóa bằng enzym CYP.
    Người bệnh trong ca này, chúng tôi nghi ngờ do clarithromycin ức chế P-glycoprotein trong gan,giảm bài tiết colchicine vào mật, đưa đến nồng độ cao và độc ở nhiều cơ quan khác nhau. Colchicin dung nạp tốt với bệnh nhân này trong 6 năm cho đến khi uống kết hợp amoxicillin, clarithromycin và omeprazole. Tình trạng bệnh nhân cải thiện sau khi ngưng kháng sinh và giảm liều colchicine, và không tái phát khi dùng lại liều cũ colchicine. Amoxicillin không phải là chất nền hay chất ức chế của P-glycoprotein . Một số nghiên cứu trong ống nghiệm đề nghị omeprazole là một chất nền khiêm nhường P-glycoprotein và không thể ức chế P-glycoprotein (ở nồng độ cao hơn nồng độ đỉnh). Cho đến ngày 01.10.2004 không có báo cáo tương tác thuốc giữa colchicine và omeprazole hay amoxacilline và không có bằng chứng lâm sàng omeprazole tăng cường tác dụng của các chất nền P-glycoprotein. Nhiều chẩn đoán khác nhau được loại trừ, đặc biệt là nhiễm vi khuẩn hay siêu vi.Thoái hóa dạng tinh bột (amyloidosis) không thể giải thích rối loạn cấp và thuận nghịch của nhiều cơ quan.
    Có 3 trường hợp ngộ độc colchicine khi dùng kết hợp với erythromycin, clarithromycine hay josamycin được công bố. Hai trường hợp đầu xảy ra trong vòng vài ngày sau khi uống macrolide cho 1 phụ nữ 27 tuổi và người đàn ông 67 tuổi đang dùng colchicin 1 mg/ngày. Ca thứ 3 là một trường hợp tự vẫn uống 40 mg colchicine và josamycin. Trong trường hợp này, nồng độ colchicin trong huyết tương không thay đổi trong 3 ngày, đề nghị josamycin làm hỏng đường loại thải của colchicine. Không có báo cáo tương tác giữa colchicin với amoxicillin và omeprazole, clarithromycin trong trường hợp này có vẻ là chất gây tương tác với colchicine. dùng thang điểm xác suất Naranjo cho thấy có thể có tương tác giữa colchicine và clarithromycin, đưa đến ngộ độc cấp tính colchicine.
    Kết luận:
    Nếu bệnh nhân đang dùng colchicine, nếu muốn thêm macrolide phải giảm liều colchicine và theo dõi lâm sàng và huyết học của bệnh nhân.Lời khuyên này áp dụng cho tất cả thuốc macrolide, ngay cả những thuốc không tác dụng với CYP.
    bác sĩ và dược sĩ cần cảnh giác tương tác dược học giữa colchicine và các thuốc ức chế P-glycoprotein đặc biệt là cyclosporin, kháng sinh macrolid và có thể thuốc diltiazem, verapamil hay thuốc chống nấm azole.
    Tài liệu tham khảo:
    1. Caraco Y. Putterman C. Rabaminov R. ben-Chetrit E. Acute colchicine intoxication-possible role of erythromycin administration. J. Rhemumatol 1992:19; 494-6.
    2. Dogukan A. Oymak FS. Taskapan H. Guven M. Tokgoz B. Utas C. Acute fatal colchicine intoxication in a patient on continous ambulatory peritoneal dialysis. Possible role of clarithromycin administration. Clin Nephrol 2001; 55: 181-2
    3. Borron SW. SChermann JM. Baud FJ. Markly altered colchicine kinetics in a fatal intoxication: examination of contributing factors. Hum Exp Toxicol 1996; 15:885-90
    Bài này được trình bày như là 1 poster trong hội nghị về Pharmacology và Pharmacovigilance tại Rennes nước Pháp tháng 04/2002.
  2. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Ngộ độc cấp Colchicine sau khi dùng thêm kháng sinh Claithromycin (Theo The Annal pf Pharmacotherapy 12/2004)
    Colchicine được dùng rộng rãi để chữa thống phong hay gout, bệnh viêm khớp do vi tinh thể (micro-crystalline arthritis) bệnh sốt Địa trung hải trong gia đình (FMF: familial Me***erranean fever) và bệnh Behcet. Ở liều điều trị, thuốc dung nạp tốt, trừ vài xáo trộn dạ dày ruột. Dùng liều quá cao colchicin (>0.5 mg/Kg) sẽ dẫn đến ngộ độc trầm trọng, và khi vô tình dùng quá liều hay do muốn tự vẫn sẽ gây tử vong khoảng 30%. Hiện nay chưa biết được thuốc giải độc colchicine. Thuốc chống chỉ định cho bệnh nhân suy yếu trầm trọng chức năng gan và thận. Dấu hiệu ngộ độc đầu tiên là tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa và đau thắt ở bụng. Toàn bộ tính chất lâm sàng và sinh học gồm thiếu máu toàn diện (pancytopenia), ngộ độc thần kinh cơ, rối loạn chức năng gan, thận và ngay cả tụy tạng, rối loạn chuyển hóa. Người ta đã thấy chứng rụng tóc thuận nghịch khi bị ngộ độc colchicine.
    Sau đây là trường một bệnh nhân ở Pháp, bị sốt FMF, được điều trị kinh niên bằng colchicine liều 1.5 mg/ngày, bị ngộ độc cấp sau khi dùng thêm clarithromycin.
    Báo cáo ngộ độc:
    Một cụ già 76 tuổi vào nằm bệnh viện vì sốt, nôn mửa trở lại, tiêu chảy và đau thắt ở ruột. Ông cụ bị chứng FMF do đột biến đồng hợp tử gene M694V (homozygote mutation), với những lần tấn công nhẹ như đau thắt bụng tái đi tái lại, sốt, viêm khớp và viêm đỏ giống như erisipen ở cẳng chân. Trong 6 năm qua, điều trị bằng colchicine 1.5 mg/n làm giảm đáng kể các triệu chứng.
    Bệnh sử trước đây gồm có cao huyết áp động mạch vô căn, nhồi máu cơ tim năm 1985, suy thận vừa phải ( creatinin= 1.7 mg/dl, creatinin clearance tính được = 38 ml/phút theo công thức ****roft-Gault, có protein trong nước tiểu 0.1 g/24 giờ. có vết hồng cầu trong nước tiểu, cắt bỏ ống dẫn mật năm 1986, và nghẽn ruột được chữa bằng cắt ruột già phía trái năm 1995. Trong nhiều năm, điều trị vẫn duy trì các thứ thuốc acebutolol, ramipiril, spironolactone, molsidomine, acetylsalicylate ở liều thấp và colchicine.
    Ông cụ bị viêm bào mòn dạ dày do helicobacter pylori và được điều trị 7 ngày bằng kết hợp clarithromycin 1g/n, amoxicillin 2g/n và omeprazole 40 mg/n. Đến ngày thứ 4, bệnh nhân bị đau thắt ruột, tiêu chảy ra máu, nôn mửa. Ngày thứ 8 tại bệnh viện (1 ngày sau khi chấm dứt điều trị helicobacter) bệnh nhân sốt (38.50 C) và mất nước trầm trọng ở dịch ngoại bào (da xếp nếp, màng nhầy khô, đi tiểu ít). Xét nghiệm máu thấy thiếu máu toàn diện ( Hb=6,8 g/dl, tiểu cầu 88 000/mm3, bạch cầu 2.4 x103 mm3 PMN 1.3 x 103, C-reactive protein cao 83 mg/L ( bình thường <5) ứ mật vừa phải, prothrombin time ổn định 80%, tăng lipase 200U/L (bình thường < 60), protein niệu 0.78 g/24 giờ) và thấy hồng cầu trong nước tiểu ở độ phóng đại nhỏ, Na= 129 mEq/L, dự trữ alkalin thấp (12 mEq/L), K= 3.5 mEq/L, Cl= 101 mEq/L. Creatinin và BUn tăng lên 2.3 mg/dl và 49 mg/dl ( bình thường 7-21) theo thứ tự. Thử nghiệm huyết thanh không nhiễm siêu vi gan B và C, HIV, legionella và brucella. Cấy máu và nước tiểu âm tính. Nồng độ huyết tương của colchicine chưa được xác định.
    Liều colchicine được giảm xuống 0.5 mg/n ở ngày thứ 13. bệnh nhân hồi phục không cần chữa trị ngoài chuyền bù nước, nhiệt độ bình thường ở ngày thứ 10. Tóc rụng thấy ở ngày 14, nhưng sự hồi phục lên kết với tiến triển sinh học. Ở ngày thứ 10, Hb=10.5, tiểu cầu 187, WBC=8.5 PMN=5.9, CRP =5 lipase 113 U/LCr= 1.42 mg/dl BUN= 13 mg/dl.
    Một tháng sau colchicine được tăng trở lại 1.5 mg/n mà không có phản ứng nghịch. Sau 1 năm điều trị, bệnh nhân không có triệu chứng FMF chỉ có protein niệu vừa phải 0.28 g/24 giờ và không có máu trong nước tiểu.
    Bàn luận:
    Colchicin loại thải qua đường chính là tiết vào mật và một phần nhỏ qua thận. Chuyển hóa colchicine phụ thuộc enzym CYP3A. Chất chuyển hóa colchcin mất gốc methyl chiếm khoảng 4-15% thuốc thải qua nước tiểu. Bệnh nhân bị bệnh gan nặng tăng thải qua thận để bù trừ. Những khám phá này nhắc nhở phải dè dặt khi kê đơn colchicine cho bệnh nhân rối loạn chức năng gan và thận. Người bệnh 76 tuổi nêu trên bị suy thận vừa phải, nhưng không thể gây ra ngộ độc cấp tính.
    Colchicin được biết rõ là chất nền (substrate) của P-glycoprotein, một protein xuyên màng tế bào được ký mã là gene MDR1 (Multi-Drug Resistance ) bơm ra ngoài tế bào nhiều hợp chất sợ nước với hóa chất khác nhau. Trong gan, P-glycoprotein nằm trong màng tiểu quản (canalicular) tế bào gan đồi diện với ruột ống dẫn mật. Thuốc, chất chuyển hóa của thuốc và các chất liên hợp, được phân phối bên trong tế bào và chuyển hóa, đến tiếp xúc với P-glycoprotein gan và được bơm vào mật. Do đó, ức chế P-glycoprotein trong gan sẽ đưa đến hậu quả giảm thải qua đường mật. Khi tiếp xúc toàn thân với colchicin ở mức độ cao một phần do giảm thải mật do ức chế P-glycoprotein. Cơ chế này giải thích phỏng chừng ngộ độc xảy ra khi colchicin dùng chung với cyclosporine, một chất ức chế CYP và P-glycoprotein.
    Tương tác thuốc với kháng sinh macrolide cũng có thể tham dự vào việc này, đặc biệt với các thuốc ức chế enzym CYP. clarithromycine là chất ức chế CYP3A4, mặc dầu hơi yếu hơn erythromycin. Mặt khác, spiramycine và azithromycine không ức chế enzym đồng phân CYP. Macrolide cũng ức chế hoạt động của P-glycoprotein. Trong thực tế, clarithromycin và josamycin là những chất ức chế mạnh và đã cho thấy tăng nồng độ cyclosporin trong tế bào trong phòng thí nghiệm. Azithromycin cũng ức chế bơm thuốc ra khỏi tế bào những thuốc nền của P-glycoprotein. Hơn nữa, rõ ràng clarithromycin tăng nhiều nguy cơ ngộ độc trong lâm sàng,chất digoxin là chất nền của P-glycoprotein không chuyển hóa bằng enzym CYP.
    Người bệnh trong ca này, chúng tôi nghi ngờ do clarithromycin ức chế P-glycoprotein trong gan,giảm bài tiết colchicine vào mật, đưa đến nồng độ cao và độc ở nhiều cơ quan khác nhau. Colchicin dung nạp tốt với bệnh nhân này trong 6 năm cho đến khi uống kết hợp amoxicillin, clarithromycin và omeprazole. Tình trạng bệnh nhân cải thiện sau khi ngưng kháng sinh và giảm liều colchicine, và không tái phát khi dùng lại liều cũ colchicine. Amoxicillin không phải là chất nền hay chất ức chế của P-glycoprotein . Một số nghiên cứu trong ống nghiệm đề nghị omeprazole là một chất nền khiêm nhường P-glycoprotein và không thể ức chế P-glycoprotein (ở nồng độ cao hơn nồng độ đỉnh). Cho đến ngày 01.10.2004 không có báo cáo tương tác thuốc giữa colchicine và omeprazole hay amoxacilline và không có bằng chứng lâm sàng omeprazole tăng cường tác dụng của các chất nền P-glycoprotein. Nhiều chẩn đoán khác nhau được loại trừ, đặc biệt là nhiễm vi khuẩn hay siêu vi.Thoái hóa dạng tinh bột (amyloidosis) không thể giải thích rối loạn cấp và thuận nghịch của nhiều cơ quan.
    Có 3 trường hợp ngộ độc colchicine khi dùng kết hợp với erythromycin, clarithromycine hay josamycin được công bố. Hai trường hợp đầu xảy ra trong vòng vài ngày sau khi uống macrolide cho 1 phụ nữ 27 tuổi và người đàn ông 67 tuổi đang dùng colchicin 1 mg/ngày. Ca thứ 3 là một trường hợp tự vẫn uống 40 mg colchicine và josamycin. Trong trường hợp này, nồng độ colchicin trong huyết tương không thay đổi trong 3 ngày, đề nghị josamycin làm hỏng đường loại thải của colchicine. Không có báo cáo tương tác giữa colchicin với amoxicillin và omeprazole, clarithromycin trong trường hợp này có vẻ là chất gây tương tác với colchicine. dùng thang điểm xác suất Naranjo cho thấy có thể có tương tác giữa colchicine và clarithromycin, đưa đến ngộ độc cấp tính colchicine.
    Kết luận:
    Nếu bệnh nhân đang dùng colchicine, nếu muốn thêm macrolide phải giảm liều colchicine và theo dõi lâm sàng và huyết học của bệnh nhân.Lời khuyên này áp dụng cho tất cả thuốc macrolide, ngay cả những thuốc không tác dụng với CYP.
    bác sĩ và dược sĩ cần cảnh giác tương tác dược học giữa colchicine và các thuốc ức chế P-glycoprotein đặc biệt là cyclosporin, kháng sinh macrolid và có thể thuốc diltiazem, verapamil hay thuốc chống nấm azole.
    Tài liệu tham khảo:
    1. Caraco Y. Putterman C. Rabaminov R. ben-Chetrit E. Acute colchicine intoxication-possible role of erythromycin administration. J. Rhemumatol 1992:19; 494-6.
    2. Dogukan A. Oymak FS. Taskapan H. Guven M. Tokgoz B. Utas C. Acute fatal colchicine intoxication in a patient on continous ambulatory peritoneal dialysis. Possible role of clarithromycin administration. Clin Nephrol 2001; 55: 181-2
    3. Borron SW. SChermann JM. Baud FJ. Markly altered colchicine kinetics in a fatal intoxication: examination of contributing factors. Hum Exp Toxicol 1996; 15:885-90
    Bài này được trình bày như là 1 poster trong hội nghị về Pharmacology và Pharmacovigilance tại Rennes nước Pháp tháng 04/2002.
  3. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    quote-maytre viết lúc 22:52 ngày 13/03/2005:
    Xin cho hỏi những thuốc gì cần chuẩn bị cho các bệnh thông thường. Tôi năm nay 25 tuổi và là nữ. Sắp đi xa một thời gian nên muốn chuẩn bị ít thuốc mang theo.
    Xin cảm ơn
    [/QUOTE]
    Trước hết, khi ra nước ngoài, chắc chắn bạn sẽ phải mua bảo hiểm y tế, Nếu bị bệnh mà không có bảo hiểm thì bạn sẽ phải tự chi phí khám chữa bệnh rất cao.
    Bạn nên tiến hành kiểm tra sức khoẻ tổng quát trước khi đi ra nước ngoài (chú ý tai mũi họng) và bạn cũng cần đến nha sĩ để kiểm tra răng nhé. Nếu có vấn đề gì thì nên chữa trị hết trước khi đi. Nếu bạn đang có bệnh điều trị thì cần báo cho bác sĩ của bạn biết và hỏi ý kiến của bác sĩ.
    Bạn cần có một số thông tin về nơi bạn đến và chích ngừa phòng các bệnh có thể mắc phải trong vùng đó.
    Một số thuốc cần mang theo đề phòng cảm sốt, tiêu chảy, rối loạn tiêu hoá, và say tàu xe
    - Thuốc chống say tàu xe (nếu cần)
    - Thuốc hạ sốt - giảm đau: Acetaminophen (paracetamol)
    - Thuốc kháng histamine H1
    - Than hoạt tính (carbophos)
    - Men tiêu hoá (Bifidobacterium, Lactobacillus,...)
    - Gói nước muối ORESOL
    - Dầu gió
    Bạn là nữ, nên mang theo thuốc giảm đau do chu kỳ kinh nguyệt mà bạn thường sử dụng.
    Bạn nên ghi chú sẵn tác dụng và liều lượng sử dụng của từng thứ thuốc để bạn không bối rối khi cần sử dụng chúng.
    Chúc bạn một chuyến đi vui khoẻ và không cần sử dụng các thuốc bạn đem theo.
    Thân mến
  4. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    quote-maytre viết lúc 22:52 ngày 13/03/2005:
    Xin cho hỏi những thuốc gì cần chuẩn bị cho các bệnh thông thường. Tôi năm nay 25 tuổi và là nữ. Sắp đi xa một thời gian nên muốn chuẩn bị ít thuốc mang theo.
    Xin cảm ơn
    [/QUOTE]
    Trước hết, khi ra nước ngoài, chắc chắn bạn sẽ phải mua bảo hiểm y tế, Nếu bị bệnh mà không có bảo hiểm thì bạn sẽ phải tự chi phí khám chữa bệnh rất cao.
    Bạn nên tiến hành kiểm tra sức khoẻ tổng quát trước khi đi ra nước ngoài (chú ý tai mũi họng) và bạn cũng cần đến nha sĩ để kiểm tra răng nhé. Nếu có vấn đề gì thì nên chữa trị hết trước khi đi. Nếu bạn đang có bệnh điều trị thì cần báo cho bác sĩ của bạn biết và hỏi ý kiến của bác sĩ.
    Bạn cần có một số thông tin về nơi bạn đến và chích ngừa phòng các bệnh có thể mắc phải trong vùng đó.
    Một số thuốc cần mang theo đề phòng cảm sốt, tiêu chảy, rối loạn tiêu hoá, và say tàu xe
    - Thuốc chống say tàu xe (nếu cần)
    - Thuốc hạ sốt - giảm đau: Acetaminophen (paracetamol)
    - Thuốc kháng histamine H1
    - Than hoạt tính (carbophos)
    - Men tiêu hoá (Bifidobacterium, Lactobacillus,...)
    - Gói nước muối ORESOL
    - Dầu gió
    Bạn là nữ, nên mang theo thuốc giảm đau do chu kỳ kinh nguyệt mà bạn thường sử dụng.
    Bạn nên ghi chú sẵn tác dụng và liều lượng sử dụng của từng thứ thuốc để bạn không bối rối khi cần sử dụng chúng.
    Chúc bạn một chuyến đi vui khoẻ và không cần sử dụng các thuốc bạn đem theo.
    Thân mến
  5. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Bản tin Thông tin thuốc tháng 03/2005- Phần 1

    CƠ CHẾ TRÀ XANH CHỐNG UNG THƯ: Các nhà khoa học Anh và Tây ban nha đã khám phá làm sao 1 hợp chất trong trà xanh giúp ngăn ngừa một số bệnh ung thư.
    Các nhà nghiên cứu đại học Murcia ở Tây ban nha và Trung tâm John Innes ở Norwich Anh quốc, bào cáo EGCG ( Epigallocatechin-3-gallate) ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển bằng cách gắn vào 1 enzyme.
    Đây là lần đầu tiên họ cho thấy EGCG hiện diện ở nồng độ cao trong trà, ức chế enzym dihydrofolate reductase (DHFR) được nhận là mục tiêu của thuốc chống ung thư và cũng là lần đầu tiên 1 mục tiêu chống ung thư được nhận diện và ức chế bởi EGCG.
    Trà xanh chứa EGCG gấp 5 lần trà thường, nghiên cứu cho thấy chất này giảm tỷ lệ lưu hành một số bệnh ung thư, nhưng các nhà khoa học vẫn không dám chắc cơ chế hoạt động của chất này. Họ cũng chưa xác định rõ lượng trà xanh cần dùng mỗi ngày bao nhiêu để có lợi cho người uống. Họ đã nhận diện được enzyme trong tế bào u bướu mà EGCG nhắm vào và hiểu được cơ chế EGCG chận đứng enzyme này không tạo ra DNA. Điều này có nghĩa là chúng ta có thể phát triển thuốc chống ung thư mới dựa vào cấu trúc của phân tử
    EGCG gắn chặt vào DHFR cần thiết cho tế bào lành mạnh lẫn tế bào ung thư. Nhưng EGCG không gắn chặt như methotrexate, do đó tác dụng phụ trên tế bào lành mạnh có thể không ngặt nghèo như của methotrexate. Cũng có thể EGCG chỉ là 1 trong nhiều cơ chế chống ung thư của trà xanh. Khám phá này cũng giải thích tại sao phụ nữ uống nhiều trà xanh trong thời gian thụ thai và trước khi mang thai có thể tăng nguy cơ làm thai nhi bị tật nứt đốt sống ( spina bifida) hay những bệnh khác của ống thần kinh.
    Phụ nữ được khuyên dùng acid folic vì bảo vệ chống nứt đốt sống thai nhi. Nhưng một lượng lớn trà xanh làm giảm tác dụng này của acid folic.
    Journal of Cancer Research 03/05
    Ya-ua có thể chống hôi miệng
    Những điều tìm thấy trong nghiên cứu mới đề nghị ya-ua có thể là 1 khí giới khác để chống hôi miệng.Theo bác sĩ Kenichi Hojo đại học Tsurumi Yokohama, Nhật-bản, thì ăn ya-ua có thể cải thiện được vệ sinh răng miệng, đúng ra là lớp vi khuẩn bọc quanh lưỡi và bệnh hôi miệng. Ông và công sự tìm thấy trong nghiên cứu những người ăn 90 gam ya-ua ngày 2 lần trong 6 tuần có mức thấp hơn hydrogen sulfua và những hợp chất sulfua dễ bốc hơi khác trong hơi thở hôi thối.
    Họ trình bày kết quả nghiên cứu trong hội nghị lần thứ 83 hiệp hội quốc tế nghiên cứu nha khoa tại Baltimore trong tháng 3/05. Những nghiên cứu trước đã nêu cái lợi khi dùng ya-ua đều đặn. Một báo cáo cho biết phụ nữ ăn ya-ua ít nhất 3 lần 1 tuần ít bị nhiễm trùng đường tiểu so với người chỉ ăn 1 lần mỗi tuần. Những nghiên cứu khác cho thấy ya-ua giữ vai trò phòng ngừa và quản lý bệnh đường ruột. Hơn nữa, một nghiên cứu khác cho thấy người ăn ya-ua đều đặn ít bị sâu răng hơn.
    Trong 2 tuần đầu trong nghiên cứu của ông Hojo, 24 người tham dự được bảo giữ thức ăn không có ya-ua cũng như phô-mai, dưa chua và bất cứ sản phẩm nào có thể chứa streptococci và lactobacilli.
    Sau đó những người tham dự ăn ya-ua không có đường có chứa men streptococci và lactobacilli ngày 2lần- giữa bữa ăn sáng và ăn trưa và giữa bữa trưa và tối.- trong 6 tuần. Sau đó các nhà nghiên cứu phân chất mẫu nước miếng và lưỡi thu được ở những người tham dự. Họ thấy phần lớn (80%) những người tham dự bị hôi miệng có mức hợp chất sulfua bốc hơi ít hơn sau khi ăn hàng ngày so với 2 tuần lễ đầu tiên không ăn ya-ua.Những người tham dự nghiên cứu cũng có ít hơn đáng kể mảng răng và lợi.
    Điều này cho thấy ăn ya-ua có thể giảm những chất làm hôi miệng và vi khuẩn có hại. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu chưa tìm ra được giải thích tại sao ya-ua giảm hôi miệng.
    Ya-ua cũng có thể làm giảm cân
    Thay thế những thức ăn khác với vài phần ăn ya-ua mỗi ngày có thể giúp cho người lớn béo mập thu nhỏ vòng eo hơn là chỉ cắt bớt nhiệt lượng trong thức ăn, theo một nghiên cứu mới đây. Trong số 34 người béo mập có cả nam lẫn nữ, trong 12 tuần giảm bớt calori trong phần ăn, những người ăn mỗi ngày 3 phần ya-ua loại nhiều chất béo ở bụng so với những người ăn ít sữa và calcium thấp.
    Mặc dầu người ta nghĩ calcium cần thiết để giữ mức chất béo của cơ thể ở mức lành mạnh, chứng cứ cho thấy tích tụ sản phẩm của sữa có thể là khí giới tốt để chống to bụng, theo bác sĩ Michael B. Zemel đại học Tennessee tại Knoxville. Sữa chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học.
    Trong nghiên cứu , bác sĩ Zemel và cộng sự cho những người tham dự chọn 1 trong 2 chế độ ăn trong 2 tuần. 1 chế độ cắt bớt 500 calori từ thức ăn bình thường hàng ngày và không dùng quá 1 phần sữa và 500 mg calcium mỗi ngày. Nhóm thứ hai cũng cắt bớt 500 calori, nhưng ăn 3 phần ya-ua không có chất béo mỗi ngày, đưa lượng calcium dùng hàng ngày lên 1,100 mg. Công ty General Mills sản xuất ya-ua Yoplait tài trợ cho nghiên cứu này.
    Đến cuối nghiên cứu, cả 2 nhóm đều giảm cân và chất béo, nhưng nhóm ăn ya-ua loại hơn nhóm kia 61% chất béo, cũng như 81% mỡ bụng. Những người này còn tăng lượng thịt không mỡ so với nhóm dùng lượng calcium thấp.
    Bác sĩ Zemel bảo khi người ta giảm cân do tiết thực, chiều hướng giảm cả mỡ lẫn thịt. Người ta nghĩ calcium có thể kiểm soát được mỡ trong cơ thể qua tác dụng của nội tiết tố giúp điều hòa lượng calori dự trữ như mỡ và dạng thoái hóa của tế bào mỡ. Mức calcium thấp trong cơ thể làm cho cơ thể chứa nhiều tế bào mỡ hơn.Nhưng một số nghiên cứu đề nghị sản phẩm của sữa, không phụ thuộc hàm lượng calcium, giúp lấy bớt chất mỡ ở vùng eo. Theo bác sĩ Zemel, lý do là sản phẩm của sữa chứa một số hợp chất, như những hạt protein ở nồng độ cao gọi là acid amin chuỗi nhánh mà tác dụng chuyển hóa có thể làm mất mỡ trong khi giữ lại cơ bắp. Tuy nhiên ông bảo ya-ua không làm tan mỡvà ông chọn ya-ua trong các sản phẩm của sữa vì nhiều người thích ăn hơn uống sữûa Câu hỏi đặt ra là calcium có cần thiết phải từ sữa không, hay 1 cốc ya-ua thêm thuốc hỗ trợ calcium có tương đương với 3 ly ya-ua không?
    Theo International Journal of Obesity, April 2005.
    Nhịn đói có thể làm giảm bớt tế bào ung thư:
    Chúng ta đã nghe đến 1 trường phái Đông y bảo người bệnh ung thư nếu nhịn đói được sẽ có thể tự chửa được, ngay cả khi bác sĩ bảo không còn hy vọng chữa trị nữa. Điều này khó tin, nhưng một nghiên cứu mới đây của đại học UC Berkeley thử nghiệm trên chuột, bằng cách cho chuột nhịn đói cách nhật, thì tốc độ tế bào phân chia và sinh sản giảm xuống. Vì ung thư bắt đầu khi những tế bào không bình thường được phân chia và lan tràn không kiểm soát, khi làm chậm lại tế bào phân chia trên nguyên tắc sẽ làm giảm nguy cơ phát triển ung thư. Tuy nhiên đây mới là thí nghiệm sơ khởi, còn quá sớm để đi đến kết luận, vì nghiện cứu chưa nhìn đến số trường hợp ung thư phát sinh ở động vật thí nghiệm.
    Nghiên cứu này sẽ được đăng trên báo Journal of Physiology, endocrinology and metabolism trong tháng 05/05, đưa thêm chứng cứ là giảm nguồn năng lượng thực phẩm sẽ tăng tuổi thọ và giảm nguy cơ ung thư ở thú vật.
    Chúng ta chưa biết được là nhịn ăn có tăng tuổi thọ và giảm ung thư ở loài người không. Nhưng điều tìm thấy khích lệ. Những con chuột nhịn đói tuần 4 ngày, và cho phép ăn nhiều nếu muốn ăn trong những ngày không phải nhịn đói. Kết quả là số calo ăn vào giảm 5%, ở loài người, khoảng 100 caloriđược cắt giảm mỗi ngày.
    Một lý thuyết giải thích tại sao nhịn đói sống lâu hơn, khoẻ mạnh hơn, là giảm tốc độ chuyển hóa giảm tạo ra những gốc tự do, những phân tử có tiềm năng làm hư hại tế bào.
    Đối với ung thư, các nhà nghiên cứu bảo khi cắt bớt calori sẽ có lợi nhiều cách, một trong những điều đó là giảm tế bào sinh sôi nẩy nở. Khi nhịn đói,sẽ làm giảm 1 yếu tố tăng trưởng loại 1 giống insulin (IGF-1), 1 chất protein giúp tế bào sinh sản và tiến trình phát triển ung thư.
    Theo American Journal of Physiology, Endocrinology and Metabolism, May 2005.
    Vitamine E có thể làm tăng suy tim
    Kết quả 7 năm nghiên cứu quan sát tiềm năng lợi ích khi dùng vitamin E phòng ngừa ung thư và các biến cố tim mạch ở người cao tuổi với bệnh mạch máu hay đái tháo đường, không những cho thấy không có lợi khi uống thuốc này mà còn tăng suy tim, theo 1 báo cáo trong tuần san của hiệp hội y khoa Hoa-kỳ.
    Nghiên cứu gốc HOPE ( Heart Outcomes Prevention Evaluation ) tạm dịch là đánh giá kết quả phòng ngừa bệnh tim, cho thấy không có chứng cứ là vitamin E tác động lên kết quả lâu dài của bệnh tim sau 4,5 năm. Nghiên cứu này gồm khoảng 9 500 người bệnh, từ 55 tuổi trở lên, có bệnh mạch máu hay bệnh tiểu đường dùng giả dược hay vitamin 400 IU mỗi ngày.
    Nghĩ rằng thời gian điều trị có thể quá ngắn để cho thấy lợi ích, bác sĩ EVa Lonn, tại đại học McMaster ở Hamilton, Ontario và cộng sự, gia hạn nghiên cứu HOPE thêm 2.5 nữa. Trong nghiên cứu tiếp tục, gần 4 000 người tiếp tục thử nghiệm.
    Không có sai biệt đáng kể giữa nhóm dùng vitamin E và nhóm dùng giả dược trong tỷ số người phát bệnh ung thư, người chết về ung thư, những biến cố tim mạch lớn ( nhồi máu cơ tim, đột quỵ, chết do nguyên nhân tim mạch). Tuy nhiên , nguy cơ suy tim cao hơn ở nhóm dùng vitamin so với nhóm dùng giả dược (14.7% so với 12.6%) cũng như nguy cơ phải nằm bệnh viện do suy tim ( 5.8% so với 4.2%).
    Tác giả cuộc nghiên cứu khuyên không nên dùng vitamin E cho bệnh nhân bệnh mạch máu hay đái tháo đường.
    Theo Journal of the American Medical Association, March 16, 2005.
    Mặt khác, một nghiên cứu trùng lắp đăng trên Annals of internal medicine 01.04.05 cho biết tác dụng của vitamin tùy theo liều lượng: nếu dùng liều dưới 400 IU /ngày sẽ giảm được tử suất, nhưng dùng cao hơn 400 IU /ngày tử suất sẽ tăng cao. 1 IU hay 1 đơn vị quốc tế vitamin E tương đương với 1mg d,l-alphatocopherol.
    Folate và vitamin B12 ngừa gãy xương đùi bệnh nhân bị đột quỵ
    Nguy cơ gãy xương đùi kết hợp với bệnh rỗng xương cao gấp 2 đến gấp 4 lần ở bệnh nhân bị đột quỵ. Nguy cơ cũng cao ở bệnh nhân bị liệt nhẹ tứ chi hơn là người không bị liệt. Mức homocystein cao và thiếu hụt folat hay vitamin B12 cũng có thể giữ một vai trò nào đó.
    Các nhà nghiên cứu Nhật phân phối ngẫu nhiên 628 bệnh nhân đột quỵ ( tuổi >= 65) trước kia không bị gãy xương dùng thuốc hỗ trợ thuốc dinh dưỡng hàng ngày 5 mg thêm mecobalamin 1500 mcg hay giả dược.Những người có mức căn bản homocystein cao và vitamin B12 thấp, tương đối giống mức tham khảo ở người cao tuổi khoẻ mạnh .

    Sau 2 năm, có 6 trường hợp gãy xương đùi trong nhóm trị liệu, và 27 trường hợp ở nhóm dùng giả dược; suy giảm rủi ro tương đối ở nhóm trị liệu là 0.78, và giảm rủi ro tuyệt đối là 6.7%, số người cần điều trị là 15 người để ngừa 1 trường hợp gãy xương. Trong cả 2 nhóm điều trị và kiểm chứng, tỷ trọng xương trung bình thấp hơn đáng kể phía bị liệt hơn phía không bị liệt, bà tỷ trọng xương không cải thiện ở 2 xương d8ùi sau 2 năm theo dõi.
    Theo Sato Y et al. Effect of folate and mecobalamin on hip fractures in patients with stroke: A randomized controlled trial. JAMA 2005 Mar 2; 293:1082-8.

    Dùng aspirin để phòng ngừa bệnh tim mạch phụ nữ
    Trong nhiều nghiên cứu phòng ngừa chính, aspirin đã cho thấy giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim lần đầu; tuy nhiên, chỉ một phần nhỏ trong những nghiên cứu này có phụ nữ. Bây giờ, dữ liệu trong nghiên cứu sức khoẻ phụ nữ cung cấp thêm 1 số thông tin.

    Gần 40 000 phụ nữ khoẻ mạnh ( tuổi >/= 45, tuổi trung bình 55) không có bệnh sử bệnh động mạch vành và bệnh mạch máu não được cho dùng theo lối ngẫu nhiên hoặc aspirin ( 100 mg 2 ngày 1 lần hay giả dược. Theo dõi trong vòng 10 năm, điều trị bằng aspirin so với giả dược, liên hệ đến những kế1t quả sau:
    - không giảm đáng kể tận điểm kết hợp nhồi máu cơ tim không chết, đột quỵ không chết, hay chết do bệnh tim mạch ( 2.4% so với 2.6%, p= 0.13)
    - giảm đáng kể tỷ số đột quỵ ( 1.1% so với 1.3%, p=0.04) tỷ lệ tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA)
    - không khác biệt về nhồi máu cơ tim ( 1.0% ở cả 2 nhóm), tử suất do bất cứ nguyên nhân nào hay tim mạch
    Tận điểm kết hợp thấp hơn đáng kể trong nhóm dùng aspirin ở phụ nữ cao tuổi trên 65, nhưng không khác biệt đối với phụ nữ trẻ tuổi. Phụ nữ có nhiều yếu tố nguy hiểm tim mạch không có lợi ích hơn phụ nữ ít hay không có yếu tố nguy hiểm.
    Chảy máu bao tử xảy ra thường xuyên hơn ở nhóm dùng aspirin so với nhóm dùng giả dược ( 4.6% so với 3.0%); số người chảy máu quá nhiều cần phải truyền máu khoản 2 trong 1 000 người dùng aspirin.
    Theo Ridker PM et al. A randomized trial of low-dose aspirin in the primary prevention of cardiovascular disease in women. N Engl J Med 2005 Mar 31; 352:1293-304.

    Aspirin giảm polyp phụ nữ có gene đột biến
    Aspirin giảm nguy cơ polyp ruột già ở phụ nữ có gene đột biến làm chậm lại tiến trình thoái hóa aspirine, theo 1 nghiên cứu cho thấy. Trái lại, khi không có đột biến, aspirin có vẻ không có tác dụng lên nguy cơ bị polyp.
    Từ 50 đến 60% dân da trắng gốc Caucase có ít nhất 1 gene đột biến, theo bác sĩ Andrew T. Chan ở bệnh viện toàn khoa Massachusetts tại Boston. Cuộc nghiên cứu gồm 1 062 phụ nữ trong nghiên cứu sức khoẻ nhân viên điều dưỡng có thể đánh giá tác dụng của aspirin ở những liều lượng khác nhau. Kết quả tìm thấy được đăng trên tờ báo của viện ung thư quốc gia Hoa-kỳ.Trong số 616 phụ nữ có gen đột biến, các nhà nghiên cứu nhận thấy những người dùng 1 hay 2 viên aspirin mỗi tuần giảm rủi ro bị polyp 34%. Tỷ số này tăng theo liều lượng, với phụ nữ dùng nhiều hơn 7 viên mỗi tuần giảm rủi ro ung thư 59%.Nhưng ở những phụ nữ không có gen đột biến, aspirin không cắt rủi ro bị polyp, và liều cao aspirin không tăng thêm lợi ích.
    Theo Journal of the National Cancer Institute, March 15, 2005.
    Naproxen có thể làm mất tác dụng bảo vệ tim của aspirin.
    Naproxen khi dùng chung với với aspirin liều thấp, tỏ vẻ cản trở tác dụng ức chế sinh thromboxane B2 (TXB2), theo 1 nghiên cứu ở Ý.Vì không biết naproxen có tác dụng bảo vệ tim không, nên các bác sĩ đều dùng kết hợp naproxen với aspirin cho bệnh nhân viêm khớp.
    Họ thử ở 4 người lành mạnh. Mỗi người uống 100 mg aspirin mỗi ngày trong 6 ngày. Sau đó, ngoài aspirin, 4 người này uống thêm naproxen 500 mg ngày 2 lần trong 6 ngày. Sau 1 thời gian để rửa sạch thuốc, những người này uống cùng liều nhưng uống 2 giờ trước khi uống aspirine.
    Điều ngạc nhiên là không ảnh hưởng lên hoạt động của tiểu cầu, mặc dầu khi thử trong ống nghiệm sau khi dùng 1 liều đơn, thì thấy có tương tác.
    J Am Coll Cardiol 2005;45.
    (Theo DS. Lê Văn Nhân)
  6. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Bản tin Thông tin thuốc tháng 03/2005- Phần 1

    CƠ CHẾ TRÀ XANH CHỐNG UNG THƯ: Các nhà khoa học Anh và Tây ban nha đã khám phá làm sao 1 hợp chất trong trà xanh giúp ngăn ngừa một số bệnh ung thư.
    Các nhà nghiên cứu đại học Murcia ở Tây ban nha và Trung tâm John Innes ở Norwich Anh quốc, bào cáo EGCG ( Epigallocatechin-3-gallate) ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển bằng cách gắn vào 1 enzyme.
    Đây là lần đầu tiên họ cho thấy EGCG hiện diện ở nồng độ cao trong trà, ức chế enzym dihydrofolate reductase (DHFR) được nhận là mục tiêu của thuốc chống ung thư và cũng là lần đầu tiên 1 mục tiêu chống ung thư được nhận diện và ức chế bởi EGCG.
    Trà xanh chứa EGCG gấp 5 lần trà thường, nghiên cứu cho thấy chất này giảm tỷ lệ lưu hành một số bệnh ung thư, nhưng các nhà khoa học vẫn không dám chắc cơ chế hoạt động của chất này. Họ cũng chưa xác định rõ lượng trà xanh cần dùng mỗi ngày bao nhiêu để có lợi cho người uống. Họ đã nhận diện được enzyme trong tế bào u bướu mà EGCG nhắm vào và hiểu được cơ chế EGCG chận đứng enzyme này không tạo ra DNA. Điều này có nghĩa là chúng ta có thể phát triển thuốc chống ung thư mới dựa vào cấu trúc của phân tử
    EGCG gắn chặt vào DHFR cần thiết cho tế bào lành mạnh lẫn tế bào ung thư. Nhưng EGCG không gắn chặt như methotrexate, do đó tác dụng phụ trên tế bào lành mạnh có thể không ngặt nghèo như của methotrexate. Cũng có thể EGCG chỉ là 1 trong nhiều cơ chế chống ung thư của trà xanh. Khám phá này cũng giải thích tại sao phụ nữ uống nhiều trà xanh trong thời gian thụ thai và trước khi mang thai có thể tăng nguy cơ làm thai nhi bị tật nứt đốt sống ( spina bifida) hay những bệnh khác của ống thần kinh.
    Phụ nữ được khuyên dùng acid folic vì bảo vệ chống nứt đốt sống thai nhi. Nhưng một lượng lớn trà xanh làm giảm tác dụng này của acid folic.
    Journal of Cancer Research 03/05
    Ya-ua có thể chống hôi miệng
    Những điều tìm thấy trong nghiên cứu mới đề nghị ya-ua có thể là 1 khí giới khác để chống hôi miệng.Theo bác sĩ Kenichi Hojo đại học Tsurumi Yokohama, Nhật-bản, thì ăn ya-ua có thể cải thiện được vệ sinh răng miệng, đúng ra là lớp vi khuẩn bọc quanh lưỡi và bệnh hôi miệng. Ông và công sự tìm thấy trong nghiên cứu những người ăn 90 gam ya-ua ngày 2 lần trong 6 tuần có mức thấp hơn hydrogen sulfua và những hợp chất sulfua dễ bốc hơi khác trong hơi thở hôi thối.
    Họ trình bày kết quả nghiên cứu trong hội nghị lần thứ 83 hiệp hội quốc tế nghiên cứu nha khoa tại Baltimore trong tháng 3/05. Những nghiên cứu trước đã nêu cái lợi khi dùng ya-ua đều đặn. Một báo cáo cho biết phụ nữ ăn ya-ua ít nhất 3 lần 1 tuần ít bị nhiễm trùng đường tiểu so với người chỉ ăn 1 lần mỗi tuần. Những nghiên cứu khác cho thấy ya-ua giữ vai trò phòng ngừa và quản lý bệnh đường ruột. Hơn nữa, một nghiên cứu khác cho thấy người ăn ya-ua đều đặn ít bị sâu răng hơn.
    Trong 2 tuần đầu trong nghiên cứu của ông Hojo, 24 người tham dự được bảo giữ thức ăn không có ya-ua cũng như phô-mai, dưa chua và bất cứ sản phẩm nào có thể chứa streptococci và lactobacilli.
    Sau đó những người tham dự ăn ya-ua không có đường có chứa men streptococci và lactobacilli ngày 2lần- giữa bữa ăn sáng và ăn trưa và giữa bữa trưa và tối.- trong 6 tuần. Sau đó các nhà nghiên cứu phân chất mẫu nước miếng và lưỡi thu được ở những người tham dự. Họ thấy phần lớn (80%) những người tham dự bị hôi miệng có mức hợp chất sulfua bốc hơi ít hơn sau khi ăn hàng ngày so với 2 tuần lễ đầu tiên không ăn ya-ua.Những người tham dự nghiên cứu cũng có ít hơn đáng kể mảng răng và lợi.
    Điều này cho thấy ăn ya-ua có thể giảm những chất làm hôi miệng và vi khuẩn có hại. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu chưa tìm ra được giải thích tại sao ya-ua giảm hôi miệng.
    Ya-ua cũng có thể làm giảm cân
    Thay thế những thức ăn khác với vài phần ăn ya-ua mỗi ngày có thể giúp cho người lớn béo mập thu nhỏ vòng eo hơn là chỉ cắt bớt nhiệt lượng trong thức ăn, theo một nghiên cứu mới đây. Trong số 34 người béo mập có cả nam lẫn nữ, trong 12 tuần giảm bớt calori trong phần ăn, những người ăn mỗi ngày 3 phần ya-ua loại nhiều chất béo ở bụng so với những người ăn ít sữa và calcium thấp.
    Mặc dầu người ta nghĩ calcium cần thiết để giữ mức chất béo của cơ thể ở mức lành mạnh, chứng cứ cho thấy tích tụ sản phẩm của sữa có thể là khí giới tốt để chống to bụng, theo bác sĩ Michael B. Zemel đại học Tennessee tại Knoxville. Sữa chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học.
    Trong nghiên cứu , bác sĩ Zemel và cộng sự cho những người tham dự chọn 1 trong 2 chế độ ăn trong 2 tuần. 1 chế độ cắt bớt 500 calori từ thức ăn bình thường hàng ngày và không dùng quá 1 phần sữa và 500 mg calcium mỗi ngày. Nhóm thứ hai cũng cắt bớt 500 calori, nhưng ăn 3 phần ya-ua không có chất béo mỗi ngày, đưa lượng calcium dùng hàng ngày lên 1,100 mg. Công ty General Mills sản xuất ya-ua Yoplait tài trợ cho nghiên cứu này.
    Đến cuối nghiên cứu, cả 2 nhóm đều giảm cân và chất béo, nhưng nhóm ăn ya-ua loại hơn nhóm kia 61% chất béo, cũng như 81% mỡ bụng. Những người này còn tăng lượng thịt không mỡ so với nhóm dùng lượng calcium thấp.
    Bác sĩ Zemel bảo khi người ta giảm cân do tiết thực, chiều hướng giảm cả mỡ lẫn thịt. Người ta nghĩ calcium có thể kiểm soát được mỡ trong cơ thể qua tác dụng của nội tiết tố giúp điều hòa lượng calori dự trữ như mỡ và dạng thoái hóa của tế bào mỡ. Mức calcium thấp trong cơ thể làm cho cơ thể chứa nhiều tế bào mỡ hơn.Nhưng một số nghiên cứu đề nghị sản phẩm của sữa, không phụ thuộc hàm lượng calcium, giúp lấy bớt chất mỡ ở vùng eo. Theo bác sĩ Zemel, lý do là sản phẩm của sữa chứa một số hợp chất, như những hạt protein ở nồng độ cao gọi là acid amin chuỗi nhánh mà tác dụng chuyển hóa có thể làm mất mỡ trong khi giữ lại cơ bắp. Tuy nhiên ông bảo ya-ua không làm tan mỡvà ông chọn ya-ua trong các sản phẩm của sữa vì nhiều người thích ăn hơn uống sữûa Câu hỏi đặt ra là calcium có cần thiết phải từ sữa không, hay 1 cốc ya-ua thêm thuốc hỗ trợ calcium có tương đương với 3 ly ya-ua không?
    Theo International Journal of Obesity, April 2005.
    Nhịn đói có thể làm giảm bớt tế bào ung thư:
    Chúng ta đã nghe đến 1 trường phái Đông y bảo người bệnh ung thư nếu nhịn đói được sẽ có thể tự chửa được, ngay cả khi bác sĩ bảo không còn hy vọng chữa trị nữa. Điều này khó tin, nhưng một nghiên cứu mới đây của đại học UC Berkeley thử nghiệm trên chuột, bằng cách cho chuột nhịn đói cách nhật, thì tốc độ tế bào phân chia và sinh sản giảm xuống. Vì ung thư bắt đầu khi những tế bào không bình thường được phân chia và lan tràn không kiểm soát, khi làm chậm lại tế bào phân chia trên nguyên tắc sẽ làm giảm nguy cơ phát triển ung thư. Tuy nhiên đây mới là thí nghiệm sơ khởi, còn quá sớm để đi đến kết luận, vì nghiện cứu chưa nhìn đến số trường hợp ung thư phát sinh ở động vật thí nghiệm.
    Nghiên cứu này sẽ được đăng trên báo Journal of Physiology, endocrinology and metabolism trong tháng 05/05, đưa thêm chứng cứ là giảm nguồn năng lượng thực phẩm sẽ tăng tuổi thọ và giảm nguy cơ ung thư ở thú vật.
    Chúng ta chưa biết được là nhịn ăn có tăng tuổi thọ và giảm ung thư ở loài người không. Nhưng điều tìm thấy khích lệ. Những con chuột nhịn đói tuần 4 ngày, và cho phép ăn nhiều nếu muốn ăn trong những ngày không phải nhịn đói. Kết quả là số calo ăn vào giảm 5%, ở loài người, khoảng 100 caloriđược cắt giảm mỗi ngày.
    Một lý thuyết giải thích tại sao nhịn đói sống lâu hơn, khoẻ mạnh hơn, là giảm tốc độ chuyển hóa giảm tạo ra những gốc tự do, những phân tử có tiềm năng làm hư hại tế bào.
    Đối với ung thư, các nhà nghiên cứu bảo khi cắt bớt calori sẽ có lợi nhiều cách, một trong những điều đó là giảm tế bào sinh sôi nẩy nở. Khi nhịn đói,sẽ làm giảm 1 yếu tố tăng trưởng loại 1 giống insulin (IGF-1), 1 chất protein giúp tế bào sinh sản và tiến trình phát triển ung thư.
    Theo American Journal of Physiology, Endocrinology and Metabolism, May 2005.
    Vitamine E có thể làm tăng suy tim
    Kết quả 7 năm nghiên cứu quan sát tiềm năng lợi ích khi dùng vitamin E phòng ngừa ung thư và các biến cố tim mạch ở người cao tuổi với bệnh mạch máu hay đái tháo đường, không những cho thấy không có lợi khi uống thuốc này mà còn tăng suy tim, theo 1 báo cáo trong tuần san của hiệp hội y khoa Hoa-kỳ.
    Nghiên cứu gốc HOPE ( Heart Outcomes Prevention Evaluation ) tạm dịch là đánh giá kết quả phòng ngừa bệnh tim, cho thấy không có chứng cứ là vitamin E tác động lên kết quả lâu dài của bệnh tim sau 4,5 năm. Nghiên cứu này gồm khoảng 9 500 người bệnh, từ 55 tuổi trở lên, có bệnh mạch máu hay bệnh tiểu đường dùng giả dược hay vitamin 400 IU mỗi ngày.
    Nghĩ rằng thời gian điều trị có thể quá ngắn để cho thấy lợi ích, bác sĩ EVa Lonn, tại đại học McMaster ở Hamilton, Ontario và cộng sự, gia hạn nghiên cứu HOPE thêm 2.5 nữa. Trong nghiên cứu tiếp tục, gần 4 000 người tiếp tục thử nghiệm.
    Không có sai biệt đáng kể giữa nhóm dùng vitamin E và nhóm dùng giả dược trong tỷ số người phát bệnh ung thư, người chết về ung thư, những biến cố tim mạch lớn ( nhồi máu cơ tim, đột quỵ, chết do nguyên nhân tim mạch). Tuy nhiên , nguy cơ suy tim cao hơn ở nhóm dùng vitamin so với nhóm dùng giả dược (14.7% so với 12.6%) cũng như nguy cơ phải nằm bệnh viện do suy tim ( 5.8% so với 4.2%).
    Tác giả cuộc nghiên cứu khuyên không nên dùng vitamin E cho bệnh nhân bệnh mạch máu hay đái tháo đường.
    Theo Journal of the American Medical Association, March 16, 2005.
    Mặt khác, một nghiên cứu trùng lắp đăng trên Annals of internal medicine 01.04.05 cho biết tác dụng của vitamin tùy theo liều lượng: nếu dùng liều dưới 400 IU /ngày sẽ giảm được tử suất, nhưng dùng cao hơn 400 IU /ngày tử suất sẽ tăng cao. 1 IU hay 1 đơn vị quốc tế vitamin E tương đương với 1mg d,l-alphatocopherol.
    Folate và vitamin B12 ngừa gãy xương đùi bệnh nhân bị đột quỵ
    Nguy cơ gãy xương đùi kết hợp với bệnh rỗng xương cao gấp 2 đến gấp 4 lần ở bệnh nhân bị đột quỵ. Nguy cơ cũng cao ở bệnh nhân bị liệt nhẹ tứ chi hơn là người không bị liệt. Mức homocystein cao và thiếu hụt folat hay vitamin B12 cũng có thể giữ một vai trò nào đó.
    Các nhà nghiên cứu Nhật phân phối ngẫu nhiên 628 bệnh nhân đột quỵ ( tuổi >= 65) trước kia không bị gãy xương dùng thuốc hỗ trợ thuốc dinh dưỡng hàng ngày 5 mg thêm mecobalamin 1500 mcg hay giả dược.Những người có mức căn bản homocystein cao và vitamin B12 thấp, tương đối giống mức tham khảo ở người cao tuổi khoẻ mạnh .

    Sau 2 năm, có 6 trường hợp gãy xương đùi trong nhóm trị liệu, và 27 trường hợp ở nhóm dùng giả dược; suy giảm rủi ro tương đối ở nhóm trị liệu là 0.78, và giảm rủi ro tuyệt đối là 6.7%, số người cần điều trị là 15 người để ngừa 1 trường hợp gãy xương. Trong cả 2 nhóm điều trị và kiểm chứng, tỷ trọng xương trung bình thấp hơn đáng kể phía bị liệt hơn phía không bị liệt, bà tỷ trọng xương không cải thiện ở 2 xương d8ùi sau 2 năm theo dõi.
    Theo Sato Y et al. Effect of folate and mecobalamin on hip fractures in patients with stroke: A randomized controlled trial. JAMA 2005 Mar 2; 293:1082-8.

    Dùng aspirin để phòng ngừa bệnh tim mạch phụ nữ
    Trong nhiều nghiên cứu phòng ngừa chính, aspirin đã cho thấy giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim lần đầu; tuy nhiên, chỉ một phần nhỏ trong những nghiên cứu này có phụ nữ. Bây giờ, dữ liệu trong nghiên cứu sức khoẻ phụ nữ cung cấp thêm 1 số thông tin.

    Gần 40 000 phụ nữ khoẻ mạnh ( tuổi >/= 45, tuổi trung bình 55) không có bệnh sử bệnh động mạch vành và bệnh mạch máu não được cho dùng theo lối ngẫu nhiên hoặc aspirin ( 100 mg 2 ngày 1 lần hay giả dược. Theo dõi trong vòng 10 năm, điều trị bằng aspirin so với giả dược, liên hệ đến những kế1t quả sau:
    - không giảm đáng kể tận điểm kết hợp nhồi máu cơ tim không chết, đột quỵ không chết, hay chết do bệnh tim mạch ( 2.4% so với 2.6%, p= 0.13)
    - giảm đáng kể tỷ số đột quỵ ( 1.1% so với 1.3%, p=0.04) tỷ lệ tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA)
    - không khác biệt về nhồi máu cơ tim ( 1.0% ở cả 2 nhóm), tử suất do bất cứ nguyên nhân nào hay tim mạch
    Tận điểm kết hợp thấp hơn đáng kể trong nhóm dùng aspirin ở phụ nữ cao tuổi trên 65, nhưng không khác biệt đối với phụ nữ trẻ tuổi. Phụ nữ có nhiều yếu tố nguy hiểm tim mạch không có lợi ích hơn phụ nữ ít hay không có yếu tố nguy hiểm.
    Chảy máu bao tử xảy ra thường xuyên hơn ở nhóm dùng aspirin so với nhóm dùng giả dược ( 4.6% so với 3.0%); số người chảy máu quá nhiều cần phải truyền máu khoản 2 trong 1 000 người dùng aspirin.
    Theo Ridker PM et al. A randomized trial of low-dose aspirin in the primary prevention of cardiovascular disease in women. N Engl J Med 2005 Mar 31; 352:1293-304.

    Aspirin giảm polyp phụ nữ có gene đột biến
    Aspirin giảm nguy cơ polyp ruột già ở phụ nữ có gene đột biến làm chậm lại tiến trình thoái hóa aspirine, theo 1 nghiên cứu cho thấy. Trái lại, khi không có đột biến, aspirin có vẻ không có tác dụng lên nguy cơ bị polyp.
    Từ 50 đến 60% dân da trắng gốc Caucase có ít nhất 1 gene đột biến, theo bác sĩ Andrew T. Chan ở bệnh viện toàn khoa Massachusetts tại Boston. Cuộc nghiên cứu gồm 1 062 phụ nữ trong nghiên cứu sức khoẻ nhân viên điều dưỡng có thể đánh giá tác dụng của aspirin ở những liều lượng khác nhau. Kết quả tìm thấy được đăng trên tờ báo của viện ung thư quốc gia Hoa-kỳ.Trong số 616 phụ nữ có gen đột biến, các nhà nghiên cứu nhận thấy những người dùng 1 hay 2 viên aspirin mỗi tuần giảm rủi ro bị polyp 34%. Tỷ số này tăng theo liều lượng, với phụ nữ dùng nhiều hơn 7 viên mỗi tuần giảm rủi ro ung thư 59%.Nhưng ở những phụ nữ không có gen đột biến, aspirin không cắt rủi ro bị polyp, và liều cao aspirin không tăng thêm lợi ích.
    Theo Journal of the National Cancer Institute, March 15, 2005.
    Naproxen có thể làm mất tác dụng bảo vệ tim của aspirin.
    Naproxen khi dùng chung với với aspirin liều thấp, tỏ vẻ cản trở tác dụng ức chế sinh thromboxane B2 (TXB2), theo 1 nghiên cứu ở Ý.Vì không biết naproxen có tác dụng bảo vệ tim không, nên các bác sĩ đều dùng kết hợp naproxen với aspirin cho bệnh nhân viêm khớp.
    Họ thử ở 4 người lành mạnh. Mỗi người uống 100 mg aspirin mỗi ngày trong 6 ngày. Sau đó, ngoài aspirin, 4 người này uống thêm naproxen 500 mg ngày 2 lần trong 6 ngày. Sau 1 thời gian để rửa sạch thuốc, những người này uống cùng liều nhưng uống 2 giờ trước khi uống aspirine.
    Điều ngạc nhiên là không ảnh hưởng lên hoạt động của tiểu cầu, mặc dầu khi thử trong ống nghiệm sau khi dùng 1 liều đơn, thì thấy có tương tác.
    J Am Coll Cardiol 2005;45.
    (Theo DS. Lê Văn Nhân)
  7. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Thông tin thuốc 03/2005- Phần 2

    Paracetamol an toàn cho người bị bệnh gan nếu dùng đúng liều
    Trái với nhận thức phổ thông, dữ liệu lâm sàng chứng minh para là một thứ thuốc giảm đau thích đáng cho người bị bệnh gan mãn tính. Theo một bài trên báo American Journal of Therapeutics xem lại một cách có hệ thống dữ liệu từ các báo cáo trên báo, không có chứng cứ là para dùng ở liều điều trị làm bệnh gan trầm trọng thêm.

    Nghiên cứu cho thấy người bị bệnh gan có thể chuyển hóa paracetamol một cách thích ứng. Bài duyệt lại kết luận paracetamol dùng ở liều đề nghị, khi dùng đúng như bác sĩ dặn, có thể dùng an toàn cho bệnh nhân bệnh gan và là một thuốc giảm đau ưa chuộng vì không độc hại cho dạ dày ruột, thận hay không ức chế tiểu cầu kết dính như aspirin hay các thuốc chống viêm không steroid khác.(1)

    Kết quả nghiên cứu này bác bỏ quan niệm sai lầm là người bị bệnh gan nên tránh dùng para để trị đau nhức, theo lời bác sĩ Gordon benson, giáo sư danh dự đại học y nha khoa Robert-Wood Johnson tại new jersey. Tính độc hại gan của paracetamol có vẻ chỉ xảy ra khi dùng quá liều.
    Bài nghiên cứu này chứng minh dùng para đến liều tối đa (4 g/ngày) trong 13 ngày ở 20 bệnh nhân bệnh gan mãn tính nhưng ổn định không cho thấy chứng cứ độc hại. (2)
    Với bệnh nhân viêm gan C mãn tính, uống paracetamol mỗi ngày trong 7 ngày không ảnh hưởng lên mức ALT (chức năng gan phổ thông).
    Dùng lại liều tối đa trong 5 ngày ở 6 bệnh nhân bệnh gan mãn tính không gây tích tụ thuốc. Những nghiên cứu có sẵn ở bệnh nhân viêm gan mãn tính cho thấy mặc dầu thời gian bán thải của paracetamol có thể tăng, hoạt động của enzym P-450 (CYP-2E 1) không tăng và dự trữ glutathione không bị hao hụt đến mức nguy kịch ở bệnh nhân dùng theo liều chỉ dẫn.
    Một tài liệu khác cho biết từ năm 1998 đến tháng 7/2001, đã có 307 trường hợp ngộ độc vì acetaminophen được chính thức tường trình đến FDA. 60% rất trầm trọng và 40% bệnh nhân tử vong.
    Với những người uống rượu nhiều hay nghiện rượu, giới chức y tế nên khuyên họ hỏi bác sĩ xem liều tố đa có thể dùng là bao nhiêu. Hiện nay liều tối đa an toàn cho người uống rượu thường xuyên chưa được xác định.
    Công ty McNeil sản xuất thuốc Tylenol( Paracetamol tại Việt-nam hay acetaminophen tại Mỹ) thêm cảnh báo những người nào uống nhiều hơn 3 ly rượu hàng ngày nên tham khảo ý kiến bác sĩ về số lượng thuốc uống làm giảm đau nhức. Một số tài liệu lưu hành đã thông báo và nhắc nhở những người uống rượu chỉ nên dùng tối đa là 2 gam một ngày nếu họ chưa hỏi ý kiến bác sĩ.
    Theo Am J Ther. 2005; 12(2): 133-141; Clin Pharmacol Ther. 1983;33:95-101.
    FDA chấp thuận thuốc mới chửa bệnh đái tháo đường typ 1 và 2
    FDA chấp thuận thuốc chích Symlin để kiểm soát đường trong máu người lớn bị bệnh tiểu đường typ 1 và 2. Symlin dùng chung với điều trị insulin ở bệnh nhân không kiểm soát được lượng đường khi dùng insulin.symlin là thuốc duy nhất chửa bệnh tiểu đường loại I khác insulin. bệnh nhân tiểu đường typ 2 đã có nhiều thứ thuốc khác.
    An toàn và công hiệu của Symlin được nghiên cứu ở khoảng 5000 người. Nói chung, điều trị bằng symlin giúp cải thiện bệnh nhân tiểu đường cả 2 loại 1 và 2,kiểm soát được lượng glucose trong máu và giảm cân. Kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu để giảm nguy cơ hậu quả dài hạn của bệnh như mù mắt, bệnh thận và bệnh mạch máu.Symlin được dùng kết hợp với insulin để làm giảm đường trong máu trong thời gian 3 giờ sau khi ăn. Symlin cần phải có bảng hướng dẫn bệnh nhân và bảng giảm thiểu rủi ro do 3 điều quan ngại sau:1/ rủi ro chính là giảm đường quá thấp, nguy hiểm nhất cho bệnh tiểu đường typ 1 và ở bệnh nhân bị dạ dày hoạt động trì trệ. 2/ tiềm năng sai lầm thuốc, đặc biệt là trộn chung Symlin với insulin trong cùng 1 bơm tiêm, có thể làm sai lạc tác dụng của insulin. 3/ tiềm năng sử dụng ngoài chỉ định khi chưa có nghiên cứu so sánh lợi hại về các sử dụng này.
    Bảng hướng dẫn thuốc thông báo bệnh nhân là Symlin chỉ được dùng nếu đã được điều trị bằng insulin nhưng cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa lượng đường trong máu. Bệnh nhân phải theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ, thử đường trong máu thường xuyên trước và sau bữa ăn và khi đi ngủ, và hiểu rõ các điều chỉnh liều lượng symlin và insulin.
    Symlin không được dùng nếu bệnh nhân không bảo được lúc nào mức đường trong máu thấp, bị bệnh bao tử trì trệ, hay dị ứng với pramlintide acetate,metacresol, D-mannitol, acetic acid hay Na acetat.
    Hiệu quả phụ của symlin gồm buồn nôn, nôn mửa, đau thắt ruột, nhức đầu, mệt mỏi và chóng mặt. Symlin chưa được thử nghiệm ở trẻ con.
    Symlin được sản xuất bởi Amylin ở San Dieo, California.
    Clarithromycin generic tại nhiều nơi trên thế giới không đạt tiêu chuẩn:
    Một nghiên cứu làm kiểm nghiệm clarithromycin sản xuất từ 18 quốc gia trên thế giới so sánh với biệt dược Biaxin của công ty Abbott. Họ dùng phương pháp sắc ký chất lỏng cao áp để đo hàm lượng clarithromycin và tạp chất, thử nghiệm độ hòa tan.
    Có 6 trong 65 hiệu generic của clarithromycin không tương đương với viên biệt dược, hàm lượng không nằm trong khoảng 95% đến 105% lượng clarithromycin trên nhãn hiệu. 1 trong 6 hiệu ở châu Mỹ la-tinh, 3 trong 38 hiệu ở các nước Á, Phi và Thái-bình-dương và 2 trong 21 hiệu ởÂu châu hàm lượng không đúng như nhãn hiệu. 17 trong 50 hiệu không nhả đủ hoạt chất như viên biệt dược trong vòng 30 phút. Kiểm nghiệm hòa tan đòi hỏi 80% viên thuốc phải tan trong 30 phút, nhưng 1 generic chỉ hòa tan được 68% trong 30 phút. Hơn nữa, 12 trong số 65 hiệu generic vượt quá mức tạp chất 3% của viên biệt dược và 20 trong 65 sản phẩm vuốt mức giới hạn 0.8% về tạp chất 6,11 di-O-methyl erythromycin A.
    Theo Clin Drug Invest 2005; 25 (2):135-152
    Bệnh són tiểu- Có nên dùng nội tiết tố nữ cho chỉ định này không?
    Chúng ta biết niệu đạo của phụ nữ ngắn và sau tuổi mất kinh, do thiếu nội tiết tố nữ nữ xuống thấp nên niệu đạo càng thu ngắn hơn, nên khó kiểm soát được tiểu tiện. Đó là lý do trước đây các bác sĩ thường dùng nội tiết tố nữ cho phụ nữ cao tuổi bị són tiểu.
    Các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu trong nghiên cứu Women?Ts Helath Initiative về triệu chứng són tiểu ở mức căn bản và 1 năm sau ở hơn 25 000 phụ nữ sau tuổi mãn kinh phân phối theo lối ngẫu nhiên dùng estrogen liên hợp của ngựa ( 0.625 mg với hay không medroxyprogesterone acetat) hay giả dược.
    Chứng són tiểu được báo cáo ở mức căn bản là 64% ở năm trước, bằng số người báo cáo bị són tiểu do stress hay buồn tiểu gấp rút hay hỗn hợp. Trong số những người không bị són tiểu ở mức căn bản, số trường hợp bị són tiểu năm tiếp theo cao hơn đáng kể (nguy cơ tương đối 1,39) ở nhóm dùng estrogen+ progesterone và 1,53 ở nhóm chỉ dùng estrogen liên hợp so với nhóm dùng giả dược. Trong số những người bị són tiểu ở mức căn bản, lượng và tần số són tiểu tăng đáng kể ở nhóm dùng nội tiết tố.
    Nghiên cứu này cho thấy giả thiết són tiểu do thiếu nội tiết tố chưa chứng minh được, nên không cần thiết phải dùng nội tiết tố.
    Theo JAMA 2005 Feb 23; 293:935-48; JAMA 2005 Feb 23; 293:998-1001.
    Hội đồng khoa học của viện y tế Hoa-kỳ (NIH) kêu gọi đừng dùng thuốc cho chứng mãn kinh: Trước đây không lâu, khi phụ nữ đến tuổi tắt kinh, bác sĩ đều cho dùng nội tiết tố nữ để tránh những triệu chứng khó chịu xảy ra. Nhưng từ khi nghiên cứu trên sức khoẻ phụ nữ bảo dùng nội tiết tố sẽ tăng nguy cơ ung thư cũng như huyết khối, thì việc dùng nội tiết tố nữ lại bị chống đối.
    Mới đây, 1 hội đồng khoa học của viện y tế quốc gia gồm những bác sĩ chuyên môn về sản phụ khoa, nội khoa tổng quát, nội tiết tố, viêm khớp do thấp, y khoa gia đình và tâm lý, lão khoa, nghiên cứu dịch vụ y tế, dân số học, sinh hóa, dịch học, nghiên cứu lâm sàng và thống kê sinh học, đã họp và thảo luận, đưa đến kết luận là không nên xem thời kỳ tắt kinh là 1 chứng bệnh. Nhiều phụ nữ qua thời kỳ này với rất ít triệu chứng làm cho không sinh hoạt được. Theo 1bác sĩ ở đại học UCLA, có rất ít triệu chứng gắn liền vào việc tắt kinh, như cảm giác nóng phừng, xuất mồ hôi và khô âm đạo. Những loại thuốc thuộc nhóm y khoa bổ túc có rất ít nghiên cứu thiết kế đầy đủ để chứng minh có công hiệu.
    Thuốc trị động kinh có hại cho phụ nữ mang thai
    Phụ nữ uống thuốc động kinh valproat trong khi có bầu có thể tăng rủi ro thai nhi bị dị tật, theo báo cáo cứa bào Thần kinh học. Trái lại, thuốc lamotrigine có vẻ an toàn.
    Khảo cứu này là nghiên cứu cuối cùng đưa ra ý kiến valproat có thể độc hại cho thai nhi đang phát triển. Tác giả bảo khảo cứu này cùng 12 nghiên cứu trước đây cho thấy chứng cứ quan ngại dùng valproate cho phụ nữ ở tuổi mang thai. Bác sĩ Gus A. Baker và cộng sự, ở trung tâm thần kinh và giải phẫu thần kinh Walton thành phố Liverpool nước anh thử nghiệm trên 256 trẻ em ở 163 bà mẹ bị bệnh động kinh.
    Chỉ số thông minh khi nói thấp hơn ở trẻ em có tiếp xúc với valproat so với carbamazepin , phenytoin và những bà mẹ không dùng thuốc chống động kinh khi mang bầu.Trong 1 nghiên cứu thứ hai, bác sĩ Wyszynski và cộng sự, ở đại học y khoa Boston, đánh giá con của các bà mẹ tham dự vào nghiên cứu Dùng thuốc chống động kinh tại bắc Mỹ. Nghiên cứu này gồm 149 trẻ em có mẹ dùng valproat khi mang bầu ở tam cá nguyệt thứ nhất và 1048 trẻ em có mẹ dùng thuốc chống động kinh khác.Tỷ số dị tật khi sinh của nhóm dùng valproat là 11%, trong khi nhóm so sánh chỉ có 3%. Ở đại chúng, tỷ số này là 1.6%.
    Trong 1 nghiên cứu thứ ba ở những phụ nữ dùng lamotrigine trên toàn thế giới, không thấy tăng dị tật.Công ty Glaxo tại Anh theo dõi nghiên cứu này từ 1992 đến 2004. Hơn 700 thai phụ dùng lamotrigin trong khi mang bầu. dị tật khi sinh là 3%, nhưng khi thêm valproat vào chế độ thuốc, tỷ số này vọt lên 13%.
    Bác sĩ thường cân nhắc lợi hại khi cho bệnh nhân dùng thuốc, thí dụ không thể bỏ valproat nếu bệnh nhân bị động kinh với các thuốc khác trong thời kỳ mang thai. Nhưng nên tránh dùng valproate nếu có thể được và dùng thêm acid folic cho thai phụ.
    Theo Neurology, March 22, 2005.
    Acid béo omega-3 giúp ngừa ung thư.
    Thức ăn giàu omega-3 và acid béo DHA (docosahexanoic acid) có thể giúp ngừa bệnh alzheimer, theo 1 nghiên cứu trên thú vật. Trong nghiên cứu này, được báo cáo trên báo Khoa học thần kinh, chuột nhắt ăn thức ăn nhiều DHA ít có beta-amyloid tích tụ trong não như chuột ăn thức ăn bình thường. Beta-amyloid là 1 protein sinh ra mảng não đặc biệt thấy ở bệnh nhân Alzheimer.
    Những kết quả này đề nghị thức ăn chứa DHA có thể bảo vệ không cho beta-amyloid tạo ra, tích tụ và gây độc hại, theo lời bác sĩ Greg M. Cole và cộng sự tại đại học UCLA. Nghiên cứu đã nối kết mức DHA cao trong thức ăn với việc giảm bệnh Alzheimer. Nhưng nghiên cứu này mới cho thấy sự liên quan, nhưng chưa chứng minh được ăn thức ăn giàu DHA giảm mức amyloid và ngừa bệnh alzheimer. Cần có thêm những nghiên cứu trên thú vật.
    Nhóm của bác sĩ Cole dùng mẫu chuột nhắt bệnh Alzheimer và cho ăn thức ăn giàu hay ít DHA cho đến khi những con chuột này đến 22.5 tháng tuổi. Đến thời điểm này, người ta lấy não chuột ra và quan sát amyloid tích tụ như thế nào.
    Thức ăn giàu DHA giảm mức amyloid toàn phần 70% so với những thức ăn khác, theo báo cáo của nhóm nghiên cứu, ở chuột bị Alzheimer nhẹ đến trung bình.
    Nhiều nghiên cứu đang thực hiện để xác định nếu những acid béo như DHA có cho thêm lợi ích khác không ở bệnh nhân nhẹ đến trung bình bệnh Alzheimer.
    Theo The Journal of Neuroscience, March 30, 2005.
    Dùng thuốc chống androgen cho người ung thư tuyến tiền liệt có thể bệnh tái phát khi ngưng thuốc.
    Người bị ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn tiến triển thường được điều trị làm giảm mức testosteron làm cho u bườu phát triển. bây giờ, một nghiên cứu mới cho thấy thuốc đoạt androgen (androgen deprivation) có thể bị đảo ngược nhanh chóng.
    Trong nghiên cứu mức testosteron đã được giảm có hiệu quả bằng cách cấy chất keo tan trong nước thuốc histrelin chống nội tiết tố nam, mức này tăng trở lại nhanh chóng sau khi lấy bộ phận cấy ra. Tuy nhiên, khi tiêm thuốc GNRH tác dụng chậm ( depot) thì mức nội tiết tố không trở lại ngay như vậy, theo báo cáo của nhóm nghiên cứu Israel.
    Để quan sát tính thuận nghịch của thuốc đoạt androgen, bác sĩ Alon Fridmans trung tâm y khoa Shaare Zedek tại Jerusalem cùng cộng sự nghiên cứu 22 người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt. Trong số đó, 7 người được điều trị bằng cách cấy hydrogel chứa histrelin cho đến 3 năm, 8 người khác điều trị bằng thuốc đồng vận GnRH nhả chậm, và 7 người còn lại trước đó không điều trị bằng nội tiết tố, dùng thuốc chống testosterone bicalutamide.
    Trong nhóm cấy thuốc, mức testosterone và LH là nội tiết tố làm tăng testosterone, đều giảm như mức bị thiến. Khi lấy que cấy ra, LH tăng trong vòng 6 tuần và testosterone cũng tăng. Tuy nhiên nhóm bệnh nhân dùng thuốc nhả chậm, mức testosterone, LH và PSA vẫn thấp ít nhất là 9 tháng sau khi tiêm liều cuối cùng. Trong 6 người trước đó chưa dùng nội tiết tố, testosterone và LH tăng đáng kể trong vòng 7 ngày sau khi tiêm bicalutamide.
    Các nhà nghiên cứu cho thấy cấy histrelin cho phép thực hiện điều trị gián đoạn nội tiết tố. tuy nhiên, vì tác dụng lâu dài của thuốc chích nhả chậm, có thể dùng thuốc này trong khi ngưng thuốc cấy. Ngoài ra, tác giả cuộc nghiên cứu cũng bảo là có thể tiêm GnRH với khoảng cách dài hơn thay vì từng khoảng 2-3 tháng hiện nay.
    Theo Journal of Urology March, 2005.
  8. gerbil

    gerbil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Thông tin thuốc 03/2005- Phần 2

    Paracetamol an toàn cho người bị bệnh gan nếu dùng đúng liều
    Trái với nhận thức phổ thông, dữ liệu lâm sàng chứng minh para là một thứ thuốc giảm đau thích đáng cho người bị bệnh gan mãn tính. Theo một bài trên báo American Journal of Therapeutics xem lại một cách có hệ thống dữ liệu từ các báo cáo trên báo, không có chứng cứ là para dùng ở liều điều trị làm bệnh gan trầm trọng thêm.

    Nghiên cứu cho thấy người bị bệnh gan có thể chuyển hóa paracetamol một cách thích ứng. Bài duyệt lại kết luận paracetamol dùng ở liều đề nghị, khi dùng đúng như bác sĩ dặn, có thể dùng an toàn cho bệnh nhân bệnh gan và là một thuốc giảm đau ưa chuộng vì không độc hại cho dạ dày ruột, thận hay không ức chế tiểu cầu kết dính như aspirin hay các thuốc chống viêm không steroid khác.(1)

    Kết quả nghiên cứu này bác bỏ quan niệm sai lầm là người bị bệnh gan nên tránh dùng para để trị đau nhức, theo lời bác sĩ Gordon benson, giáo sư danh dự đại học y nha khoa Robert-Wood Johnson tại new jersey. Tính độc hại gan của paracetamol có vẻ chỉ xảy ra khi dùng quá liều.
    Bài nghiên cứu này chứng minh dùng para đến liều tối đa (4 g/ngày) trong 13 ngày ở 20 bệnh nhân bệnh gan mãn tính nhưng ổn định không cho thấy chứng cứ độc hại. (2)
    Với bệnh nhân viêm gan C mãn tính, uống paracetamol mỗi ngày trong 7 ngày không ảnh hưởng lên mức ALT (chức năng gan phổ thông).
    Dùng lại liều tối đa trong 5 ngày ở 6 bệnh nhân bệnh gan mãn tính không gây tích tụ thuốc. Những nghiên cứu có sẵn ở bệnh nhân viêm gan mãn tính cho thấy mặc dầu thời gian bán thải của paracetamol có thể tăng, hoạt động của enzym P-450 (CYP-2E 1) không tăng và dự trữ glutathione không bị hao hụt đến mức nguy kịch ở bệnh nhân dùng theo liều chỉ dẫn.
    Một tài liệu khác cho biết từ năm 1998 đến tháng 7/2001, đã có 307 trường hợp ngộ độc vì acetaminophen được chính thức tường trình đến FDA. 60% rất trầm trọng và 40% bệnh nhân tử vong.
    Với những người uống rượu nhiều hay nghiện rượu, giới chức y tế nên khuyên họ hỏi bác sĩ xem liều tố đa có thể dùng là bao nhiêu. Hiện nay liều tối đa an toàn cho người uống rượu thường xuyên chưa được xác định.
    Công ty McNeil sản xuất thuốc Tylenol( Paracetamol tại Việt-nam hay acetaminophen tại Mỹ) thêm cảnh báo những người nào uống nhiều hơn 3 ly rượu hàng ngày nên tham khảo ý kiến bác sĩ về số lượng thuốc uống làm giảm đau nhức. Một số tài liệu lưu hành đã thông báo và nhắc nhở những người uống rượu chỉ nên dùng tối đa là 2 gam một ngày nếu họ chưa hỏi ý kiến bác sĩ.
    Theo Am J Ther. 2005; 12(2): 133-141; Clin Pharmacol Ther. 1983;33:95-101.
    FDA chấp thuận thuốc mới chửa bệnh đái tháo đường typ 1 và 2
    FDA chấp thuận thuốc chích Symlin để kiểm soát đường trong máu người lớn bị bệnh tiểu đường typ 1 và 2. Symlin dùng chung với điều trị insulin ở bệnh nhân không kiểm soát được lượng đường khi dùng insulin.symlin là thuốc duy nhất chửa bệnh tiểu đường loại I khác insulin. bệnh nhân tiểu đường typ 2 đã có nhiều thứ thuốc khác.
    An toàn và công hiệu của Symlin được nghiên cứu ở khoảng 5000 người. Nói chung, điều trị bằng symlin giúp cải thiện bệnh nhân tiểu đường cả 2 loại 1 và 2,kiểm soát được lượng glucose trong máu và giảm cân. Kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu để giảm nguy cơ hậu quả dài hạn của bệnh như mù mắt, bệnh thận và bệnh mạch máu.Symlin được dùng kết hợp với insulin để làm giảm đường trong máu trong thời gian 3 giờ sau khi ăn. Symlin cần phải có bảng hướng dẫn bệnh nhân và bảng giảm thiểu rủi ro do 3 điều quan ngại sau:1/ rủi ro chính là giảm đường quá thấp, nguy hiểm nhất cho bệnh tiểu đường typ 1 và ở bệnh nhân bị dạ dày hoạt động trì trệ. 2/ tiềm năng sai lầm thuốc, đặc biệt là trộn chung Symlin với insulin trong cùng 1 bơm tiêm, có thể làm sai lạc tác dụng của insulin. 3/ tiềm năng sử dụng ngoài chỉ định khi chưa có nghiên cứu so sánh lợi hại về các sử dụng này.
    Bảng hướng dẫn thuốc thông báo bệnh nhân là Symlin chỉ được dùng nếu đã được điều trị bằng insulin nhưng cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa lượng đường trong máu. Bệnh nhân phải theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ, thử đường trong máu thường xuyên trước và sau bữa ăn và khi đi ngủ, và hiểu rõ các điều chỉnh liều lượng symlin và insulin.
    Symlin không được dùng nếu bệnh nhân không bảo được lúc nào mức đường trong máu thấp, bị bệnh bao tử trì trệ, hay dị ứng với pramlintide acetate,metacresol, D-mannitol, acetic acid hay Na acetat.
    Hiệu quả phụ của symlin gồm buồn nôn, nôn mửa, đau thắt ruột, nhức đầu, mệt mỏi và chóng mặt. Symlin chưa được thử nghiệm ở trẻ con.
    Symlin được sản xuất bởi Amylin ở San Dieo, California.
    Clarithromycin generic tại nhiều nơi trên thế giới không đạt tiêu chuẩn:
    Một nghiên cứu làm kiểm nghiệm clarithromycin sản xuất từ 18 quốc gia trên thế giới so sánh với biệt dược Biaxin của công ty Abbott. Họ dùng phương pháp sắc ký chất lỏng cao áp để đo hàm lượng clarithromycin và tạp chất, thử nghiệm độ hòa tan.
    Có 6 trong 65 hiệu generic của clarithromycin không tương đương với viên biệt dược, hàm lượng không nằm trong khoảng 95% đến 105% lượng clarithromycin trên nhãn hiệu. 1 trong 6 hiệu ở châu Mỹ la-tinh, 3 trong 38 hiệu ở các nước Á, Phi và Thái-bình-dương và 2 trong 21 hiệu ởÂu châu hàm lượng không đúng như nhãn hiệu. 17 trong 50 hiệu không nhả đủ hoạt chất như viên biệt dược trong vòng 30 phút. Kiểm nghiệm hòa tan đòi hỏi 80% viên thuốc phải tan trong 30 phút, nhưng 1 generic chỉ hòa tan được 68% trong 30 phút. Hơn nữa, 12 trong số 65 hiệu generic vượt quá mức tạp chất 3% của viên biệt dược và 20 trong 65 sản phẩm vuốt mức giới hạn 0.8% về tạp chất 6,11 di-O-methyl erythromycin A.
    Theo Clin Drug Invest 2005; 25 (2):135-152
    Bệnh són tiểu- Có nên dùng nội tiết tố nữ cho chỉ định này không?
    Chúng ta biết niệu đạo của phụ nữ ngắn và sau tuổi mất kinh, do thiếu nội tiết tố nữ nữ xuống thấp nên niệu đạo càng thu ngắn hơn, nên khó kiểm soát được tiểu tiện. Đó là lý do trước đây các bác sĩ thường dùng nội tiết tố nữ cho phụ nữ cao tuổi bị són tiểu.
    Các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu trong nghiên cứu Women?Ts Helath Initiative về triệu chứng són tiểu ở mức căn bản và 1 năm sau ở hơn 25 000 phụ nữ sau tuổi mãn kinh phân phối theo lối ngẫu nhiên dùng estrogen liên hợp của ngựa ( 0.625 mg với hay không medroxyprogesterone acetat) hay giả dược.
    Chứng són tiểu được báo cáo ở mức căn bản là 64% ở năm trước, bằng số người báo cáo bị són tiểu do stress hay buồn tiểu gấp rút hay hỗn hợp. Trong số những người không bị són tiểu ở mức căn bản, số trường hợp bị són tiểu năm tiếp theo cao hơn đáng kể (nguy cơ tương đối 1,39) ở nhóm dùng estrogen+ progesterone và 1,53 ở nhóm chỉ dùng estrogen liên hợp so với nhóm dùng giả dược. Trong số những người bị són tiểu ở mức căn bản, lượng và tần số són tiểu tăng đáng kể ở nhóm dùng nội tiết tố.
    Nghiên cứu này cho thấy giả thiết són tiểu do thiếu nội tiết tố chưa chứng minh được, nên không cần thiết phải dùng nội tiết tố.
    Theo JAMA 2005 Feb 23; 293:935-48; JAMA 2005 Feb 23; 293:998-1001.
    Hội đồng khoa học của viện y tế Hoa-kỳ (NIH) kêu gọi đừng dùng thuốc cho chứng mãn kinh: Trước đây không lâu, khi phụ nữ đến tuổi tắt kinh, bác sĩ đều cho dùng nội tiết tố nữ để tránh những triệu chứng khó chịu xảy ra. Nhưng từ khi nghiên cứu trên sức khoẻ phụ nữ bảo dùng nội tiết tố sẽ tăng nguy cơ ung thư cũng như huyết khối, thì việc dùng nội tiết tố nữ lại bị chống đối.
    Mới đây, 1 hội đồng khoa học của viện y tế quốc gia gồm những bác sĩ chuyên môn về sản phụ khoa, nội khoa tổng quát, nội tiết tố, viêm khớp do thấp, y khoa gia đình và tâm lý, lão khoa, nghiên cứu dịch vụ y tế, dân số học, sinh hóa, dịch học, nghiên cứu lâm sàng và thống kê sinh học, đã họp và thảo luận, đưa đến kết luận là không nên xem thời kỳ tắt kinh là 1 chứng bệnh. Nhiều phụ nữ qua thời kỳ này với rất ít triệu chứng làm cho không sinh hoạt được. Theo 1bác sĩ ở đại học UCLA, có rất ít triệu chứng gắn liền vào việc tắt kinh, như cảm giác nóng phừng, xuất mồ hôi và khô âm đạo. Những loại thuốc thuộc nhóm y khoa bổ túc có rất ít nghiên cứu thiết kế đầy đủ để chứng minh có công hiệu.
    Thuốc trị động kinh có hại cho phụ nữ mang thai
    Phụ nữ uống thuốc động kinh valproat trong khi có bầu có thể tăng rủi ro thai nhi bị dị tật, theo báo cáo cứa bào Thần kinh học. Trái lại, thuốc lamotrigine có vẻ an toàn.
    Khảo cứu này là nghiên cứu cuối cùng đưa ra ý kiến valproat có thể độc hại cho thai nhi đang phát triển. Tác giả bảo khảo cứu này cùng 12 nghiên cứu trước đây cho thấy chứng cứ quan ngại dùng valproate cho phụ nữ ở tuổi mang thai. Bác sĩ Gus A. Baker và cộng sự, ở trung tâm thần kinh và giải phẫu thần kinh Walton thành phố Liverpool nước anh thử nghiệm trên 256 trẻ em ở 163 bà mẹ bị bệnh động kinh.
    Chỉ số thông minh khi nói thấp hơn ở trẻ em có tiếp xúc với valproat so với carbamazepin , phenytoin và những bà mẹ không dùng thuốc chống động kinh khi mang bầu.Trong 1 nghiên cứu thứ hai, bác sĩ Wyszynski và cộng sự, ở đại học y khoa Boston, đánh giá con của các bà mẹ tham dự vào nghiên cứu Dùng thuốc chống động kinh tại bắc Mỹ. Nghiên cứu này gồm 149 trẻ em có mẹ dùng valproat khi mang bầu ở tam cá nguyệt thứ nhất và 1048 trẻ em có mẹ dùng thuốc chống động kinh khác.Tỷ số dị tật khi sinh của nhóm dùng valproat là 11%, trong khi nhóm so sánh chỉ có 3%. Ở đại chúng, tỷ số này là 1.6%.
    Trong 1 nghiên cứu thứ ba ở những phụ nữ dùng lamotrigine trên toàn thế giới, không thấy tăng dị tật.Công ty Glaxo tại Anh theo dõi nghiên cứu này từ 1992 đến 2004. Hơn 700 thai phụ dùng lamotrigin trong khi mang bầu. dị tật khi sinh là 3%, nhưng khi thêm valproat vào chế độ thuốc, tỷ số này vọt lên 13%.
    Bác sĩ thường cân nhắc lợi hại khi cho bệnh nhân dùng thuốc, thí dụ không thể bỏ valproat nếu bệnh nhân bị động kinh với các thuốc khác trong thời kỳ mang thai. Nhưng nên tránh dùng valproate nếu có thể được và dùng thêm acid folic cho thai phụ.
    Theo Neurology, March 22, 2005.
    Acid béo omega-3 giúp ngừa ung thư.
    Thức ăn giàu omega-3 và acid béo DHA (docosahexanoic acid) có thể giúp ngừa bệnh alzheimer, theo 1 nghiên cứu trên thú vật. Trong nghiên cứu này, được báo cáo trên báo Khoa học thần kinh, chuột nhắt ăn thức ăn nhiều DHA ít có beta-amyloid tích tụ trong não như chuột ăn thức ăn bình thường. Beta-amyloid là 1 protein sinh ra mảng não đặc biệt thấy ở bệnh nhân Alzheimer.
    Những kết quả này đề nghị thức ăn chứa DHA có thể bảo vệ không cho beta-amyloid tạo ra, tích tụ và gây độc hại, theo lời bác sĩ Greg M. Cole và cộng sự tại đại học UCLA. Nghiên cứu đã nối kết mức DHA cao trong thức ăn với việc giảm bệnh Alzheimer. Nhưng nghiên cứu này mới cho thấy sự liên quan, nhưng chưa chứng minh được ăn thức ăn giàu DHA giảm mức amyloid và ngừa bệnh alzheimer. Cần có thêm những nghiên cứu trên thú vật.
    Nhóm của bác sĩ Cole dùng mẫu chuột nhắt bệnh Alzheimer và cho ăn thức ăn giàu hay ít DHA cho đến khi những con chuột này đến 22.5 tháng tuổi. Đến thời điểm này, người ta lấy não chuột ra và quan sát amyloid tích tụ như thế nào.
    Thức ăn giàu DHA giảm mức amyloid toàn phần 70% so với những thức ăn khác, theo báo cáo của nhóm nghiên cứu, ở chuột bị Alzheimer nhẹ đến trung bình.
    Nhiều nghiên cứu đang thực hiện để xác định nếu những acid béo như DHA có cho thêm lợi ích khác không ở bệnh nhân nhẹ đến trung bình bệnh Alzheimer.
    Theo The Journal of Neuroscience, March 30, 2005.
    Dùng thuốc chống androgen cho người ung thư tuyến tiền liệt có thể bệnh tái phát khi ngưng thuốc.
    Người bị ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn tiến triển thường được điều trị làm giảm mức testosteron làm cho u bườu phát triển. bây giờ, một nghiên cứu mới cho thấy thuốc đoạt androgen (androgen deprivation) có thể bị đảo ngược nhanh chóng.
    Trong nghiên cứu mức testosteron đã được giảm có hiệu quả bằng cách cấy chất keo tan trong nước thuốc histrelin chống nội tiết tố nam, mức này tăng trở lại nhanh chóng sau khi lấy bộ phận cấy ra. Tuy nhiên, khi tiêm thuốc GNRH tác dụng chậm ( depot) thì mức nội tiết tố không trở lại ngay như vậy, theo báo cáo của nhóm nghiên cứu Israel.
    Để quan sát tính thuận nghịch của thuốc đoạt androgen, bác sĩ Alon Fridmans trung tâm y khoa Shaare Zedek tại Jerusalem cùng cộng sự nghiên cứu 22 người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt. Trong số đó, 7 người được điều trị bằng cách cấy hydrogel chứa histrelin cho đến 3 năm, 8 người khác điều trị bằng thuốc đồng vận GnRH nhả chậm, và 7 người còn lại trước đó không điều trị bằng nội tiết tố, dùng thuốc chống testosterone bicalutamide.
    Trong nhóm cấy thuốc, mức testosterone và LH là nội tiết tố làm tăng testosterone, đều giảm như mức bị thiến. Khi lấy que cấy ra, LH tăng trong vòng 6 tuần và testosterone cũng tăng. Tuy nhiên nhóm bệnh nhân dùng thuốc nhả chậm, mức testosterone, LH và PSA vẫn thấp ít nhất là 9 tháng sau khi tiêm liều cuối cùng. Trong 6 người trước đó chưa dùng nội tiết tố, testosterone và LH tăng đáng kể trong vòng 7 ngày sau khi tiêm bicalutamide.
    Các nhà nghiên cứu cho thấy cấy histrelin cho phép thực hiện điều trị gián đoạn nội tiết tố. tuy nhiên, vì tác dụng lâu dài của thuốc chích nhả chậm, có thể dùng thuốc này trong khi ngưng thuốc cấy. Ngoài ra, tác giả cuộc nghiên cứu cũng bảo là có thể tiêm GnRH với khoảng cách dài hơn thay vì từng khoảng 2-3 tháng hiện nay.
    Theo Journal of Urology March, 2005.
  9. Gerbich

    Gerbich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2003
    Bài viết:
    1.874
    Đã được thích:
    2
  10. Gerbich

    Gerbich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2003
    Bài viết:
    1.874
    Đã được thích:
    2

Chia sẻ trang này